Rời sông Hằng, tôi đến ga Varanasi vừa đúng giờ tàu chạy theo như thông tin trên vé, khi ở đoạn cuối con đường từ bờ sông đến ga, tôi đã phải nhảy khỏi rickshaw vác balo chạy bộ vì kẹt xe – cộng thêm cái tội là mải mê ngồi bên sông Hằng đến sát giờ mới lên rixkshaw. Thở hồng hộc như con trâu điên, tôi xông vào ga, xông đến anh soát vé, hỏi thăm chuyến tàu Varanasi – Gaya chạy ở đường sắt số mấy, đến chưa… rồi lại hốc tốc chạy đến đó. May quá, tàu vẫn chưa đến. Nhưng rồi vận may đã nhanh chóng chuyển thành nỗi buồn tê tái khi tôi lê la vật vạ ở đó để chờ đợi con tàu đi Gaya trong gần 3h kế tiếp. Khi nó đến, nó lại đổi sang đường ray khác chứ không phải đường ray mà tôi đang ngồi chờ. May mà hôm giờ tôi cũng đã quen dần với India-English nên nghe láng máng trên loa thông báo việc tàu đi Gaya đổi đường ray, hỏi thăm 1 lần nữa cho chắc rồi lại hộc tốc chạy sang đường ray kia. Ối trời đất ơi, thiệt là mệt cho mấy cái vụ tàu xe trên đất Ấn.
Nãy giờ chờ tàu tôi rất bồn chồn và khó chịu, không phải vì lý do tàu đến trễ mà vì cái kế hoạch đánh nhanh rút gọn của tôi đã tan tành mây khói theo con tàu đến muộn. Việc tàu đến trễ làm thời gian ở Bodgaya của tôi còn rất ít, chuyến đi viếng Bodhgaya của tôi thành chuyến cỡi ngựa xem hoa. Âu cũng là duyên số, nhưng dù sao cuối cùng tôi cũng đã đến được vùng đất Phật thứ 4 này – tạm nhủ với lòng là mình rất may mắn.
Số là tôi dự định đến Gaya vào xế trưa, nhảy xe autorickshaw đến Bodhgaya thăm viếng nơi đây từ chiều đến tối rồi tối khuya quay lại ga Gaya để lên chuyến tàu đêm đi Delhi. Một buổi chiều thì rất ít nhưng cũng có thể tạm đủ vì tôi chỉ muốn ghé thăm Đại Bảo Tháp mà thôi. Các chùa chiền xung quanh có thể nhiều, đẹp đẽ hoành tráng nhưng chắc cũng không khác là mấy so với chùa chiền ở 3 miền đất Phật kia là mấy. Hơn thế nữa là tôi có 3 người bạn đang đi bụi từ Nam Ấn lên Bắc Ấn, hẹn gặp nhau ở Delhi để xem thử mấy anh em có đi chung với nhau vài đoạn đường trước khi tôi xuôi Nam rồi các bạn ấy lại ngược Bắc tiếp tục hay không? Các bạn đã đến Delhi hôm qua và đang chờ tôi ở đó nên tôi đã lên kế hoạch Varanasi – Gaya – Delhi rất vội vàng. Đã vậy, chuyện trễ tàu lại làm cho kế hoạch của tôi càng thêm nát tan…
Tàu đến ga đã chậm giờ, chạy cũng chậm làm tôi sốt ruột vô cùng nhưng biết làm sao bây giờ. Kế hoạch là tàu Varanasi – Gaya đi từ 9.40g đến nơi khoảng 13.00g, nhưng thay vào đó 12.30g trưa tàu mới chạy từ Varanasi và đến Gaya lúc 16.30g. Thêm vào đó, việc hỏi thăm và mua vé tàu Gaya đi Delhi cũng phức tạp, đến khi xong xuôi là đã hơn 5.30pm, trời đã bắt đầu sụp tối.
Để tôi kể chi tiết hơn cái vụ bị xí gạt ở ga Gaya này nhé. Số là sau khi mua 2 cái vé tàu và được sự nhiệt tình giúp đỡ của các nhân viên của ga Gorakhpur và Varanasi, tôi rất tin tưởng ở họ. Khi đến ga Gaya cũng vậy, tôi cũng vào phòng Tourist Information ở đây nhờ mua vé. Phục vụ ở đây là 1 bác cũng trạc 60, khi tôi vào, bác ấy nói là sắp tới giờ về (gần 5pm) nhưng để tao ở lại giúp mày (!). Sau đó, bác ấy nói rằng đêm nay có 2 chuyến tàu từ Gaya đi Delhi, 1 chuyến tàu cao cấp và 1 chuyến tàu bình dân. Chuyến tàu cao cấp chạy trước và chạy nhanh hơn. Bình thường là tôi sẽ chọn tàu bình dân, nhưng nghĩ đến việc chờ tàu đến giữa đêm khuya ở 1 cái ga phức tạp, 2 nữa là tàu từ Gaya đi Delhi mười mấy tiếng, cũng không nên tiết kiệm quá mức, 3 là các bạn đang chờ mình ở Delhi mà mình tới trễ quá cũng kỳ. Thế là tôi đưa bác ấy số tiền mua vé đi tàu nhanh. Nhờ tôi trông coi văn phòng, bác ấy tất tả đi mua vé. Ngồi không rảnh rỗi, tôi mở cuốn sổ thông tin thì thấy trong đó có tên của 2 bạn người Việt nữa cũng đã nhờ bác này mua vé và lưu lại thông tin ở đây (mà sao các bạn ấy không cảnh báo mình về bác trai India trong cuốn sổ này hén (bằng tiếng Việt thì bác ấy đâu có biết)). Một hồi lâu, bác ấy quay về đưa tôi vé của chuyến tàu chậm và nói ”cả 2 tàu đều hết vé, tao phải chi thêm mới có vé cho mày đây”. Khoảng chi thêm đó khoảng 250Rp (khoảng 90.000VND thôi, gần bằng 2/3 cái vé tàu chậm), nhưng ôi trời đất ơi, tôi vừa bực mình vừa buồn cười vì dạn dày như mình còn bị bác này xí gạt. Thực tế lúc đó tôi cũng rất phân vân vì trời đã tối, nếu cự cãi với bác ấy, đi gặp trưởng ga thì cũng OK nhưng chưa chắc sau đó tôi mua được vé, rồi mất thêm thời gian, không đi được Bodhgaya. Do vậy tôi chỉ cười trừ, vào ga gửi hành lý rồi ra nhảy auto-rickshaw đi Bodgaya, vừa đi vừa buồn cười cho mình.
Trời đã sụp tối hẳn khi tôi vừa đặt chân đến miền đất Phật thiêng liêng Bodhgaya.
Azure:
Đợt tháng 10 vừa rồi em có đi tàu từ Dehli đến núi Abu ở vùng Rajasthan. Ở Dehli có tất cả 5 ga tàu đi các nơi. Tàu chạy lúc 10h tối, vậy mà lúc 10h30 tối, bọn em vẫn còn đang ngồi trên ô tô vì đường phố tắc kinh khủng, xe cộ đủ các loại chen chúc nhau, khói bụi...Các hàng quán hai bên đường thì vẫn sáng đèn. Xe đến nơi, tất cả vứt hành lý xuống xe rồi vơ hàng lý chạy thục mạng vào ga, bọn em may mắn có một bác Ấn độ dẫn đường nên đến thẳng toa tàu, vừa leo lên được tới nơi thì tàu chuyển bánh. Đêm đó may mà tàu đến muộn chứ không em sẽ lại lang thang ở ga như bác bp. Mà ga tàu Ấn độ thì ai đến một lần cũng khó mà quên được. Thế nhưng hôm đó khi ở trên xe giữa đoạn đường tắc, em không hề lo một chút nào, luôn nghĩ là mình sẽ lên tàu và sáng mai sẽ đến nơi cần đến.
Trên chuyến đi về, em gặp một bác người Nga đi theo đoàn khách Nga để làm phiên dịch, khi nói chuyện với bác ý về việc đi tàu của Ấn thì bác người Nga nói rằng: tàu Ấn thường hay đến muộn, các bạn không có gì phải lo cả, nếu các bạn đến muộn thì tàu sẽ đến muộn để chờ các bạn, nếu các bạn gặp khó khăn thì sẽ có người xuất hiện để giúp đỡ các bạn. Và đúng là như vậy
Miền đất thiêng Bodhgaya nằm cách thành Gaya khoảng 12km, có tên tiếng Việt là Bồ Đề Đạo Tràng, là nơi Đức Phật đã giác ngộ Phật pháp dưới cội bồ đề. Theo truyền thuyết, vào những năm 500 BC, hoàng tử Gautama Siddhartha, lúc này đã là một nhà tu đi khất thực, đã băng qua sông Falgu để đến Bodhgaya và đã ngồi thiền 3 ngày 3 đêm dưới một bóng bồ đề cổ thụ. Sau 3 ngày 3 đêm, Đức Phật đã đạt được giác ngộ và sự thấu hiểu. Trong 7 tuần tiếp theo, người vẫn tiếp tục ngồi thiền và kiểm nghiệm lại con đường tu hành của mình cũng như của chúng sinh. Sau đó, người đã đến Sarthna gặp các đệ tử đầu tiên và bắt đầu giảng dạy giáo lý nhà Phật ở đó. Lịch sử Bodhgaya đã được ghi chép trong nhiều tài liệu, quan trọng nhất là tài liệu của các vị cao tăng TQ Pháp Hiển, Huyền Trang đã hành hương đến nơi này vào TK IV, và VII công nguyên.
Ở Bodhgaya, điểm thu hút khách hành hương là ngôi đền Mahabodhi, còn gọi Đại Giác Ngộ Tự hay Tháp Đại Giác đã được vinh danh là di sản thế giới, di tích Unesco vào năm 2002. Mahabodhi, được xây dựng vào TK VI công nguyên, nằm ngay trên vị trí của ngôi chùa được quốc vương Ashoka xây dựng 8 thế kỷ trước đó (vào thế kỷ III trước CN). Sau khi bị san bằng bởi những đội quân Hồi giáo vào TK XI, ngôi chùa đã trải qua nhiều lần tu sửa phục chế, lần cuối cùng là vào năm 1882. Đỉnh là ngọn tháp cao 52m, bên trong ngôi chùa có tượng Phật ngồi cao 2m bằng đá mạ vàng được tạc vào những năm 380 AD. Tư thế ngồi thanh thản và dáng ngồi hướng về phía Đông y như tư thế của ngài bên gốc bồ đề năm xưa. Bên ngoài chùa, có 4 viên đá có niên đại từ 184-72 BC. Do ngôi chùa hiện nay được trùng tu bởi các Phật tử Myanmar nên Đại Giác Ngộ Tự có kiến trúc và điêu khắc theo phong cách Myanmar. Mặt tiền của tháp trung tâm có các hốc bên trong có những pho tượng Phật giáo.
Một ngôi chùa ở Sangkhlaburi, biên giới Thailand - Myanmar có kiến trúc Myanmar, giống Đại giác ngộ tự
Theo nhà khảo cổ người Anh Alexander Cunningham, người đã vận động trùng tu lại thánh địa Bodhgaya vào năm 1882, cây bồ đề nguyên thuỷ đã bị đốn bởi vợ quốc vương Ashoka. Cây bồ đề hiện nay, được trồng bởi người Anh vào cuối TK XIX, được chiết ra từ cây bồ đề ở Sri Lanka, mà cây bồ đề ở Sri Lanka này vốn là được trồng từ một nhánh của cây bồ đề nguyên thủy, đã được công chúa Sanghamita, con vua Ashoka mang sang và trồng ở Sri Lanka vào thế kỷ III BC. Dù sao, cây bồ đề mới cũng đã được trồng đúng ngay vị trí của cây bồ đề cũ mà Đức Phật đã ngồii thiền từ 2.500 năm trước. Phiến đá đỏ giữa cây và ngôi chùa, được đặt tại đây bởi quốc vương Ashoka, để đánh dấu đây chính là nơi ngày xưa Đức Phật đã ngồi dưới bóng bồ đề và đắc đạo.
Bodhgaya ngày nay thường được ví von là một “Liên Hợp Quốc Phật Tự” vì tập trung rất nhiều chùa của các quốc gia và lãnh thổ như Bhutan, Đài Loan, Myanmar, Nepal, Nhật Bản, Sri Lanka, Tây Tạng, Thái Lan, Trung Quốc, Việt Nam…
Người Nhật xây dựng tại đây một tượng Phật bằng đá trắng cao hơn 20m có tên là Đại Phật (The Great Buddha Statue), với kinh phí lên đến cả triệu USD, hai bên là hai dãy tượng 10 vị đại đệ tử của Đức Phật kích thước cao bằng người thật.
Hoàng gia Thái Lan xây dựng ngôi chùa đồ sộ vào năm 1957 với mái cong vút được mạ vàng óng ánh rất công phu đến từng chi tiết. Chùa Trung Quốc có ba tượng Phật ngồi kích cỡ lớn cùng với hình ảnh Vạn Phật khắc trên khắp bốn bức tường.
Các chùa khác như của Bhutan, Đài Loan, Myanmar, Sri Lanka… mỗi ngôi đều mang một vẻ độc đáo riêng với lối kiến trúc đặc thù theo truyền thống Phật giáo của từng nước.
Hiện nay Việt Nam có 4 chùa tại đây. Đó là Việt Nam Phật Quốc Tự của thầy Huyền Diệu, chùa Độ Sanh của một nhà tu hành người Mỹ gốc Việt, chùa Viên Giác của một nhà tu hành người Đức gốc Việt và tịnh xá Kỳ Hoàn của thầy Thích Giác Viên đến từ Vũng Tàu.
Tôi đến Bodhgaya lúc trời đã sụp tối. Những ngày đông này tuy còn nhiều nắng nhưng ngày vẫn tắt rất nhanh. Chiếc autorickshaw thả tôi ngay con đường bên hông chùa Đại giác, phải đi gần 1 vòng mới đến con đường trước cổng chùa. Hàng quán 2 bên đường đang lục tục dọn dẹp vì khách hành hương đi đến trong ngày đã rời Bodhgaya, chỉ còn những khách nào ngụ lại đây hoặc khách lang thang muộn như tôi giờ mới còn ở lại đây.
Bạn đã đến Đại giác tự, Bodhgaya rồi đấy. Chúc mừng bạn!
Theo huớng của những ngọn đèn chiếu sáng tôi đi về chùa. Ngoài đường tuy không còn nhiều người đi lại thế nhưng tôi lại ngạc nhiên khi thấy trong con đường nhỏ trước cổng và trong khuôn viên chùa đông ơi là đông những người đến thăm viếng và cả những người đang ngồi nghe kinh hay tu tập xung quanh tháp lớn. Biết không có nhiều thời gian ở đây và cái máy hình cùi bắp của tôi không chụp được vào buổi tối, tôi loay hoay chụp hình đại tháp của chùa trước tiên. Đang bon chen tìm chỗ đứng, góc đủ sáng (chứ không cần đẹp) để chụp hình chợt có ai đó vỗ vai tôi. Tưởng là chú bảo vệ nào kêu tôi tránh chỗ hay không được chụp hình nơi này tôi quay lại. Té ra là 2 thanh niên Ấn Độ thấy tôi tự xử nãy giờ hỏi rằng tôi có muốn dán cái mặt vào một tấm hình nào đó không. Dĩ nhiên là tôi nhận lời, không phải là vì ở đây đông người không sợ các bạn ấy cầm máy hình chạy mất (!?) mà vì các bạn ấy hết sức thân thiện. Làm xong vài kiểu các bạn ấy bắt chuyện và hỏi thăm thông tin. Tôi cũng vui vẻ chuyện trò một phần vì cũng tò mò muốn biết tư tưởng của một người Ấn theo đạo Phật như thế nào ở quốc gia Hindu giáo này. Các bạn ấy vì sinh ra và lớn lên ở đây nên tư tưởng nghiêng theo Phật giáo nhiều chứ không nghiêng về Hindu giáo và như những Phật tử khác, họ luôn tranh thủ viếng thăm chùa chiền khi có dịp. Các bạn ấy rất vui vẻ, làm trong ngành IT và ở tận Delhi, kỳ này về thăm quê, tranh thủ viếng chùa luôn. Các bạn ấy hỏi tôi đủ thứ linh tinh về quê nhà, về cảm nhận Ấn Độ… đủ một vòng đi bộ quanh khuôn viên chùa theo dòng người đi lễ, rồi chia tay. Lúc này tôi mới bắt đầu đi vào trong chùa để thăm viếng, lòng vui vui vì những người bạn mới thoáng qua và sẽ không gặp lại trong đời.
Đại giác tự trong đêm