Gió đồng Lờ
Năm Ất Dậu, tròn một hoa giáp kể từ cái năm nạn đói hoành hành, làng tôi dựng lại đình làng.
Ngày ông Tống Trường Giang xem thế đất chọn tên làng thì bãi đồng Lờ vẫn còn hoang vắng. Mỗi lần sang bên làng Thăng long, làng Mai Hoa bên kia đồng bằng xe bò kéo của thằng Hồng cũng mất đến mấy giờ. Đất đai mênh mông là thế nhưng chẳng hiểu quỷ thần xui khiến thế nào mà các cụ tiên chỉ lại cắm dùi đúng vào kiểu đất Nội công Ngoại kích. Từ ấy về sau, không năm nào làng tôi không diễn ra các trận chiến khốc liệt đến mức nhà cửa tanh bành, sứt đầu mẻ trán. Trong làng, bọn dân chủ từ Dần Béo, Bạch Tiểu Băng, Kai Sồ nối đến thằng Nhất Điểm Hồng, Giang Tiểu Ngư đối với Ban quản trị như có thù truyền kiếp, chống phá đủ đường, hở ra là chửi Ban làm ăn như kẹc. Ngoài làng, hacker rình rập tối ngày, nhăm nhăm đốt phá. Có năm dân chúng phải bỏ đi tha phương cầu thực khiến làng im lìm như bãi tha ma. Mạch phong thuỷ ấy khiến làng tôi có kiến trúc chẳng giống nơi nào. Từ cái cổng trào đón thành viên mới đi vào, làng cho dựng cái trụ sở tiếp dân Nginh Phong Đình để nhận đơn từ kiện cáo. Người mới chuyển hộ vào làng vừa cất lời chào dứt miệng lập tức bu vào đám dân đi kiện. Người lành tính đứng xem chỉ trỏ, kẻ ngứa mồm thì xông tới chửi hôi. Ngày nào cũng ầm ầm như có đám mổ bò. Ở giữa làng lại để trống một bãi đất rộng bằng chục vuông chiếu gọi là sân Nghị Sự, kế ngay đó là Tụ nghĩa đường. Cạnh Tụ Nghĩa là đình Mật Viện.
Chủ tế kiêm thủ từ của đình Mật Viện là ông Cuối, tế nữ là chị Trâu. Cổng đình đắp nổi bốn chữ đại tự Quân Cơ Mật Viện. Phía dưới có tượng ông hộ pháp LSB-VanThang dữ tợn tay cầm dao thiến lợn, tay kia cầm thớt gỗ chạm nổi hàng chữ Nơi họp bàn của Ban Điều Hành - Không phận sự miễn vào. Phía trong đình kiến trúc theo kiểu chữ Vương, trung đường đặt tượng thờ. Làng thờ Lờ thánh mẫu ở chính điện, bên tả đặt tượng ông Tống và ông Ngô có công khai hoang lập ấp, bên hữu đặt tượng Bà Đanh là thổ công của Đầu Lĩnh Trướng. Ba bức hoành phi to tổ chảng treo nối tiếp nhau ghi lại danh sách những tiên chỉ của làng, sự kiện làng bê tông hoá đường liên thôn thay cho đường đất nện và nhắc qua công quả dựng đình của ông Tống, ông Ngô, ông Thắng. Hậu điện dựng một văn bia ca tụng làng Lờ văn vật của Lao Ái Trương Văn Thanh, nội dung giản lược rằng gái đẹp là nguyên khí của làng, làng là cha chung thời con cháu thay nhau mà cúng tế nhưng cúng phải có chừng có mực. Lên chủ tế mà đòi dân làng phải lễ này lễ nọ, không được sản xuất spam, không được viết sai chính tả thì dân làng có quyền vác cày vác cuốc phang cho vỡ mặt.
Thấm nhuần lời người xưa, ngày thường đình Mật Viện âm u kỳ bí, cửa đóng then cài mặc cho bên Nghị Sự với Xóm Hẻo đánh chửi nhau chí choé. Mỗi năm đình mở cửa một lần vào ngày Kị mồng bốn tháng ba của làng, đón các tân Đầu lĩnh vào họp mặt... Thi thoảng ông Cú vào quét dăm ba nhát chổi lấy lệ rồi trút lộc vào bị mang về, dáng dấp rất lừ đừ một cách phải đạo. Năm ông Thanh làm chủ tế, ông trót ký cho thằng Lư Mõ là bí thư chi bộ xã. Nó vừa ngồi lên ghế lập tức ký lệnh cải cách điền thổ trong làng. Bên Phiếm cấm luận, bên Kết Bạn cấm Kết Bồ (nay đã đổi tên thành Hội Duyên Các) , bên Nhã cấm Thi. Hương hào kỳ mục tiên chỉ sợ vỡ mật, trốn vào trong đình khoá chặt cửa không dám ra ngoài. Ông Thanh phải cúng tạ mấy tháng trời rồi cơ sự mới tạm yên. Từ đó, làng không dám cho dân ngoài bãi Lờ lên giữ chức bí thư.
Trợ tế cho ông Cú là một hội đồng tiên chỉ làng gồm đủ mọi thành phần. Ngày trước có đủ tế nam và tế nữ. Tế nam hồi đó là thằng Tuấn Thiêm. Lệ làng là tế nam phải đồng trinh. Thằng Thiêm khi đấy còn rất trẻ, phải đem đi thiến mới được vào đình. Nhưng cũng vì thế nó đâm ra đổi tính, hàng đêm lén lút trốn khỏi đình mò vào mấy quán đèn mờ, tức hạ phá thượng nên ngón tay phình to như quả chuối mắn. Hội đồng tiên chỉ lại thống nhất với nhau bỏ chức tế nam. Bọn trẻ trâu hay thắc mắc ai là Tuấn Thiêm công công, tôi cũng ậm ừ cho qua chuyện vì không tiện trả lời.
Vào được hội đồng tiên chỉ đi phụ lễ bái hàng năm cho ông Cú là vinh dự lớn của người làng tôi. Tiên chỉ ngồi hội họp trong đình bàn chuyện hệ trọng sống còn của làng, dân ngụ cư hay dân mới đến chỉ dám đứng ngoài háo hức nhìn vào. Ngoài mấy dịp hội làng hay ngày giỗ kị, phần xôi thịt của chân tiên chỉ bao giờ cũng lớn hơn người thường. Lên xóm Phiếm Luận có hội Kình Thiên đón, về thôn Hội Duyên Các có công ty Quậy Phá rước, vào Xóm Hẻo có dân khai hoang xóm chào mừng, rượu thịt ê hề, một điều bác hai điều cụ. Một đận ông Cú còn nhờ tôi dịch hộ thư lá chuối của mấy bà đồng bóng sồn sồn viết cho ông. Nội dung khen ông đẹp trai phong độ khoẻ mạnh vạm vỡ. Ông Cú sướng lắm, giấu vợ mang thư vào chuồng tiêu đọc thuộc lòng.
Dân làng Lờ có khẩu ở làng chừng dăm năm là đua nhau nộp đơn xin vào đình Đầu Lĩnh Trướng. Ông Cú tổ chức thi sát hạch, mỗi lần cũng chỉ được một hai người. Thi đơn giản lắm. Ông Cú sẽ hỏi: Cô chú có rảnh không? Ai trả lời: Con rảnh cụ ạ, coi như cầm chắc trượt vỏ chuối. Bởi thế cứ hỏi các cụ tiên chỉ làng tôi thời chắc chắn sẽ nhận được câu trả lời: Bận lắm! Bận lắm….Ông Cú bảo rảnh rang suốt ngày nhận đơn từ xử kiện mới tu bổ làng xã thì thời gian đâu đi ăn thịt chó để hoạch định chiến lược vĩ mô phát triển làng này. Mà không có tầm chiến lược thì đừng hòng vào hội đồng tiên chỉ. Bởi thế đình Mật Viện và Đầu Lĩnh Trướng nhiều lúc có cả chục người ngồi không nhưng tất cả chỉ lầm rầm khấn bà Đanh. Hở ra một câu là biểu hiện của kẻ rỗi hơi, không thể làm tiên chỉ.
Thi thoảng, không gian tĩnh lặng trong đình cũng bị phá vỡ. Nghe tiếng ồn ào từ trong điện là dân làng biết ông Xuy Tuyết đi phu lục lộ ở Tây Nguyên đã về hoặc ông Lưu Manh say rượu ra đình quậy phá. Ông Tuyết được người làng gọi là thi sỹ đào đường. Mỗi lần về làng, ông phải vào đình đọc thơ rồi mới chịu về với vợ. Thơ của ông rất gắn bó với nghề: "Cuốc chim ta bổ xuống nền đường đất/ Sau đây là chủ đề mới nhất Lương Sơn. Cuốc chim vung lên thành đường thành phố/ Sao chả có bài gì, tiên sư bố Lương Sơn". Hôm nào run rủi gặp thằng Tiểu Ngư lè phè ở sân đình, ông Tuyết quay sang vặn vẹo: Ê Ngư, chú mày mang tên là cá thời có biết Mật Viện Lương Sơn giống cái gì mà con cá chui vào rồi lại muốn chui ra mà không ra được? Thằng Ngư gân cổ: Là cái "đó". Ông Tuyết bảo: đé0 phải, là cái "lờ". Thằng Ngư cãi: Cái "đó" thuôn thuôn, có hom. Ông Tuyết bảo: Cái "lờ" cũng thuôn thuôn, cũng có hom. Thằng Ngư điên tiết: Cái "đó" để chỗ có nước. Ông Tuyết kiên định: Cái "lờ" cũng ở chỗ có nước. Ông Cú bị dựng dậy, làu bàu phân xử: Cái đó là cái đó, cái lờ là cái lờ. Cái đó không phải cái lờ và cái lờ không phải là cái đó. Nhưng cả hai đều bắt cá được. Các ông về đi, tôi gọi trương tuần gô cổ nhốt vào kho bây giờ.
Trương tuần làng tôi có bốn thằng, là anh em ruột. Thằng Nguyễn là anh cả, thằng Tít thứ hai rồi đến thằng Thiêm, thằng Lãng Tử. Người làng gọi chúng là tứ đại mỹ nhân.
Thằng Tít đẹp trai nhất trong bốn anh em, da trắng môi đỏ, người chắc nịch lại có nụ cười đểu cáng nên sát gái thành thần. Nó bắn súng cao su tay phải cũng như tay trái, cứ kẹp đạn kéo thun là chim trời hay chim các cụ nuôi đều rụng như mít chín nên được gọi là Lạc Nhạn (chim sa) mỹ nhân. Thằng NGUYỄN tính tình nhu mì hiền lành như con gái thường nửa năm mới tắm một lần. Mỗi lần NGUYỄN tắm ngoài hồ, cá chết ba ngày mới nổi được lên trắng xoá mặt nước nên gọi là Trầm Ngư (cá lặn) mỹ nhân. Thằng Thiêm lại có tính mây gió, học đòi theo nghệ sỹ Trỳm Cú đi làm Ai Ti (IT). Cuộc đời làm Ai Ti của nó chỉ ao ước đì dzai được bức tranh ánh trăng tãi trên vườn chuối vào đêm ba mươi hàng tháng. Người làng đặt cho biệt danh Bế Nguyệt (nguyệt thẹn) mỹ nhân. Thằng út Lãng Tử nghiện nước mắm Nam Ngư như lão XanhXanh nghiện rượu, ăn cơm xong thường có thú vui tao nhã vào sinh phần nhà Trym Cú ngắm hoa. Không hiểu nó ngắm thế nào mà hồng cúc thược dược lay ơn trong vườn cứ héo quắt đi. Cú tức lắm, gọi nó là Tu Hoa (hoa nhường) mỹ nhân.
Bốn anh em sức vóc hơn người ăn thủng nồi trôi rế. Học hết cấp hai trường làng, chả đứa nào có việc làm. Ông Cú thương tình nhận chúng vào đội trương tuần chuyên đi bắt spam, lỗi chính tả và đàn áp nhà dân chủ Giang Tiểu Ngư.
....Còn tiếp...
Chú thích:
-Cái đó và cái lờ là hai dụng cụ của người nông dân miền Bắc dùng để bẫy cá. Hai dụng cụ này được đan bằng tre (nứa) có hình dáng thuôn và hẹp, thường được đặt ở chỗ nước cạn như ở cửa kênh mương hoặc bờ ruộng. Cá trên dòng di chuyển sẽ đi qua khe hẹp được bố trí hoặc lựa chọn, chui vào trong đó hoặc lờ rồi thì không có đường ra, mắc lại bên trong. Chỉ cần nhấc hai dụng cụ này lên khỏi mặt nước là bắt được cá.