Lương Sơn Bạc  
Trang chủ Lương Sơn Bạc  Lương Sơn Diễn Đàn  Nơi Lưu Trữ: Truyện Ngắn, Truyện Dài, Bài Viết, Nhân Vật, Sách Lịch Sử, Sách Dạy Võ Thuật...   Xem hình thành viên và hình các buổi giao lưu LSB   Nơi Lưu Trữ: Cổ Thi VN, Cổ Thi TQ, Thơ Mới & Các Tuyển Tập Thơ
Quay Lại   Lương Sơn Bạc > Kim Ngư Thành > Quảng Kiến Đài > Đông Tây Nhân Vật Chí
Thành viên
Mật khẩu
Những câu hỏi thường gặp Danh sách các thành viên LSB  Lương Sơn Thương Quán
Đông Tây Nhân Vật Chí Luận bàn về những nhân vật nổi tiếng và tai tiếng...

Trả lời
 
Tiện ích Chế độ hiển thị
Cũ 17-07-2009   #82
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.196.125
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
81. Phaolô Nguyễn Văn Mỹ (1798 – 1838)

Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, Sinh năm 1798 tại Kẻ Non, Hà Nam, Thầy giảng, bị xử giảo ngày 18 tháng 12 năm 1838 tại Sơn Tây dưới đời vua Minh Mạng. Đức Lêô XIII suy tôn ba thày Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, Phêrô Trương Văn Đường và Phêrô Vũ Truật lên bậc chân phước ngày 27-05-1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 18/12

Ba thày giảng cùng bị bắt một ngày, cùng bị giam một nơi, cùng tử đạo một giờ, cùng được suy tôn Chân Phước và Hiển Thánh một lượt là các thày: Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, 40 tuổi; Phêrô Trương Văn Đường, 30 tuổi và Phêrô Vũ Truật, 21 tuổi.


Thánh Phaolô NGUYỄN VĂN MỸ - Thày giảng - (1798 – 1838)

Là người lớn tuổi nhất, thày Phaolô Mỹ như người anh cả, và là chỗ dựa cho hai thày giảng cùng bị giam chung. Trong một lá thư gửi cho thừa sai Marette, thày Đường viết : "… Từ ngày được diễm phúc chịu khó vì đức tin, thày Mỹ thay chúng con vẫn viết thư cho cha. Vì chúng con coi thày như thay mặt cha ở giữa chúng con…"

Phaolô Nguyễn Văn Mỹ chào đời năm 1798 ở làng Kẻ Non, còn gọi là Sơn Nga, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Tên thật của cậu là Nguyễn Văn Hữu. Năm 13 tuổi, được phép cha mẹ, cậu Mỹ theo giúp việc Đức cha Giacôbê Longer Gia rồi sau giúp cha Luật xứ Kẻ Đầm bốn năm. Đến năm 19 tuổi, cậu theo học tại chủng viện Kẻ Vĩnh (Vĩnh Trị).

Khi làm thày giảng thực thụ, thày Mỹ được gửi đến giúp thừa sai Marette. Ít lâu sau, Đức cha Harvard Du giám quản giáo phận Tây Đàng Ngoài, đã chọn thày phụ giúp linh mục Cornay Tân, xứ Bầu Nọ, tỉnh Sơn Tây. Nhiều kinh nghiệm và khả năng, thày Mỹ đã hỗ trợ đắc lực cho vị thừa sai trẻ tuổi nhiệt thành, nhưng thường đau ốm nặng nề này. thày Mỹ luôn hoàn thành công tác mục vụ một cách chu đáo: Từ giảng lý tân tòng và trẻ em, đến khuyên bảo tội nhân hối cải. Khi tình hình cấm đạo lên cao độ, thày là vị tông đồ nhiệt thành và hữu hiệu, đi thăm từng gia đình để khích lệ các tín hữu sống đức tin, và còn hơn thế, được nhiều người ngoại giáo về đón nhận niềm tin Kitô giáo.

Thánh Phêrô TRƯƠNG VĂN ĐƯỜNG - Thày giảng - (1808 – 1838)

"Nhất định chúng tôi không đạp lên ảnh chuộc tội, vì như vậy là chọn cái chết đời đời cả linh hồn lẫn xác".

Lời nói trên cho ta thấy tâm tình của thánh Phêrô Đường, vị thày giảng đã hơn 20 năm dâng mình cho Chúa, để tìm kiếm hạnh phúc đích thực cho chính mình và ta nhân.

Sinh năm 1808 ở làng Kẻ Sở, xã Ninh Phú, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Gia đình Phêrô Đường tuy nghèo nhưng nổi tiếng thánh thiện. Được cậu là linh mục Trương Văn Thi phụ trách xứ Sông Chảy đỡ đầu, nên ngay khi chú Đường mới 9 tuổi, cha Phương xứ Yên Tập đã nhận khai tâm cho chú vào đời sống tu trì. 15 tuổi, anh Phêrô Đường đã được gủi đến giúp xứ Bầu Nọ dưới quyền thừa sai Marette. Với sự khích lệ của cha, anh chuyên tâm học chữ Hán và Latinh để chuẩn bị cho tương lai.

Khả năng và nhân cách của anh Phêrô đường được xác nhận ngay năm sau. Anh được Đức cha Havard Du nhận vào bậc thày giảng dù mới 16 tuổi, thày giảng trẻ tuổi nhất. Thày tiếp tục giúp xứ Bầu Nọ thời cha Cornay Tân, cho đến ngày bị bắt. Tính tình vui tươi, hiền lành, thày được mọi người trong xứ mến chuộng.

Thánh Phêrô VŨ TRUẬT - Thày giảng - (1817 – 1838)

Thày Phêrô Vũ Truật, 21 tuổi, đáng lưu danh muôn thuở cho câu nói bất hủ, trả lời lại những viên quan chê dại dột lãng phí tuổi thanh xuân : "Chưa chắc là tôi dại. Ai khôn mới biết hiến mình cho chân lý, để chiếm hữu phần gia nghiệp muôn đời".

Phêrô Vũ Truật sinh năm 1817 ở làng Hà Thạch, họ Kẻ Thiếc, huyện Sơn Vy, trấn Sơn Tây. Gia đình anh rất nghèo, cha chết sớm, vốn liếng lại chẳng có, mẹ anh phải đầu tắt mặt tối suốt ngày,để nuôi ba con dại, nên Phêrô Truật không được đi học và gầy yếu xanh xao.

Tuy nhiên, anh Truật có lòng đạo đức, thường lui tới nhà thờ kinh lễ, nên được cha Tân chánh xứ Bầu Nọ chọn vào phục vụ những việc nhẹ trong xứ và tạo điều kiện cho ăn học. Dầu thế mặc lòng, anh Truật cũng chẳng bằng ai, phần trí khôn hơi chậm, phần hay bị đau ốm luôn, anh chỉ có thể biết đọc biết viết sơ sơ. Bù lại, anh rất thuộc kinh, nên đặc trách việc dạy kinh truyền khẩu cho các thiếu nhi nhỏ tuổi.

Mãi đến khi bị bắt giam trong ngục tù rồi, Đức cha Havard Du mới chứng nhận anh là thày giảng, vừa để lòng tin làm chứng cho đức tin. Thày Truật tuy không còn cơ hội để giảng bằng lời nói, nhưng thái độ kiên tín của thày chính là lời giảng có sức thuyết phục hơn nhiều.

Ba tấm lòng vàng

Ở Bầu Nọ có người ngoại giáo tên Đức cầm đầu một băng cướp đã bị bắt. Để nhẹ tội, y nói với vợ là Yến vu oan cho cha Cornay Tân tội tổ chức phản loạn. Chị ta liền giả vờ đến xin học đạo để dò xét những nơi cha thường trú ẩn. Khi biết được, chị ta liền giấu vũ khí trong vườn nhà cha, rồi đi mật báo cho các quan tỉnh Sơn Tây.

Ngày 20-6-1837, quan Sơn Tây phái 1500 quân lính đến làng Bầu Nọ, bắt linh mục Tân. Hai thày Mỹ và Đường cũng như anh Truật ngồi lẫn vào đám đông dân chúng bị tập trung nơi đình làng. Lính lục soát từ sáng tới trưa vẫn không thấy cha Tân đâu cả. Bà Yến liền bày cho họ bắt anh Truật và hai thày Mỹ, Đường, là những người thân thiết với cha xứ để tra hỏi.

Chiều hôm đó, lính phát hiện được cha đang ẩn trong bụi rậm. Nhưng để có thêm nhân chứng ghép tội cha, ba vị phụ tá này cũng bị áp giải với ngài hơn sáu dặm đường, về nhà lao tỉnh Sơn Tây. Tại công đường, ba vị đã khéo léo minh chứng cha xứ không theo giặc nổi loạn, và giải thích những lời đồn đại sai về đạo. Thí dụ quan hỏi : "Sao các ông móc mắt người chết để luyện bùa phép ?" Thày Mỹ trả lời : "Không lẽ quan tin những lời đồn đãi vô lý đó sao ? Bởi nếu chúng tôi làm như thế, cha mẹ vợ con họ đâu để cho chúng tôi yên. Vậy mà chúng tôi vẫn ra vào nhà họ, gặp gỡ thân ái và vui vẻ"

Các cuộc thẩm vấn thường đi liền với những tra tấn dã man. Đây là chứng thư của thày Mỹ: "Lính lột áo chúng tôi ra, bắt chúng tôi nằm xuống lấy dây thừng cột tay chân, rồi kéo căng cột vào bốn góc, nguyên sự căng nọc cũng làm chúng tôi đau đớn vô cùng, thế rồi họ bắt đầu đánh đòn… Cuối cùng họ không đánh bằng một chiếc roi nữa mà là cả bó. Mỗi lần đánh hằng trăm đầu roi mây in lằn trên da thịt chúng tôi, tạo nên nhiều vết thương đẫm máu…"

Riêng thày Truật vì ốm yếu nên được đeo gông nhẹ hơn và bị ít đòn hơn. Nhưng sau mỗi kỳ tra tấn cả ba người đều bị kiệt sức, phải khiêng về ngục thất. Ngày 20-9, lính canh tù loan tin cha Tân đã bị trảm quyết, và khuyên các thày bỏ đạo cả ba vị cùng nói : "Chúng tôi mừng vì thày chúng tôi được tử đạo, chúng tôi nguyện theo gương Ngài."

Giai đoạn này thày Mỹ ghi lại một lá thư : "Suốt bốn tháng liền chúng tôi bị gông cùm xiềng xích, chịu lính canh ngược đãi, phòng giam ẩm thấp hôi hám, ruồi muỗi tự do hoành hành, trên người thì đầy những vết thương bị tra tấn."

Tháng 10 bản án tỉnh Sơn Tây tâu vua Minh Mạng được chuẩn phê và gởi về. Nhưng thay vì giết ngay bản án quyết định "giam hậu" nghĩa là khoan xử chờ quyết định mới, bề ngoài có vẻ nhân đạo, nhưng thật ra bên trong rất thâm độc. Với thời gian nhiệt tình ban đầu có nguy cơ phai nhạt, vì tử tội luôn bị ám ảnh đến chuyện phải ngồi tù không biết đến bao giờ. Đàng khác sự chịu đựng con người có hạn, quá khổ đau, quá mòn mỏi, quá thất vọng, con người dễ bị lung lạc và dễ bị thay đổi ý định. Thực tế ba thày giảng phải chờ thêm 14 tháng, vị chi tất cả là một năm rưỡi bị giam cầm. Nhưng suốt thời gian bị giam cầm thử thách lâu dài đó, ba thày vẫn gắn bó với nhau trong nhẫn nại, can đảm và giữ mãi phúc tử đạo, mỗi sáng cũng như mỗi tối, các thày lớn tiếng đọc kinh Mân Côi chung, cầu nguyện chung, các đồ ăn thức uống, thuốc men nhận được ba vị chia sẻ cho lính canh, ai đến thăm đều được khuyên nhủ : "Anh em hãy sống hòa thuận với mọi người trong gia đình, làng nước, hãy là giáo hữu nhiệt thành, vì đời sống trần gian chẳng là bao. Chúng tôi đã vâng theo ý Chúa định đoạt, hy vọng mai này chúng ta sẽ đoàn tụ trên Nước trời"

Cha Triệu giả làm thường dân mang Mình Thánh Chúa cho các thày, đó quả là hồng phúc lớn lao. Ta thử đọc tâm sự của thày Đường gởi cho cha Marette trong thư : "Hôm nay là ngày trọng đại chúng con được rước Mình Thánh Chúa. Xin tạ ơn Chúa đã viếng thăm và làm vơi nhẹ những xiềng xích của chúng con… cửa Thiên Đàng đã gần kề, nghĩ đến hạnh phúc đang chờ đợi, chúng con chẳng còn ước ao sự gì khác nữa…"

Cùng Chiến Thắng Vinh Quang

Năm 1838, triều đình duyệt lại bản án và chỉ thị cho quan tỉnh Sơn Tây thi hành. Ngày 18-12 ba chứng nhân anh dũng bị điệu ra pháp trường ở Gò Vôi làng Mông Phụ, tỉnh Sơn Tây. Mỗi người mang trên ngực tấm thẻ ghi tên họ, nguyên quán, tội theo đạo Giatô, đã thú nhận, truyền xử trảm. Trên đường đến nơi hành quyết, như đã hẹn trước ba thày cùng làm dấu khi thấy cha Triệu đứng giữa dân chúng ban phép lành tha tội. Một người lính cho các Ngài uống rượu, ba vị cám ơn, uống nước trà và nói : "Thày giảng chúng tôi kiêng rượu như kiêng sắc dục và kiêng phản bội."

Đến nơi xử, ba thày nằm dài trên chiếu, quân lính quây thành một vòng tròn lớn, để ngăn cản dân chúng. Từng vị một bị trói chân vào cột và trói chéo tay ra sau lưng. Dây thừng tròng sẵn vào cổ. Giữa tiếng chiêng trống vang rền, theo lệnh quan mỗi tên lính nắm chặt đầu dây xiết thật căng, chờ tới khi tất cả tắt thở, máu ứa ra miệng. Sau đó lấy lửa đốt gan bàn chân để xác nhận các tử tội đã chết thật rồi. Cha Marette và giáo dân đưa thi hài ba thày về họ Kẻ Măng gần đấy tẩm liệm. Ngài dâng lễ cầu hồn tạ ơn Chúa đã cho các bậc tôi trung thắng trận khải hoàn.

Đức Lêô XIII suy tôn ba thày Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, Phêrô Trương Văn Đường và Phêrô Vũ Truật lên bậc chân phước ngày 27-05-1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.

Trường thi tử Đạo.

Thầy giảng Phaolô Nguyễn Văn Mỹ
Sinh Mậu Ngọ (1798) tỉnh lỵ Hà Nam
Giúp cha chu đáo thầy làm
Giảng rao lời Chúa toạ đàm tuyên xưng

Phaolô Mỹ Tin mừng rao giảng
Dám cả gan bội phản lệnh vua
Thừa sai Tây đến vào hùa
Trên đường lẩn trốn lính lùa bắt giam

Thầy được chọn lên làm Linh mục
Chúa quan phòng lãnh phúc hy sinh
Lệnh vua kết án tử hình
Thầy là Kẻ giảng gia đình trưởng nam

Khi quân lính vây làng Bầu Nọ
Báo cho nhà Cố trọ trốn đi
Mang đồ đạo giấu cấp kỳ
Các Thầy Kẻ giảng cùng đi đình làng

Xét lý lịch nghi can lục soát
Ðã tưởng chừng như thoát lưới thưa
Có bà tên Yến đứng thưa
Chỉ mặt Thầy Mỹ, dây dưa Truật, Ðường

Ba Thầy bị đả thương dở chết
Dù đòn roi bê bết không khai
Ðến chiều lính bắt Cố Ngài
Thầy trao đồ đạo một vài món thôi

Các Thầy phải liên hồi phơi nắng
Suốt ba ngày mang nặng gông xiềng
Sơn Tây đi bộ triền miên
Trên đường đói khát tối liền cùm chân

Nhốt ngục tối nhiều lần tra hỏi
Cả ba Thầy chẳng nói điều chi
Giảng rao lời Chúa thực thi
Chúng tôi cương quyết không gì đổi thay

Quan tức giận lột ngay quần áo
Trói giang tay nằm ráo dưới nhà
Ðánh đòn dọa nạt khảo tra
Bằng roi có móc thật là dã man

Sau trận đánh thịt tan xương nát
Nát như tương chẳng khác tổ ong
Ngón tay co rút cong cong
Lính khiêng bỏ lại nhốt trong nhà tù

Không tiếng nói êm ru ngục thất
Mở miệng ra chẳng nấc nên lời
Khò khè thở chẳng ra hơi
Quan quân ép buộc nhận lời trái sai

Chúng dụ dỗ nói hoài không đạt
Ðã đổi chiều bài bác Thánh Kinh
Hỏi han thế giới vô hình
Mai sau hỏa ngục luyện hình thấy chưa

Ðang khốn khổ sớm trưa liên tục
Có phải đây hỏa ngục trần gian
Chốn nào là nước Thiên Ðàng
Vua quan đang ngự huy hoàng phải không

Ðâu có thưởng kẻ gông đeo cổ
Chết nát thây chôn chỗ pháp trường
Theo tả đạo chốn viễn phương
Cải tà quy chánh pháp trường quan tha

Ba Thầy nói quan đà vô phúc
Phá đạo trời hỏa ngục trầm luân
Vua quan xuống đấy lãnh phần
Lý hình cứ xử chẳng cần thứ tha

Giữa pháp trường ta là lính Chúa
Người Tông đồ chan chứa ơn lành
Sẵn sàng vì Chúa vinh danh
Lệnh vua xử giảo nguyên lành xác thân

Lễ an táng thuộc phần giáo xứ
Tại Cao Mại nghĩa cử hương trầm
Các Cha tham dự âm thầm
Chôn gian nhà cuối thành tâm gia đình

Một bà góa nghĩa tình tên Tín
Bảy tháng sau thầm kín về Non
Như lời trăn trối lúc còn
Hồng ân tử đạo là con dân làng

Năm Mậu Tuất (1838) vẻ vang tử đạo
Ba chứng nhân giữ đạo đến cùng
Linh hồn về chốn thiên cung
Suy tôn Canh Tý (1900) vui chung Nước Trời

Lời bất hủ: Thầy Mỹ luôn hoàn thành công tác mục vụ một cách chu đáo, từ dạy giáo lý cho các tân tòng và trẻ em, đến khuyên bảo các tội nhân ăn năn hối cải.Nói về Thầy Mỹ, thầy Ðường viết: "Từ khi được diễm phúc chịu khó vì Ðức Tin, thầy Mỹ vẫn thay chúng con viết thư cho Cha (thừa sai Marette). Vì chúng con coi thầy Mỹ như thay mặt Cha ở giữa chúng con". Lần khác, quan tra hỏi và vu khống cho đạo, thầy Mỹ trả lời: "Không lẽ quan tin những lời đồn đại vô lý đó sao? Bởi vì chúng tôi làm như thế, cha mẹ, vợ con họ đâu để chúng tôi yên. Vậy mà chúng tôi vẫn ra vào nhà họ, gặp gỡ thân ái và vui vẻ".

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #83
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.196.125
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
82. Phaolô Nguyễn Ngân (1790-1840)

Phaolô Nguyễn Ngân, Sinh năm 1790 tại Kẻ Bền, Thanh Hóa, Linh mục, bị xử trảm ngày 8/11/1840 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng. Đức Lêo XIII suy tôn ba linh mục Giuse Nguyễn Đình Nghi, Phaolô Nguyễn Ngân và Martinô Tạ Đức Thịnh lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên hàng Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 8/11.

Thánh Phaolô NGUYỄN NGÂN - Linh mục - (1790 – 1840)

Điều bận tâm nhất trong đời linh mục của thánh Phaolô Ngân là theo gương Đức Giêsu, vị mục tử nhân hiền. Trong thời bách hại, cha thường than với mọi người rằng: "chủ chăn khó đi tìm chiên lạc, khó biết tin từng con một quá…". Cha thường tỏ ra tiếc vì hoàn cảnh không săn sóc kỹ lưỡng từngn tín hữu của mình được. Phaolô Nguyễn Ngân sinh năm 1790 tại họ Cự Khanh, tỉnh Thanh Hóa. Cậu đi tu từ nhỏ, đến khi vào chủng viện thì học cùng lớp với cha Nghi. Sau khi thụ phong linh mục, cha về giúp xứ Phúc Nhạc, phu6 trách luôn họ Duyên Mậu và các họ lẻ chung quanh. Được ít lâu cha bị sốt rét nên phải nghỉ và dạy học ở chủng viện Vĩnh Trị được bẩy năm. Khi khỏi bệnh, cha phụ trách xứ Trình Xuyên ba năm nữa. Cuối cùng về làm phó xứ Kẻ Báng giúp cha Nghi mới được khoảng một năm thì bị bắt.

Thánh Giuse NGUYỄN ĐÌNH NGHI - Linh mục - (1793 – 1840)

Đọc lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu theo thánh Gioan, ta thấy : khi thuộc hạ các thượng tế đến bắt Đức chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu, ngài nói với họ : "Tôi đã bảo với các anh là chính tôi đây. Vậy nếu các anh tìm bắt tôi thì hãy để cho những người này đi".

Thế là ứng nghiệm lời Ngài đã nói : "Những người cha đã trao phó cho con, con không để thất lạc một ai"(Ga. 18, 8-9). Đó là điều cha Giuse Nguyễn Đình Nghi hằng suy niệm trong thời bách hại. Lúc nào trong người cha cũng mang sẵn một vài nén bạc, để nếu bị bắt ở nhà người khác thì có tiền chuộc chủ nhà. Cha sẵn sàng hy sinh tử đạo nhưng không muốn liên lụy đến ai.

Giuse Nguyễn Đình Nghi sinh năm 1793 tại xứ Kẻ Vồi, huyện Thượng Phúc, nay thuộc Hà Nội, trong một gia đình trung lưu. Ngay từ nhỏ, cậu Nghi đã dâng mình cho Chúa, sống với cha Liêm ở xứ Kẻ Vồi. Học xong trường thày giảng, thày lại trở về giúp xứ nhà. Các cha thấy thày thông minh hiền hậu, nên cho theo thần học, và năm 30 tuổi, thày Nghi thụ phong linh mục. Đức cha Havard Du bổ nhiệm cha làm phó xứ Sơn Miêng một năm, phó xứ Kẻ Vạc bốn năm, rồi phụ giúp cha Khoan ở xứ Phúc Nhạc. Do khả năng quản trị, ngài được về làm cha sở xứ Đa Phạn khoảng mười năm. Cuối cùng đang làm cha xứ Kẻ Báng thì bị bắt.

Cha Nghi có nếp sống rất đạo hạnh, chuyên chăm việc giảng dạy và siêng năng ngồi tòa giải tội. Cha có biệt tài giúp tội nhân thống hối, hoán cải. Cha ăn chay nhiều ngày cách nghiêm ngặt, cha thày giảng lo cho sức khỏe, phải can gián cha nhiều lần. Tính tình cha hòa nhã vui vẻ, nhanh nhẹn hoạt bát, nhất là thông thạo luật đạo đời, nên trong giao tế, cha được mọi người kính trọng mến yêu. Lương dân chung quanh thường đồn đãi với nhau là: Nếu ông này không đi tu chắc làm quan lớn lắm…

Trong những năm vua Minh Mạng cấm đạo, cha biểu lộ niềm mong ước tử đạo, nhưng ngài nói: "Tôi mong sẽ bị bắt ở đồng vắng, để không hại đến anh chị em tín hữu". Khi đi làm mục vụ, cha cẩn thận mang theo ít tiền để chuộc chủ nhà, nếu không may bị bắt.

Thánh Martinô TẠ ĐỨC THỊNH - Linh mục - (1760 – 1840)

Sau 80 năm phụng sự Chúa, tóc đã bạc, chân mỏi, sức hầu cạn, cộng với cơn bệnh đang dằn vặt trong mình, cha Martinô Thịnh vẫn cảm thấy phải dâng hiến cho Chúa phần còn lại là chính mạng sống để làm chứng cho Người. tuy có thể thoát thân trong cuộc truy lùng, cha đã trả lời cho người lính hỏi: "Ông có phải là đạo trưởng không", bằng lời xác nhận "Phải tôi đây". Lời xác nhận đó đưa cha đến chỗ chết, nhưng cũng đưa cha lên đài vinh quang cho muôn đời noi gương.

Martinô Tạ Đức Thịnh sinh năm 1760 tại làng Kẻ Sét, huyện Thanh Trì, nay thuộc khu vực Hà Nội, trong một gia đình nề nếp. Năm 18 tuổi, gia đình định cho anh kết duyên với một thiếu nữ thùy mỵ, duyên dáng và đạo hạnh, nhưng anh xin hãn lại để suy nghĩ, và cuối cùng quyết định xin đi tu dâng mình cho Chúa.

Thày Thịnh thụ phong linh mục trong thời Cảnh Thịnh cấm đạo. Cha làm bí thư cho Đức cha Giacôbê Longer Gia một thời gian, đã tháp tùng Đức cha đến yết kiến vua Gia Long về đăng quang tại Thăng Long năm 1803.

Theo sự bổ nhiệm của Đức Giám mục, cha phục vụ tại nhiều giáo xứ: trước tiên là Cửa Bạng rồi Đồng Chuối, sau về xứ Nam Sang phục vụ hai mươi năm liền. cuối cùng, làm cha sở xứ Kẻ Trình khi đó cha đã 80 tuổi. ngài là một người cha già, đạo đức, hiền lành, được tất cả các tín hữu kính nể và yêu mến.

Một hôm cha bị nhọt ở má, rồi lở miệng, nửa hàm răng bị mưng mủ và đau nhức khôn tả. Ông Cỏn lên thăm, thấy tình cảnh cha như vậy liền rước cha về nhà cháu ở xứ Kẻ Báng để chăm sóc chữa trị. Được độ tám tháng, cha bị bắt cùng hai cha Nghi và Ngân.

Tai họa cho làng Kẻ Báng.

Tổng đốc Trịnh Quang Khanh là một công tác viên đắc lực nhất của vua Minh Mạng trong việc bách hại đạo Công Giáo. Trong vòng ba năm, ông phá hủy hơn 400 nhà thờ, tu viện và chủng viện. Ông cho phóng thích một tội nhân phạm tội hình sự đang bị giam ở Nam Định, để anh ta đến làng Kẻ Báng do thám, lập công chuộc tội. Anh này tuy không trong đạo, nhưng quen biết nhiều, nên ra vào và gặp gỡ các giáo hữu dễ dàng. Khi biết chắc trong làng có ba linh mục, anh liền đi tố giác với quan.

Ngày 30.5.1840, theo tin mật báo, quan Tổng đốc liền đem 1000 quân đến vây làng Kẻ Báng. Rồi ông cho phát loa kêu gọi dân ra đình điển danh. Tất cả đàn ông, thanh niên trên 15 tuổi đều bị trói lại và tập trung ở một chỗ, quân lính canh gác cẩn thận. Họ bắt cứ phải ngồi vậy phơi nắng, phơi sương suốt hai ngày. Anh chị em phụ nữ lo cơm nước tiếp tế cho lính và thân nhân. đồng thời quan sai lính đi lục soát tất cải "hang cùng ngõ hẻm". Ngày đầu tiên không tìm thấy linh mục nào, ông nản lòng định rút quân, nhưng người tố giác cứ nhất quyết, lấy đầu ra mà thề, nên ông lại cho lục soát tiếp.

Ngày thứ ba, quan ra lệnh phá các vách dầy trong làng thì quả thật bắt được cha Nghi đang ẩn giữa hai lớp vách nhà bà Duyên. Quan cho gọi bà ra bước qua Thánh Giá, nhưng may mắn quân lính nghe lộn ra bà Doãn, bà này ngoại giáo nên sẵn sàng bớc qua, nhờ đó bà Duyên thoát mạng. Khoảng giữa trưa thì quân lính bắt được cha Ngân đang ẩn ở nhà ông Thọ và cha bị bắt trói, điệu ra chỗ cha Nghi ngoài đình.

Về cha Thịnh thì giả điếc nằm ngay võng nhà ông Chiền là cháu ông Cỏn, quân lính đi ngang thấy cụ già nhà quê bệnh tật, nên chẳng nghi ngờ gì. Nếu có hỏi thì co Thanh, một nữ tu họ Kẻ Trình đi theo phục vụ cha khai là : "Bố tôi đấy, ông bị bệnh nặng nên không ra điểm danh được". Đến khi nghe tin cha Nghi và Ngân bị bắt, cha Thịnh khôngh muốn im lặng nữa. Nhân một cai đội họi cụ : "Ông có phải là đạo trưởng không ?" Cha liền đáp: "Phải tôi đây". Thế là cha Thịnh đồng số phận bị bắt với hai cha bạn cùng chí hướng. Lợi dụng cơ hội này, quân lính ùa vào làng cướp tiền của, thóc lúa, trâu bò… Họ vừa đập phá, vừa reo hò chiến thắng vang dậy cả làng. Sau đó quan cho đóng gông và áp giải ba linh mục, ông Thọ, ông Cỏn và 20 tín hữu Kẻ Báng về nhà lao Nam Định.

Vững vàng tuyên tín…

Suốt một tháng đầu, ba cha, ngày mang gông xiềng, tối bị cùm chân, nhưng chưa phải ra tòa. Đến đầu thàng bẩy, quan gọi ra công đường, bắt bước qua Thập Giá, các cha đều can đảm từ chối. Cha Thịnh lên tiếng: "Tôi đã bằng này tuổi đầu mà còn sợ chết nữa sao ? Tôi không thể làm theo lời quan được". Quan lại hỏi về tên và chỗ ở của các thừa sai, nhưng các cha đều chối không biết. Quan liền truyền trói ba vị bắt quỳ giang nắng suốt ngày không cho ăn uống nước.

Ba ngày sau (06.7), Tổng đốc Trịnh Quang Khanh lại cho gọi ba cha và nói : "Nếu các ông không đạp lên Thập Tự, các ông sẽ phải chết". Cha Nghi trả lời: "Thưa quan, nếu quan thương chúng tôi nhờ; nếu không thương chúng tôi cũng xanh rì nấm mộ, còn bước qua Thập Giá, chúng tôi không dám". Quan liền cho đánh mỗi người 50 roi. Thấy không hiệu quả, ông cho đánh cha già Thịnh thêm 10 roi nữa, vì nghĩ tuổi già sức yếu, cha sẽ chịu khuất phục. Nhưng ông không ngờ cha Thịnh mạnh mẽ can đảm chịu đòn cách vui vẻ. Tức giận, quan lại bắt ba vị ra phơi nắng một ngày nữa.

Hạnh phúc thiên thu.

Thấm thoát ba cha ở trong ngục được năm tháng. Với nhiều trận đòn chí tử, nhiều ngày giang nắng ngoài trời…, các vị vẫn không nản lòng, cứ một mực tuyên xưng niềm tin vào Đấng chịu khổ nạn. Các quan thấy các ngài cương quyết giữ vững lập trường, liền làm án gửi về kinh đô. Vua Minh Mạng phê chuẩn và ra lệnh thi hành. Được tin ấy, ba cha hớn hở vui mừng, giải tội cho nhau và chuẩn bị tâm hồn sốt sắng lãnh nhận triều thiên tử đạo.

Ngày 08.11.1840, cha Thịnh, cha Ngân, cha Nghi, ông Thọ, ông Cỏn bị đoàn lính 500 người điệu ra pháp trường Bẩy Mẫu. Đến nơi, tất cả các ngài quỳ xuống cầu nguyện một lát, rồi ra hiệu đã sẵn sàng. Theo lệnh quan, lý hình chém rơi đầu năm chiến sĩ đức tin, kết thức cuộc đời dương thế và khai mở cuộc sống vĩnh hằng trên Thiên Quốc.

Thi thể hai cha Nghi và Ngân được đưa về Kẻ Báng. Còn cha Thịnh được mai táng ở xứ Vũ Điện, sau đưa về quê hương ngài là Kẻ Sét, Hà Nội.

Đức Lêo XIII suy tôn ba linh mục Giuse Nguyễn Đình Nghi, Phaolô Nguyễn Ngân và Martinô Tạ Đức Thịnh lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên hàng Hiển thánh.

Trường thi tử Đạo.

Trương Minh Giảng lên đường qua Pháp
Ðể điều đình hợp tác hai bên
Vua Minh Mạng lại giết thêm
Gồm ba Linh mục, dân tên hai người

Là Cỏn, Thọ cũng thời bị bắt
Cha Thịnh, Ngân, Nghi dắt giáo dân
Quang Khanh chuộc tội thấy cần
Truy lùng đạo trưởng xa gần thẳng tay

Cho đập phá tháng ngày cơ sở
Nhiều nhà thờ chỗ ở nhà chung
Tội nhân khét tiếng trong vùng
Ông cho phóng thích để dùng mưu sâu

Với điều kiện khởi đầu chuộc tội
Ði đó đây sớm tối săn tin
Khắp nơi đạo trưởng kiếm tìm
Lên quan báo cáo cho nghìn lính vây

Làng Kẻ Báng quân đầy loa phát
Tới Ðình Làng đề bạt điểm danh
Mười lăm tuổi phải tuân hành
Toàn là nam giới lão thành quý ông

Quang Khanh nói khỏi gông trói lại
Và tập trung ngồi tại sân đình
Xung quang canh gác quân binh
Phơi sương phơi nắng dân tình xót thương

Các phụ nữ lo đường tiếp tế
Nấu nước cơm, tập thể cùng ăn
Quang Khanh cho lính đi săn
Hang cùng ngõ hẻm từng căn từng nhà

Nản lòng kiếm chẳng ra đạo trưởng
Cả quan quân như tưởng rút quân
Nhưng người tố quyết không lầm
Lấy đầu ra để thế cầm cam đoan

Xin lục soát qua sang ngày nữa
Tôi cam đoan xin hứa thành công
Phá nhà phá vách tây đông
Quả nhiên bắt được mấy ông Cha liền

Hai lớp vách Ba Duyên trú ẩn
Quan gọi ra lại lẫn tên Ðoan
Bước qua Thánh Giá lệnh quan
Bà này ngoại giáo dám làm được tha

Bà Duyên thoát rõ là ý Chúa
Ðến gần trưa nơi nữa bắt thêm
Cha Ngân đang ẩn tuổi tên
Ở nhà ông Thọ bắt lên trói liền

Cha Thịnh điếc nằm yên trên võng
Nhà ông Chiến lính bỗng ngang qua
Thấy Cha sức yếu tuổi già
Không nghi chẳng hỏi thế là bỏ đi

Nếu có hỏi ắt thì chẳng lộ
Có nữ tu thuộc họ Kẻ Trình
Ði theo giúp đỡ hy sinh
Nhận ngay là Bố của mình ốm đau

Biết Cha Ngân, Nghi cùng nhau bị bắt
Cha Thịnh không lánh mặt làm ngơ
Một cai đội đã nghi ngờ
Ông này đạo trưởng trước giờ ở đây

Cha Thịnh đáp, ốm gầy đạo trưởng
Chúng bắt ngay một hướng dẫn theo
Hai đồng bạn đã gông đeo
Bọn quan quân lính hò reo vào làng

Có cơ hội sẵn sàng cướp bóc
Lấy bạc tiền lúa thóc trâu bò
Dân Làng Kẻ Báng âu lo
Mất người mất của đầy no ơn lành

Chúng dẫn giải về thành Nam Ðịnh
Ðể Quang Khanh toan tính tấn tra
Lần này đạo trưởng bắt ba
Còn hai người nữa toàn là giáo dân

Tạ Ðức Thịnh chuyên cần Kẻ Sặt
Sanh Canh Thìn (1760) quê thật Hà Ðông
Mẹ cha sắp xếp coi trông
Muốn anh duyên kết vợ chồng tề gia

Anh xin hoãn để mà suy nghĩ
Nhưng cuối cùng quyết chí đi tu
Hồng ân Thiên Chúa hộ phù
Thụ phong Linh mục đời tu nhiệt thành

Bí thư giỏi nổi danh Giáo phận
Cùng Ðức Cha vào tận Bắc Thành
Gặp Gia Long để họp hành
Tự do tôn giáo rõ rành tỏ thông

Ðức Cha bổ nhiệm trông giáo xứ
Là Cửa Bạng coi giữ đầu tiên
Nam Xang, Ðồng Chuối khắp miền
Kẻ Tình Nam Ðịnh sau liền về hưu

Các giáo hữu dắt dìu cảm mến
Cha bị đau cháu đến đón về
Gia đình Kẻ Báng nhà quê
Sau Cha bị bắt giải về Quang Khanh

Nguyễn Ðình Nghi quê anh Hà Nội
Năm Quý Sửu (1793) rửa tội (do) cha Liêm
Học xong Thầy giảng trong miền
Trở về giúp xứ chân chuyên Tông đồ

Rồi sau đó được về thần học
Phong Linh mục coi sóc Sơn Miêng
Cha Nghi phục vụ khắp miền
Tính tình hòa nhã giảng khuyên biệt tài

Cha không muốn để ai liên lụy
Ðem theo tiền chuẩn bị chuộc dân
Cha Nghi Kẻ Báng lãnh phần
Cũng đều bị bắt một lần Cha Ngân

Ðây tiểu sử mấy vần nhỏ bé
Cậu Nguyễn Ngân họ lẻ Cựu Khanh
Canh Tuất (1790) sinh tại tỉnh Thanh
Vào tu chủng viện học hành thông minh

Thầy chịu khó chân tình phục vụ
Sau thụ phong Linh mục Tông đồ
Phụ trách Duyên Mậu tiền hô
Cha Nhân lâm bệnh nhập vô cấp thời

Cha được về nghỉ ngơi chủng viện
Khoảng bảy năm tăng viện nhà tràng
Trình Xuyên phụ trách đảm đang
Thêm ba năm nữa Kẻ Bàng tiến mau

Ông Trùm Cỏn sinh đầu Ất Sửu (1805)
Tại Kẻ Bàng tiêu biểu Thành Nam
Ðinh Mùi (1787) ông Thọ cùng làng
Nhiệt tâm sắp xếp nhẹ nhàng Thừa sai

Luôn bố trí các ngài ẩn trốn
Khi quan quân vây khốn làng này
Hai ông lanh lẹ tiếp tay
Các Cha chạy trốn cả ngày lẫn đêm

Vùng Nam Ðịnh có tên hùm xám
Bủa lưới vây phân tán vào lùng
Cha con bị bắt gom chung
Bắt quỳ phơi nắng lại dùng đòn roi

Ðể Thập Giá chúng đòi quá khóa
Năm chứng nhân đều đã chịu đòn
Một lòng vì Chúa sắt son
Quang Khanh tức giận chỉ còn xử thôi

Năm trăm lính đứng ngồi Bảy Mẫu
Năm chứng nhân làm dấu nguyện cầu
Lý hình được lệnh chém đầu
Anh hùng tử đạo hát câu khải hoàn

Năm Canh Tý (1840) chu toàn ơn phước
Năm chứng nhân đều được tuyên phong
Gian nan cực khổ chịu chung
Suy tôn Canh Tý (1900) họ cùng sáng danh

Lời bất hủ:

-Trong thời bách hại, cha thường than thở với mọi người rằng: "Chủ chăn khó đi tìm chiên lạc, khó biết tên từng con một quá.". Cha thường tỏ ra tiếc vì hoàn cảnh không săn sóc kỹ lưỡng từng tín hữu của mình được.
-Quan gọi cha ra công đường bắt bước qua Thập giá, cha đều can đảm từ chối, cha nói: "Tôi đã bằng này tuổi đầu, mà còn sợ chết nữa sao! Tôi không thể làm theo lời quan được".
-Trong những năm vua Minh Mạng cấm đạo, cha biểu lộ niềm ước mong tử đạo, nhưng ngài nói: "Tôi mong sẽ bị bắt ở đồng vắng, để không hại đến anh chị em tín hữu". Khi đi làm mục vụ cha cẩn thận mang theo ít tiền để chuộc chủ nhà, nếu không may bị bắt. Lần bị quan tra hỏi, cha Nghi trả lời: "Thưa quan thương, chúng tôi nhờ, nếu không thương chúng tôi cũng xanh rì nấm mồ, còn bước qua Thập giá chúng tôi không dám".
-Tổng đốc Trịnh Quang Khanh truyền cho lính khiêng các ông qua Thánh giá, các ông co chân lên và khẳng khái tuyên bố: "Ðạo tại tâm, quan lớn cưỡng bách và lòng chúng tôi không thuận thì chẳng mắc tội gì". Quan tra tấn các cha máu me loang lổ khắp mình, quan truyền hai ông (Thọ và Cỏn) liếm máu nơi các vết thương đó hoặc bỏ đạo, các ông đã quỳ xuống liếm máu như quan đã yêu cầu một cách cung kính,khiến quan rùng mình, khiếp sợ và kinh ngạc.

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #84
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.196.125
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
83. Phaolô Lê Bảo Tịnh (1793-1857)

Phaolô Lê Bảo Tịnh, Sinh năm 1793 tại Trịnh Hà, Thanh Hóa, Linh mục, bị xử trảm ngày 6/04/1857 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Tự Ðức. Đức Piô X đã suy tôn cha Phaolô Lê Bảo Tịnh lên bậc Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 6/04.
Khởi đầu là vị ẩn tu, kết thúc là vị tử đạo. Hai hình ảnh như có vẻ khác biệt nhau. Nhưng đối với thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh, điều quan trọng đâu có phải là hình ảnh, là lối sống, mà chính là NIỀM TIN : Thiên Chúa là tất cả. Lối sống có thể thay đổi nhưng niềm tin mới là nền tảng chính yếu. Chính niềm tin đó đã dẫn dắt cuộc đời Phaolô Tịnh, từ một vị ẩn sĩ trở thành một vị linh mục nhiệt thành truyền giáo, một giáo sư tận tụy và sau cùng đến phúc tử đạo vinh quang.

Rừng vắng và sứ mạng

Phaolô Lê Bảo Tịnh sinh năm 1793 tại xã Trinh Hà, huyện Hoàng Hoá, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, là con thứ ba trong gia đình công giáo. Năm 12 tuổi cậu vào ở với cha Duệ xứ Bạch Bát, sau ba năm cậu được cha gởi đi học tại chủng viện Vĩnh Trị (Nam Định). Trong chủng viện cậu là một chủng sinh gương mẫu. Trí khôn bình thường nhưng cậu hơn hẳn anh em về sự chăm chỉ, về tinh thần đạo đức, hãm mình, cậu ăn chay các ngày thứ sáu, đánh tội và nằm đất. Khuynh hướng sống khổ hạnh là bước đầu dẫn đến ý định ẩn tu của thày Tịnh.

Có thể nói Lê Bảo Tịnh là một con người mến yêu Thiên Chúa triệt để. Thày đã cương quyết hiến dâng cuộc đời cho Chúa. Thày đã chọn Chúa và thể hiện điều ấy cách trọn vẹn. Chính vì thế thày tích trữ cơm khô, âm thầm rời bỏ chủng viện vào sâu trong rừng vắng để có dịp cầu nguyện và kết hiệp mật thiết đối với Thiên Chúa bằng đời sống khắc khổ trong cô tịch.

Thế nhưng đâu phải ai cũng có quyền sống đạo đức theo ý riêng. Thiên Chúa mời gọi con người cộng at1Chúa vào công trình cứu chuộc của ngài, thì chính ngài xếp đặt công việc cho họ. Chính vì vậy Đức Cha Longer Gia đã chỉ thị cho các cha trong giáo phận : "Nếu thày Tịnh đến xưng tội, không linh mục nào được quyền giải tội, phải bảo thày đến gặp Đức Cha ngay".

Và vị ẩn sĩ đạo đức ấy đã tìm ra ý Chúa qua vị Giám Mục. Một năm trời quen với rừng sâu, giờ đây thày phải từ giã để đón nhận những hy sinh mới, những công tác mà Giáo Hội đang cần đến thày.

Vị tông đồ đất Lào

Để chuẩn bị cho những công tác lớn lao hơn, Đức Cha cho thày Tịnh về tiếp tục học thần học, lãnh các chức nhỏ, đồng thời tiếp tục dạy học. Đức Cha Havard Du, kế vị Đức Cha Gia, cử thày sang Macao để nhận những khoản trợ cấp cho giáo phận. Hai chuyến đi trong hai năm, đồng thời cũng là hai lần thoát chết khỏi tay cướp biển và giông tố.

Năm 1837, Đức Cha đề ra chương trình truyền giáo tại Lào, thày Tịnh đã hăng hái lên đường. Sau một năm hoạt động thấy việc tiến triển tốt đẹp, thày trở về giáo phận xin Đức Cha phái thêm người đi truyền giáo. Thế nhưng tình hình trong nước đã thay đổi. Thi hành lệnh vua quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh lúc đó ra lệnh cấm đạo gắt gao. Cha Mai Năm, ông Trùm Đích, ông Lý Mỹ bị bắt và tử đạo, chủng viện Vĩnh Trị phải đóng cửa, Đức Cha cha Du phải ẩn lánh và qua đời ngày 05-07-1838. Đức Cao chịu tử đạo không kịp nhận nhiệm vụ. Vì vậy đoàn truyền giáo ở Lào phải dừng lại và trở về nước, chuẩn bị nhận công tác mới.

Vào tù lần thứ nhất và lưu đày

Đức Cha Retordd Liêu, người kế vị Đức Cha Du, cử thày Tịnh đi dạy giáo lý tân tòng tại làng Thạch Tổ, xứ Bích Trì, tỉnh Hà Nam. Cuối năm 1841, Lý trưởng làng Thạch Tổ đã rình bắt được thày Tịnh. Giáo hữu đem tiền nộp quan mong chuộc được thày, nhưng thày tỏ ra khí khái nói với quan : "Nếu chỉ có tiền mà tha thì tôi không muốn".

Thế là thày Tịnh bị giải về Tuần phủ Hà Nam, rồi lên Hà Nội. Ở đâu con người mảnh khảnh ấy, với y phục thô sơ, luôn đi chân đất, cổ đeo gông nhưng tâm hồn chính trực và cương quyết. Các vị quan hùng hổ nhưng không thể nào khuất phục nổi. Họ chỉ còn cách là đệ án về kinh xin trảm quyết. Nhưng rất may, khi vua Thiệu Trị lên ngôi, bầu khí ác cảm với đạo đã giảm đi. Sáu lần quan đệ án vào kinh, cả sáu lần không được chấp thuận, để đến lần thứ bảy chuyển thành án lưu đày chung thân ở Phú Yên (Bình Định).

Trên đường lưu đày, người có thân hình mảnh mai nhưng tâm hồn cương nghị ấy, luôn chứng tỏ lòng trung thành quả cảm với chân lý đức tin mình đang theo. Thày đã mạnh liệt phản đối khi người ta gọi "Gia Tô tả đạo", đồng thời giải thích với mọi người về tôn giáo của mình.

Thời gian phát lưu không lâu thì vua Thiệu Trị băng hà (04-11-1847). Vua Tự Đức lên kế ngôi và ban ân xá, giải phóng tù nhân. Trở về giáo phận trong niềm vui khôn xiết của nhiều người, thày Tịnh vâng lời Đức Cha lãnh chức linh mục, khi đã 56 tuổi. Khoảng một năm sau, vị tân linh mục được giữ chức giám đốc kiêm giáo sư chủng viện Vĩnh Trị. Nhờ trước đây đã từng là ân nhân chữa bệnh đau mắt cho quan Tổng Đốc Nam Định Nguyễn Đình Hưng, nên cha giám đốc đã xin được giấy phép cho chủng viện hoạt động một cách bán công khai, dưới hình thức một trường dạy chữ Nho và thuốc.

Chân dung cha Phaolô Tịnh

Thoạt nhìn người ta có thể nhận thấy Phaolô Tịnh là một linh mục có thân hình dong dỏng cao gầy guộc, dáng vẻ đạo mạo, khắc khổ. Nhưng chỉ những ai gặp gỡ cha mới nhận ra đó là một vị linh mục đầy lòng nhân ái, giản dị, khôn ngoan, từng trải. Có lẽ những bước thăng trầm đây đó cùng với số tuổi khá cao khi lãnh chức linh mục, đã ảnh hưởng tới nhiều cuộc đời tông đồ của cha. Ngài tận dụng thời giờ thật khít khao, cốt sao đạt được ích lợi tối đa. Trong những năm tháng đảm nhiệm chủng viện Vĩnh Trị với bao công việc, thế mà giám đốc vẫn thu xếp được thời giờ để viết lách. Ta có thể kể những tác phẩm của cha :

-Phúc âm dẫn giải
-Giáo lý đại cương
-Và Lục vấn lương tâm : gồm những lời khuyên thực hành để giúp xa lánh tội trọng và dọn mình chết lành

Trong khi hướng dẫn chủng sinh, cha thường khuyên các thày phải giữ kỷ luật, vì chính cha đã có kinh nghiệm sâu sắc : Kỷ luật là ân nhân giúp thể hiện lòng mến Chúa, nâng đỡ đời tu. Đàng khác cha còn chú tâm huấn luyện chủng sinh về đời sống cầu nguyện. Theo cha một nhà truyền giáo mà không quý trọng việc cầu nguyện thì lời giảng sẽ không có sức thuyết phục. Lúc này, tuy không còn trực tiếp coi sóc các giáo hữu, nhưng cha Tịnh rất siêng năng giải tội, giúp đỡ các tâm hồn hòa giải với Chúa. Một khía cạnh khác trong đời cha Phaolô Tịnh là lòng yêu mến Thánh Giá. Bất cứ nơi nào cha đã từng sống, đều có bóng dáng của cây Thập Giá. Sau này, khi bị bắt các quan thấy cha có nhiều cây Thập Giá quá, liền kháo nhau : "Ông cụ này nghiện Thánh Giá".

Đúng vậy, không phải cha "nghiện" Thánh Giá bằng cách dựng thánh giá khắp nơi, nhưng vì lòng tôn kính cuộc tử nạn Chúa Kitô, đồng thời ao ước sống cuộc đời Thánh Giá, mong muốn mình được góp phần vào dòng máu của Thày Chí Thánh đã đổ ra để cứu chuộc trần gian. Lòng yêu mến ấy đã bộc lộ qua nếp sống thật nhiệm nhặt, cả khi còn làm thày sống ẩn tu, cũng như khi làm cha giám đốc chủng viện. Bữa ăn thường nhật của cha là vài chén cơm với chút nước mắm và đĩa rau xanh. Cha thường ngủ nghỉ dưới đất, ít khi chịu nằm giường. Thân xác cha hao mòn, nhưng bên trong vẫn chứa đựng một tâm hồn mãnh liệt, một trí thông minh sắc sảo.

Cha sống nhiệm ngặt đến quên thân mình, nhưng lại lo lắng cho người khác. Cha thường thăm viếng, an ủi, ban các bí tích, giúp đỡ người nghèo, nhất là các bệnh nhân, kể cả những người bị bệnh nan y như phong cùi. Có thể nói cha Lê Bảo Tịnh đã tử đạo ngay trong cuộc sống, trước khi được phúc thực sự đổ máu vì đức tin trung kiên.

Bị bắt lần thứ hai

Năm 1857, hai cha Kỳ và Hảo về tổ chức lễ tại nhà thờ Phát Diệm. Dịp này, ngoài thánh lễ còn có những cuộc rước long trọng. Biến cố rầm rộ này bị báo cáo xuyên tạc với viên quan Ninh Bình rằng : "Cụ đạo khao quân". Quan quân liền kéo về Phát Diệm vây bắt, nhưng hai cha Kỳ và Hảo đã về Vĩnh Trị rồi, nên họ gửi giấy yêu cầu quan Nam Định đi bắt hai linh mục đó. Quan Tổng đốc Nam Định Nguyễn Đình Hưng vẫn còn nhớ ân tình với cha Lê Bảo Tịnh (vị ân nhân đã chữa mắt cho mình), nên đã cố gắng ngăn cản nhưng không được. Kế hoạch vây bắt được ấn định vào ngày 27-02-1857 do quan phủ Nghĩa Hưng chỉ huy.

Trong khi đó, quan tổng đốc đã nhờ người báo tin cho cha Tịnh ở Vĩnh Trị, nhưng vì người đó bất ưng bị bệnh nặng không đi báo được, bên chủng viện Vĩnh Trị vẫn sinh hoạt bình thường khi quan quân vây kín làng. Sau mấy phút hội ý, Đức cha Liêu và các cha đồng ý chạy trốn, chỉ để một mình cha Tịnh ở lại đối phó, với hy vọng tránh được những tàn phá. Cha Tịnh bình tĩnh mời quan phủ Nghĩa Hưng và ông Phán Trứ vào phòng uống nước, rồi trình bày giấy phép của quan Tổng Đốc. Tuy nhiên vì trong nhà có nhiều đồ "quốc cấm" như sách La tinh, đồ lễ và nhiều vật dụng khác từ nước ngoài gửi đến, nên quan phủ cho lập biên bản, và yêu cầu cha Tịnh ra tỉnh để điều tra thêm.

Trước khi đi, cha Tịnh vào nhà thờ cầu nguyện và giã từ các chủng sinh, những người con yêu quý nhất của cha. Đức cha Liêu có tìm cách chuộc lại cha Tịnh trước khi bị giải lên tỉnh, nhưng không thành công. Đức cha liền cho người báo trước với quan Tổng Đốc để nhờ quan lo liệu. Hôm sau, ông Phán Trứ giải cha Tịnh ra tỉnh. Tờ giấy phép mà quan Tổng Đốc cấp cho cha Tịnh đả đưa ông vào thế kẹt. Các quan khác nghĩ ông đã nhận được một khoản tiền khá lớn…

Quan Tổng đốc lâm vào tình thế khó xử. Ông biết rõ cuộc đời, thân thế của cha Tịnh, thế mà chính quan Thượng Hưng lại là người hỏi cung cha. Trước tòa, quan không gạn hỏi gì cả, chỉ xin cha quá khóa thì sẽ tha về. Nhưng cha Tịnh với tư cách một linh mục làm sao có thể chấp nhận lời đề nghị ấy.

Năm ngày sau, cha Tịnh lại được đưa ra trước công đường. Cũng một câu hỏi và cũng một lòng son sắt đó. Khi được lệnh viết lại bản lý lịch, cha vẫn xác nhận mình là linh mục. Quan Thượng Hưng khuyên cha không nên viết thế, chỉ nên khai là giáo hữu chuyên dạy chữ nho và làm thuốc mới hy vọng thoát khỏi án chết. Đáp lại, cha cám ơn lòng tốt của quan, vẫn giữ y lời khai vì cho đó là một vinh dự lớn lao. Cha sẵn sàng chịu đựng tất cả là vì vinh dự ấy. Lần cuối cùng, quan Thượng Hưng tìm cách cứu gỡ vị ân nhân của mình. Chính tay ông viết bản án và điền thêm ở dưới :

"Xét rằng Lê Bảo Tịnh đã ngoài 60 tuổi, chiếu theo luật nước, không nên xử tử những người già nua tuổi tác như thế, xin cứ giam ở Nam Định và cứ giữ ở đó là tiện nhất".

Linh hồn tôi thuộc về Chúa.

Trong khi chờ đợi vua trả lời về bản án, cha Tịnh bị giam ở Trại Vệ. Với cha, 37 ngày sống tại đây là cơ hội để cha củng cố đức tin cho các anh em yếu đuối, tìm cách liệu cho họ lãnh được lương thực tinh thần cũng như những trợ giúp về vật chất. Nhờ đó, họ thêm can đảm làm chứng cho Chúa trong những giây phút bi thương nhất. Về phần cha, đây là dịp chuẩn bị lần cuối để xứng đáng với diễm phúc tử đạo mà cha hằng ao ước. Cha sửa soạn cho giờ phút đó một cách đều đặn bằng việc đọc kinh nguyện ngắm. Chính khi củng cố lòng can đảm nơi người khác, cũng là lúc cha củng cố lòng mình. Trong những ngày này, cha không thể nào quên được đoàn con thân yêu ở chủng viện Vĩnh Trị. Trước khi bị xử án 12 ngày, cha viết cho các chủng sinh một tâm thư rất cảm động và chan chứa những tư tưởng đạo đức.

Ngày 05.04.1857, án ra tới tỉnh, người hồi hộp nhất là quan Tổng đốc. Vua cải án giam thành án tử hình trảm quyết. Nhận được bản án, quan Thượng cố gắng một lần chót bằng cách khuyến dụ cha Tịnh xuất giáo. Nhưng làm sao cha lại chấp nhận ? Cả một đời đã tận tụy với Thiên Chúa, cả một đời khát khao mong chờ diễm phúc lớn lao này, đến nay sắp được toại nguyện, lẽ nào lại bỏ đi ? Cha từ tốn đáp lại lời quan :

"Tôi xin chân thành cám ơn quan, vẫn luôn có lòng tốt tìm cách cứu tôi. Thân xác tôi ở trong tay quan, xin làm khổ nó tùy ý, tôi rất vui lòng, không oán than gì. Nó chết đi nhưng mai ngày sẽ sống lại trong vinh quang. Còn linh hồn tôi là của Thiên Chúa, không có gì làm tôi hy sinh nó được, không ai có thể lay chuyển lòng tin tưởng của tôi. Đạo Thiên Chúa là chính đạo, là đạo thật, tôi yêu mến và giữ đạo ấy từ thuở bé, và dù tôi có chết cũng chẳng bỏ được".

Lời khẳng khái ấy phát sinh từ quyết định thật can đảm và sáng suốt. Quyết định lựa chọn cái chết một cách hiên ngang, vì tin chắc rằng mình sẽ được sống muôn đời (Ga 12, 25).

Vĩnh phúc ấy, cha Phaolô Lê Bảo Tịnh đã đạt được ngày 06.04.1857 tại pháp trường Bảy Mẫu (Nam Định) trong lời từ biệt gởi tới mọi người : "Anh em ở lại bình an, chịu khó giữ đạo và can đảm bền vững, đừng sợ chết nhé".

Đức Piô X đã suy tôn cha Phaolô Lê Bảo Tịnh lên bậc Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.

Trường thi tử Đạo

Từ một ẩn sĩ đến tử đạo
Thầy Bảo Tịnh kín đáo vào rừng
Ẩn tu thuộc phủ Hà Trung
Tỉnh nhà Thanh Hóa thuộc vùng rừng sâu

Mười hai tuổi, đỡ đầu Cha Duệ
Sau ba năm môn đệ học hành
Trí khôn vừa phải không lanh
Gởi vô chủng viện trưởng thành mẫu gương

Nhưng trội hẳn về đường chăm chỉ
Thường ăn chay theo ý khổ tu
Sống đời sám hối đền bù
Bỏ giường nằm đất khiêm nhu hãm mình

Quyết dâng hiến hy sinh vì Chúa
Thầy thực hành lời hứa thì thầm
Cơm khô tích trữ rắp tâm
Xa rời chủng viện âm thầm bỏ đi

Nơi rừng vắng thầm thì cầu nguyện
Suốt đên ngày tâm niệm khẩn cầu
Xa lìa chủng viện đã lâu
Quan phòng của Chúa nhiệm mầu đổi thay

Chúa xếp đặt qua tay Giám Mục
Ngài ban hành hối thúc Quý Cha
Thầy Tịnh xưng tội nói là
Ðến gặp Giám Mục Ngài đà giải cho

Thầy ẩn sĩ Chúa cho hiểu ý
Cả năm trời đăng ký rừng sâu
Vâng lời Giám Mục cúi đầu
Thầy về thần học ngõ hầu lãnh ơn

Lãnh chức nhỏ tập đờn, dạy học
Ðức Cha cử du học Ma Cao
Hai lần bị cướp ập vào
May Thầy thoát chết Chúa trao ấn hồng

Thầy Tịnh dạy tân tòng Thạch Tổ
Xứ Bích Trì gần chỗ Hà Nam
Nơi đây lý trưởng dã man
Rình bắt Thầy Tịnh nộp quan làm tiền

Thầy khí khái nói liền chẳng ngại
Chỉ vì tiền mà lại bắt tha
Tôi xin dám nói thật mà
Là tôi không muốn bắt tha vì tiền

Thầy bị giải qua miền Phủ Lý
Cổ đeo gông quyết chí một lòng
Các quân hùng hổ không xong
Sáu lần để án lòng vòng về kinh

Lần thứ bảy thình lình chuyển án
Ðầy chung thân ở mạn Phú Yên
Vua Tự Ðức ân xá liền
Trở về địa phận cả miền hân hoan

Thầy Bảo Tịnh Chúa ban bàn thánh
Năm sáu tuổi nặng gánh thăng trầm
Giáo sư chủng viện nhiệt tâm
Bán công hình thức đạt tầm Hán Nho

Kiêm luôn cả chăm lo thầy thuốc
Cha Phaolô gầy guộc dỏng cao
Lòng nhân ái giản dị sao
Khôn ngoan từng trải khít khao thì giờ

Những tác phẩm thánh thư dẫn giải
Lục vấn lương tâm, phải thực hành
Chủng sinh kỷ luật tươi xanh
Yêu người mến Chúa chân thành đời ta

Quan Thượng Ðạt vào tù khuyên viết
Là giáo dân hiểu biết Hán Nho
Và làm thuốc giảm án cho
Nhưng Cha khẳng khái đầy no an lành

Chức Linh Mục vinh danh Thiên Chúa
Quyết tuyên xưng đoan hứa trung thành
Cảm ơn thiện cảm Quan Anh
Hồng ân tử đạo Chúa dành cho tôi

Quan Tổng Ðốc liên hồi giúp đỡ
Nêu tuổi cao viết ở bản khai
Lý do nêu để cứu Ngài
Ngày giam trại Vệ kéo dài tại đây

Cha củng cố ban đầy lương thực
Cho tinh thần đỡ vực giáo dân
Ngày lên máy chém tới gần
Cho thêm can đảm lãnh phần vinh quang

Phaolô Tịnh gởi hàng Cha bạn
Bức tâm thư vấn nạn vững tin
Thuyền nan bão tố không chìm
Hồng ân tử đạo cổ kim rạng ngời

Lê Bảo Tịnh sáng ngời linh mục
Sinh Quý Mùi (1793) quê thực Trịnh Hà
Một nhà truyền giáo tài ba
Mùa hè Ðinh Tỵ (1857) lệnh ra pháp trường

Khổ hình tra tấn thảm thương
Mà cha vẫn giữ theo đường Chúa đi
Danh ngài Giáo hội khắc ghi
Suy tôn Kỷ Dậu (1909) vinh quy Nước Trời.



Bức Tâm thư của thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh

Phaolô Tịnh gởi chào tất cả
Thầy cùng trò từ giã nhà chung
Máu tử đạo hiếm vô cùng
Chúa ban rất ít mỗi vùng nêu gương

Từ Linh Mục dân thường tử đạo
Có nữ nam loan báo tin mừng
Tâm hồn bé mọn sáng trưng
Thuận hòa trong sạch lẫy lừng Thánh Gia

Thành Thánh mới mở ra nhiều cửa
Một trung tâm chan chứa ơn Trời
Ðức tin vững mạnh khắp nơi
Hồng ân phù trợ Chúa thời trao ban

Anh em bước tiến vào thánh đức
Ðã tới gần tỉnh thức dầu đèn
Yêu người chớ có ghét ghen
Triều thiên công chính thưởng khen dân Ngài

Giây phút cuối viết vài lời gởi
Quý anh em và với bề trên
Vâng lời kỷ luật cho bền
Trung thành điều nhỏ chớ quên ghi lòng

Dù sống chết ở trong tay Chúa
Máu đổ ra đất hứa tươi hồng
Tưới vun cây sẽ trổ bông
Việt Nam đạo Chúa cánh đồng phì nhiêu

Phaolô Tịnh đôi điều trăn trối
Hãy siêng năng sớm tối nguyện cầu
Hồng ân mong ước từ lâu
Phúc lành tử đạo cúi đầu xin vâng

Khi tôi chết hiến dâng Thượng Ðế
Luôn nguyện cầu toàn thể đệ huynh
Thông công trong Chúa nghĩa tình
Ngày sau nước Chúa Thiên Ðình thưởng ban

Lời bất hủ: Quan Thượng Tổng đốc Nam Ðịnh Nguyễn Ðình Hưng không hỏi han gì chỉ khuyên dụ cha quá khoá rồi tha cho về, nhưng cha từ tốn đáp lại: "Tôi xin chân thành cám ơn quan, vẫn luôn có lòng tốt tìm cách cứu tôi. Thân xác tôi ở trong tay quan, xin làm khổ nó tuỳ ý, tôi rất vui lòng, không oán thán gì, nó chết đi nhưng mai ngày sẽ sống lại vinh quang. Còn linh hồn tôi là của Thiên Chúa, không có gì làm tôi hy sinh nó được, không ai có thể lay chuyển lòng tin tưởng của tôi. Ðạo Thiên Chúa là chính đạo, là đạo thật, tôi yêu mến và giữ đạo ấy từ thuở bé, và dù tôi có chết cũng chẳng bỏ được".... đến pháp trường Bảy Mẫu Nam Ðịnh, ngài gửi lời từ biệt mọi người: "Anh em ở lại bình an, chịu khó giữ đạo và can đảm bền vững, đừng sợ chết nhé".

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #85
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.196.125
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
84. Phêrô Bắc (1818-1860)

Phêrô Bắc (Pierre Francois Neron) , Sinh năm 1818 tại Bornay, Saint-Claude, Pháp, Linh mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Tây Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 3/11/1860 tại Sơn Tây dưới đời vua Tự Ðức. Đức Piô X suy tôn linh mục Phêrô Néron Bắc lên bậc Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 3/11.

Chọn Việt Nam làm quê hương.

Tuy chỉ ở Việt Nam hơn 11 năm, thánh Phêrô Néron Bắc đã trở lên như người Việt Nam chính gốc. Cha cũng tập ăn tương cà như mọi người. Cha có công phiên dịch ra tiếng Việt sách toán Pháp, chuyển ngữ các bài triết học, thần học cho các chủng sinh, và cuối cùng gởi nắm xương tàn cho mảnh đất thân yêu này, như ước nguyện khẩn cầu với Mẹ Mân Côi trong những ngày tu học ở Hội Thừa Sai Paris.

Phêrô Phanxicô Néron sinh ngày 21.09.1818 tại Bordeaux, giáo phận Saint Claude, nước Pháp. Là con thứ năm trong gia đình có chín anh em. Thuở thơ ấu của Néron khá vất vả. Tuy được đi học, nhưng mỗi ngày cậu phải ra đồng chăn súc vật, vì thế chịu nhiều ảnh hưởng xấu của các bạn. Thế nhưng, một biến cố đã thay đổi cuộc đời cậu. Năm 17 tuổi, một người cho cậu mượn một cuốn sách đạo đức, cậu đọc và nhận ra tiếng Chúa kêu gọi mình. Từ đó cậu thay đổi hẳn lối sống.

Năm 19 tuổi, Néron xin nhưng mãi đến ngày 14.02.1839 (21 tuổi) mới được vào chủng viện Neteroy. Sau sáu năm, thày lên học tại chủng viện Saunier, rồi xin gia nhập Hội Thừa Sai Paris và thụ phong linh mục ngày 17.06.1848. Bề trên cử cha Néron đi giảng đạo tại Việt Nam. Trong những ngày đợi tàu, cha Néron thường xin Đức Mẹ Mân Côi cho mình được dâng hiến mạng sống vì xứ vụ tại xứ truyền giáo. Ước nguyện của cha là một khi đã vào được Việt Nam, sẽ không bao giờ phải rời khỏi đất nước này.

Ngày 28.03.1849, cha đến trình diện Đức cha Retord Liêu, khi ấy đang coi giáo phận Tây Đàng Ngoài. Đức cha gởi cha Néron đến Kẻ Vĩnh để học tiếng Việt và đặt cho ngài tên mới là Bắc. Năm 1852, Đức cha trao cho cha giúp xứ Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Năm 1854, Đức cha cử cha làm bề trên chủng viện Kẻ Vĩnh coi sóc 150 em. Cha kiên nhẫn giảng dạy chủng sinh các kiến thức cần thiết và dịch cho họ sách toán học ra tiếng Việt. với các lớp đại chủng sinh, cha dạy họ về triết lý và thần học. Một lần cha bị bắt, nhưng được Đức Giám mục chuộc lại.

Những chặng đường ThậpTự.

Dù bận rộn với việc giảng dạy, cha Bắc đã không sao lãng đời sống nội tâm. Mỗi ngày cha đều quỳ suy niệm cuộc thương khó Đức Chúa Giêsu qua 14 chặng đường Thánh Giá. Cha ăn chay các ngày thứ sáu, các ngày vọng lễ trọng, suốt mùa chay và đặc biệt cả những ngày vọng lễ Đức Mẹ. Năm 1858, đang khi phụ trách bốn giáo xứ ở trên Sơn Tây, coi sóc 16 ngàn tín hữu, cha bị bắt lần thứ hai, phải chuộc mất 300 lạng bạc.

Ngày 17.01.1860, vì bị thất bại trong việc quan hệ với Pháp, vua Tự Đức đã ra một chiếu chỉ cấm đạo gắt gao hơn : "Tất cả các quan phải triệt để thi hành triệt để chỉ thị của Trẫm. Nếu theo ý riêng mình như xảy ra trước đây, sẽ bị nghiêm phạt như kẻ vi phạm luật nhà nước". Chiếu chỉ trên khiến các quan địa phương không dám chểnh mảng trong việc bách hại đạo nữa. Cha Phêrô Bắc lại là người Au Châu da trắng, vóc dáng cao lớn, nên rất dễ bị lộ. Các giáo xứ Công Giáo cũng không dám cho cha ẩn trú lâu ngày. Chỗ ẩn thường xuyên của cha giờ đây là rừng rậm. Nhưng rừng rậm đâu phải là dễ đi. Có lần cha bị mất liên lạc với cha giáo hữu, bị đói khát đến kiệt sức ngất xỉu dưới một gốc cây. May mắn sau đó dân làng Tạ Xá tìm thấy liền lấy nước cháo tiếp cho cha từng muỗng, một giờ đồng hồ sau mới tỉnh lại được.

Một hôm có tin báo là quân lính đã biết cha ở làng Tạ Xá, dân làng liền xin lỗi rồi mời cha lên một ghe nhỏ đẩy ra giữa đồng, tiếp tế ít lương thực, rồi đưa cha đến làng Yên Tập. Dân Yên Tập cũng hoảng quá, liền cử một cụ già dẫn cha lên một đỉnh núi vắng vẻ, ở trong lều lợp bằng lá chuối. Cha phải ở đó với cụ ba tuần lễ, mỗi ngày chỉ được một nắm cơm nguội, vì nếu chụm lửa nấu cơm sẽ bị phát hiện. Thức ăn duy nhất là một hũ tương, thỉnh thoảng mới được một ít cà muối. Cũng may là cha đã làm quen với món ăn này từ trước.

Cơn bách hại ngày càng gay gắt, cha Bắc phải tiếp tục di chuyển. Ở làng Suồng ba tháng trong nhà một người ngoại giáo tốt bụng, rồi ở Chiêu Ửng, bị quan quân rượt chạy sang làng Ru Bơ, rồi ẩn trong rừng rậm nửa tháng, lại về Yên Tập, Tạ Xá và bị bắt. Có một người tên Luyện đánh bạc thua ông Lý trưởng 100 quan, ông hứa tha nợ nếu anh chỉ chỗ cha Bắc ẩn trú. Và anh "Giuđa" này đã bán cha với giá tiền đó.

Ngày 05.08.1860, theo sự chỉ dẫn của anh Luyện. Lý trưởng và Cai tổng Mờn đem lính đến bắt cha đang ẩn nấp tại nhà bà Truật. Cha xứ Yên Tập cho giáo hữu đem tiền đến chuộc. Viên cai đội này không chịu, nhưng ông vẫn nhận tiền và hứa ghi vào hồ sơ là bắt được cha Bắc ở ngoài đồng vắng, nhờ thế không có ai bị liên lụy. Đó cũng là điều bận tâm nhất của cha Bắc. Trước mặt quan Sơn Tây, cha luôn luôn bình tĩnh, khẳng khái và cẩn mật. Quan hỏi cha đã gặp những ai, ở nhà nào và được ai giúp đỡ. Cha thẳng thắn trả lời: "Xin quan đừng hỏi làm chi, tôi sẽ không khai ai hay vùng nào cả. tôi không muốn người ấy hay vùng đó bị các quan làm khó đâu". Quan truyền đánh đòn cha 40 roi, nhưng cha cắn răng chịu, không khai một lời cũng không than một tiếng.


Ông thần sống


Điều làm quan, lính và dân miền Sơn Tây ngạc nhiên hơn cả là cha đã nhịn ăn 21 ngày liền, mỗi ngày chỉ uống một bát nước. Ngồi trong cũi chật hẹp mà khuôn mặt lúc nào cũng vui tươi. Các vết thương lở loét, cha cũng không xin thuuốc chữa trị gì hết. Dân chúng đồn thổi với nhau coi cha như một "ÔNG THẦN SỐNG". Họ bảo: "Không ăn mà vẫn sống, thật lạ lùng". Thấy để cha sống lâu, dư luận bất lợi, quan tỉnh liền làm án về kinh đô xin chém đầu và bêu giữa chợ ba ngày rồi thả trôi sông. Vua Tự Đức liền chuẩn phê theo án xin.

Ngày 03.11.1860, vị tông đồ bị dẫn đi xử tại pháp trường Sơn Tây, cách Hà Nội khoảng 50 cây số. Cha xin được cởi trói, cổ vẫn mang gông, bước đi nhẹ nhàng giữa tốp lính bên người cầm gươm sáng loáng. Đến pháp trường, vị chứng nhân quỳ xuống sốt sắng cầu nguyện, rồi giơ cho lý hình chém. Hai người lính đứng hai bên tử tội cùng vung gươm một lượt, giữa lúc chiêng trống khua lên ba hồi chín tiếng.

Vì nhịn ăn 21 ngày trước đây, dân chúng người ngoại giáo cũng tranh nhau thấm máu "ông thần sống". Cha Độ, chánh xứ Bách Lộc, nhờ một người ngoại giáo đến xin thi thể vị tử đạo để chôn cất, nói rằng : "Tội nghiệp ông Tây không có thân nhân nên làm phúc để đức cho con cháu". Ba ngày sau, cha Độ tìm cách chuyển thi hài về an táng ở nhà xứ. Thủ cấp vị tử đạo bị ném xuống sông Hồng, sau các giáo dân tìm vớt hoài mà không thấy.

Đức Piô X suy tôn linh mục Phêrô Néron Bắc lên bậc Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Giáo phận nguyên quán Saint Claude hằng năm tổ chức lễ trọng thể ngày 03.11 với bài lễ riêng và chọn ngài làm bổn mạng giới trẻ trong giáo phận

Trường thi tử Đạo.

Cha Phanxicô Neron Bắc linh mục
Năm Mậu Dần (1818) sinh đất Paris
Thủa nhỏ học chẳng ra chi
Sáng cho học chiều đi chăn bò

Bởi vì thế chẳng lo đạo đức
Cùng mục đồng mặc sức chơi hoang
Mười bảy tuổi Chúa soi đàng
Ðọc được quyển sách mở mang tinh thần

Kể từ đó chuyển dần cuộc sống
Trước hoang đàng nay giống trượng phu
Một hai xin được đi tu
Năm hăm mốt tiếp thu vào dòng

Chín năm học một lòng son sắt
Chúa quan phòng sắp đặt cho thầy
Linh mục chịu chức phúc thay
Từ xưa nào biết có ngày vinh quang

Cha quyết định xin sang truyền giáo
Hội thừa sai thông báo Paris
Ðơn xin chẳng trở ngại chi
Cho xứ truyền giáo ấy thì Việt Nam

Ðường đi đến gian nan cách trở
Ðến khi nào được ở Việt Nam
Khó khăn mọi sự Chúa ban
Kỷ Dậu (1849) qua bến bình an tới bờ

Cha sửa soạn đến giờ trình diện
Ðức Cha Liêm thực tiện phân công
Kẻ Vĩnh nhà xứ đang mong
Cử cha về đó coi trông xứ nhà

Cũng từ đó đặt cha tên Bắc
Tên Việt Nam cha rất vui mừng
Kim Sơn xứ đạo tưng bừng
Ðón ngài về đó lẫy lừng tiếng tăm

Ở Kẻ Vĩnh một năm lại chuyển
Ðiều ngài về Chủng viện trông coi
Triết thần giảng giải rạch ròi
Dịch sang tiếng Việt tuyệt vời công cha

Lệnh cấm đạo ban ra gay gắt
Ðã một lần bị bắt chuộc ra
Vâng lời phân bổ Ðức Cha
Ngài lên phụ trách điểm là Sơn Tây

Bốn xứ đạo vùng này đông lắm
Mười sáu ngàn say đắm giảng rao
Chính quyền vùng đó tiến vào
Bắt cha đòi chuộc ngọt ngào ba trăm (300 lạng bạc)

Ở đây được vài năm vô sự
Bổng một ngày tự sự không qua
Chiếu chỉ Tự Ðức ban ra
Quan nào chểnh mảng thì ta bỏ tù

Các Cố đạo thầy tu bắt hết
Cả những người liên kết xưa nay
Ai làm nên nổi nước này
Các cha, các cố, các thầy trốn đi

Lòng mến Chúa xá chi gian khổ
Nay chốn này mai ở chổ kia
Dâng lễ trong những đêm khuya
Sống trong rừng rậm xa lìa giáo dân

Cũng có lúc tấm thân đói lả
Không cháo cơm, nước lã cũng không
Dân làng tạ xá thương lòng
Cho ăn để sống, nhưng không chứa ngài

Nay yên tập ngày mai tạ xá
Có một lần bí quá lên đồi
Ông già cha Bắc hai người
Ăn thì cơm nguội một vài muỗm tương

Ngài trốn tránh trăm đường vất vả
Vẫn một lòng hỷ xả chăn chiên
An Tập xứ đạo trong miền
Về thăm bị bắt thưởng tiền trăm quan

Ông thần sống có gan nhịn đói
Hăm mốt ngày vẫn nói vẫn cười
Sắc mặt cha vẫn vui tươi
Dân trong vùng nói cha người thần tiên

Khi xử chém họ liền kéo đến
Thắm máu ngài chứng kiến thần linh
Phúc tử đạo năm Mậu Thân (1860)
Kỷ Dậu (1909) phong thánh lãnh phần thưởng Cha

Lời bất hu: Quan tra hỏi cha rất kỹ, cha thẳng thắn trả lời: "Xin quan đừng hỏi làm chi, tôi sẽ không khai ai hay vùng nào đâu, tôi không muốn người ấy hay vùng đó bị các quan làm khó đâu". Quan truyền đánh cha 40 roi.

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #86
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.196.125
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
85. Phêrô Almato Bình (1830-1861)

Phêrô Almato Bình, Linh Mục Ða Minh; sinh 1830 tại Sassera (Vich), Tây Ban Nha; chết 1/11/1861, tại Hải Dương. Ngài được sai đi Phi Luật Tân trước hết khi được khấn dòng Ða Minh. Sau đó được gửi Ximabara với thánh Jerome Hermosilla, cùng với vị này, ngài đã bị xử trảm (chém đầu), phong á thánh năm1906. Lễ kính vào ngày 1/11.

Đức Cha Alcazar tóm tắt cuộc sống thánh thiện và anh hùng của Cha Phêrô Almato như sau: "Tôi theo dõi suốt cuộc đời của ngài và có thể làm chứng rằng ngài không bao giờ phạm một tội trọng nào, lại hết lòng gìn giữ đức trong sạch trinh khiết. Mặc dù sức khỏe yếu kém, người ta chỉ có thể nói rằng Thiên Chúa định cho ngài sang truyền giáo ở Việt Nam là để thưởng công triều thiên tử đạo cho ngài. Quả thật Đức Cha Hermosilla đã ra lệnh cho Cha Almato và Cha Munoz di tản sang Trung Hoa để tránh cơn lùng bắt dữ tợn, nhưng Chúa để cho Cha Almato nhỡ tầu, còn Cha Munoz đi được. Cha Munoz viết thư cho ngài: "Này anh Almato, lẽ ra anh phải sang Macao chứ không phải là tôi. Như đức cha già khả kính Hermosilla đã định, nhưng tôi không được phúc tử đạo, còn Thiên Chúa thưởng nhân đức anh bằng phúc tử đạo".

Cha Almato sinh ngày 1-11-1830 tại Catalogna, Tây Ban Nha, được cha mẹ đạo đức đem đi rửa tội ngay và đặt tên thánh là Phêrô Giuse. Ngay từ bé cậu Almato đã tỏ ra lòng đạo đức, thích đồ chơi bằng nhà thờ hay đóng kịch làm cha đứng giữa các bạn giảng đạo. Khi lên 11 tuổi đã đi học Latinh và tháng 8-1847 vào dòng Đaminh ở Ocanha để sửa soạn đi giảng đạo ở phương Đông. Cha mẹ không muốn cho con đi xa, nhưng ngài đã can đảm viết thư cho cha mẹ như sau: "Cha mẹ đừng than khóc vì đứa con phải đi xa, nhưng hãy vui mừng vì ở trên trời cha mẹ sẽ được phần thưởng vì những hy sinh. Hạnh phúc cho chúng ta dường nào được gặp nhau ở trên đó, luôn luôn được hiệp nhất với nhau trong vinh quang và không còn phải xa cách nhau nữa. Cha mẹ hãy nghĩ rằng Chúa đã xếp đặt như thế không phải để chúng ta khổ nhưng là để chúng ta được sự tốt lành, được thanh tẩy và thánh hóa trong cuộc sống đời này và được phần thưởng trong cuộc sống mai sau".

Quả thật là những lời lẽ cao siêu của một tâm hồn đã xác tín muốn yêu Chúa đến mức độ tuyệt hảo. Sau nhiều thử thách và gắng sức tu luyện, Thầy Almato được khấn trọng thể ngày 26-9-1848. Trong dịp này thầy có viết thư cho cha mẹ: "Cha mẹ quí mến, những việc lo dưới thế là mong làm cho con đường thu ngắn lại và chắc chắn hơn, con cũng vậy, con phải làm cho việc cứu rỗi linh hồn con chắc chắn. Con không những chắc chắn về cuộc sống hiện tại mà con mong cho các anh em con sớm bỏ biển khổ đầy lo lắng quen gọi là thế gian". Về đời sống trong viện tu, Thầy Almato viết: "Ở đây con được bề trên lo lắng săn sóc mọi sự cần, mặc dù chúng con đông nhưng tình thương bao bọc đồng đều mọi người dường như là một vậy. Con chẳng phải nghĩ gì khác". Viết cho người em gái đi tu, thầy khuyên: "Không có gì xảy ra tình cờ, không có biến cố nào mà không có báo trước. Những điều bất hạnh xem ra là sự dữ nhưng nếu chúng ta biết suy nghĩ cho kỹ, chúng ta sẽ thấy sự dữ là một điều lành, trong cái rủi ro là một may lành. Nếu anh cứ tiếp tục than trách, anh sẽ chẳng bao giờ hết vì trong lòng chứa đầy sự cay đắng".

Tháng 9-1852, Thầy Almato được chỉ định sang Manila và chịu chức bên đó trước khi được lệnh sang Bắc Việt. Cha viết về mong ước sang Bắc Việt với người bạn: "Đã từ lâu tôi ước ao được sang truyền giáo ở Bắc Việt. Tôi đã nhiều lần kêu xin với Chúa và Đức Mẹ và đã thưa với các bề trên. Chúa đã nghe lời tôi. Tôi cảm tạ Chúa đã thương chọn tôi cùng với ba cha khác đi truyền bá Phúc Âm cho dân ngoại."

Ngày 11-1-1855 cha, lúc ấy mới 24 tuổi, lên đường đi Hồng Kông. Bao nhiêu khổ cực, bao nhiêu hy vọng trên chuyến hành trình, cha ngước mắt lên trời cao như muốn cho hy vọng thêm bao la. Bẩy tháng sau, ngày 3-7-1855, cha rời Macao để đến Bắc Việt và tới nơi ngày 11-7 tại Nam Chân. Cha được đưa đến trình diện cha đại diện tỉnh dòng Salvatore Masso và sau đó được tới Bùi Chu vào dịp lễ phong chức giám mục cho Cha Sampedro ngày 1-9. Cha Almato được đặt tên Việt là Bình, diễn tả tâm hồn bình an của cha. Cha học tiếng Việt tại Kẻ Mốt một năm và sau đó được sai giúp Cha Fernandez trước khi được chỉ định coi xứ Thiết Nham.

Giáo dân xứ Thiết Nham nói về vị chủ chăn của mình như sau: "Cha Bình (Almato) thường xin chúng tôi cầu nguyện cho ngài. Như thế tâm hồn sốt sắng của ngài thúc đẩy con chiên chúng tôi chạy đến với ngài". Năm 1858 lệnh vua Tự Đức bắt đạo ngặt nghèo nên Đức Cha Hermosilla truyền lệnh cho Cha Almato tạm thời sang Trung Hoa vì ngài kém sức khỏe, sợ không chọi nổi cảnh trốn chạy mà chết uổng đi. Nhưng ý Chúa để cha bị nhỡ cơ hội, cha đi về Kẻ Mốt thăm đức cha rồi trốn tránh ở Kẻ Nê, ở Thọ Ninh.

Năm 1861 với lệnh phân sáp và không còn trốn tránh được nữa, Cha Bình xuống thuyền ở với Đức Cha Ochoa Vinh hẹn đến với Đức Cha Hermosilla. Thế nhưng thuyền của Đức Cha Hermosilla và Thầy Khang đã bị bắt ngày 20-10-1861. Đức Cha Ochoa và Cha Almato được ông trùm Trọng chèo thuyền về Kim Phô nhờ một quan ở huyện là Hán Cáp giúp đỡ. Ông quan này nhận lời giúp đỡ nhưng chính ông lại đi báo quan tỉnh Hải Dương về bắt. Ngày 25-10-1861 quan huyện Thanh Hà đến bắt Đức Cha Ochoa và Cha Almato giải về Hải Dương.

Quan tổng đốc Hải Dương là Nguyễn Quốc Cẩm đặt thánh giá ở cửa thành, nhưng đức cha yêu cầu có cất đi thì mới vào trong thành. Quan hỏi Cha Almato về quê quán và thời gian ở Việt Nam bao lâu, Cha Almato đáp: "Tôi là người Tây Ban Nha, sang Việt Nam được bẩy năm, tôi rao giảng đạo tại nhiều nơi".

Quan lại hỏi có biết Cha Tuấn (tên thứ ba của Đức Cha Hermosilla). Sau đó Đức Cha Ochoa, Đức Cha Hermosilla và Cha Almato, mỗi người một cũi được giam chung với nhau ở Trang Thu. Quan tổng đốc là người hiền lành muốn thong thả làm án tâu về kinh, nhưng tổng đốc Nam Định là Nguyễn Đình Hưng (Tân) sợ triều đình khiển trách nên ra lệnh làm án trảm quyết ngày 1-11-1861.

Vào ngày lễ Các Thánh, Đức Cha Hermosilla, Đức Cha Ochoa và Cha Almato được 300 người lính dẫn ra pháp trường Năm Mẫu ở ngoài thành Hải Dương để chém đầu. Cha Almato vừa đúng 31 tuổi.

Khi xử ba đấng đã có nhiều dấu lạ như được kể trong chuyện Đức Cha Hermosilla. Xác các ngài được chôn tại chỗ ba tháng rồi mới được giáo dân lén lút đem về chôn ở ba nhà khác nhau tại Thọ Ninh ngày 2-2-1862. Sau này khi bốc mộ, xác Cha Almato Bình được đưa về chôn ở nhà thờ Truyền Tin thuộc địa phận Vich là quê quán của ngài ở Tây Ban Nha.

Trường thi tử đạo

Phêrô Almatô Bình linh mục
Sinh Tân Mão (1831) quê thực (Tây) Ban Nha
Thủa nhỏ đã tỏ ý ra
Lớn lên cố học làm cha giúp đời

Mười lăm tuổi học thời Chủng viện
Học tập hay phương tiện cũng nhiều
Hằng ngày có biết bao nhiêu
Sách báo cậu đọc đến điều say mê

Bữa nọ đọc bản tin truyền giáo
Của hội dòng giảng đạo Ðaminh
Ðọc xong cậu thấy lòng mình
Tự nhiên thích thú thuận tình xin đi

Ðược Giám mục chỉ huy khuyến khích
Con nên đi chủ đích (cứu) tha nhân
Việt Nam đang lúc rất cần
Thừa sai giảng đạo để nhân tín đồ

Thầy mừng rỡ hoan hô từ giã
Với gia đình và cả bạn bè
Ðến Ðaminh tiện đường xe
Thời gian thực tập lắng nghe lời thầy

Năm Mậu Thân (1848) trong ngày tuyên khấn
Thầy cầu xin thanh vắng với cha
Năm năm thần triết đã qua
Thụ phong linh mục thật là Chúa ban

Cha được đến Việt Nam phục vụ
Năm Ất Mão (1855) bám trụ Ðàng Ðông
Tiếng Việt cha học mau thông
Có tên tiếng Việt phổ thông cha Bình

Về (xứ) Nam An thuận tình (xứ) Kẻ Mốt
Hơn một năm thêm một (xứ) Thiết Nhan
Công việc ngài rất là ham
Sức khoẻ quá kém hễ làm lại đau

Cuộc bách hại về sau ác liệt
Các vòng vây tiêu diệt bủa ra
Càng thêm khổ cực cho cha
Nay đây mai đó quả là khổ thân

Việc giảng đạo trăm phần khó nhọc
Ngày trong hầm đêm gặp giáo dân
Dâng lễ giải tội ân cần
Hễ thấy lính đến nhanh chân chạy liền

Cứ như vậy liên miên ngày tháng
Bệnh hoành hành cha ráng vẫn đi
Bằng thuyền ngài chẳng ngại chi
Có lần tới bến lính thì bao vây

Thấy bụi tre gai đầy xuống nấp
Nước bùn lầy ẩm thấp biết sao
Nhiều năm cha sống tự hào
Người thì gầy yếu bệnh nào bớt cho

Trong người cha là kho lẫm Chúa
Ðầy mến yêu chan chứa tình thương
Mục tiêu là nước thiên đường
Thế trần khổ cực nêu gương sáng ngời

Lệnh cấm đạo đến thời phân sáp
Các thừa sai bố ráp đêm ngày
Lệnh về cha phải đi ngay
Ngài xin bám trụ đến ngày quy thiên

Cuộc bố ráp ngày thêm gạn lọc
Không còn nơi đùm bọc giấu che
Ðức Cha Vinh (và) ngài xuống ghe
Trong đêm tăm tối hướng ra Thái Bình

Hai cha con Bình - Vinh đêm ấy
Thật may sao gặp thấy Ðức Liêm
Ba người tri kỷ một đêm
Ngày mai kẻ ngược người êm tay chèo

Ngay hôm ấy gieo neo rồi đấy
Chính cha Bình nhìn thấy Ðức (Cha) Liêm
Soát thuyền chúng bắt được liền
Cha con sợ quá bỏ thuyền đi lên

Ngay lúc đó gặp tên Cựu Trọng
Là giáo dân cổ đọng tại đây
Vui mừng anh giới thiệu ngay
Ðến ông thửa ở ông này thầy lang

Ông lang thửa sẵn sàng cho ở
Cùng hai ngài niềm nở thân thương
Ngờ đâu thằng cháu chủ trương
Bắt ngài đem nộp chẳng thương ham tiền

Quan Tổng trấn người hiền hiếm có
Thấy các ngài gặp khó thì thương
Hỏi cung lấy lệ thông thường
Tuy nhốt trong củi chủ trương nhân từ

Quan Tổng đốc khó ư Nam Ðịnh
Nghe tin đồn nổi thịnh nộ lên
Ỷ mình cao cả cấp trên
Ép quan Tổng trấn Hải Dương có tình

Phải lập án tử hình trảm quyết
Thôi thế là từ biệt trần gian
Tân Dậu (1861) tử đạo trao ban
Suy tôn Bính Ngọ (1906) hỷ hoan Nước Trời

Lời bất hủ: Quan tổng đốc Hải Dương hỏi cung cha. Cha đáp: "Tôi là linh mục, tên tôi là Bình, người Y Pha Nho, sang Annam giảng đạo được 7 năm tại nhiều nơi".
Cha được phúc Tử đạo đúng ngày sinh nhật tròn 30 tuổi của ngài.

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #87
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.196.125
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
86. Phêrô Borie Cao (1808 – 1838)

Ðức Cha Phêrô Cao (Pierre Rose Dumoulin Borie) , Sinh năm 1808 tại Beynat, Tulle, Pháp, Giám mục Hội Thừa Sai Paris, địa phận Tây Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 24/11/1838 tại Ðồng Hới dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 24/11.

Giám mục Botie Cao chưa làm Giám mục đến một ngày, nhưng ngài xứng đáng với tước hiệu đó. Căn cứ vào khả năng và nhiệt tình. Đức cha Havard Du đã chọn ngài làm Giám mục phó có quyền kế vị. Cha Cao nhận được giấy quyết định của Tòa Thánh đang khi ở trong tù, và vì thế chưa kịp thụ phong. Tên thường gọi của ngài là Dumoulin do bạn bè đặt (tiếng Pháp Dumoulin là máy xay lúa). Thế nhưng danh xưng Dumoulin đã đi vào lịch sử với hai tước hiệu vinh quang : Giám mục và tử đạo. Quả thật đối với Chúa, giá trị con người là nhân đức và thiện chí, dù thuộc giai cấp nào, mọi người đều được kêu gọi nên thánh.

Phêrô Borie sinh ngày 20.02.1808, tại Beynat miền Correze, thân phụ tên là Guillaume Borie, thân mẫu là Rose Borie. Thế nhưng vì song thân làm nghề xay lúa, bạn bè hàng xóm quen gọi cậu là Dumoulin. Sinh trưởng trong một gia đình tầm thường như vậy, nên thuở bé Dumoulin có tính cẩu thả. Cha mẹ ép cậu vào chủng viện, cậu nghe theo nhưng chẳng hứng thú gì, và vi phạm kỷ luật liên tục. Cha giám đốc phải sử dụng nhiều hình thức xử phạt cũng chẳng làm cậu khá hơn được. Tuy vậy, Thiên Chúa đã can thiệp vào cuộc đời con người Ngài tuyển chọn.
Bất ngờ Borie bị một cơn sốt trầm trọng. Trên giường bệnh, cậu có cơ hội suy tư về đời mình. Một hôm đang khi đọc cuốn niên giám của trường Thừa Sai ghi lại cuộc đời các vị truyền giáo, cậu thấy một tia sáng chói lòa trong tâm hồn. Thế là như thánh Phaolô trên đường Damas xưa, cuộc đời cậu Borie từ nay chỉ lấy Đức Giêsu làm lẽ sống, từ đó cậu siêng năng đến gặp Chúa trong Thánh Thể. Và trong những giờ gặp gỡ ấy, cậu nghe như Ngài kêu gọi cậu lãnh nhận một sứ mạng cao quý hơn: Sứ mạng truyền giáo.

Trong những giây phút nguyện cầu linh thiêng ấy, Borie như thấy Chúa nói với mình về vùng Viễn Đông xa xăm, về những người ở đây còn chưa biết Chúa, về những thừa sai đã đến đó rao giảng Tin Mừng và hỏi cậu có yêu Ngài đủ để ra đi như thế không. Câu trả lời của Borie đã được chính cậu ghi lại trong một buổi tận hiến cho Đức Maria :

"Lạy Mẹ của con ! Xin hãy tin nơi con, khi con trưởng thành, con sẽ hiến toàn thân con cho việc cảm hóa những người chưa tin. Xin Mẹ giúp con đi theo con đường và tinh thần của ơn kêu gọi đó. Xin cho con được đau khổ vì danh Đức Kitô, được đón nhận ngành lá tử đạo và đến bến vinh quang".

Đức Mẹ như đã nhận lời cậu. Càng ngày Borie càng cương quyết hơn với giấc mơ truyền giáo. Để giấc mơ có thể thành hiện thực, cậu xin chuyển qua chủng viện Hội Thừa Sai Paris. Tại đây cậu kiên trì học tập, lãnh chức phó tế năm 1829, rồi năm sau thụ phong linh mục (21.11.1830). Ngày 01.12.1830, vị tân linh mục bắt đầu xuống tàu khởi hành đến Viền Đông. Thế nhưng vì bão tố phải dừng lại ở Macao khá lâu, ngày 15.5.1832, cha Borie mới tới được Việt Nam.

Nửa năm sau, ngày 06.1.1833, vua Minh Mạng ra chiếu chỉ cấm đạo trên toàn quốc. Các thừa sai bị lùng bắt gắt gao, lên phải di chuyển liên tục, nay nhà này, mai nhà khác. Ngày 24.03, cha Borie kể trong thư là "Tôi đã phải đổi chỗ ở đến 17 lần". Nhưng năm sau, mỗi năm cha đổi chỗ khoảng hai đến sáu lần nữa. Nét đặc biệt của cha Dumoulin là hòa mình rất nhanh với phong tục địa phương. Ngày đầu tiên, cha đã có thể ăn nước mắn cách ngon lành (điều này rất khó với người Châu Âu), cha học tiếng Việt cách dễ dàng và phát âm khá chính xác. Nhờ bản tính bình dân vui tươi và hoạt bát, cha nhanh chóng lấy được cảm tình của các tín hữu và với cả lương dân nữa.

Năm 1836, khi đọc những điều vu cáo trong chiếu chỉ của vua Minh Mạng, cha Borie Cao định viết một lá thư điều trần, nhưng các thừa sai cản lại, vì nói là vô ích thôi. Năm 1838, sau khi giết thừa sai Jaccard Phan, vua Minh Mạng vẫn chưa thỏa mãn. Ông cho lệnh tiếp tục truy tầm cha Candalh Kim, Giám đốc chủng viện Di Loan. Ngày 02.7, khi quan quân bắt linh mục Khoa thì bắt được hai thày giảng Đức và Khang. Thày Khang lúc bị tra tấn quá đau, đã khai rằng có một thừa sai Châu Âu ở Bố Chính, thủ phủ của Nghệ An. Người bị tiết lộ tung tích đó là cha Cao, không phải là cha Candalh. Dựa vào lời thày Khang, quân lính bủa vây khắp vùng Bố Chính, bắt bớ nhiều tín hữu rồi đe dọa, tra tấn và dụ dỗ, để tìm cho ra chỗ ẩn của vị linh mục.

Giai đoạn này cha Cao không thể ở nhà nào được đến vài giờ, luôn luôn ngài phải di động. Các tín hữu có người muốn cho trú, nhưng lại sợ người khác khi bị đánh đập, sẽ tố cáo họ. Cuối cùng ngày 13.7, cha Cao đành xuống một thuyền nhỏ chèo ra khơi, chờ mong cuộc lùng bắt lắng dịu. Nhưng trời bỗng nổi cơn giông bão, dồn ghe của cha tấp vào bờ. Cha nghĩ rằng đây là dấu Chúa muốn mình ở lại, cha bỏ ghe trở lên đất liền, và ẩn núp dười một hố sâu có cây cối tre phía trên.

"Các anh đi tìm ai ?"

Một thiếu nữ 16 tuổi bị bắt và bị tra khảo. Dù biết chỗ cha ẩn trốn, cô cắn răng chịu đựng, không tiết lộ điều mình biết. Nhưng bố cô không dằn lòng được khi thấy con mình bị đánh đập, đã chỉ chỗ cho lính đến chỗ nơi ẩn trốn của ngài. Dầu đang giữa đêm, quân lính cũng kéo nhau rất đông đi bắt vị thừa sai. Cha Cao nghe rất rõ tiếng chân của đám lính, biết rằng không thể thoát được nữa, cha liền lao lên và hỏi : "Các anh đi tìm ai ?". Tất cả đám lính đều ngỡ ngàng trông thấy một bóng đen to lớn từ dưới đất chui lên, họ cứ tưởng là ma, nên hoảng sợ không dám hé môi. Lát sau, khi lấy lại bình tĩnh, biết là linh mục, họ yêu cầu cha ngồi xuống, và cha Cao nhẹ nhàng ngồi xuống. Ngài muốn bước vào cuộc hiến tế bằng một thái độ vâng phục hoàn toàn.

Thày Tự thấy cha bị bắt cũng vội chạy đến xưng là đệ tử của cha. Cha định không nhận, nhưng thày khẩn khoản : "Xin cha cho con theo cha đến cùng". Cha Cao nghe thày xin thế thì xúc động, ngài tháo chiếc khăn quàng, xé một mảnh trao cho người môn sinh và nói: "Cầm lấy, con hãy giữ nó làm bằng chứng cho lời con đã hứa". Thày Tự đã giữ mãi miếng vải đó trong những ngày tháng cùng bị giam với cha. Sau này, thày đã viết lại cuộc tử đạo đau thương của Tôn Sư mình. Và cuối cùng, với mảnh vải như kỷ vật giao ước, thày Tự đã theo gót người cha kính yêu: hy sinh mạng sống vì Đức Kitô ngày 01.7.1840.

Tại Đồng Hới, cha Cao phải ra tòa chung với cha Điểm và cha Khoa. Quan hỏi: "Đạo trưởng Cao, vua đã cấm Gia Tô. Nếu ông bước qua Thập Giá, ta sẽ thả ông về ngay". Cha trả lời: "Thà tôi chết ngàn lần còn hơn". Quan hỏn tiếp: "Tại sao ông không về nước mà giảng, ở đây làm gì để phải trốn tránh hết chỗ này đến chỗ khác?". Cha đáp: "vua cấm đạo sau khi tôi đã đến nước này, từ đó vua cấm tàu Au Châu cập bến Việt Nam thì làm sao tôi có thể về được". Quan lại hỏi: "Ông đã ở nhà những ai ?". Cha trả lời: "Tôi đã bị quan bắt, tôi xin chịu cực hình một mình tôi thôi". Quan liền ra lệnh đánh cha 30 roi, lính nọc cha ra, đánh cho đủ số. Tuy rất đau đớn, cha Cao vẫn không kêu than một lời, quan hỏi ngài có đau không, cha đáp: "Tôi cũng bằng xương bằng thịt như ai khác, lẽ nào không đau. Nhưng mặc kệ, trước và sau trận đánh tôi vẫn thấy thoải mái".

Quan đành giải cha về ngục, hôm khác, quan bắt cha chứng kiến cảnh tra tấn thày Tự, nhưng đến khi thẩm tra lại, ông gọi cha Cao ra đối chất: - Tại sao ông cứng đầu thế?

- Thưa, câu hỏi của ngài tôi không trả lời khác hơn được.

- Đã vậy ngày mai ông sẽ chịu 100 roi.

- Thưa dù đánh 300 roi tôi cũng chịu, chỉ xin một điều là đừng hỏi tôi về dân chúng.

- Thế nếu ông phải ra mắt vua, đứng bên lò lửa cháy bừng, với những chiếc kìm nung đỏ sắt lóc thịt ông ra, liệu ông còn im lặng được không?

- Thưa, chừng đó sẽ biết, tôi không dám quá tự phụ về mình.

Biết không thể làm cha đổi ý, quan liền nghị án gởi về kinh đô. Cha Cao bị giam chung với hai cha Điểm và Khoa, ba vị linh mục hằng ngày cùng nhau đọc kinh Mân Côi và hát vang bài "Ave Maria Stella": Kính chào Mẹ Maria là Sao Mai rực rỡ, xin chuyển cầu cho chúng con". Mấy ngày đầu, vì chưa tìm ra tràng hạt, ba vị nhổ lông quạt để đếm kinh. Ba cha phó thác đời mình cho nữ vương các linh mục : "Như xưa Mẹ đã dâng Con yêu quý trong đền thờ, nay cũng xin hiến dâng chúng con trong cuộc tử đạo đầy hồng phúc".

Trong những ngày tù tội, cha Cao nhận được văn thư Tòa Thánh gởi tới, đặt ngài làm Giám mục Giám mục hiệu tòa Acanthe và làm Đại diện Tông tòa coi sóc giáo phận Tây Đàng Ngoài, thay thế Đức cha Harvard Du. Thế nhưng, vì đang bị cầm tù, ngài không thể tiến hành nghi lễ thụ phong. Chức vụ đó sau này được trao cho cha Retord Liêu.

Ngày 24.11.1838, quan vào ngục tuyên đọc bản án xử trảm. Đức cha Cao yên lặng lắng nghe sắc chỉ của nhà vua, rồi nói với quan rằng : "Thưa quan, từ bé đến nay tôi chưa lạy ai, vì bên Âu Châu chúng tôi, đó là hành vi kính trọng chỉ dành cho Đấng Tối Cao. Nhưng điều tôi vừa nghe làm tôi quá vui mừng, xin được bày tỏ lòng tri ân của tôi theo kiểu Đông Phương".

Nói xong, ngài quỳ xuống định lạy, nhưng viên quan quá xúc động, không thốt lên lời, vội cản ngăn ngài lại.

Lúc dẫn đi xử, Đức cha Cao đi dầu, cổ mang gông tay cầm tràng hạt, vừa đi vừa đọc kinh. Một viên quan khác, ít thiện cảm với người Công Giáo đi lại gần, hỏi Đức cha có sợ chết không. Ngài trả lời : "Tôi đâu phải là quân phiến loạn hay quân trộm cướp mà sợ chết. Tôi chỉ sợ một mình Thiên Chúa. hôm nay tôi chết, mai sẽ đến phiên ông".

Nghe thế, viên quan thét lên: "Láo quá! Tát cho nó vài cái". Nhưng không người lính nào tuân lệnh ông. Đức cha nói với quan : "Nếu lời đó làm phiền ông thì xin ông tha lỗi".

Tại pháp trường Đồng Hới, hai cha Khoa và Điểm bị xử giảo trước. Đến lượt xử chém Đức cha cao, người lý hình rất kính phục ngài, phải uống rượu để lấy bình tĩnh, không ngờ vì quá ché, anh đã chém trật vào tai, hàm và vai Đức cha. mãi đến nhát thứ bẩy, đầu vị thừa sai mới lìa khỏi cổ. Thân xác ngài được chôn cất ngay tại chỗ, năm sau mới được các tín hữu cải táng về họ Hướng Phương.

Năm 1843, hài cốt Đức cha Cao được đưa về chủng viện Hội Thừa Sai Paris, đặt cạnh hài cốt các thừa sai Gagelin Kính và Jarcard Phan.

Đức Lêo XIII suy tôn Giám mục Borie Cao lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Trường Thi Tử Đạo

Phêrô Borrie Cao giám mục
Năm Mậu Thìn (1808) quê thực Paris
Trốn hầm nghe lính hết đi
Bò lên khỏi miệng lính thì tưởng ma

Vì lúc đó đang là nhem tối
Cha bước lên hỏi hối tìm ai
Chúng tôi tới bắt trói Ngài
Giải về Ðồng Hới, quan sai nhốt tù

Cha bị nhốt trong khu ngục tối
Thì sắc phong tiếp nối đã ban
Cha Cao Giám Mục huy hoàng
Quan phòng của Chúa, lên hàng Chủ Chăn

Lãnh nhận chức khó khăn trong ngục
Suốt ngày đêm tiếp tục cầu xin
Cho con lối Chúa dõi tìm
Gông xiềng phó thác, Trái Tim nhân lành

Giải pháp trường ngoại thành Ðồng Hới
Ngài nguyện cầu cho tới lìa đời
Lý hình đã tiến tới nơi
Vung gươm bảy nhát, mới rơi nổi đầu

Tại pháp trường đào sâu chôn cất
Cả giáo dân hiệp nhất đưa về
Hướng Phương giáo xứ nhà quê
Nơi đây an táng, trọn bề chứng nhân

Một đôi nét về phần tiểu sử
Nơi nước sanh ở xứ Paris
Học hành cũng chẳng muốn đi
Ép vào chủng viện, cậu thì chẳng ham

Kỷ luật phạm đã làm Giám đốc
Bị nhiều lần cấp tốc sửa sai
Quan phòng có Chúa quản cai
Thụ phong Linh mục, Thừa sai lên đàng

Phúc tử đạo tiếng vang Mậu Tuất (1838)
Tuổi thanh xuân đẹp nhất bên Cha
Canh Tý (1900) Toà Thánh Roma
Suy tôn Chân Phước hoan ca Nước Trời

Lời bất hủ: Ra trước công đường, quan đối chất với Ðức Cha:
Hỏi: Tại sao ông cứng đầu thế?
Ðáp: Thưa, câu hỏi của ngài tôi không trả lời khác hơn được.
Hỏi: Ðã vậy ngày mai ông sẽ chịu 100 roi
Ðáp: Thưa dù đánh 300 roi tôi cũng chịu, chỉ xin một điều là đừng hỏi tôi về dân chúng.
Hỏi: Thế ông phải ra mắt vua, đứng bên lò lửa cháy bừng, với những chiếc kìm nung đỏ sắp lóc thịt ông ra, liệu ông còn im lặng được không?
Ðáp: Thưa chừng đó sẽ biết, tôi không dám quá tự phụ về mình. Khi Ðức Cha nghe án của vua không quỳ, rồi nói với quan rằng: "Thưa quan, từ bé đến nay tôi chưa lạy ai, vì bên Âu Châu chúng tôi, đó là hành vi kính trọng chỉ dành cho Ðấng Tối Cao. Nhưng điều tôi vừa nghe, làm tôi vui mừng quá, xin được bầy tỏ lòng tri ân của tôi theo kiểu Ðông Phương. Lúc dẫn Ðức Cha đi xử, có một viên quan lại gần hỏi Ðức Cha rằng: "Ông có sợ chết không?". Ðức Cha đáp: "Tôi đâu phải là quân phiến loạn, hay quân trộm cướp mà sợ chết. Tôi chỉ sợ một mình Chúa. Hôm nay tôi chết, mai sẽ đến lượt ông".

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #88
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.196.125
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
87. Phêrô Đinh Văn Dũng (1800 – 1862)

Phêrô Dũng, Sinh năm 1800 tại Ðông Hào, Thái Bình, Giáo dân, bị thiêu sống ngày 6/06/1862 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức cùng với thánh Phêrô Đinh Văn Thuần. Đức Piô XII suy tôn lên bậc Chân Phước ngày 29-04-1951. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 6/06.

Thánh Phêrô ĐINH VĂN DŨNG - Ngư phủ - (1800 – 1862)

Thánh Phêrô ĐINH VĂN THUẦN - Lý trưởng Ngư phủ - (1800 – 1862)


Hai ngọn đuốc sáng

Đức Kitô, ánh sáng vĩnh cửu đã nhập thể trong trần gian để mặc khải về Chân Lý Cứu Độ. Ngài đến và kêu mời những ai theo Ngài hãy trở nên ánh sáng cho thế gian, làm chứng cho Tin Mừng Cứu độ bằng lời nói, bằng thái độ và bằng cuộc sống của chính mình. Người tín hữu sẽ trở thành ánh sáng, sẽ biểu hiện một cuộc sống gương mẫu "để mọi người ngợi khen cha của anh em, đấng ngự trên trời" (Mt 5,16) qua việc phục vụ tận tình như dấu chỉ Nước Trời đang hình thành và với thái độ chấp nhận hi sinh dấn thân cho Chân lý.

Hai vị thánh Phêrô Dũng và Phêrô Thuần khi chấp nhận bản án thiêu sinh hơn là bỏ đạo, đã dùng chính thân thể mình làm ngọn đuốc sáng : Chấp nhận hủy diệt mạng sống hầu được sống trường tồn. Để rồi ngọn lửa rực sáng trong khoảng khắc ấy, mọi người sẽ thấy bừng lên Anh sáng Thần Linh của Thượng Đế, Đấng các vị làm chứng cho đến hơi thở cuối cùng.

Khó khăn thử thách

Ông Phêrô Đinh Văn Dũng (con ông Phê rô Mẫn và bà Maria An) và ông Phêrô Đinh Văn Thuần đều đã ngoài 60 tuổi, là anh em con chú con bác, người họ Đông Phú thuộc giáo xứ Trung Đồng, Kẻ Mèn, tỉnh Thái Bình trong giáo phận Trung Đàng Ngoài. Hai ông làm nghề đánh cá, một nghề như thánh Phê rô, bổn mạng hai ông đã từng làm. Riêng ông Phêrô thuần còn được chọn làm Lý trưởng nhờ tấm lòng cương trực và khả năng của mình. Là những giáo hữu bình dân chất phác và nhiệt thành, sau khi lập gia đình, hai ông đã tận tâm giáo dục con cái sống đạo cách sốt sắng theo tinh thần Phúc Âm.

Tháng 08-1861 với chiếu chỉ phân sáp của Vua Tự Đức, việc bách hại đạo gia tăng cách khủng khiếp nhất là trong giáo phận Trung. Các quan thi hành triệt để lệnh Vua, không những cho quân lính truy lùng các vị thừa sai, giám mục, linh mục, thày giảng, mà còn cưỡng ép mọi giáo hữu bất kể nam phụ lão ấu đều phải chối đạo và bước qua Thánh Giá. Đất đai, vườn ruộng, nhà cửa, sức vật… của giáo hữu sau khi bị phân sáp đều bị tịch thu, phá hủy. Hơn nữa, giáo hữu còn bị khắc trên má hai chữ "Tả Đạo" để khỏi lẩn trốn. Quả thực, Giáo Hội Việt Nam đang phải chìm đắm trong những thử thách lớn lao.

Đầu năm 1862, thảm họa đã đổ xuống trên làng Đông Phú. Trong dịp này, hai ông Phêrô Dũng và Phêrô Thuần đã bị bắt và bị giải về phủ huyện, rồi bị tống giam vào ngục Ngọc Chí. Tại đây hai ông chịu nhiều cực hình, cổ mang gông, chân chịu xiềng xích, và nhiều lần quân lính đưa hai ông đến trình diện quan lớn, rồi bị cưỡng ép chà đạp Thánh Giá. Nhưng các ông vẫn nhất mực từ chối lời quan, và thẳng thắn tuyên xưng niềm tin của mình vào Đức Kitô.

Hai mẫu gương sống động.

Các quan đã phải dùng đến phương sách tình cảm để mong khuất phục hai ông. Quan cho quân lính dẫn hai ông về thăm gia đình, gặp vợ con. Trước cảnh gông cùm xiềng xích của người chồng, người cha, cả hai gia đình đều nức nở khóc lóc buồn thương. Nhưng điều quan quân không ngờ được : Hai ông bình tĩnh an ủi và khích lệ vợ con hãy sẵn sàng chấp nhận việc dâng hiến của mình. Ông Phêrô Dũng nói : "Hãy vui mừng vì tôi được hy sinh mạng sống cho Đức Kitô".

Sau đó hai vị anh hùng bình thản trở về nhà tù sống chung với các chứng nhân khác.

Tháng 04-1862, các quan đầy hai ông ra làng Lương Mỹ, thuộc huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình, và giam ở đó hai tháng. Trong hoàn cảnh này, ông Phêrô Thuần đã một lần thối chí và nghe lời quan đạp lên Thánh Giá. Thế nhưng sau khi gặp các bạn hữu, ông tìm được can đảm, tiếp tục tuyên xưng niềm tin cho đến chết, bất chấp mọi đòn vọt tra tấn.

Nhận thấy việc kéo dài thời gian giam giữ hai ông Phêrô Dũng và Phêrô Thuần cũng vô ích, các quan liền kết án thiêu sinh hai ông. Ngày 06-06-1862, quan cho nhốt hai chiến sỹ đức tin vào một chiếc cũi tre chật hẹp, rồi chất củi thiêu sống hai ông. Trong ngọn lửa phừng phực nóng bỏng, hai chứng nhân của Chúa Kitô chắp tay cầu nguyện, tạ ơn Chúa trong tâm tình hiến dâng mạng sống mình để nói lên niềm tin kiên vững vào Đấng Cứu Chuộc. Thi thể cháy đen của hai vị tử đạo được chôn cất ngay tại chỗ. Về sau, giáo dân đem an táng tại sân nhà thờ Đông Phú, quê hương của cac ngài.

Cùng với 23 vị tử đạo khác tại Việt Nam, hai ông Phêrô Đinh Văn Dũng và Phêrô Đinh Văn Thuần đã được Đức Piô XII suy tôn lên bậc Chân Phước ngày 29-04-1951. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.

Trường thi tử Đạo

Ðinh Văn Dũng làm nghề ngư phủ
Sanh Canh Thân (1800) Ðông Phú, Thái Bình
Gia đình Công giáo đẹp xinh
Vợ chồng đạo đức thuận tình tiến mau

Dạy con cái trước sau giữ đạo
Không để con ngược ngạo hư thân
Học trường Công giáo rất gần
Hằng ngày dạy phụ, hằng tuần kiểm tra

Phêrô Dũng vốn là ngư phủ
Chiều chiều tập trung đầy đủ lên ghe
Sông sâu biển cả hướng đi
Quăng chài thả lưới ấy thì quanh năm

Về kinh tế hỏi thăm đầy đủ
Chúa ban cho ấp ủ qua ngày
Tưởng rằng được vậy mừng thay
Lệnh ban phân sáp người ngay ở tù

Tự Ðức nói: người ngu theo đạo
Bỏ đạo đi, cấp gạo tiền cho
Gia đình con cái ấm no
Mơ màng chi cái lẫm kho trên trời

Ðinh Văn Dũng ngài thôi đừng nói
Ðạo Chúa Trời sao dối được ai
Dựng nên trời đất tay Ngài
Tôi không bỏ đạo ép nài mất công

Quan Tổng trấn thấy không dụ nổi
Lập tờ trình mang vội về kinh
Bản án đề nghị thiêu sinh
Bỏ vào trong cũi đóng đinh cận kề

Rồi sau đó tứ bề chất củi
Châm lửa vào đen thủi khói lên
Xác ông thiêu rụi cháy đen
Hồn ông thanh thản bay lên Thiên đàng

Phúc tử đạo rõ ràng Nhâm Tuất (1862)
Một chứng nhân hạng nhất trần gian
Tân Mão (1951) Toà Thánh lệnh ban
Suy tôn Chân phước chứa chan phước lành

Lời bất hủ: Ông Phêrô Dũng nói: "Hãy vui mừng vì tôi được hy sinh mạng sống cho Ðức Kitô".

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #89
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.196.125
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
88. Phêrô Ða (1802 – 1862)

Phêrô Ða, Sinh tại Ngọc Cục, Xuân Trường, Nam Định; Giáo dân, bị thiêu sống ngày 17 tháng 6 năm 1862 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức. Ngày 29 tháng 4 năm 1951, người thợ mộc làng Ngọc Cục, Phêrô Đa, được Đức Piô XII suy tôn lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 17 tháng 6.

Đức tin kiên vững

Thánh Phêrô Đa là vị tử đạo cuối cùng trong 117 vị chứng nhân đức tin tại Việt Nam đã được Giáo Hội tôn vinh. Cái chết của ngài chấm dứt một giai đoạn cam go và khai mạc một giai đoạn thanh bình mới của Giáo Hội Việt Nam.

Tuy chỉ là một tín hữu tầm thường thiếu học, sinh trưởng trong một gia đình lao động nghèo khó, nhưng lòng dũng cảm và đức tin kiên vững của ông thợ mộc Phêrô Đa không thua gì các vị mục tử của mình : chấp nhận hy sinh trọn vẹn, kể cả chính mạng sống, để giữ lòng trung tín với Đức Kitô.

Đời sống đạo đức.

Phêrô Đa chào đời khoảng năm 1802 trong một gia đình lao động tại làng Ngọc Cục, xứ Lục Thủy, tỉnh Nam Định, thuộc giáo phận Trung Đàng Ngoài. Thân phụ cậu là một Kitô hữu, nhưng thân mẫu lại là một người ngoại đạo. Tuy thế, cậu Đa đã được đón nhận bí tích rửa tội ngay từ nhỏ, và được giáo dục chu đáo niềm tin Kitô.

Ông Phêrô Đa theo nghề thợ mộc và đã lập gia đình. Ông là một gia trưởng gương mẫu, lưu tâm săn sóc con cái và hướng dẫn chúng bằng chính đời sống thánh thiện của mình. Đàng khác ông rất nhiệt tình với việc chung và nhận làm ông Từ phụ trách kéo chuông và dọn đồ lễ tại thánh đường giáo xứ.

Sau chiếu chỉ phân sáp, ông Phêrô Đa bị bắt vào khoảng 60 tuổi, và bị giải về phủ Xuân Trường với nhiều Kitô hữu khác. Sau sáu ngày bị giam ông được giải đến Quá Linh. Tại đây ông chịu nhiều cuộc tra tấn giã man và nhiều khổ hình kinh khiếp, nhưng vị anh hùng luôn bền chí chịu đựng, không than van và nhất định không bước qua thánh Giá. Khi biết chắc không thể làm khuất phục, quan liền kết án thiêu sinh ông Phêrô Đa cùng với một số chứng nhân đức tin khác.

Vinh phúc người tôi trung.

Ngày 17.06.1862, vị tôi tớ trung kiên Phêrô Đa bị dẫn đến nơi xử án. Trên đường đi, ông biểu lộ nét hân hoan vui mừng. Ông bình thản cầu nguyện và phó dâng mọi sự trong tay quan phòng của Chúa. Đồng thời ông khấn xin Chúa cho mình đủ can đảm chiến thắng cực hình sau cùng vì danh Thày Chí Thánh.

Khi ngọn lửa thiêu đốt sắp tàn, quân lính thấy ông hình như vẫn còn sống, liều vung đao chém bay đầu vị tử đạo. Thế là thánh Phêrô Đa, người giáo hữu kiên cường, bất khuất, có thể nói đã hy sinh vì chân lý bất diệt đến hai lần : vừa bị thiêu đốt, vừa bị chém đầu. Thi hài của người tôi trung Đức Kitô được giáo hữu chôn ngay tại pháp trường. Năm sau giáo hữu lại cải về an táng tại quê nhà.

Ngày 29.04.1951, người thợ mộc làng Ngọc Cục, Phêrô Đa, được Đức Piô XII suy tôn lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Trường thi tử Đạo.

Phêrô Ða một tay thợ mộc
Sinh Nhâm Tuất (1802) Cúc Ngọc Thánh Nam
Cha Công giáo mẹ không ham
Theo nghề thợ mộc giỏi giang hơn người

Việc nhà Chúa ông thời hoan hỷ
Làm ông từ bền bỉ siêng chăm
Từ đầu cho đến cuối năm
Không bao giờ trể hay nằm ngủ quên

Trong gia thất ông khuyên dạy dỗ
Cả đàn con bền đổ đức tin
Tháng ngày thờ Chúa hướng nhìn
Không ham lợi lộc chẳng tìm trăng hoa

Triều Tự Ðức bày ra phân sáp
Ðem quân về đàn áp bắt ông
Chân mang xích, cổ đeo gông
Nhiều lần tra tấn nhưng không đổi lòng

Giam ông đã trong vòng mấy tháng
Ðể xem ông phản kháng ra sao?
Vẫn thờ Chúa vẫn khát khao
Chịu tử vì đạo mong sao tới ngày

Quan thấy rõ ông này gan dạ
Làm tờ trình gieo vạ tử hình
Nhâm Tuất (1802) lãnh án thiêu sinh
Tân Mão (1951) phong thánh an bình Nước Cha

Lời bất hủ: Vị tôi tớ trung kiên Phêrô Ða bị dẫn đến nơi xử án. Trên đường đi, ông biểu lộ nét mặt hân hoan vui mừng, ông bình thản cầu nguyện và phó dâng mọi sự trong tay quan phòng của Chúa. Ðồng thời, ông khẩn xin Chúa cho mình đủ cam đảm chiến thắng cực hình. Sau cùng, vì danh Thầy Chí Thánh, ông bị án thiêu sống. Khi ngọn lửa đã ngàn, lính thấy ông còn sống liền vung đao chém đứt đầu vị tử đạo.

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #90
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.196.125
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
89. Phêrô Nguyễn Văn Ðường (1808 – 1838)

Phêrô Nguyễn Văn Ðường, Sinh năm 1808 tại Kẻ Sở, Hà Nam, Thầy giảng, bị xử giảo ngày 18 tháng 12 năm 1838 tại Sơn Tây dưới đời vua Minh Mạng. Đức Lêô XIII suy tôn lên bậc chân phước ngày 27-05-1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 18/12.

Ba thày giảng cùng bị bắt một ngày, cùng bị giam một nơi, cùng tử đạo một giờ, cùng được suy tôn Chân Phước và Hiển Thánh một lượt là các thày: Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, 40 tuổi; Phêrô Trương Văn Đường, 30 tuổi và Phêrô Vũ Truật, 21 tuổi.


Thánh Phaolô NGUYỄN VĂN MỸ - Thày giảng - (1798 – 1838)

Là người lớn tuổi nhất, thày Phaolô Mỹ như người anh cả, và là chỗ dựa cho hai thày giảng cùng bị giam chung. Trong một lá thư gửi cho thừa sai Marette, thày Đường viết : "… Từ ngày được diễm phúc chịu khó vì đức tin, thày Mỹ thay chúng con vẫn viết thư cho cha. Vì chúng con coi thày như thay mặt cha ở giữa chúng con…"

Phaolô Nguyễn Văn Mỹ chào đời năm 1798 ở làng Kẻ Non, còn gọi là Sơn Nga, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Tên thật của cậu là Nguyễn Văn Hữu. Năm 13 tuổi, được phép cha mẹ, cậu Mỹ theo giúp việc Đức cha Giacôbê Longer Gia rồi sau giúp cha Luật xứ Kẻ Đầm bốn năm. Đến năm 19 tuổi, cậu theo học tại chủng viện Kẻ Vĩnh (Vĩnh Trị).

Khi làm thày giảng thực thụ, thày Mỹ được gửi đến giúp thừa sai Marette. Ít lâu sau, Đức cha Harvard Du giám quản giáo phận Tây Đàng Ngoài, đã chọn thày phụ giúp linh mục Cornay Tân, xứ Bầu Nọ, tỉnh Sơn Tây. Nhiều kinh nghiệm và khả năng, thày Mỹ đã hỗ trợ đắc lực cho vị thừa sai trẻ tuổi nhiệt thành, nhưng thường đau ốm nặng nề này. thày Mỹ luôn hoàn thành công tác mục vụ một cách chu đáo: Từ giảng lý tân tòng và trẻ em, đến khuyên bảo tội nhân hối cải. Khi tình hình cấm đạo lên cao độ, thày là vị tông đồ nhiệt thành và hữu hiệu, đi thăm từng gia đình để khích lệ các tín hữu sống đức tin, và còn hơn thế, được nhiều người ngoại giáo về đón nhận niềm tin Kitô giáo.

Thánh Phêrô TRƯƠNG VĂN ĐƯỜNG - Thày giảng - (1808 – 1838)

"Nhất định chúng tôi không đạp lên ảnh chuộc tội, vì như vậy là chọn cái chết đời đời cả linh hồn lẫn xác".

Lời nói trên cho ta thấy tâm tình của thánh Phêrô Đường, vị thày giảng đã hơn 20 năm dâng mình cho Chúa, để tìm kiếm hạnh phúc đích thực cho chính mình và ta nhân.

Sinh năm 1808 ở làng Kẻ Sở, xã Ninh Phú, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Gia đình Phêrô Đường tuy nghèo nhưng nổi tiếng thánh thiện. Được cậu là linh mục Trương Văn Thi phụ trách xứ Sông Chảy đỡ đầu, nên ngay khi chú Đường mới 9 tuổi, cha Phương xứ Yên Tập đã nhận khai tâm cho chú vào đời sống tu trì. 15 tuổi, anh Phêrô Đường đã được gủi đến giúp xứ Bầu Nọ dưới quyền thừa sai Marette. Với sự khích lệ của cha, anh chuyên tâm học chữ Hán và Latinh để chuẩn bị cho tương lai.

Khả năng và nhân cách của anh Phêrô đường được xác nhận ngay năm sau. Anh được Đức cha Havard Du nhận vào bậc thày giảng dù mới 16 tuổi, thày giảng trẻ tuổi nhất. Thày tiếp tục giúp xứ Bầu Nọ thời cha Cornay Tân, cho đến ngày bị bắt. Tính tình vui tươi, hiền lành, thày được mọi người trong xứ mến chuộng.

Thánh Phêrô VŨ TRUẬT - Thày giảng - (1817 – 1838)

Thày Phêrô Vũ Truật, 21 tuổi, đáng lưu danh muôn thuở cho câu nói bất hủ, trả lời lại những viên quan chê dại dột lãng phí tuổi thanh xuân : "Chưa chắc là tôi dại. Ai khôn mới biết hiến mình cho chân lý, để chiếm hữu phần gia nghiệp muôn đời".

Phêrô Vũ Truật sinh năm 1817 ở làng Hà Thạch, họ Kẻ Thiếc, huyện Sơn Vy, trấn Sơn Tây. Gia đình anh rất nghèo, cha chết sớm, vốn liếng lại chẳng có, mẹ anh phải đầu tắt mặt tối suốt ngày,để nuôi ba con dại, nên Phêrô Truật không được đi học và gầy yếu xanh xao.

Tuy nhiên, anh Truật có lòng đạo đức, thường lui tới nhà thờ kinh lễ, nên được cha Tân chánh xứ Bầu Nọ chọn vào phục vụ những việc nhẹ trong xứ và tạo điều kiện cho ăn học. Dầu thế mặc lòng, anh Truật cũng chẳng bằng ai, phần trí khôn hơi chậm, phần hay bị đau ốm luôn, anh chỉ có thể biết đọc biết viết sơ sơ. Bù lại, anh rất thuộc kinh, nên đặc trách việc dạy kinh truyền khẩu cho các thiếu nhi nhỏ tuổi.

Mãi đến khi bị bắt giam trong ngục tù rồi, Đức cha Havard Du mới chứng nhận anh là thày giảng, vừa để lòng tin làm chứng cho đức tin. Thày Truật tuy không còn cơ hội để giảng bằng lời nói, nhưng thái độ kiên tín của thày chính là lời giảng có sức thuyết phục hơn nhiều.

Ba tấm lòng vàng

Ở Bầu Nọ có người ngoại giáo tên Đức cầm đầu một băng cướp đã bị bắt. Để nhẹ tội, y nói với vợ là Yến vu oan cho cha Cornay Tân tội tổ chức phản loạn. Chị ta liền giả vờ đến xin học đạo để dò xét những nơi cha thường trú ẩn. Khi biết được, chị ta liền giấu vũ khí trong vườn nhà cha, rồi đi mật báo cho các quan tỉnh Sơn Tây.

Ngày 20-6-1837, quan Sơn Tây phái 1500 quân lính đến làng Bầu Nọ, bắt linh mục Tân. Hai thày Mỹ và Đường cũng như anh Truật ngồi lẫn vào đám đông dân chúng bị tập trung nơi đình làng. Lính lục soát từ sáng tới trưa vẫn không thấy cha Tân đâu cả. Bà Yến liền bày cho họ bắt anh Truật và hai thày Mỹ, Đường, là những người thân thiết với cha xứ để tra hỏi.

Chiều hôm đó, lính phát hiện được cha đang ẩn trong bụi rậm. Nhưng để có thêm nhân chứng ghép tội cha, ba vị phụ tá này cũng bị áp giải với ngài hơn sáu dặm đường, về nhà lao tỉnh Sơn Tây. Tại công đường, ba vị đã khéo léo minh chứng cha xứ không theo giặc nổi loạn, và giải thích những lời đồn đại sai về đạo. Thí dụ quan hỏi : "Sao các ông móc mắt người chết để luyện bùa phép ?" Thày Mỹ trả lời : "Không lẽ quan tin những lời đồn đãi vô lý đó sao ? Bởi nếu chúng tôi làm như thế, cha mẹ vợ con họ đâu để cho chúng tôi yên. Vậy mà chúng tôi vẫn ra vào nhà họ, gặp gỡ thân ái và vui vẻ"

Các cuộc thẩm vấn thường đi liền với những tra tấn dã man. Đây là chứng thư của thày Mỹ: "Lính lột áo chúng tôi ra, bắt chúng tôi nằm xuống lấy dây thừng cột tay chân, rồi kéo căng cột vào bốn góc, nguyên sự căng nọc cũng làm chúng tôi đau đớn vô cùng, thế rồi họ bắt đầu đánh đòn… Cuối cùng họ không đánh bằng một chiếc roi nữa mà là cả bó. Mỗi lần đánh hằng trăm đầu roi mây in lằn trên da thịt chúng tôi, tạo nên nhiều vết thương đẫm máu…"

Riêng thày Truật vì ốm yếu nên được đeo gông nhẹ hơn và bị ít đòn hơn. Nhưng sau mỗi kỳ tra tấn cả ba người đều bị kiệt sức, phải khiêng về ngục thất. Ngày 20-9, lính canh tù loan tin cha Tân đã bị trảm quyết, và khuyên các thày bỏ đạo cả ba vị cùng nói : "Chúng tôi mừng vì thày chúng tôi được tử đạo, chúng tôi nguyện theo gương Ngài."

Giai đoạn này thày Mỹ ghi lại một lá thư : "Suốt bốn tháng liền chúng tôi bị gông cùm xiềng xích, chịu lính canh ngược đãi, phòng giam ẩm thấp hôi hám, ruồi muỗi tự do hoành hành, trên người thì đầy những vết thương bị tra tấn."

Tháng 10 bản án tỉnh Sơn Tây tâu vua Minh Mạng được chuẩn phê và gởi về. Nhưng thay vì giết ngay bản án quyết định "giam hậu" nghĩa là khoan xử chờ quyết định mới, bề ngoài có vẻ nhân đạo, nhưng thật ra bên trong rất thâm độc. Với thời gian nhiệt tình ban đầu có nguy cơ phai nhạt, vì tử tội luôn bị ám ảnh đến chuyện phải ngồi tù không biết đến bao giờ. Đàng khác sự chịu đựng con người có hạn, quá khổ đau, quá mòn mỏi, quá thất vọng, con người dễ bị lung lạc và dễ bị thay đổi ý định. Thực tế ba thày giảng phải chờ thêm 14 tháng, vị chi tất cả là một năm rưỡi bị giam cầm. Nhưng suốt thời gian bị giam cầm thử thách lâu dài đó, ba thày vẫn gắn bó với nhau trong nhẫn nại, can đảm và giữ mãi phúc tử đạo, mỗi sáng cũng như mỗi tối, các thày lớn tiếng đọc kinh Mân Côi chung, cầu nguyện chung, các đồ ăn thức uống, thuốc men nhận được ba vị chia sẻ cho lính canh, ai đến thăm đều được khuyên nhủ : "Anh em hãy sống hòa thuận với mọi người trong gia đình, làng nước, hãy là giáo hữu nhiệt thành, vì đời sống trần gian chẳng là bao. Chúng tôi đã vâng theo ý Chúa định đoạt, hy vọng mai này chúng ta sẽ đoàn tụ trên Nước trời"

Cha Triệu giả làm thường dân mang Mình Thánh Chúa cho các thày, đó quả là hồng phúc lớn lao. Ta thử đọc tâm sự của thày Đường gởi cho cha Marette trong thư : "Hôm nay là ngày trọng đại chúng con được rước Mình Thánh Chúa. Xin tạ ơn Chúa đã viếng thăm và làm vơi nhẹ những xiềng xích của chúng con… cửa Thiên Đàng đã gần kề, nghĩ đến hạnh phúc đang chờ đợi, chúng con chẳng còn ước ao sự gì khác nữa…"

Cùng Chiến Thắng Vinh Quang

Năm 1838, triều đình duyệt lại bản án và chỉ thị cho quan tỉnh Sơn Tây thi hành. Ngày 18-12 ba chứng nhân anh dũng bị điệu ra pháp trường ở Gò Vôi làng Mông Phụ, tỉnh Sơn Tây. Mỗi người mang trên ngực tấm thẻ ghi tên họ, nguyên quán, tội theo đạo Giatô, đã thú nhận, truyền xử trảm. Trên đường đến nơi hành quyết, như đã hẹn trước ba thày cùng làm dấu khi thấy cha Triệu đứng giữa dân chúng ban phép lành tha tội. Một người lính cho các Ngài uống rượu, ba vị cám ơn, uống nước trà và nói : "Thày giảng chúng tôi kiêng rượu như kiêng sắc dục và kiêng phản bội."

Đến nơi xử, ba thày nằm dài trên chiếu, quân lính quây thành một vòng tròn lớn, để ngăn cản dân chúng. Từng vị một bị trói chân vào cột và trói chéo tay ra sau lưng. Dây thừng tròng sẵn vào cổ. Giữa tiếng chiêng trống vang rền, theo lệnh quan mỗi tên lính nắm chặt đầu dây xiết thật căng, chờ tới khi tất cả tắt thở, máu ứa ra miệng. Sau đó lấy lửa đốt gan bàn chân để xác nhận các tử tội đã chết thật rồi. Cha Marette và giáo dân đưa thi hài ba thày về họ Kẻ Măng gần đấy tẩm liệm. Ngài dâng lễ cầu hồn tạ ơn Chúa đã cho các bậc tôi trung thắng trận khải hoàn.

Đức Lêô XIII suy tôn ba thày Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, Phêrô Trương Văn Đường và Phêrô Vũ Truật lên bậc chân phước ngày 27-05-1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh

Trường thi tử Đạo.

Nguyễn Văn Ðường quê làng kẻ Sở
Sinh Mậu Thìn (1808) nơi ở Hà Nam
Gia đình đạo đức nghèo nàn
Có hai chú ruột lên hàng chức Cha

Mới chín tuổi cậu đà xin Chú
Nguyễn Văn Thi khuyên nhủ tu trì
Ngài liền dẫn cháu đường đi
Cha Phượng An Tập ngài thì quản cai

Sau sáu năm khá dài liên tiếp
Cậu Nguyễn Ðường ở miệt nơi xa
Cha Trạch Bầu Nọ xứ nhà
Năm hai sáu tuổi đúng là trên ban

Làm Thầy giảng lên đàng chăm chỉ
Giáo dân ai cũng quý mến Thầy
Tông đồ thăm viếng đó đây
Người già bệnh tật tỏ bày tình thương

Quan bắt đạo Cha thường phải trốn
Nhưng Thầy Ðường tính vốn vâng lời
Làm tràng hạt lúc nghỉ ngơi
Tặng cho bổn đạo khắp nơi nguyện cầu

Lính vây kín đêm thâu Bầu Nọ
Bắt Cố Cornoy họ truy tìm
Vắng ngài, chúng chẳng có tin
Một người tố giác đứng nhìn chỉ tay

Thầy Mỹ, Truật hằng ngày theo Cố
Phải dẫn đi chỉ chỗ tới lui
Thầy Ðường đứng nói có tui
Ba Thầy chúng bắt buồn thiu cộng đoàn

Chúng tra rấn dã man khủng khiếp
Tới buổi chiều bắt tiếp Cố ngay
Ngồi trong cũi nhìn cảnh này
Ngài hô lên phải ngừng tay đánh người

Quan nghe vậy ngồi cười đánh tiếp
Ðể ba Thầy phát khiếp ngã lòng
Bước qua Thập Giá là xong
Cho về quê quán thong dong tung hoành

Thầy Ðường nói chấp hành được xử
Quan chớ hòng mà thử chúng tôi
Dù cho chín núi mười đồi
Chẳng hề phản bội Ba Ngôi Chúa Trời

Thầy Ðường viết đôi lời cho Cố
Trong nhà tù vô số mẫu gương
Cầu xin Chúa ơn can trường
Hồn an xác mạnh hành hương Nước Trời

Rước ơn trọng cuối đời Mình Thánh
Tạ ơn Người Cha Chánh thăm tù
Phước này con nhớ thiên thu
Vua quan cấm đạo chẳng thù, thứ tha

Kẻ quyền thế chóng qua mau hết
Vì lỗi lầm lúc chết đi đâu
Nguyện cầu ơn Chúa nhiệm mầu
Cho kẻ lạc lối ngõ hầu ăn năn

Cho đất nước khó khăn vượt khỏi
Cho Việt Nam học hỏi Tin mừng
Trước khi dừng bút tạm ngưng
Con xin Cố nhắn tin mừng Chú con

Cha Thi chú ruột còn dâng lễ
Nhờ Ngài giúp cụ thể như sau
Làm ba lễ khẩn nguyện cầu
Cho người đi trước kẻ sau góp phần

Cha Triệu đến xin cần xưng tội
Ba tử tù hối lỗi sau cùng
Bữa cơm thiết đãi dùng chung
Quân quan lính gác với cùng tù nhân

Rồi sau đó tới phần hành quyết
Bốn lý hình cần thiết xung quanh
Trước cầm thẻ gỗ đã dành
Ðể ghi bản án ban hành ghi tên

Hai người nữa giữ bên xiềng xích
Người đi sau mục đích cầm gươm
Ba Thầy dẫn tới pháp trường
Ðồng bị xử giảo bốn phương kéo thừng

Trong phút chốc đã ngừng hơi thở
Ðược cất chôn ngay ở trong nhà
Là bà Tín đảm nhận mà
Sau rồi cải táng xứ nhà Kẻ Mây

Phúc tử đạo của thầy Mậu Tuất (1838)
Tuổi thanh xuân chẳng khuất phục ai
Canh Tý (1900) Toà Thánh bài sai
Suy tôn Chân phước ít ai sánh bì

Lời bất hủ: Thánh Phaolô Ðường tuyên bố thẳng với quan tra xét hỏi cung ngài: "Nhất định chúng tôi không đạp lên ảnh chuộc tội, vì như vậy là chọn cái chết đời đời, cả linh hồn lẫn thể xác".

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Trả lời

Tags
118 thánh tử đạo việt nam


Quyền sử dụng
Huynh đệ không được phép tạo chủ đề mới
Huynh đệ không có quyền gửi bài trả lời
Huynh đệ không được phép gửi file-gửi-kèm
Huynh đệ không được phép sửa bài của mình

BB code is Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển nhanh đến:

 
Copyright © 2002 - 2010 Luongsonbac.club
Thiết kế bởi LSB-TongGiang & LSB-NgoDung
Loading

Múi giờ tính theo GMT +7. Hiện giờ là 20:41
vBCredits v1.4 Copyright ©2007 - 2008, PixelFX Studios
Liên hệ - Lương Sơn Bạc - Lưu trữ  
Page generated in 0,26832 seconds with 15 queries