Vị trí: Địa đạo Vịnh Mốc thuộc huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, cách quốc lộ 1A 13km về phía đông, cách Cửa Tùng 6km về phía bắc.
Đặc điểm: Địa đạo dài gần 2km gồm 3 tầng sâu dưới mặt đất. Nơi đây từng là pháo đài thép của miền Bắc XHCN trong suốt 7 năm liền chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Vịnh Mốc là nơi đầu tiên bị đế quốc Mỹ ném bom tàn phá trong cuộc chiến tranh bằng không quân đánh phá miền Bắc Việt Nam.
Địa đạo Vịnh Mốc là một trong những điểm hấp dẫn của tuyến du lịch nổi tiếng DMZ (khu vực phi quân sự), thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước, đặc biệt là những cựu chiến binh Mỹ.Họ đến để chiêm ngưỡng kỳ tích độc đáo này, một chứng tích tiêu biểu về sự hy sinh chịu đựng và gan góc chiến đấu vì độc lập, tự do của người dân Vịnh Mốc nói riêng và người dân Việt Nam nói chung. Hàng ngàn dòng cảm tưởng của khách nước ngoài tỏ ra vô cùng thán phục tài trí, ý chí của người Việt Nam.Địa đạo Vịnh Mốc được đào xong trong vòng 2 năm, với khoảng 6.000m3 đất đá. Hệ thống đường hầm có tổng chiều dài gần 2km, chia thành 3 tầng: tầng một sâu dưới mặt đất khoảng 13m; tầng 2 khoảng 15m và tầng 3 sâu trên 23m; gồm 13 cửa ra vào đồng thời cũng là những cửa thông hơi (bẩy cửa thông ra biển và sáu cửa đi lên đồi). Địa đạo được thiết kế như một làng dưới mặt đất với 94 căn hộ gia đình, có giếng nước ngọt đáp ứng sinh hoạt của người dân địa đạo, có hội trường đủ sức chứa khoảng 60 người, bảng tin, nhà hộ sinh, nhà vệ sinh, phòng phẫu thuật, bếp Hoàng Cầm (loại bếp nấu được dưới lòng đất mà hạn chế khói bốc lên), kho gạo, trạm đặt máy điện thoại, đài quan sát, trạm gác, hầm tránh bom khoan. Ấn tượng mạnh khi đặt chân lên vùng di tích Vịnh Mốc là dòng chữ lớn nằm trang trọng trong phòng trưng bày: "Tồn tại hay không tồn tại", rút ra từ tác phẩm nổi tiếng Hămlét của nhà văn người Anh Xêchxpia. Câu này lại càng có ý nghĩa hơn và gây xúc động cho du khách khi đặt bênh cạnh những tấm ảnh: một tấm chụp cảnh làng quê trù phú san sát nóc nhà vào tháng 2/1965; còn tấm ảnh kế bên cũng làng quê ấy, nhưng đã bị bom đạn kẻ thù hoàn toàn huỷ diệt trên mặt đất; tấm ảnh 11 cháu bé ra đời trong bóng tối của chiến tranh đang quây quần trong ánh sáng của ngày chiến thắng; tấm ảnh bốn o du kích xinh tươi trong chiếc áo sơ mi trắng lạc quan hát dưới hầm địa đạo và rồi cũng chính họ trong bộ cánh màu xanh người lính lại xuất hiện trên mặt đất điều khiển các khẩu pháo bắn trả kẻ thù. Chính sự tàn khốc của chiến tranh ở nơi đây đã làm cho con người ta muốn tồn tại chỉ có hai cách: hoặc là bỏ nơi đây mà đi, hai là chui xuống đất và người dân Vịnh Mốc đã chọn cách thứ hai. "Tồn tại hay không tồn tại" được người dân Vịnh Mốc trả lời bằng việc 17 công dân được sinh ra ngay dưới lòng địa đạo trong hai năm 1967-1968.Đến địa đạo Vịnh Mốc hôm nay, nhìn những vườn cao su và hồ tiêu xanh mướt trên mảnh đất bazan màu mỡ, nhìn cảnh sắc biển trời mây non nước hiền hoà ấy, ít ai tưởng tượng được rằng hơn ba thập kỷ trước, ở nơi đây đã từng là một pháo đài thép của miền Bắc XHCN trong suốt bảy năm liền (1966 - 1972) chống lại cuộc chiến tranh phá hoại khốc liệt của đế quốc Mỹ. Vịnh Mốc không chỉ là địa đầu miền Bắc mà còn là địa điểm thuận lợi cho việc tập kết lương thực, vũ khí tiếp tế cho đảo Cồn Cỏ, hòn đảo có vị trí quan trọng cho việc án ngữ vùng biển Vĩnh Linh (cách Vịnh Mốc 28km). Chính vì vậy, Mỹ đã trút hàng vạn tấn bom đạn xuống vùng đất này. Kẻ xâm lược tuyên bố :"Phải biến đất này trở về thời kỳ đồ đá!". Một cuộc chiến tranh huỷ diệt được tiến hành vì mục tiêu "Phải kéo được biên giới Hoa Kỳ đến tận Vĩ tuyến 17 - ranh giới giữa hai bên bờ cầu Hiền Lương". Người ta ước tính rằng, trong một ngày, một người dân ở đây phải hứng chịu số bom đạn tương đương 500 quả đạn pháo hạng nặng.Năm 1976, Bộ Văn hoá - Thông tin đã công nhận làng địa đạo Vịnh Mốc là di tích quốc gia và đưa vào danh mục các di tích đặc biệt quan trọng. Để đảm bảo an toàn cho du khách, Chính quyền địa phương đã cho tôn tạo, tu bổ, gia cố bằng bê tông các đoạn hầm bị sụt lở; mắc điện ở các lối đi trong địa đạo.
Vị trí: Thành cổ Quảng Trị thuộc phường 2, thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị, cách quốc lộ 1A 2km về phía đông.
Đặc điểm: Thành được xây từ năm thứ 4 đời vua Minh Mạng (1824). Nơi đây đã từng đương đầu với khối lượng bom đạn khổng lồ của quân Mỹ vào năm 1972.
Thành có chu vi gần 2km, cao chừng 4m, dày khoảng 1 đến 2m. Thành có 4 cửa theo bốn hướng Ðông, Tây, Nam, Bắc. Bên ngoài chân tường có hào rộng chừng 18m.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, năm 1972 tại thành cổ Quảng Trị, quân Giải phóng Việt Nam đã phải đương đầu với khối lượng bom đạn khổng lồ của Mỹ - Nguỵ trút xuống thành cổ, với sức công phá tương đương 8 quả bom nguyên tử mà Mỹ đã thả xuống Hirosima (Nhật Bản) năm 1945. Các chiến sĩ quân Giải phóng Việt Nam vẫn kiên cường bám trụ bảo vệ thành cổ suốt 81 ngày đêm tới khi có lệnh rút quân, tạo thế thắng trên bàn đàm phán của quân và dân ta tại Hội nghị Pari.
Vị trí: Căn cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng nằm trong khu rừng tràm thuộc xã Mỹ Phước, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng. Ở cách huyện lỵ Mỹ Tú 13km (theo đường thủy), cách thành phố Cần Thơ 81km.
Đặc điểm: Căn cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng là một di tích cách mạng được xây dựng trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp.
Đặt rải rác trên khu vực rộng gần 100ha trong rừng tràm rộng đến 20.000ha, di tích được bao bọc bởi hệ thống sông ngòi chằng chịt, cây cối um tùm. Đây là vị trí chiến lược quan trọng của quân dân Sóc Trăng đã giữ vững trong suốt cuộc chiến chống Pháp và Mỹ.
Khu di tích có nhà hội trường trước năm 1968 được dựng bằng các loại cây tràm, lá dừa nước. Sau năm 1968, căn cứ tỉnh ủy được xây dựng lại kiên cố hơn. Hội trường được xây cất lớn hơn, khang trang hơn, cột, vì kèo bằng gỗ dầu vuông, mái lợp lá chẻ. Hai bên hội trường là bốn căn hầm nổi, hai căn hầm chìm được đúc bằng bê tông từ năm 1968. Cách hội trường 300m là hai căn hầm bí mật dành cho các đồng chí lãnh đạo. Bên cạnh hội trường là nhà làm việc của Bí thư, hàng trăm lán trại của ban tuyên huấn, dân vận, quân y, an ninh, tỉnh đội, điện đài, bảo vệ...
Hiện nay khu căn cứ tỉnh ủy chỉ còn lại nền hội trường, hồ chứa nước và hai hầm tránh pháo
Sơn La - Nhà Tù và Bảo tàng Sơn La
Nguồn: Maxreading
Thu gọn nội dung
Vị trí: Nhà tù và Bảo tàng Sơn La nằm ở thị xã Sơn La, tỉnh Sơn La.
Đặc điểm: Nhà tù Sơn La do người Pháp xây dựng năm 1908 trên đồi Khau Cả. Nơi giam giữ nhiều chiến sỹ cách mạng Việt Nam.
Ban đầu là một nhà tù nhỏ hàng tỉnh, được mở rộng quy mô vào những năm 1930 - 1940. Giai đoạn từ 1930 - 1945 tại đây giam cầm hơn một ngàn tù nhân, trong đó có nhiều vị là cán bộ chủ chốt của cách mạng Việt Nam như Lê Duẩn, Trường Chinh, Văn Tiến Dũng,
Lê Thanh Nghị, Nguyễn Lương Bằng, Song Hào, Xuân Thủy...
Đến với di tích Nhà tù Sơn La, thăm các xà lim ngầm, xà lim chéo, trại ba gian cùng với hàng trăm hiện vật, du khách sẽ chứng kiến hoàn cảnh sống cơ cực của tù nhân, càng khâm phục ý chí kiên cường của họ trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù dân tộc. Du khách sẽ không khỏi xúc động đứng trước cây đào mang tên Tô Hiệu, bên tường đá nhà ngục cây đào luôn xanh tươi - biều tượng cho ý chí bất khuất của người cộng sản.
Bên cạnh khu di tích nhà tù là Nhà Bảo tàng tổng hợp của tỉnh Sơn La, nơi trưng bày nhiều hiện vật quí giới thiệu truyền thống lịch sử, văn hoá của cộng đồng 12 dân tộc đoàn kết cùng nhau xây dựng Sơn La thành tỉnh giàu có của Việt Nam.Di tích nhà tù Sơn La được Bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng năm 1962. Hàng năm đón hơn trăm nghìn lượt du khách đến tham quan.
Thành cổ Quảng Trị - Di tích chiến tranh kiêu hùng
Nguồn: Maxreading
Thu gọn nội dung
Dòng sông Thạch Hãn hôm nay hiền hòa, xanh ngát, khác với hình dung của du khách về một con sông đỏ lượm màu máu của một thời lửa đạn, của 81 ngày đêm Thành cổ rung chuyển giữa mùa hè đỏ lửa năm 1972. Cách bờ sông Thạch Hãn 500m về phía Nam và chỉ cách Quốc lộ 1A 2 Km về phía Đông, di tích Thành cổ Quảng Trị được bảo tồn ngay trung tâm thị xã Quảng Trị anh hùng (khu phố 4, phường 2). Có thể nói, đây là điểm đến tiêu biểu nhất cho vùng đất du lịch được mệnh danh là “miền hồi tưởng” tỉnh Quảng Trị, với những địa danh lịch sử: đảo Cồn Cỏ, sông Bến Hải - cầu Hiền Lương, Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, Khe Sanh - Đường 9 Nam Lào...
Hơn hai thế kỷ trước, Thành cổ Quảng Trị là thành lũy quân sự của nhà Nguyễn. Thành Quảng Trị xây dựng từ đầu đời vua Gia Long (1802), nguyên gốc được đắp bằng đất theo dạng hình vuông, đến năm Minh Mạng thứ 18 (1837) mới xây bằng gạch. Đây là nơi để vua ngự mỗi khi đi tuần thú, nơi làm lễ thăng quan cho các đại quan cấp tỉnh và tổ chức các tiết lễ khác trong năm. Suốt gần 140 năm (1809-1945) dưới thời nhà Nguyễn, Thành cổ Quảng Trị là trung tâm kinh tế, chính trị, quân sự của tỉnh Quảng Trị và là thành lũy quân sự để bảo vệ kinh đô Huế ở phía Bắc. Tuy nhiên, đến thời Pháp thuộc, dinh lũy này được thực dân Pháp xây dựng thành nhà lao. Từ năm 1929-1972, nhà lao Quảng Trị là nơi giam cầm hàng ngàn sĩ phuyêu nước, chiến sĩ Cộng sản và cả những người dân vô tội.
Thời đánh Mỹ năm 1972, vùng đất Quảng Trị được xem là chiến trường khốc liệt nhất, nơi diễn ra những cuộc đụng đầu nảy lửa giữa ta và địch. Với địa thế vừa là bàn đạp để thực hiện âm mưu “Bắc tiến” khi có điều kiện, vừa là lá chắn bảo vệ “biên giới Hoa Kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17”, đây là chiến trường sinh tử đối với Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Sau hai cuộc tấn công bất ngờ và quả cảm của quân ta - bắt đầu từ giữa trưa ngày 30/3/1972, thị xã Quảng Trị được giải phóng vào chiều ngày 01/5/1972. Từ đây, bắt đầu 81 ngày đêm kiêu hùng của những chiến binh quả cảm của chúng ta với cuộc chiến không cân sức về khí tài trong lòng Thành cổ.
Để lấy lại tinh thần và gây sức ép với ta tại Hội nghị Paris, địch dốc toàn bộ lực lượng mở cuộc phản kích tái chiếm Quảng Trị với mục tiêu số một là chiếm lại tòa Thành cổ. Trong cuộc hành quân lấy tên “Lam Sơn 72” bắt đầu ngày 28/6/1972, địch đã huy động phản kích bằng máy bay phản lực, bình quân mỗi ngày 150-170 lần (có ngày 220 lần), 70-90 lần B52, 12-16 lần tàu khu trục hạm và tuần dương hạm thuộc Hạm đội 7 - Thái Bình Dương, hai sư đoàn dự bị chiến lược là Sư dù và thủy quân lục chiến, 4 trung đoàn thiết giáp - mỗi trung đoàn có 79 xe tăng và xe bọc thép... Đây là cuộc hành quân đẫm máu, cực kỳ tàn bạo với đủ loại vũ khí hiện đại: Từ bom phá, bom na-pan, bom lân tinh, bom bi, bom 7 tấn, bom điều khiển bằng la-de, đến các loại pháo chơm, pháo khoan, chất độc hóa học và hơi ngạt. Người ta đã ghi nhận được: Đêm 4/7, pháo đài bay B52 Mỹ đã ném 4.000 tấn bom, ngày 31/7, khoảng 2 vạn quả đại bác cỡ lớn từ 105-203mm đã rơi xuống vùng phụ cận và khu vực thị xã Quảng Trị. Báo chí phương Tây thời bấy giờ bình luận và so sánh số bom đạn Mỹ ném xuống chiến trường Quảng Trị khoảng 328 ngàn tấn, tương đương sức công phá của 7 quả bom nguyên tử ném xuống Hiroshima (Nhật Bản) năm 1945.
Trong lửa đạn khốc liệt ấy, Thành cổ Quảng Trị với chu vi hơn 2.160m là “túi bom” của kẻ thù. Chúng huy động tối đa lực lượng, phương tiện để chiếm bằng được Thành cổ vì đây là địa bàn chiến lược, có thể tạo sức nặng mặc cả với ta tại Hội nghị Paris. Không thể thống kê hết số bom đạn dội xuống mảnh đất này.
Thế nhưng, bom đạn không làm sờn lòng những chiến sĩ anh hùng - hầu hết đều rất trẻ. Các anh, anh dũng bám trụ giữ từng tấc đất Thành cổ. Trong một ngày, các chiến sĩ đã phải đánh địch phản kích từ 5-7 lần, có khi 13 lần. Cuộc chiến đấu ở đây đã diễn ra như một huyền thoại và cách đánh cũng vượt ra những qui ước thông thường với những tấm gương quả cảm: Phan Văn Ba nát một bàn tay vẫn xin ở lại, Hán Duy Long dùng trung liên kẹp nách truy kích diệt 58 tên địch, 3 lần bị thương vẫn giữ vững trận địa... Ở đây, lựu đạn phải để xì khói trên tay mới ném, phải trèo lên tường cao ném xuống hoặc bò sát miệng hầm của địch mà liệng vào... Cuộc chiến đấu anh hùng 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị kết thúc bằng thất bại của một đội quân xâm lược đông trên 5 vạn tên với thừa thãi sức mạnh bom đạn, một lần nữa làm sáng ngời chân lý: Kẻ xâm lược có vũ khí tối tân đến đâu cũng phải khuất phục trước những con người có ý chí thép gang, một lòng chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc.
Máu của chiến sĩ và đồng bào ta đã đổ xuống, tô thắm cho trang sử vẻ vang của dân tộc, để xanh ngời cỏ non Thành cổ hôm nay. Di tích Thành cổ hôm nay chỉ là một gian nhà truyền thống, những quả pháo nằm rải rác chung quanh một nấm mồ khổng lồ mang tính biểu tượng. Trong lòng nó chỉ vỏn vẹn cây súng và bộ quân phục giản đơn của người lính nhưng chất chứa biết bao suy tưởng. Đến Thành cổ, thắp một nén hương ở mảnh đất thiêng liêng ấy, chưa bao giờ bạn cảm nhận giai điệu bi tráng của hành khúc “Hồn tử sĩ” vang lên với nhiều cung bậc cảm xúc đến vậy!
Thái Bình - Khu di tích các vua Trần
Nguồn: Maxreading
Thu gọn nội dung
Vị trí: Khu di tích các Vua Trần thuộc xã Tiến Đức và xã Liên Hiệp, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
Đặc điểm: Khu di tích nhà Trần đã được Nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa di tích khảo cổ học cấp quốc gia.Nó chẳng những thu hút các nhà nghiên cứu sử học, các nhà văn hóa mà còn là một điểm du lịch có giá trị đặc biệt, là nơi liên quan đến cội nguồn dân tộc luôn luôn hấp dẫn du khách trong và ngoài nước về thăm.
Mảnh đất Hưng Hà - Thái Bình là nơi chứa đựng những dấu ấn lịch sử gắn chặt với triều đại nhà Trần (1226 - 1400), các vua khai sáng nhà Trần đều được sinh ra tại đây, gia tộc nhà Trần dựa vào đây dấy nghiệp. Khi đã thành vương triều Trần, vùng đất này được chọn làm nơi xây dựng các đền thờ, lăng tẩm của Hoàng tộc nhà Trần.
Nơi đây có di chỉ khảo cổ mộ các vua Trần (xã Tiến Đức); khu lăng mộ thái sư Trần Thủ Độ, đình Khuốc, đình Ngừ thờ thái sư, mộ và đền thờ Linh từ quốc mẫu Trần Thị Dung (xã Liên Hiệp); Tam đường - là nơi lưu giữ hài cốt của các tổ tiên triều Trần như: Thuỷ tổ Trần Kinh, thái tổ Trần Hấp, nguyên tổ Trần Lý, thái thượng hoàng Trần Thừa ... Các hoàng đế nhà Trần như Trần Thánh Tông, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông cùng các hoàng hậu sau khi qua đời đều được quy về hợp táng tại các lăng mộ có tên Thọ lăng, Chiêu lăng, Dự lăng, Quy đức lăng...
Cùng với lăng mộ, nhà Trần còn cho xây dựng các cung điện như điện Tịnh Cương, điện Hưng Khánh, điện Thiên An, điện Diên Hiền.
Lịch sử Việt Nam thế kỷ 13, 14 (từ 1226 - 1400) gắn liền với công lao và sự phát triển rực rỡ của vương triều nhà Trần. Những chiến công lừng lẫy của 3 lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông, cùng với các cuộc chinh phạt quân Chiêm Thành phía Nam đã làm cho khoa học và nghệ thuật quân sự của triều Trần đạt được những thành tựu vượt bậc. Dưới đời Trần, các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội đều phát triển cao, tạo nên nền văn hóa đặc sắc của nước Đại Việt thời Trần. Tên tuổi của các vị vua Trần cùng các chiến thắng Đông Bộ Đầu, Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết, Bạch Đằng ... mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.Bởi những ý nghĩa và giá trị văn hóa lịch sử quý giá trên, khu di tích nhà Trần thuộc xã Tiến Đức, xã Liên Hiệp đã được Nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa di tích khảo cổ học cấp quốc gia. Vì vậy, nó chẳng những thu hút các nhà nghiên cứu sử học, các nhà văn hóa mà còn là một điểm du lịch có giá trị đặc biệt, là nơi liên quan đến cội nguồn dân tộc luôn luôn hấp dẫn du khách trong và ngoài nước về thăm.
Thái Nguyên - ATK - An toàn khu kháng chiến
Nguồn: Maxreading
Thu gọn nội dung
Vị trí: ATK thuộc xã Phú Đình, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.
Đặc điểm: Đây là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã sống và làm việc từ 1947 - 1954 để lãnh đạo cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp.
Ðiểm di tích lịch sử ATK này đã được Nhà nước xếp hạng quốc gia năm 1981.
Hiện nay, ATK còn nhiều di tích về nơi ở và làm việc của Bác như nền nhà, hầm làm việc, cây râm bụt Bác trồng, phiến đá Bác thường nằm nghỉ trưa... ATK là nơi ghi lại nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc. Ngày 6/12/1953, tại đồi Tỉn Keo, Bộ Chính trị BCH TW đã họp thông qua kế hoạch tác chiến - tấn công chiến lược Ðông Xuân 1953- 1954 để làm nên chiến thắng Ðiện Biên Phủ lẫy lừng, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ của dân tộc. Nhiều sắc lệnh quan trọng của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được ký ban hành tại đây, trong đó có luật về nghĩa vụ quân sự, sắc lệnh tổng động viên... về giảm tô và cải cách ruộng đất... Thủ đô ATK cũng là nơi diễn ra các hoạt động ngoại giao của nước ta thời ấy.
Năm 1990 tại đồi Tỉn Keo, tỉnh Thái Nguyên đã xây bia tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, phòng trưng bày di tích lịch sử, nhà khách... Tại trung tâm xã Phú Ðình cũng đã xây dựng nhà truyền thống, giới thiệu trưng bày nhiều hiện vật quý.
Bên cạnh các di tích chính như đồi Tỉn Keo, Khuôn Tát, Nà Nom... cụm di tích ATK còn nhiều địa danh đi vào lịch sử như: đèo De, núi Hồng, nhà ông Cao Nhật - một trong những cơ sở cách mạng đầu tiên của Xứ ủy Bắc Kỳ thời kỳ 1939 -1945; rừng Mấn - nơi đặt trạm liên lạc của Xứ uỷ Bắc Kỳ và là nơi mở lớp huấn luyện chính trị, quân sự của Ðảng, đồng chí Trường Chinh, Tổng bí thư của Ðảng khi đó và đồng chí Hoàng Quốc Việt từng qua lại hoạt động ở đây; chùa Mai Sơn - nơi Xứ uỷ Bắc Kỳ đặt nhà in đặc biệt, in báo Cờ giải phóng và nhiều tài liệu quan trọng; đình Kha Sơn - nơi thành lập chính quyền cách mạng đầu tiên của xã... Tất cả những di tích lịch sử này đều đã được xếp hạng quốc gia.
Ðến với ATK, du khách có thể trở về với một vùng chiến khu xưa, để có thể hiểu biết thêm về hoạt động của những người con đất Việt đã hiến dâng cho sự nghiệp bảo vệ đất mẹ yêu quý.
Bảo tàng có tổng diện tích khoảng 39.000m2 với hơn 3.000m2 sử dụng cho khu trưng bày, kho bảo quản hiện vật và các hoạt động khác.
Hiện nay, Bảo tàng lưu giữ hơn 20.000 đơn vị tài liệu hiện vật gốc quý hiếm thuộc di sản văn hoá của 54 dân tộc Việt Nam.
Hệ thống trưng bày gồm 6 phòng, mỗi phòng sử dụng gần 2.000 đồ vật gồm các đơn vị hiện vật gốc, ảnh và tài liệu khoa học bổ trợ.
- Phòng mở đầu: khái quát đặc trưng văn hoá các dân tộc Việt Nam.
- Phòng Việt - Mường gồm dân tộc: Việt, Mường, Thổ, Chứt.
- Phòng Tày - Thái gồm các dân tộc: Tày, Nùng, Thái, Lào, Lự, Sán Chay, Bố Y.
- Phòng Mông - Dao và nhóm Nam á khác gồm dân tộc: H'Mông, Dao, Pà Thẻn, La Chí, La Ha, Cờ Lao, Pu Péo.
- Phòng Môn - Khmer gồm các dân tộc: Khơ Mú, Mảng, Kháng, Xinh Mun, Ơ Đu, Khmer, Ba Na, Xơ Đăng, Cơ Ho, Hrê, M;Nông, Xtiêng, Bru-Vân Kiều, Cờ Tu, Giẻ Triêng, Mạ, Co, Tà Ôi, Chơ Ro, Brâu, Rơ Măm.
- Phòng Hán - Hoa, Tạng Miến, Mạ, Ô-Pô-li-nê-di gồm các dân tộc: Hoa, Ngái, Sán Dìu, Hà Nhì, La Hủ, Phù Lá, Lô Lô, Cống, Si La, Gia Rai, Ê Đê, Chăm, Ra Glai, Chu Ru.
Ngoài ra, bảo tàng còn có một khu trưng bày ngoài trời hấp dẫn. Bảo tàng đã thu hút nhiều du khách trong nước, ngoài nước và kiều bào đến thăm quan, tìm hiểu bản sắc văn hoá các dân tộc Việt Nam.
Thái Nguyên - Du ngoạn động chùa Hang
Nguồn: Maxreading
Thu gọn nội dung
Qua TP. Thái Nguyên du khách đi bộ 4km đến ngã tư Chùa Hang, rẽ trái 200m tới quần thể di tích thắng cảnh Chùa Hang và ba ngọn núi đá dài khoảng gần nghìn mét ở thị trấn Chùa Hang, huyện Đồng Hỷ.
Chùa Hang còn gọi là "Tiên Lữ Động" nằm trong núi Chùa Hang. Từ xưa sách An Nam chí viết: "Núi Long Tuyền ở Đồng Hỷ rộng rãi, có thể chứa hơn 300 người, trong núi có đền thờ Phật Thích Ca và các vị phật tổ, có một cái lỗ nước trong chảy thành ao, có rất nhiều cá".
"Nhân động làm chùa" kết hợp kiến trúc thiên tạo với văn hoá tâm linh khiến cho di tích trở nên độc đáo, linh thiêng, huyền ảo. Cửa động (chùa) có hai câu đối cổ: Phong cảnh thiên nhiên duy đệ nhất/Danh lam nhân tạo nhị vô song. (phong cảnh thiên nhiên đẹp vào bậc nhất/Danh lam do con người tạo ra thì đẹp cũng không kém) và đôi liễn thê: Cảnh sắc quang thiên địa/Cương thường tại cổ kim (Cảnh sắc sáng một vùng trời đất/Cương thường, đạo lý vẫn sáng cả xưa nay).
Du khách bị cuốn hút ngay từ cửa động, tượng hộ pháp ông Khuyến Thiện cưỡi voi và ông Trừng Ác cưỡi hổ, tạo sự đường bệ, uy nghi. Vòm hang mở rộng lô nhô chùm nhũ đá, hình mây già vờn trên trần hang, đá quái chơi vơi, những cột đá ba người ôm không xuể... Tượng Phật Adiđà cao trên 3m, ngự trên toà sen, hai tay xếp bằng kết ấn thiền định, khuôn mặt nhân từ, mình mặc cà sa.
Hình dáng Phật tổ, nhưng trên đầu đội lá sen lớn, biểu đạt chùa Hang thờ vị Tiên nữ trong truyền thuyết "Tiên Lữ Động". Với nhũ đá hình ông Bụt ốc, cột đá to hình Lin ga, biểu tượng Đường Tăng đi lấy kinh... Dùng đèn pin, đèn ắcquy, du khách ưa mạo hiểm có thể khảo sát đường "lên trời", xuống "âm phủ" dài trên trăm mét, từ đây luồn ngoằn ngoèo trong lòng núi đá chùa Hang với các ngách thông gió, chiếu sáng, tạo cho động mát mẻ, trong lành, thách thức du khách. Thật hiếm di tích danh thắng có sự giao thoa âm hưởng văn hoá vật thể với phi vật thể kỳ thú đến vậy!
Núi đá Chùa Hang dài gần nghìn mét, đỉnh núi cao cách chân núi khoảng 100m, có ba ngọn nối tiếp qua yên ngựa, gợi bức tranh hùng vĩ. Đặc biệt có ngọn núi tách hẳn ra như một tảng đá khổng lồ tựa như tháp nghiêng Pisa (Italia), xung quanh nhiều phản đá, mỏm đá nom như vịnh Hạ Long trên cạn rất tiện bám ngồi, leo núi, ngắm cảnh.
Du khách còn được Ni trưởng Thích nữ Đàm Hinh (92 tuổi) làm lễ cho. Nhà sư có công bảo vệ, phát huy giá trị động Chùa Hang với nhiều việc tốt đời, đẹp đạo: Gần 100 ngôi chùa, phòng học, trạm xá, trạm biến áp, cầu treo, đường sá, chuông đồng và tượng Bác Hồ được tăng ni, phật tử tâm đức góp sức, tiền của tạo dựng; vào đầu xuân 2005 đã hiến 10 tấn đồng đúc chuông chùa Cổ Lễ (Trực Ninh - Nam Định). Chuông cao 4,2m, rộng 2,2m, dày 4cm, nặng 9 tấn đồng và trị giá 1,3 tỉ đồng... một kiệt tác trong kỷ lục Guinness Việt Nam.
Vị trí: Toà thánh Cao Đài được xây dựng tại làng Long Hoa, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh, cách thị xã Tây Ninh 4km về phía đông nam.
Đặc điểm: Ðạo Cao Ðài ra đời vào năm 1926 ở Tây Ninh. Tòa thánh Cao Đài là một công trình kiến trúc nghệ thuật nổi tiếng, được bắt đầu xây dựng vào khoảng năm 1926.
Toà thánh toạ lạc trong một khuôn viên rộng khoảng 1km². Nổi bật trong quần thể kiến trúc là đền Thánh, với những đặc trưng tiêu biểu cho kiến trúc đền, chùa của tôn giáo Cao Đài. Công trình thể hiện sự hài hoà giữa mỹ thuật kiến trúc Á Đông và Phương Tây. Với các vòm mái và hoa văn trang trí khéo léo, tinh xảo thể hiện tinh thần tam giáo.
Tại đây còn có một số kiến trúc đẹp và kì vĩ khác nằm trong quần thể như cổng Chánh môn, các tháp mộ, đền thờ Phật Mẫu. Ðặc biệt là Bá huê viên với nhiều cây cảnh, nhiều loại hoa và cỏ lạ. Lễ hội lớn nhất hàng năm diễn ra nơi đây là vía Ðức Chí Tôn (ngày 9 tháng giêng âm lịch). Lễ hội đậm đà bản sắc dân tộc và cuốn hút hàng vạn du khách từ mọi miền đất nước về dự và chiêm bái thưởng ngoạn cảnh quan. Du khách có dịp đi chợ Long Hoa, một chợ lớn nhất Tây Ninh, có bán các thực phẩm chay phong phú, đa dạng và bạn sẽ được thưởng thức những món ăn "chay giả mặn" thật độc đáo, khéo léo và ngon miệng.Biểu tượng của đạo Cao Ðài là Thiên Nhãn. Ngoài việc thờ Thiên Nhãn, đạo Cao Ðài còn thờ Phật Thích Ca, Phật Bà Quan Âm, Chúa Giê-su, Khổng Tử, Lão Tử,...