Hữu hoài trịnh thập bát
Thiên thai cách tam giang,
Phong lãng vô thần mộ.
Trịnh công túng đắc quy,
Lão bệnh bất thức lộ.
Tích như thủy thượng âu,
Kim vi thư trung thố.
Tính mệnh do tha nhân,
Bi tân đàn cuồng cố.
Sơn quỷ độc nhất cước,
Phục xà trường như thụ.
Hô hào bạng cô thành,
Tuế nguyệt thùy dữ độ.
Tòng lai ngự ly mỵ,
Đa vị tài danh ngộ.
Phu tử kê nguyễn lưu,
Cánh bị thì tục ố.
Hải ngung vi tiểu lại,
Nhãn ám phát thùy tố.
Cư trượng cận thanh bào,
Phi cung chiết yêu cụ.
Bình sinh nhất bôi tửu,
Kiến ngã cố nhân ngộ.
Tương vọng vô sở thành,
Càn khôn mãng hồi hỗ.
~Đỗ-Phủ~
Dịch:
Nhớ ông Mười Tám họ Trinh
Núi Thiên-Thai cách ba sông,
Gió to sông lớn mênh mông suốt ngày.
Nếu ông Trịnh được về ngay,
Già và bệnh hoạn, đường nay biết gì.
Xưa, như trên nước âu đi,
Thỏ đang trong lưới, khác chi lúc này.
Người ta, tính mạng trong tay,
Điên cuồng, nhìn lại đắng cay tăng dần.
Quỷ nơi núi có một chân,
Rắn nằm giống tựa như thân cây dài.
Bên thành vắng vẻ kêu hoài,
Tháng năm nào có cùng ai chia cùng.
Từ đây, ly mỵ phục tùng,
Phần nhiều nhầm hiểu, lỡ cùng tài danh.
Kê-Khang, Nguyễn-Tịch rành rành,
Bị người thế tục ghét ganh rất nhiều.
Quan quèn góc biển tiêu điều,
Mắt lòa tóc đã bạc nhiều như tơ.
Gậy cưu và áo xanh chờ,
Gẫy lưng, liệu có bao giờ làm xong.
Bình thường chén rượu sưởi lòng,
Cứ xem gặp bạn nơi phòng như xưa.
Ngóng nhau, ý chẳng được vừa,
Mịt mù trời đất, bây giờ nhớ nhau...
~Anh-Nguyên~
|