Tư Mã Thiên, một sử gia danh tiếng bị cung hình Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Tư Mã Thiên tự Tử Thường (145-87 trước D.L.), người huyện Long Môn (nay thuộc huyện Hán Thành, tỉnh Thiểm Tây) đời Hán Vũ đế. Cha của ông là Tư Mã Đàm, một nhà văn học danh tiếng làm chức thái sử tại triều.
Hồi còn nhỏ, Tư Mã Thiên đã thông cổ văn. Năm 20 tuổi, ông đi chu du khắp nước, khảo sát về địa lý, phong tục từng miền, gặp di tích nào cũng dừng bước để nghiên cứu. Phàm những cảnh kỳ quan cùng quê hương các vĩ nhân, ông đều để chân đến.
Lãng du một thời gian khá lâu, Tư Mã Thiên trở về được phong làm chức Lang trung (quan hầu cận vua). Trước khi cha mất có trối lại với ông:
- Nếu cha có qua đời, con hãy nối tiếp lấy chí của cha để tâm vào việc soạn sử. Cái đạo hiếu của con người là phải thờ vua, thờ cha nhưng việc trọng yếu lớn hơn là phải làm một việc gì có ích cho đời, sau để cho cha mẹ được tiếng thơm lây ...
Sau khi Tư Mã Đàm qua đời, ông nối chức cha làm Thái sử. Ông quyết thực hiện lời di chúc của cha; và cũng bắt đầu từ đó, ông sắp xếp tài liệu, khởi công viết pho "Sử ký".
Nhưng một bất ngờ xảy ra.
Lúc bấy giờ có giặc Hung Nô rất mạnh đánh vào biên thùy. Lý Lăng là một võ tướng anh hùng vâng lịnh vua Hán đem binh dẹp giặc. Quân của Lý chỉ có 5 ngàn mà phải giao phong với 8 vạn quân địch. Lý Lăng bị bao vây mà không được quân tiếp viện. Ông can đảm chống cự không nổi, bị giặc bắt. Mến tài năng, giặc Hung Nô dụ dỗ đầu hàng. Lý Lăng bất đắc dĩ tạm thời đầu hàng để bảo toàn sinh mạng mình và quân lính hầu chờ thời cơ rửa nhục.
Tin về đến triều đình, có kẻ gièm pha với vua Võ Đế bảo ông phản quốc. Nhà vua cả giận ra lịnh tru di ba họ của Lý Lăng.
Tư Mã Thiên biết Lý Lăng là tôi trung nên đứng ra binh vực Lý giữa triều. Vua Võ Đế bất bình, nổi giận bắt ông hạ ngục và xử cung hình (hoạn hay thiến). Đó là một trong những tội nhục nhã nhứt ngày xưa. Theo luật lệ, ông có thể bỏ tiền ra chuộc tội, nhưng ông vốn nghèo mà bạn bè khôn ai có lòng nghĩa hiệp dám ra mặt giúp vì sợ vua ghét lây.
Bị tội cung hình, Tư Mã Thiên cho đó là một điều sỉ nhục ghê gớm, trong thâm tâm muốn tự sát; nhưng nhớ lại chưa hoàn thành được lời di chúc của cha, nên thấy bổn phận mình trong lúc này là phải sống để nối nghiệp cha, nối chí người trước... Vì nghĩ như thế nên ông can đảm nhận lấy hình phạt; rồi từ đó ông kiên nhẫn nằm trong ngục tù, dùng những ngày sống thừa để hoàn thành bộ Sử ký.
Trong bài tựa bộ này, ông tự ví với các thánh hiền đời trước:
"Ông Thái sử gặp cái họa Lý Lăng, bị giam trong cảnh xiềng xích, bùi ngùi than rằng: "Đó là lỗi của ta ư? Đó là lỗi của ta ư? Thân ta bị hủy không dùng được nữa". Rồi mà nghĩ kỹ lại rằng: "Những lời nói bóng bẩy trong kinh Thi, kinh Thư là để diễn cái chí của cổ nhân. Hồi xưa Tây Bá bị giam trong ngục Dữu Lý mà viết Chu Dịch; Khổng Tử bị nguy ở Trần, Sái mà soạn Xuân Thu; Khuất Nguyên bị phóng mà làm Thiên Ly Tao; Tả Khâu mù mới có bộ Quốc Sách; Tôn Tử què chân mới bàn về binh pháp; Bất Vi phải đày qua Thục mà bộ Lã Thị truyền lại đời sau; Hàn Phi bị tù ở Tần mới có hai thiên thuyết nạn, cô phẫn; 300 thiên trong kinh Thi đại để là thánh hiền phát phẫn mà làm ra. Những vị đó đều có nỗi uất kết, không nói rõ được lòng mình nên thuật việc mới kể từ Đào Tườngđến đời Lâm Chỉ bắt đầu từ đời Hoàng Đế (*)"
Sau khi ra khỏi ngục, Tư Mã Thiên đã trở thành người tàn phế, đời không còn thấy chút thú vị gì. Có lẽ cũng vì thương tình và hối hận nên Võ Đế thăng cho ông lên chức Trung thư lịnh. Nhưng lòng ông vẫn cảm thấy buồn chán, không tha thiết gì đến danh lợi, việc đời, chỉ chuyên tâm biên soạn bộ Sử ký mà thôi.
Nhờ chí kiên quyết nên Tư Mã Thiên đã hoàn thành được một bộ sử ký có giá trị của nước Trung Hoa. Cho đến ngày nay, có non hơn hai ngàn năm, ai cũng nhận "Sử ký " là một công trình sáng tác vĩ đại. Và, ai cũng lấy làm khâm phục tài năng và ý chí kiên nhẫn có một không hai của Tư Mã Thiên.
Bộ "Sử Ký " gồm 130 thiên, có 526.500 chữ.
Về phương diện sử học, nó có bốn đặc điểm:
- Là bộ sử đầu tiên chép việc nhiều đời, không như những bộ sử trước chỉ chép riêng một đời: Xuân Thu hoặc Chiến Quốc.
- Tác giả trọng niên đại (chronologie). Sử gia trước ông không theo một qui tắc nào nhứt định trong sự kê niên đại (trừ bộ Xuân Thu của Khổng Tử, nhưng bộ này chỉ chép việc trong một thời đại). Đến ông mới lập ra niên biểu của 12 nước chư hầu và niên biểu của các lục quốc.
- Tác giả không những chép những hành vi của vua chúa còn ghi cả văn hóa như lễ, nhạc, triết học, văn học...
- Thái độ của tác giả rất thành thực: điều nào chưa nghiên cứu rõ thì tồn nghi. Nếu có nhiều thuyết bất đồng thì kê hết.
Tư Mã Thiên vốn người học rộng, lịch duyệt nhiều, lại có tâm hồn cao thượng, thêm mang một nỗi lòng u uất nên lời văn của ông tuy bình dị mà hùng mạnh, siêu dật, nhiều khi bóng bẩy, thắm thiết. Nó phát tự lòng phong phú cũng như tự óc nên gợi cảm người đọc rất sâu xa.
Triệu Phi Yến và Hợp Đức là hai chị em ruột. Cả hai đều là cung phi sủng ái của vua Thành Đế nhà Hán (32-6 trước D.L.).
Ba bài "Thanh bình điệu" của Lý Bạch để ca tụng sắc đẹp lộng lẫy của Dương Quí Phi đời Đường Huyền Tông, bài thứ hai có câu nhắc đến Triệu Phi Yến:
Tá vấn Hán cung thùy đắc tự?
Khả liên Phi Yến ỷ tân trang.
Phan Như Xuyên dịch:
Ướm hỏi Hán cung ai sánh kịp?
Phấn son Phi Yến cũng xin nhường.
Tuy ca tụng sắc đẹp của Dương Quí Phi, nhưng nhà thi hào tài hoa họ Lý cũng phải nhìn nhận Triệu Phi Yến là một quốc sắc thiên hương. Và, cả hai chị em khi vào hầu vua Thành Đế là bắt đầu làm đảo lộn cả cung vi. Bao nhiêu cung phi mỹ nữ, Thành Đế xem như đất bùn. Cả đến nàng Ban Tiệp Dư, trước được nhà vua sủng ái bao nhiêu thì bấy giờ ghẻ lạnh bấy nhiêu. Đến nỗi vua Thành Đế bị bịnh ... bất lực (liệt), nhưng cuối cùng lại chết đột ngột trên mình của nàng Hợp Đức giữa lúc giao hoan.
Nguyên hai nàng trước họ Phùng. Cha là Vạn Kim, vốn một kẻ lãng tử trác táng. May mắn, Kim được Cô Tô quận chúa kêu vào làm việc tại nhà riêng. Chồng của quận chúa là Triệu Man lại "bất lực", làm quận chúa buồn duyên tủi phận cho kiếp đào tơ sen ngó lỡ làng. Vì thế nên Vạn Kim được mắt xanh để ý, rồi lửa gần rơm, quận chúa có thai. Nhưng vì chồng bất lực, quận chúa không thể bảo đó là kết quả huyết thống của chồng. Để bảo tồn danh dư, quận chúa giả đau xin về nhà dưỡng bịnh, rồi sinh ra Phi Yến và Hợp Đức.
Cả hai chị em ở chung với Vạn Kim. Sau khi Kim chết, hai nàng lưu lạc đến kinh đô, đổi thành họ Triệu vào làm nữ tỳ cho Lâm A công chúa. Nhờ ở được lòng công chúa nên khi Hán Thành Đế có lịnh kén mỹ nữ vào cung, công chúa liền đề cử Phi Yến.
Trước khi vào làm nữ tỳ cho Lâm A công chúa, Phi Yến đã trải qua một cuộc sống tình ái lãng mạn. Nàng từng đi lại với một chàng trai tên Xạ Điểu Nhi. Rồi trong thời gian vào cung hầu Thành Đế, nàng lại thông dâm với tên cung nô Yến Xích Phụng, tên cận vệ Khánh An ... Nhà vua không hay biết gì cả, vẫn say sưa mê mệt trước sắc đẹp và nghệ thuật giao hoan, nên phế Hứa hậu, lập Phi Yến làm hoàng hậu. Nhưng vì không sinh con nên nàng đưa em là Hợp Đức dâng cho Thành Đế.
Không bao lâu, Thành Đế biến thành kẻ bất lực. Các thái y không tài nào chữa được. Nhưng lạ có một điều là chỉ có gần nàng Hợp Đức thì nhà vua mới thấy rạo rực hứng tình...
Có người dâng cho nhà vua một thứ thuốc tráng dương gọi là "Xuân khiết cao". Mỗi tối khi muốn giao hoan được đầy đủ hứng thú, thỏa mãn cả đôi bên thì uống một viên, là thấy hiệu nghiệm ngay.
Một buổi tối, Thành Đế đãi tiệc trong cung. Nhà vua cùng Hợp Đức ngà ngà say, rồi vì muốn tận hưởng một thích thú mới mẻ nên cả hai dùng đến 10 viên Xuân khiết cao để kích thích dục tính. Đêm tối ấy, công lực của nhà vua dũng mãnh phi thường.
Gặp phải tay kỳ phùng địch thủ, nhưng chẳng may Thành Đế bị chết ngay trên giường.
Chu Công tên Đán, người đời nhà Chu (1135-221 trước D.L.), có tài trị nước.
"Thổ bộ" do nguyên câu: "Nhất phạn tam thổ bộ" nghĩa là "Một bữa ăn phải nhả cơm ba lần".
Nhà Thương (Ân) truyền được 600 năm thì đến vua Trụ tên Ân Thọ là vua dâm bạo. Văn vương Cơ Xương vẫn thờ nhà Ân nhưng đến con là Võ vương tên Cơ Phát hội các chư hầu phạt Trụ, diệt nhà Ân lên ngôi, đóng đô ở Cảo Kinh, đặt quốc hiệu là Chu, tức là Tây Chu.
Võ vương làm vua, em là Chu Công Đán giúp việc chính trị, tôn trọng chiêu đãi người hiền. Chu Công xem gương hưng vong của các đời Đường, Ngu, Hạ, Thương, thấy rằng chỉ là do chư hầu (các tù trưởng) phục hay bất phục nên đem đất đai chiếm được phong lại cho các tù trưởng cũ. Chỉ có các địa điểm trọng yếu thì phong cho các công thần cùng con em để khống chế chư hầu cũ và làm hàng rào cho vương thất.
Chư hầu mới cũ đều theo đất phong lớn nhỏ mà chịu tước Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Đất phong của Công, Hầu là 100 dặm vuông, của Bá là 70 dặm, của Tử , Nam là 50 dặm. Người được đất không đến 50 dặm gọi là phụ dung.
Chu Công lại đặt ra lễ nhạc, mỗi nghi thức ở triều đình, mỗi trật tự trong gia tộc đều được quy định chặt chẽ. Về nông nghiệp, Chu Công đặt phép tỉnh điền. Một khoảng đất rộng chừng 5, 6 trăm mẫu chia làm 9 khu theo hình chử "tỉnh". Tám gia đình chia nhau 8 khu ở chung quanh và phải chung sức cày cấy khu ở giữa để nộp cho vua. Phép tỉnh điền có lợi là làm cho đất đai tài sản nhân dân khỏi chênh lệch.
Sử chép dưới triều này, nước Việt Nam lúc bấy giờ gọi là Việt Thường, sai sứ sang cống chim bạch tử. Chu Công chế xe chỉ nam (nguồn gốc của địa bàn) để đưa sứ ta về nước, phòng lạc đường. Đây là một thời cực thịnh của đời nhà Chu mà phần lớn do tài đức của Chu Công xây dựng.
Ở ngôi được 13 năm, Võ vương mất, Thành vương còn nhỏ. Chu Công giữ quyền nhiếp chính để phò ấu chúa. Có bọn bầy tôi cũ của vua Trụ phao ngôn là ông sẽ cướp ngôi của cháu. Thấy Thành vương không trị tội kẻ phao vu tin nhảm mà còn tỏ ý hoài nghi, ông bèn trả chức vị lui về ấp riêng, soạn tập thơ "Xuy hiền" gởi cho nhà vua. Thành vương xem xong, lấy làm hối hận lại rước Chu Công về làm phụ chính.
Chu Công chẳng những có tài về chính trị còn có đức tính quý trọng kẻ sĩ người hiền. Khi tắm gội hay đương ăn cơm, nghe có kẻ sĩ đến, ông liền bới tóc hay nhả cơm ngay để ra đón tiếp. Sách "Sử ký " có chép: Chu Công răn ông Bá Cầm rằng: "Một buổi tắm gội, ta phải bới tóc ba lần, một bữa ăn ta phải nhả cơm ba lần để đứng dậy ra tiếp kẻ sĩ. Thế mà còn lo không thu phục được người hiền trong thiên hạ đấy!" Nguyên văn: "Ngã nhứt mộc tam ác phát, nhứt phạn tam thổ bộ, khởi dĩ đãi sĩ, do khủng thất thiên hạ chi hiền nhân".
"Chu Công thổ bộ" ý nói Chu Công trọng vọng kẻ sĩ. Đó là một tấm gương sáng cho những người lãnh đạo việc nước cần phải quý trọng kẻ sĩ, trọng người hiền để tìm bực hiền giả cùng mìnhlo đại cuộc cho đất nước.
Trong bài "Đoản ca hành" của Tào Tháo đời Tam Quốc có câu:
Sơn bất yếm cao,
Thủy bất yếm thâm.
Chu Công thổ bộ,
Thiên hạ qui tâm.
Dịch ý:
Núi sông cách trở là bao,
Chu Công trọng vọng, anh hào về theo.
(Bản dịch của Tử Vi Lang)
Đời Tam Quốc, nhà Thục đến hồi suy mạt. Thục chúa là Lưu Thiện, con của Lưu Bị, sau khi Khổng Minh chết, nghe lời gian thần là Hoàng Hạo đắm mê tửu sắc, không nối được chí lớn của cha để giữ vững cơ nghiệp. Thừa tướng của nhà Ngụy là Tư Mã Chiêu sai tướng là Chung Hội và Đặng Ngại đem binh đánh Thục.
Vì muốn đánh úp Thành đô thình lình để bên Thục không phòng bị nên tướng Đặng Ngại ngầm độ binh qua ngả tắt Âm Bình hiểm trở. Họ đục núi mở đường, bắc gỗ làm cầu trải qua các hang sâu đèo dốc, núi đá chập chùng... họ tiến đến thành Du Giang.
Tướng Thục giữ Du Giang là Mã Mạc, nghe tin Đông Xuyên đã mất, cũng cho quân sửa soạn canh phòng, nhưng chỉ chăm lo về mặt đại lộ. Lại tin tưởng Khương Duy còn có đại quân đứng giữ Kiếm Các, nên Mạc không phải lo nghĩ mấy. Vì vậy, Mạc không để ý tình hình cho lắm. Hôm ấy, Mạc lo thao luyện quân sĩ xong, về nhà với vợ là Lý thị, đốt lò lên sưởi và hâm rượu cùng uống. Lý thị hỏi chồng:
- Nghe nói ngoài biên đình quân giặc đánh gấp lắm, mà tướng quân không vẻ lo buồn là tại sao?
Mạc cười đáp:
- Việc lớn đã có Khương Bá Ước trông coi. Can gì đến tôi mà lo!
Lý thị nghiêm nét mặt, hỏi:
- Dù thế nào đi nữa, tướng quân cũng chịu trách nhiệm coi giữ thành trì. Sao lại bảo không quan hệ?
Mạc điềm nhiên nói:
- Thiên tử thì nghe thằng Hoàng Hạo, tối ngày say đắm về rượu với gái. Tôi liệu vạ lớn cũng sắp tới chớ chẳng xa gì. Nếu quân Ngụy đến tận đây nữa thì còn gì mà chẳng hàng đi cho xong. Lo nghĩ lắm thêm mệt!
Lý thị đùng đùng nổi giận, đứng lên nhổ vào mặt Mạc, mắng rằng:
- Làm thân nam tử mà giặc chưa đến đã nghĩ điều bất trung bất nghĩa! Thật phí cả tước lộc của triều đình bấy nay! Ta còn mặt nào sống nhìn mặt ấy.
Mã Mạc xấu hổ ê mặt không biết trả lời ra sao nữa... Chợt gia nhân từ ngoài chạy vào hoảng hốt bảo:
- Tướng Ngụy Đặng Ngại, không biết theo lối nào kéo tới, hiện đã đem 2000 quân xông vào thành rồi!
Mạc sợ hãi vội vàng ra xin hàng.
Đến công đường, Mạc cúi rạp người xuống lạy Ngại, rồi sụt sịt kêu khóc:
- Tôi có lòng hàng từ lâu. Vậy xin chiêu dụ dân trong thành và đem quân bản bộ về theo tướng quân.
Đặng Ngại nhận cho hàng và thu hết quân mã của Mạc trong thành Du Giang, cho nhập vào quân mình để điều khiển, lại cho Mạc làm hướng đạo quan. Bỗng có người hầu nhà Mã Mạc hớt hải chạy tới bảo:
- Phu nhân ở nhà đã thắt cổ chết mất rồi!
Mạc kinh hãi điếng lặng người. Đặng Ngại hỏi duyên cớ. Mạc đem sự thực kể lại. Ngại cảm động khen Lý thị là bực hiền phụ, cho dùng lễ mai táng rất hậu. Ngại thân đến trước linh cữu tế lễ. Quân sĩ nghe tin ấy, ai cũng than tiếc.
Người sau có thơ khen Lý thị:
Hậu chúa hôn mê, nghiệp Hán nghiêng,
Trời sai Đặng Ngại chiếm Tây Xuyên
Buồn thay Ba Thục nhiều danh tướng
Chịu kém Giang Du Lý thị hiền.
Nguyên văn:
Hậu chúa hôn mê Hán tộ điên,
Thiên sai Đặng Ngại thủ Tây Xuyên.
Khả lân Ba Thục đa danh tướng,
Bất cập Giang Du Lý thị hiền.
"Tung hoành gia" là một học phái trong Cửu Lưu, tức là chín học phái lớn nhứt hay là chín dòng tư tưởng đời Xuân Thu Chiến Quốc ở Trung Hoa:
Nho gia
Pháp gia
Tung hoành gia
Đạo gia
Binh gia
Tạp gia
Âm dương gia
Mặc gia
Nông gia
"Tung hoành gia" là một môn phái về thuật ngoại giao.
Nguyên khi nhà Chu suy vi, các rợ chung quanh thường xâm lấn bờ cõi. Vua U vương nhà Chu say đắm nàng Bao Tự, bị rợ Tây Nhung đánh bại giết chết. Con là Nghi Cửu lên ngôi tức Chu Bình vương, sợ quân Tây Nhung đánh phá nữa nên dời đô sang Lạc Ấp (tỉnh Hà Nam ngày nay) lập thành nhà Đông Chu.
Nhà Đông Chu bấy giờ suy nhược quá. Các chư hầu không phục tùng nữa, tự do, phóng túng, người xưng công, kể xưng bá, tranh giành đất đai, khuynh loát lẫn nhau làm thiên hạ rất nhiễu nhương.
Đời nhà Chu, Trung Hoa có hàng ngàn nước chư hầu. Đến đời Xuân Thu (722-481 trước D.L.), những nước này tranh đánh nhau chỉ còn độ một trăm. Có mấy nước mạnh là Tề, Sở, Tấn, Tần, Lỗ, Tống. Nhà Chu tuy suy nhưng các chư hầu vẫn chưa nỡ hoặc dám bỏ hẳn. Người nào cũng muốn mượn danh nghĩa tôn phò nhà Chu để hủy diệt đối phương và tự suy tôn làm minh chủ (gọi là Bá).
Có 5 chư hầu nối tiếp nhau làm minh chủ gọi là Ngũ Bá. Đó là những người đứng đầu trong việc đồng minh, ăn thề để đoàn kết nhau và suy tôn nhà Chu. Ngũ bá là Tề Hoàn công, Tấn Văn công, Tống Tương công, Sở Trang công, Tần Mục công. Vì tranh giành địa vị, thôn tính đất đai nên tất cả chư hầu lớn nhỏ gây thành những cuộc binh đao dữ dội, chưa từng thấy trong lịch sử Trung Hoa.
Đến đời Chiến Quốc (481-221 trước D.L.) lại có 7 nước mạnh gọi là Thất hùng: Tề, Hàn, Ngụy, Triệu, Tần, Sở, Yên. Cuộc chiến tranh càng kéo dài dữ dội. Nay Tần thân với Sở, thì mai đã có thể coi Sở là kẻ thù; Tề ngoài mặt thân với Triệu nhưng vẫn có thể giao thiệp bí mật với Tấn chẳng hạn để diệt Triệu, v.v...
Trong thời đại này, những người có chút học vấn vì xã hội loạn ly, họ không đứng vững được trên đường thực nghiệp theo khoa hoạn của mình, nên phải phiêu lưu tù nước này sang nước khác để tìm áo cơm hay địa vị khanh tướng công hầu. Ngoài những người học rộng trên thấu thiên văn, dưới đạt địa lý còn có những người có tài biện luận, ngôn ngữ giảo hoạt...
"Tung hoành gia" là một học phái trong Cửu lưu gồm những hạng sĩ xuất thân, có tài biện luận đi du thuyết các nước để chiến hay hòa. Người được tôn sùng trong phái này là Tô Tần và Trương Nghi. Tô Tần chủ trương thuyết "Hợp tung". Trương Nghi chủ trương thuyết "Liên hoành". Cả hai đem thuyết của mình chu du khắp các nước, thuyết minh với các vua chúa chư hầu. Hai thuyết này mạnh nhứt đời Chiến Quốc nên được lấy làm tên cho học phái.
Tô Tần và Trương Nghi đều là học trò của Quỉ Cốc tiên sinh. Tô Tần người ở Lạc Dương đi du thuyết 6 nước: Hàn, Ngụy, Triệu, Yên, Tề, Sở hợp nhau lại chống đánh nước Tần là nước mạnh nhứt. Chiều dọc là "Tung". đất 6 nước đều ở theo một chiều từ bắc đến nam tại phía đông; đối với Tần ở phía tây, có một mình nên dùng danh từ "Hợp tung" để chỉ sự liên minh các nước. Tô Tần được vua Triệu phong làm Tung ước chưởng và cầm ấn là Tướng quốc 6 nước.
Trương Nghi người nước Ngụy, chủ trương trái lại thuyết của Tô Tần. Sau khi Tô Tần chết, tung ước 6 nước tan rã, Trương Nghi làm tướng nước Tần đi du thuyết 6 nước thờ Tần. "Hoành" là chiều ngang từ tây sang đông. Đất Tần ở về phía tây. Sáu nước ở về phía đông, không phải liên kết để chống Tần mà để hàng Tần, nên gọi là "Liên hoành".
"Bán kiên cung kiếm nhứt trạo giang sơn..." nguyên do hai câu thơ:
Bán kiên cung kiếm bằng thiên tuấn,
Nhứt trạo giang sơn tận địa duy.
Nghĩa:
Nửa vai cung kiếm tận trời cao,
Non sông khắp cõi xông pha một chèo.
Đây là hai câu thơ khí phách của Hoàng Sào, tướng giặc nổi danh đời nhà Đường.
Nguyên nhà Đường từ đời vua Đại Tông (763-765) đến Hy Tông (874-888) thì quốc thế càng suy vi. Phiên trấn hoành bạo ở ngoài, hoạn quan chuyên chính bên trong. Phiên trấn thì nắm quyền thưởng phạt sinh sát nhân dân trong tay; hoạn quan thì thiện tiện phế lập vua chúa.
Chính cuộc đã nguy như thế làm cho mối loạn trong dân gian ngày càng tăng gia nguy ngập. Những bần cố nông phải bỏ trốn lưu lạc. Một số có ít đất ruộng bị kiêm tính cũng bỏ quê quán mà thành lưu vong, hoặc tụ họp làm trộm cướp, hoặc làm điền hộ ở các trang viên.
Tài chính bị kiệt quệ, kho tàng nhà nước hư không, triều đình phải đánh thuế nặng. Vừa binh tai, lại xảy ra thủy tai và hạn tai luôn năm làm cho nhân dân càng lâm vào tình trạng cực kỳ khốn khổ.
Lúc bấy giờ ở Tào Châu, làng Xích Tướng có một người tên Hoàng Sào tự Cự Thiên, vốn con của một nhà bán muối. Sào rất thông minh, văn võ đều giỏi nhưng vẻ người rất xấu. Năm Càng Phủ thứ ba (876) đời vua Hy Tông, Hoàng Sào đi thi đỗ được Võ cử Trạng nguyên. Vua thấy hình dung "cổ quái" của Sào nên không dùng, đuổi Sào đi.
Hoàng Sào ra khỏi triều môn trở về, giữa đường ghé quán nghỉ, lòng đầy căm tức. Sào nghĩ thầm:
- Khi đăng bảng mở khoa thi thì nói chọn người văn chương và võ nghệ mà thôi, chớ không thấy nói chọn người mặt mày đẹp đẽ. Nếu ta dè hôn quân muốn lấy diện mạo chọn người thì ta có đi thi làm chi cho uổng công.
Tức khí quá, Hoàng Sào lấy bút mực viết một bài thơ trên vách quán rồi bỏ ra đi:
Lược thao như mỗ đáng phong hầu,
Mắt thịt hôn quân dễ biết đâu?
Nếu được đôi ba ngàn tử đệ,
Đoạt thâu thiên hạ bốn trăm châu.
Tào Châu Hoàng Sào tự Cự Thiên đề.
Quân tuần thành đến quán trông thấy bài thơ liền chép lại dâng lên vua. Nhà vua tức giận truyền họa đồ hình Hoàng Sào và ra lịnh tập nã. Sào hay tin, không dám đi đường lớn nữa mà phải lặn lội trong rừng núi để về quê.
Có truyện chép rằng: một hôm Hoàng Sào ghé vào chùa nghỉ, có tiên cho mượn gươm báu. Sào định thử gươm mới bảo các sãi trong chùa tìm nơi ẩn trốn kẻo bị gươm báu chém nhằm.
Đến giờ ngọ, Hoàng Sào ra đứng giữa trời, nhìn ngay mặt trời khấn rằng:
- Tôi là Hoàng Sào tự Cự Thiên, nghĩ vì đời vua này vô đạo, chẳng kể hiền tài, cứ nghe lời gian nịnh cho nên đạo tặc phong khởi, hào kiệt ly tâm, thiên hạ nhiễu nhương, trăm họ khổ thống. Vậy tôi muốn ra sức trừ loài gian nịnh, cứu nạn cho sinh linh, đoạt lấy xã tắc, sửa trị ngôi trời. Nay tôi muốn thử sức gươm linh xin hoàng thiên giúp sức nếu vạn sự kết quả như lòng tôi muốn thì xui tôi chém một gươm cho tốt.
Đoạn, cầm gươm ra khỏi cổng chùa, nhìn chung quanh không thấy ai cả. Thấy một cây đại thọ ở bên đường, Sào liền đưa gươm lên chém phạt ngang một gươm. Cây đại thọ đứt hai đổ xuống, nhưng có làn máu đỏ vọt ra. Sào cực kỳ ngạc nhiên nhìn kỹ lại là ông sãi cả ở chùa. Thì ra vì ông sãi cả nghe lời Hoàng Sào bảo mọi người trong chùa phải tìm chỗ ẩn trốn khi Sào thử gươm linh, nhưng ông không biết chỗ nào trốn cho kín. Ông lấy làm lo sợ quá, nhìn thấy một cây đại thọ có cái bộng to nên chun vào đó, ý định toàn thân... không ngờ lại không toàn!
Hoàng Sào đau lòng than thở, đoạn quảy gói mang gươm lên đường, thẳng lên Thái Hành Sơn chiêu binh mãi mã.
Non một năm, Sào chiêu mộ được trăm muôn binh thêm một số tướng tá văn võ kiêm toàn: Châu Ôn, Thượng Nhượng, Liễu Ngạn Chương, Liễu Ngạn Tùy, Các Tùng Châu, Đặng Thiên Vương, Mạnh Tuyết Hải. Hoàng Sào đặt Thượng Nhượng làm quân sư và các tướng toàn Tổng binh. Thế lực rất mạnh.
Hoàng Sào tự hiệu là Xung thiên đại tướng quân, đem hơn 10 vạn quân đoạt được nhiều châu khác và vượt qua sông Dương Tử, xuống cướp miền Giang Nam, ra phía đông đến Chiết Giang, lại đánh Phúc Châu, Kiến Ninh, rồi thẳng đường xuống đoạt Quảng Châu. Ở đây, Hoàng Sào giết hại rất nhiều nhân dân trong thành thị, cùng 20 vạn người ngoại quốc buôn bán, gồm những giáo đồ Hồi Hồi, Cơ Đốc, Bái Hỏa và người Do Thái, người Hy Lạp.
Sau vì miền nam có bịnh dịch, Hoàng Sào kéo quân lên bắc. Năm 880, vây hãm Đông Đô rồi chiếm lấy Trường An, cướp phá và giết chóc những người quý tộc, quan lại và phú hào, số không kể xiết. Vua Hy Tông bấy giờ phải bỏ hoàng thành chạy vào đất Thục. Hoàng Sào tự xưng là Đại Tề hoàng đế. Thật là thỏa chí bình sinh.
Hoàng Sào trước muốn cứu muôn dân ra khỏi cảnh lầm than tang tóc, nhưng đến khi thực hành thì lại chẳng cứu muôn dân mà còn gây thảm họa chết chóc cho nhân dân nhiều thêm nữa. Tướng Châu Ôn là bộ hạ của Hoàng Sào lại đầu hàng quan triều. Trong số hơn 50 vạn quân của Sào, một số chán ghét Sào bỏ chạy theo Châu Ôn. Còn vua Hy Tông sau khi trốn chạy vào Tứ Xuyên, nhờ người Tây Đột Quyết là Lý Khắc Dụng đem quân cứu viện. Triều Đường được trung hưng.
Năm 884, Hoàng Sào bị Lý Khắc Dụng đánh bại rồi bị tên bộ hạ ám hại tại Biện Châu. Có sách chép là Hoàng Sào đánh trận bị thương nặng trở về tư dinh, đâm cổ tự tử.
Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn tả khí phách của Từ Hải có câu:
Giang hồ quen thú vẫy vùng,
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.
Hai câu này thoát ý câu thơ của Hoàng Sào như trên:
Bán kiên cung kiếm bằng thiên túng,
Nhứt trạo giang sơn tận địa duy.
Cũng trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh", đoạn Thúy Kiều khuyên Từ Hải hàng triều đình, có câu:
Ngẫm từ khởi việc binh đao,
Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu,
Làm chi để tiếng về sau?
Ngàn năm ai có khen đâu Hoàng Sào?
"Hoàng Sào" là do điển tích trên.
Kiều đem Hoàng Sào ra để thuyết Từ Hải biết là Từ có tài giỏi dũng lược như Hoàng Sào chăng nữa, thì cũng chỉ lưu lại đời sau cái tiếng làm giặc mà thôi.
Nhưng ở đời từ xưa đến nay, được làm vua thua làm giặc là một lẽ thường.
Nước Đại Việt, đời Hậu Lê, Lê Thái Tông (1434-1442) tên Nguyên Long, con thứ của vua Thái Tổ Lê Lợi, lúc lên ngôi mới 11 tuổi nhưng chính sự đều tự tay mình làm lấy. Ở trong triều, vua thẳng tay giết bọn quyền thần như Lê Ngân, Lê Sát; ở ngoài thì đánh Ngọc Ma, bắt Cầm Quí và bình được các Thổ tù ở Lạng Sơn, Gia Hưng.
Thông minh dũng trí, người đa tài tất cũng đa tình háo sắc. Thấy Nguyễn Thị Lộ là nàng hầu của Nguyễn Trãi, dung mạo đẹp, văn chương hay nên đòi vào cung, cho làm chức Lễ nghi học sĩ.
Nhưng không may, nhà vua gặp phải bà hoàng hậu ghen kinh khủng. Bà biết tính vua nên canh chừng nghiêm nhặt làm cho nhà vua không giở trò gì được.
Tháng 7 năm Nhâm tuất (1442), vua Thái Tông ngự đông tuần ở huyện Chí Linh. Bấy giờ, Nguyễn Trãi đã về trí sĩ ở Côn Sơn, huyện Chí Linh, nhà vua ghé vào thăm. Vừa lúc ấy, Thị Lộ cũng về thăm ông Nguyễn Trãi ở đấy. Khi sắp về triều, nhân đó, nhà vua truyền cho Thị Lộ cùng theo nhà vua về một thể. Thị Lộ phải vâng mạng.
Xa giá về đến Thiên Đức Giang (thuộc huyện Gia Linh, tỉnh Bắc Ninh), trời đổ tối. Vua truyền dừng lại, vào vườn Lệ Chi (vườn vải) để nghỉ.
Đêm ấy trời trong trăng tỏ, vua truyền bày tiệc rượu cùng Thị Lộ đối ẩm và xướng họa thơ văn. Thị Lộ không dám cãi mạng. Thế rồi câu xướng, câu họa, rượu mời, tay chuốc, tay trao. Sắc đẹp của Thị Lộ càng lộng lẫy dưới ánh trăng vằng vặc. Nhà vua vốn còn trẻ tuổi lại háo sắc đa tình, lòng sẵn ôm mối tình với Thị Lộ từ lâu nay mới có dịp gần bên người ngọc, rồi càng say sưa vì sắc, quyến luyến vì tình nên không còn giữ được vẻ đứng đắn của một đứng chí tôn đối với kẻ bề tôi được nữa.
Cuộc vui thi vị ấy kéo dài cho đến khuya, cho đến khi vầng trăng vàng chỉ còn mờ nhạt trong ánh sương đêm dày đặc, nhà vua càng cảm thấy mình khao khát một thứ gì để ấm áp cho tấm thân đơn trong khi đêm lại sắp hồ tàn. Dịp may hiếm có, đêm gặp gỡ thi vị ngàn năm một thuở phải làm sao tận hưởng cho trọn vẹn. Để hỏng đi sẽ suốt đời ôm lấy nỗi hối tiếc ân hận đầy lòng.
Say rượu thì ít mà say sắc thì nhiều, nhà vua bỗng đứng phắt lên, bạo dạn cầm lấy tay Thị Lộ nhẹ nâng nàng đứng dậy. Đoạn nhà vua đưa tay choàng qua chiếc lưng thon, ép sát mình vào tấm thân mềm mại, uyển chuyển và ấm áp của nàng, rồi dìu nàng vào trại. Thị Lộ không còn cưỡng sức được. Mà nàng cũng không muốn cưỡng. Đó là lịnh của đấng chí tôn. Và, lịnh này nó đã hòa hợp với lịnh của con tim đương vỗ đập cho ái tình nhục dục. Nàng chiều theo cánh tay rắn chắc của nhà vua và ngã dần mình vào tấm thân lực lưỡng của người. Hôm nay nàng mới nhận thấy một cảm giác say sưa của một người con gái mơn mởn đào tơ mà nàng không lúc nào tìm thấy ở bên cạnh Nguyễn Trãi, một vị lão thần chỉ đem lại cho nàng một kính mến hơn là thỏa thích yêu đương và khát vọng.
Bên ngoài, quần thần đã yên giấc từ lâu. Một vài tên lính canh đổi gác cầm canh.
Trong gian phòng vắng ở Lệ Chi Viên, dưới ánh trăng lạp lờ mờ càng làm cho sắc đẹp của Thị Lộ thêm lộng lẫy, huyền ảo. Da của nàng trắng mơn mởn, bắp thịt tròn trịa lồ lộ khêu gợi phô bày dưới đôi mắt say đắm cuồng nhiệt của nhà vua. Kẻ thì xa vắng nội cung lâu ngày, mối khát vọng ôm ấp từ lâu, người thì mơn mởn đào tơ đương thiết tha đòi hỏi yêu đương trọn vẹn, nay gặp nhau thì mặc sức ngụp lặn trong nguồn ân biển ái.
Nhưng...
Giữa lúc hoan lạc thích thú, bốn cánh tay của hai người siết chặt, nhà vua bỗng rít lên một tiếng thê thảm rồi ngất xỉu, trút ngay hơi thở trong đôi cánh tay ngà ngọc của giai nhân.
Đụng phải tay "Hà Đông sư tử", một tay "giấm chua" hảo hạng, hoàng hậu tức giận cành hông, đổ tội cho Nguyễn Trãi âm mưu cùng Thị Lộ đầu độc nhà vua, nên cùng triều thần kết tội tru di ba họ Nguyễn Trãi.
Thương thay một vị lão thần, có tài kinh bang tế thế, một tay rường cột trong công cuộc giải phóng đất nước và dựng nên sự nghiệp Lê triều, mà nay vì một cớ do sự "cảm xúc quá độ" của ai kia để phải tru di ba họ.
Về sau, có người làm một bài thơ tứ tuyệt bằng Hán văn:
Xung linh tiễn tộ tại tiền qui,
Nội ngoại tu nhương, vọng hữu vi.
Nhứt tự Lễ nghi thừa sắc tiếu.
Lệ Chi viên lý nguyệt ba di.
Nghĩa:
Tuổi trẻ lên ngôi giữ phép nhà,
Trong ngoài sửa đẹp trổ tài ba,
Từ khi nữ sữ vào hầu chực,
Vườn vải đêm khuya bóng nguyệt tà.
Kẻ được khen bị tội, người bị chê được thưởng Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Sô Kỵ là một người hiền lại có tài chính trị đời Chiến Quốc, làm Tướng quốc nước Tề dưới triều Tề Uy Vương. Ông hết lòng lo chính sự, thường lưu ý dò xét trong bọn các quan ấp để xem ai hiền, ai không hiền.
Bấy giờ các quan trong triều, ai cũng khen quan đại phu đất A là người hiền mà chê quan đại phu đất Tức Mặc. Sô Kỵ tâu với Tề Uy Vương, rồi sai người đi dò xét, kiểm tra xem sự thực thế nào?
Khi đã dò xét được sự thực rồi, Tề Uy Vương cho triệu hai quan đại phu đất A và đất Tức Mặc đến. Tề Uy Vương chẳng nói gì cả. Các quan trong triều đều ngơ ngác, không hiểu ra làm sao? Một lúc sau, quan đại phu đất A cũng đến. Tề Uy Vương truyền họp tất cả triều thần lại để định thưởng phạt. Triều thần ai cũng nghĩ thầm: quan đại phu đất A phen này ắt được trọng thưởng; trái lại quan đại phu đất Tức Mặc thế nào cũng có vạ đến nơi.
Lúc bấy giờ, giữa triều, Tề Uy Vương gọi quan đại phu đất Tức Mặc đến, bảo:
- Từ khi nhà ngươi ra trấn giữ đất Tức Mặc, ngày nào ta cũng nghe thấy lời người chê bai. Ta sai người đến dò xét đất Tức Mặc thì thấy ruộng nương mở rộng, nhân dân giàu có, việc quan không chậm trễ, cả một phương đông ấy được yên. Thế là do nhà ngươi chuyên tâm trị dân mà không chịu lễ đút lót những người tả hữu gần ta, thành ra bị họ chê bai đó. Nhà ngươi thật là một ông quan hiền.
Nói xong liền gia phong cho. Đoạn gọi quan đại phu đất A đến, bảo:
- Từ khi nhà ngươi ra trấn giữ đất A, ngày nào ta cũng nghe thấy lời người khen ngợi. Ta sai người dò xét đất A thì thấy ruộng nương bỏ hoang, nhân dân đói rét. Hôm trước quân Triệu đến xâm lấn bờ cõi mà nhà ngươi không biết cứu. Thế là nhà ngươi chỉ đem tiền của đút lót những kẻ tả hữu gần ta, thành ra được họ khen ngợi đó. Nhà ngươi thật là một ông quan rất dở.
Quan đại phu đất A sụp lạy xin tha tội.
Tề Uy Vương không tha, truyền lực sĩ đem vạc dầu ra nấu. Dầu sôi sùng sục.Tề Uy Vương sai trói quan đại phu đất A bỏ vào vạc dầu. Đoạn bắt tất cả những người xưa vẫn khen ngợi quan đại phu đất A mà chê bai quan đại phu đất Tức Mặc hàng mấy mươi người đến, quở mắng:
- Các ngươi là người tả hữu gần ta tức là tai mắt của ta. Các ngươi lại tham ăn của lễ, phải nói ra trái, trái nói ra phải để lừa dối, ta còn dùng các ngươi được việc gì nữa! Nên đem mà mổ cả đi.
Chúng đều khóc lóc kêu van.
Tề Uy Vương vẫn còn hầm hầm nổi giận, chọn lấy mười người, toàn là những người xưa nay nhà vua có lòng thân yêu đem ra mà mổ. Chúng đều run sợ, mặt tái như gà cắt tiết.
Từ bấy giờ Tề Uy Vương kén chọn những người hiền tài cho đi trấn nhậm các quận. Nhờ đó mà trong nước ngày càng cường thịnh.