Trích dẫn:
Nguyên văn gởi bởi sao_phu08
Ngựa Hồ chim Việt
Đây là một câu thành ngữ đã bị thu gọn , nguyên văn là : " Ngựa Hồ hí gió Bắc , chim Việt đậu cành Nam "
Ngày trước khi triều đình phong kiến Trung Hoa lớn mạnh , các nước xung quanh đều dâng cống phẩm hàng năm để kết lấy hòa hảo . Người Hồ ở phương bắc thường dân lên lễ vật là ngựa quý ( Hãn huyết bảo mã ) . Người Việt ở phương Nam thì dâng các loại chim công quý hiếm . Khi những ngọn gió thổi từ phương bắc xuống , con ngựa của người Hồ nhớ đến những thảo nguyên mênh mông mà tung vó hí lộng vang trời . Những con chim quý của người Việt chiều chiều lại cứ đậu lên cành cây ngóng về phương Nam theo thói quen mà kêu thảm thiết
|
Khi động đến các thành ngữ tục ngữ có chứa thông tin địa lý, lịch sử thì cần cẩn thận. Trong câu trên "
Chim Việt đậu cành Nam" thì không có gì sai. Hiểu sâu hơn câu này là:
Theo sách Lã thị xuân thu: "
... Viêm đế cai trị bằng hoả đức, thần bảo hộ là hỏa thần Chúc dung, số tương ứng trong Hà thư là số 7, hướng xích đạo cũng là màu đỏ, động vật tiêu biểu là loài lông vũ tức loài chim..." Trong Dịch học có "
Nhất thủy nhì hỏa..." và "
Nhất ngư nhì điểu..". Như vậy loài chim điểu là loài tượng trưng cho phương nóng (phương Nam ngày nay).
Nhưng còn câu "
Ngựa Hồ hí gió Bắc" thì có vấn đề... Con ngựa là loài vật đặc trưng của dân du mục phương Bắc. Nhưng phương Bắc Trung Hoa theo chính sử là vùng sa mạc Thiểm Tây, lạnh giá đóng băng, làm gì có nhiều sông nước mà lại gọi là "Hồ"? Ngựa chạy dưới ... hồ thì buồn cười quá. Văn hóa sông ngòi, ao hồ, biển là văn hóa phương Nam với câu "
Người Bắc cưỡi ngựa, người Nam chèo thuyền". Người phương Bắc không thể gọi là "Hồ" mà là "Man". Trong lịch sử Ngũ Man của Trung Hoa bị đảo ngược thành Ngũ Hồ. Sử Trung Hoa đã bị các sử gia "chăn ngựa" phương Bắc bóp méo, làm cho con cháu Trung Hoa và Đại Việt lầm lẫn cả ngàn năm nay...