Lương Sơn Bạc  
Trang chủ Lương Sơn Bạc  Lương Sơn Diễn Đàn  Nơi Lưu Trữ: Truyện Ngắn, Truyện Dài, Bài Viết, Nhân Vật, Sách Lịch Sử, Sách Dạy Võ Thuật...   Xem hình thành viên và hình các buổi giao lưu LSB   Nơi Lưu Trữ: Cổ Thi VN, Cổ Thi TQ, Thơ Mới & Các Tuyển Tập Thơ
Quay Lại   Lương Sơn Bạc > Kim Ngư Thành > Quảng Kiến Đài > Văn Hóa Thế Giới
Thành viên
Mật khẩu
Những câu hỏi thường gặp Danh sách các thành viên LSB  Lương Sơn Thương Quán
Văn Hóa Thế Giới Chia sẻ những nền văn hóa của các nước trên thế giới

Trả lời
 
Tiện ích Chế độ hiển thị
Cũ 14-05-2009   #100
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.427
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Thiền viện Vạn Hạnh



Tại thành phố Hồ Chí Minh, trên đường từ Phú Nhuận đi Gò Vấp, đến số 716 đường Nguyễn Kiệm, du khách sẽ thấy hiện ra cổng tam quan bề thế của Thiền viện Vạn Hạnh.

Trước năm 1975 nơi đây là Phân khoa Khoa học ứng dụng thuộc Viện Đại học Vạn Hạnh do Hòa thượng Thích Minh Châu làm Viện trưởng. Năm 1976, Hòa thượng đã tạo lập thiền viện này làm nơi tu trì và nghiên cứu Phật học.

Thiền viện tọa lạc trên một diện tích khoảng 1 hecta, bao gồm ngôi chánh điện; một nhà tổ; các dãy nhà làm trụ sở trường Cao cấp Phật học Việt Nam, văn phòng Viện nghiên cứu Phật học, văn phòng Hội đồng phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam; dãy nhà tăng và trai đường.

Cổng thiền viện được xây dựng năm 1990 theo kiểu kiến trúc cổ Phật giáo ở Huế do Đại đức Tâm Đoan và Đại đức Tịnh Quang đảm trách. Ngôi chánh điện gồm hai tầng. Ở tầng trệt, gian giữa thờ tượng đức Phật Thích-ca màu trắng ngà ngồi trên tòa sen, vẻ mặt đầy bao dung. Nơi đây bài trí đơn sơ nhưng rất nghiêm cẩn. Hai bên là phòng đọc sách của thư viện với nhiều sách quý. Tầng lầu là phòng khách và phòng làm việc của Hòa thượng Viện chủ.

Ngôi nhà Tổ cũng có hai tầng. Tầng lầu thờ Phật và thờ Tổ. Trên bàn thờ Tổ có chân dung cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trước đây. Tầng trệt là giảng đường, nơi thường tổ chức các buổi giảng kinh, thuyết pháp, nói chuyện chuyên đề, biểu diễn văn nghệ...

Thiền viện Vạn Hạnh giữ một vị trí rất quan trọng trong việc nghiên cứu và hoằng dương Phật pháp. Đây là nơi làm việc của Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam do Hòa thượng Thích Minh Châu, Tiến sĩ Triết học và Phật học, làm Viện trưởng. Cơ cấu của Viện gồm có: Ban Phật giáo Việt Nam, Ban Phật giáo quốc tế, Ban Phật giáo chuyên môn, Ban in ấn và xuất bản. Ngoài ra, ở đây còn đặt văn phòng Hội đồng phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam do Hòa thượng Thích Minh Châu làm Chủ tịch. Trong bốn năm qua, Viện đã xuất bản nhiều bộ kinh trong Tam Tạng kinh điển như: Kinh Trường Bộ (2 tập), Kinh Trung Bộ (3 tập), Kinh Tương Ưng (5 bộ) ... được Hòa thượng Thích Minh Châu dịch từ nguyên bản Pali ra tiếng Việt; Kinh Trường A Hàm (2 tập), Trung A Hàm (3 tập), Tạp A Hàm (2 tập) ... được các vị Hòa thượng Thích Trí Tịnh, Thích Trị Siêu ... dịch từ bản Hán tạng ra tiếng Việt. Đây là một sự kiện quan trọng trong lịch sử Phật giáo Việt Nam cũng như trong đời sống văn hóa dân tộc.

Thiền viện Vạn Hạnh còn là một trung tâm đào tạo tăng tài cho các tỉnh phía Nam. Nơi đây đặt trường Cao cấp Phật học Việt Nam. Ban Giám hiệu của Trường hiện nay (khóa III, nhiệm kỳ III, 1993 - 1997) gồm có:

Hiệu trưởng: Hòa thượng Thích Minh Châu
Phó Hiệu trưởng: Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Phó Hiệu trưởng: Thượng tọa Thích Giác Toàn
Phó Hiệu trưởng: Cư sĩ Tống Hồ Cầm
Tổng Thư ký: Cư sĩ Trần Tuấn Mẫn
Chánh văn phòng: Đại đức Thích Đạt Đạo

Trường đào tạo theo phương thức tập trung thông qua một kỳ thi tuyển, mỗi khóa học kéo dài 4 năm, với văn bằng tương đương trình độ đại học. Từ năm 1984 đến nay, Trường đã mở được 3 khóa, đào tạo hơn 400 Tăng Ni sinh. Chương trình giảng dạy gồm phần nội điển do chư tôn túc giảng sư của Giáo hội phụ trách và phần ngoại điển do các giáo sư, giảng viên các trường Đại học đảm nhiệm.

Ngoài các trách vụ lãnh đạo Viện nghiên cứu Phật học và trường Cao cấp Phật học, Hòa thượng Thích Minh Châu còn đảm đương nhiệm vụ Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam kiêm Trưởng ban Phật giáo quốc tế, Phó Chủ tịch Hội Phật giáo Châu Á vì hòa bình (ABCP), Chủ tịch Trung tâm ABCP Việt Nam. Hòa thượng đã nhiều lần tham gia các diễn đàn, hội thảo, hội nghị về văn hóa Phật giáo ở nước ngoài.

Thiền viện Vạn Hạnh thường xuyên được vinh dự đón tiếp các đoàn đại biểu các Giáo hội Phật giáo trên thế giới và nhiều đoàn khách quốc tế đến làm việc, thăm viếng, cùng đông đảo du khách, Phật tử đến lễ bái, sinh hoạt, nhất là vào ngày lễ Phật đản, Vu lan ...


Nguồn : www.suutap.com

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 15-05-2009   #101
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.427
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Chùa Xá Lợi



Chùa Xá Lợi là một danh lam ở thành phố Hồ Chí Minh, có kiến trúc hiện đại mà vẫn mang sắc thái văn hóa dân tộc, đây là một kiến trúc mang nét đặc thù của đất Sài gòn, và là một điểm thắng tích mang dấu ấn cuộc đấu tranh lịch sử của Phật giáo đồ chống chế độ độc tài Ngô Đình Diệm kỳ thị và đàn áp tôn giáo. Hơn thế nữa, nơi đây là địa điểm để hình thành nên những cột mốc lịch sử của tiến trình thống nhất Phật Giáo Việt Nam, từ khi ngôi chùa mới được thành lập cho đến sau ngày Phật giáo được thực sự thống nhất toàn diện.


I . LỊCH SỬ XÂY DỰNG CHÙA XÁ LỢI

Năm 1952, phái đoàn Phật giáo Tích Lan đi dự phiên họp lần thứ II của hội Phật giáo thế giới (World Fellowship of Buđhists) tổ chức tại Tokyo-Nhật Bản, có phụng thỉnh theo một viên ngọc Xá lợi của đức Phật để tặng Phật giáo Phù Tang. Phái đoàn đáp tàu La marseillaire phải ghé bến Sài gòn 24 giờ. Tiến sĩ Malalasekeka, chủ tịch hội Phật giáo thế giới đánh điện cho hội Phật học Nam Việt hay tin lành ấy và ngỏ ý nhờ hội Phật học Nam Việt tổ chức cung nghinh Xá lợi lên bờ cho công chúng chiêm bái trong khoảng thời gian tàu ghé lại Sài gòn.

Được sự ủy nhiệm của thượng tọa Tố Liên, đại diện của hội Phật giáo thế giới tại Việt Nam và các tập đoàn trong Tổng hội Phật giáo Việt Nam ủy nhiệm, hội Phật học Nam Việt đứng ra tổ chức một ủy ban liên phái gồm 11 đoàn thể cung nghinh Xá lợi, số lượng tham dựlên đến nửa triệu người (phỏng ước của báo chí) làm cho nhà cầm quyền Việt Pháp lúc bấy giờ phải kinh ngạc trước tiềm lực tinh thần của Phật giáo.

Xá lợi được cung nghinh trên một kiệu hoa kết hình bạch tượng, từbến Nhà Rồng của hãng Messageries Maritimes về?nhà kiếng? (nay là trụ sở Tổng liên đoàn lao động Việt Nam) được trang trí làm nơi thờ tạm để lấy chỗ rộng rãi cho công chúng đến chiêm bái. Từ 11 giờ trưa đến 3 giờ sáng hôm sau, thiện nam tín nữ nối gót nhau đến dâng hương đảnh lễ không lúc nào dứt, đến 5 giờ sáng, 11 tập đoàn họp trở lại để phụng thỉnh Xá lợi xuống tàu đi đến Nhật Bản.

Với sự thiết tha của Phật giáo đồ Việt Nam như thế, sang năm sau (1953) đại đức Narada MahaThera, tọa chủ chùa Vajirarama ở Tích Lan sang Việt Nam phụng thỉnh theo 3 viên Xá lợi và 3 cây Bồ đề con, để dâng cúng cho 3 nơi : Phật giáo Nguyên thủy (chùa Kỳ Viên), Phật giáo Bắc tông và Phật giáo Cao Miên (theo lời tuyên bố của đại đức lúc đến phi trường Tân Sơn Nhất).

Được ủy nhiệm, đạo hữu Chánh Trí-Mai Thọ Truyền dẫn đầu một phái đoàn hợp cùng phái đoàn cung nghinh do Phật giáo Nguyên thủy tổ chức, lên phi trường Tân Sơn Nhất tiếp đón đại đức và các bảo vật. Về đến chùa Kỳ Viên, đại đức lập lại lời tuyên bố ban đầu và dự định vào sáng hôm sau, sẽ trao cho đạo hữu Chánh Trí phần Xá lợi và cây Bồ đề dành cho Phật giáo Bắc tông.

Nhưng ngay đêm hôm ấy đã xảy ra sự tranh chấp, về việc đoàn thể Phật giáo nào có đủ tư cách đại diện cho Phật giáo Bắc tông Việt Nam được phụng thờ ngọc Xá lợi. Đạo hữu Chánh Trí phải giải thích nhiều mới bênh vực được tư thế của Tổng hội Phật giáo Việt Nam, là tập đoàn lớn nhất thời bấy giờ gồm cả Tăng già và cư sĩ đại diện 3 miền đất nước. Do vì chưa nắm rõ tình hình nội bộ Phật giáo Việt Nam và để tránh sự dị nghị, sau khi thảo luận với đạo hữu Chánh Trí, đại đức Narada đã quyết định dâng ngọc Xá lợi lên đức Đoan Huy Hoàng Thái Hậu (thường gọi là đức Từ Cung, thân mẫu quốc trưởng Bảo Đại), để đức ngài tùy ý giao lại cho đoàn thể Phật giáo nào mà đức ngài xét thấy đáng phụng thờ di tích của đức Thế tôn.

Sau cuộc phân chia Xá lợi, phần của Phật giáo Bắc tông được hội Phật học cùng các đoàn thể bạn hợp sức cung nghinh ra nhà kiếng cho công chúng chiêm bái trong 3 ngày 3 đêm, và ngay tại đây, đại đức Narada, làm lễ kính trao cho ông Ưng An, khâm sai của Hoàng Thái hậu. Ba ngày chiêm bái đã xong, một phái đoàn gồm có đại đức Narada, đại đức Bửu Chơn, ông Ưng An, ông Lê Văn Hoạch-phó thủ tướng kiêm tổng trưởng thông tin, ông Nguyễn Văn Hiểu-hội trưởng hội Phật giáo Nguyên thủy và đạo hữu Chánh Trí Mai Thọ Truyền, phụng thỉnh tháp vàng đựng Xá lợi (do gia quyến ông Võ Văn Trọng ở Nam Vang cúng) lên Ban Mê Thuộc. Tại tư dinh, đức Đoan Huy Hoàng Thái hậu khăn áo chỉnh tềtrong cảnh trầm hương nghi ngút, quỳ tiếp ngọc báu.

Gần hai năm sau, đức Từ Cung quyết định giao cho Tổng hội Phật giáo Việt Nam trách nhiệm phụng thờ ngọc Xá lợi. Tổng hội xét công lao của hội Phật học Nam Việt, đã ủy nhiệm cho hội nhiệm vụ thờ phụng, lúc ấy trụ sở của hội còn đặt tại chùa Phước Hòa ở khu Bàn Cờ, cũ kỹ và chật hẹp.

Đến năm 1955, hội Phật học Nam Việt quyết định xây dựng chùa mới tại một một vị trí khác, để có nơi xứng đáng phụng thờ di bảo đức Thế tôn và đủ chỗ cho thiện tín đến lễ Phật chiêm bái Xá lợi. Hội đã được Tòa đại biểu chánh phủ tại Nam Việt ký giấy phép cho phép hộimở cuộc lạc quyên với hạn mức số tiền tối đa là 5 triệu đồng, để dùng vào việc kiến trúc. Cuộc lạc quyên được bắt đầu từ ngày 14. 01. 1956 và khóa sổ vào ngày 27. 12. 1956, kết quả được hơn 3 triệu đồng. Theo họa đồ xây dựng chùa, công trình được dự toán kinh phí khoảng 7 triệu đồng bạc thời bấy giờ.


II . ĐẶC ĐIỂM KIẾN TRÚC

A. Địa diểm : Chùa Xá Lợi được khởi công xây dựng vào ngày 5 tháng 8 năm 1956, trên thửa đất diện tích hơn 2500 m2, được nhượng lại của câu lạc bộ Đông Dương với giá tượng trưng là một đồng bạc Việt Nam. Khu đất tọa lạc tại góc đường Lê Văn Thạnh (nay là Sư Thiện Chiếu) và Bà Huyện Thanh Quan. Công trình kiến trúc theo bản vẽ của hai Kiến trúc sưTrần Văn Đường và Đỗ Bá Vinh; công trường xây dựng được điều khiển bởi hai Kỹ sư Dư Ngọc Ánh và Hồ Tố Thuận. Chùa được hoàn thành ngày 2 tháng 5 năm 1958.

B. Kiến trúc: Đây là một ngôi chùa có kiến trúc theo lối mới, là ngôi chùa lầu đầu tiên của thành phố, mở đầu cho lối kiến trúc trên bái đường, dưới giảng đường ở Việt Nam. Các hạng mục của chùa gồm có : 1. chính điện thờ Phật, 2. giảng đường, 3. tháp chuông 7 tầng, 4. thưviện-phòng đọc sách, 5. cổng tam quan, 6. khu Tăng phòng, 7. nhà trai đường, 8. văn phòng ban Quản trị, 9. đoàn quán Gia đình Phật tử, 10. Phòng phát hành kinh sách, 11. nhà khách Tăng, 12. khu trù phòng-cư sĩ, 13. Vãng sanh quán, 14. Các vườn cảnh.


III. ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA

A. Chùa được xây dựng với mục đích tôn thờ Xá lợi Phật tổ, và để làm Hội quán chính thức của Hội Phật học Nam Việt. Ban đầu có tên là chùa thờ Xá lợi, trong khi xây dựng, dân chúng quen gọi tắt là chùa Xá Lợi. Đến lúc khánh thành, hội Phật học đến thỉnh ý Hòa thượng Khánh Anh, Pháp chủ giáo hội Tăng già Nam Việt và cũng là Chứng minh Đạo sư của hội Phật học Nam Việt để xin đặt tên hiệu cho chùa, Hòa thượng dạy : ? còn đặt tên gì nữa ! công chúng đã gọi là chùa Xá Lợi thì lấy tên ấy cho hợp lòng người?, đó là duyên cớ có tên là chùa Xá Lợi.

B. Chùa Xá Lợi có những đặc điểm tự hào là di sản văn hóa quí báu như sau:

1. Phật bảo: là một tháp bằng vàng, trong đựng báu vật là ngọc Xá lợi Phật tổ, do Ngài Narada Maha Thera, một danh Tăng Phật giáo Tích Lan đã mang sang tặng để làm chứng tích Phật Bảo thường trụ tại nơi quốc độ Việt Nam. Sự tích viên Xá lợi này đã được nói rõ nơi phần nguyên do lập chùa ở trên.

2. Pháp bảo: có một pho kinh bối diệp cổ chép bằng chữ Pali trên lá Ô bôi (lá Muôn) cách nay trên 1.000 năm, dài 45 cm, bề ngang 6 cm, hai đầu có dùi lỗ để xỏ chỉ xâu lại, bìa bằng gỗ sơn son thếp vàng hoa văn cầu kỳ, được bọc trong một khăn lụa ngũ sắc. Bộ kinh này do giáo hội Tăng già Tích Lan tặng cho Ngài Thích Quảng Liên sau khi du học hơn 5 năm tại xứ này, về nước Ngài tặng lại cho Hội Phật học Nam Việt để làm chứng tích Pháp Bảo thường trụ tại quốc độ này. Bộ kinh chép lại lời ngọc đức Thế tôn khi ngài bắt đầu chuyển pháp luân tại thành Ba La Nại (Bénarès) cho năm anh em Kiều Trần Như nghe. Pháp tạng này được làm lễ cung thỉnh về chùa Xá Lợi vào ngày 16. 6. 1957 .

3. Tăng bảo: có một cây Bồ đề được chiết cành từ cây gốc ở Tích Lan, do Thái tử con vua A Dục (Asoka) đem từ nơi đức Phật thành đạo sang trồng khi đến truyền bá đạo Phật ở xứ này. Cây Bồ đề cũng do Ngài Narada MahaThera mang sang tặng để làm chứng tích Tăng Bảo thường trụ nơi thế gian. Cây Bồ đề được hạ thổ nơi sân chùa bên hông chánh điện, vào ngày vía đức A Di Đà 17 tháng 11 năm Mậu Tuất 1958,cùng lúc với một cây Bồ đề do Ngài Thích Minh Châu du học tại Ấn Độ gởi về cúng.

4. Chùa có một tháp bạc trong đựng viên xá lợi của đức Hoạt Phật Chương Gia Đồ Khắc Đồ do Pháp sư Diễn Bồi từ Đài Loan mang sang tặng vào ngày 11. 12. 1960. Đức Hoạt Phật (Phật sống) người gốc Thanh Hải (Mông Cổ) thường được người Trung Hoa biết dưới danh hiệu Thập Cửu thế Chương Gia Đại sư. Theo lịch sử, Ngài đã tái sinh 3 lần ở Ấn Độ, 9 lần ở Tây Tạng và 7 lần ở Thanh Hải, cộng 19 đời, mỗi đời tái sinh đều được xác nhận bởi những bằng chứng hiển hiện như Đạt Lai Lạt Ma ở Tây Tạng. Ngài sinh năm Canh Dần (Quang Tự thứ 16) tức năm 1890, và xả báo thân ngày 4. 3. 1958 tại Đài Bắc, 11 ngày sau làm lễ trà tỳ được trên một ngàn viên xá lợi.

5. Chùa thờ duy nhất một tượng Phật Thích Ca lớn, trong tư thế ngồi kiết già trên tòa sen. Ban đầu khi xây chùa, pho tượng được giáo sư Trương Đình Ý thực hiện bằng xi măng và thạch cao, tiếc rằng pho tượng khi đúc xong quá lớn không đưa lên chánh điện trên lầu được, nên nhượng lại cho chùa khác (nay là tượng Phật cô đơn ở huyện Bình Chánh) . Sau đó, hội Phật học nhờ trường Mỹ Nghệ Biên Hòa đắp tạo pho tượng khác bằng bột đá màu hồng, theo như kích thước của tòa sen trên Phật đài, tượng đúc xong được an vị vào ngày 24 tháng chạp năm Đinh Dậu 1958. Đến năm 1969, pho tượng được thếp lại toàn thân bằng vàng như hình dáng ngày nay. Tượng Phật chùa Xá Lợi là một tác phẩm mỹ thuật, đường nét hài hòa cân đối, mang tính cách một vị Phật Việt Nam, không chịu ảnh hưởng các nền văn hóa khác, là khuôn mẫu tiêu biểu cho nhiều tượng Phật được thực hiện sau này.

6. Tại tháp chuông 7 tầng, cao 32 mét, tầng cao nhất là một cổ lầu có treo một đại hồng chung cân nặng 2 tấn, đường kính 1,2 mét, cao 1,6 mét. Quả chuông được rót đồng tại phường đúc làng Dương Biều-Huế vào ngày mồng một tháng ba năm Tân Sửu 1961, theo mẫu của chuông chùa Linh Mụ-Huế. Tiếng ngân của chuông rất nổi tiếng, từng được nhiều thế hệ biết đến trong thời đấu tranh qua bài vọng cổ ?Tiếng chuông chùa Xá Lợi? do soạn giả Viễn Châu sáng tác ca ngợi. Tháp chuông chùa Xá Lợi được khánh thành vào ngày 16 tháng 11 năm Tân Sửu 1961 sau hơn 11 tháng thi công.

7. Nơi giảng đường ở tầng trệt với 400 chỗ ngồi, có một tấm hoành cổ niên đại trên 150 năm, được treo trước cửa chính của giảng đường từ cổng tam quan nhìn vào. Trong bức hoành có 4 chữ Hán đại tự : ?Đông Thùy Pháp Vũ? do chính tay Từ Hy Thái Hậu (đời Mãn Thanh-Trung Hoa) viết trên gấm, có đóng dấu ấn triện. Tấm hoành này do ông Bùi Văn Thương, nguyên đại sứ Việt Nam tại Tokyo đã mua được trên đất Nhật, gởi về biếu cho chùa Xá Lợi vào tháng 3 năm 1963. Sau này, để tưởng nhớ công lao của đạo hữu cố hội trưởng, hội Phật học quyết định đặt tên là giảng đường Chánh Trí, thì bức hoành được đưa vào treo ở trai đường vào năm 1974.

8. Chung quanh chính điện ở tầng lầu, được trang trí bằng một bộ tranh lớn bằng sơn bột màu gắn trên tường. Bộ tranh gồm 15 bức, khổ lớn, được giáo sư Nguyễn Văn Long ở trường Mỹ thuật Gia Định thực hiện năm 1958, mô tả lịch sử đức Phật Thích Ca từ sơ sinh cho đến khi thành đạo, nhập niết bàn. Tranh vẽ rất sinh động trông như đắp nổi, đây là một bộ tác phẩm hoành tráng có giá trị nghệ thuật về phong cách họa tiết.

9.Thư Viện và phòng đọc sách là một nơi tàng trữ rất nhiều tư liệu quí báu, có các tạng kinh điển Phật giáo và sách tư liệu bằng những ngôn ngữ : Việt , Hoa , Anh , Pháp , Nhật . . . Ngoài những sách, báo Phật giáo, thư viện còn có những sách về văn hóa, xã hội, triết học, tôn giáo khác, tổng số đầu sách hiện nay khoảng 5.500 quyển. Thư viện mở cửa vào buổi sáng hằng ngày, mỗi tuần 5 buổi .


IV. ĐẶC ĐIỂM LỊCH SỬ

Chùa Xá Lợi ngoài các giá trị vật chất, còn là nơi lưu giữ các giá trị tinh thần, trải qua bao năm tháng từ ngày thành lập cho đến nay, để lại bao chứng tích lịch sử không phai mờ bởi dấu ấn thời gian. Các đặc điểm ấy được sắp xếp theo thứ tự thời gian như sau :

A. Địa chỉ Lịch sử :

1.Là trụ sở trung ương của Hội Phật Học Nam Việt, một tổ chức Phật giáo có uy tín hoạt động từ năm 1951 cho đến năm 1981, có tất cả 74 chi hội với gần 25.000 hội viên khắp các địa phương ở miền Đông và Tây Nam bộ. Hội Phật học Nam Việt là đoàn thể Phật giáo có mặt ở :

- một trong 6 tập đoàn Phật giáo đứng tên thành lập Tổng Hội Phật giáo Việt Nam năm 1952 .

- một trong 11 tập đoàn đứng tên thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất năm 1964.

- một trong 9 tập đoàn Phật giáo đứng tên thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam năm 1981.

2. Là tòa soạn của tờ bán nguyệt san Từ Quang, tiếng nói chính thức của Hội Phật học Nam Việt, hoạt động liên tục từ năm 1952 đến 1974.

3. Là trụ sở của Ủy Ban Liên hiệp Phật giáo Hoa Việt. Ủy ban này được thành lập vào tháng 6 năm1959, từ 23 đoàn thể Phật giáo Hoa Việt hợp nhất để cùng đón tiếp Pháp sư Diễn Bồi, một danh tăng Phật giáo Trung Hoa và các phái đoàn Phật giáo, tôn giáo khác đến thăm viếng và làm việc tại Việt Nam. Ủy ban này hoạt động đến năm 1964.

4. Là trụ sở của Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo, trong cuộc đấu tranh đòi bình đẳng tôn giáo, chống chế độ kỳ thị tôn giáo, độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm. Ủy ban liên phái được thành lập từ ngày 25. 5. 1963, hoạt động đến tháng 1.1964 thì chấm dứt vai trò lịch sử?r>
5. Là nơi đặt lớp học đầu tiên của Viện Cao đẳng Phật học Sài gòn khi Viện mới được thành lập từ ngày 13. 3. 1964, có trụ sở tại chùa Pháp Hội và hai lớp học tại chùa Xá Lợi. Lớp học hoạt động đến năm 1966 thì dời về Viện Đại học Van Hạnh mới được xây dựng ở chân cầu Trương Minh Giảng (Lê Văn Sĩ ngày nay).

6. Là trụ sở Văn Phòng II Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, văn phòng hoạt động từ khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập tháng 11 năm 1981. Đến năm 1993 thì văn phòng được dời sang Thiền viện Quảng Đức.

B. Sự kiện Lịch sử :

1. Từ ngày 4 đến 8. 9. 1959, đã diễn ra đại hội Tổng hội Phật giáo Việt Nam kỳ III.

2. Từ ngày 1 đến 4 . 12 . 1962, đã diễn ra đại hội Tổng hội Phật giáo Việt Nam kỳ IV.

3. Ngày 16. 5. 1963, phái đoàn Tổng hội Phật giáo Việt Nam mở cuộc họp báo tại chùa Xá Lợi, công bố bản tuyên ngôn 5 nguyện vọng Phật giáo đồ ngày 10. 5. 1963 và các bản phụ đính, phụ trương, đồng thời tố cáo trước dư luận những vụ đàn áp, giam cầm và giết chóc mà Phật giáo phải chịu trong nhiều năm qua. Sau đó một tài liệu dày 45 trang được gửi tới chính quyền , trong đó có liệt kê những vụ đàn áp, bắt bớ và thủ tiêu nói trên.

- Ngày 21. 5. 1963, một cuộc lễ kỳ siêu và rước linh vị các nạn nhân bị chết do cuộc đàn áp Phật giáo từ chùa Ấn Quang đi về chùa Xá Lợi. Cùng lúc đó, một đoàn Tăng ni khác gồm 350 vị xuất gia xuất phát từ chùa Xá Lợi bắt đầu một cuộc diễn hành khác, trang nghiêm và lặng lẽ, hướng về trụ sở Quốc hội.

- Ngày 25. 5. 1963, một hôi nghị giữa các tập đoàn thuộc Tổng hội Phật giáo và đại diện các tổ chức, môn phái Phật giáo khác để thảo luận về kế hoạch đấu tranh. Một Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo được thành lập tại chùa Xá Lợi để chỉ đạo cho cuộc vận động của Phật giáo đồ, là tập họp tiếng nói thống nhất ý chí và hành động của Phật giáo đồ toàn quốc.

- Ngày 30. 5. 1963, các lực lượng cảnh sát, công an và mật vụ được dàn ra phong tỏa các nẻo đường bao quanh chùa Xá Lợi để trấn áp cuộc tuyệt thực của gần 400 Tăng ni tại đây. Cư sĩ Chánh Trí-Mai Thọ Truyền, hội trưởng hội Phật học Nam Việt trong ngày này đã gửi văn thư cho toàn thể Phật tử trong hội Phật học kêu gọi mọi người tham gia cuộc đấu tranh.

- Ngày 11. 6. 1963 tức ngày 24 tháng 3 năm Quí Mão, một cuộc tuần hành xuất phát từ chùa Phật Bửu đi đến ngả tư Lê Văn Duyệt- Phan Đình Phùng và dừng lại đây. Hòa thượng Thích Quảng Đức đã thắp lên ngọn đuốc tự thiêu thân, cầu nguyện cho đạo pháp trường tồn và chính quyền nhà Ngô thức tỉnh. Nhục thân của Ngài được đưa trở về chùa Xá Lợi quàn tại đây một tuần trước khi đưa đi hỏa táng, còn lại quả tim bất diệt để làm biểu tượng chính nghĩa cho cuộc đấu tranh của Phật giáo đồ Việt Nam trước bạo quyền. Quả tim bất diệt ấy được đưa về thờ phụng tại chùa Xá Lợi trong suốt cuộc cuộc đấu tranh cho đến lúc thành công.

- Ngày 15. 7. 1963, chư Tăng chùa Xá Lợi và các vị lãnh đạo phong trào trong ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo bắt đầu một cuộc tuyệt thực mở đầu cho giai đoạn đấu tranh đòi thực thi bản thông cáo chung mà chính quyền đã ký với Phật giáo.

- Ngày 17. 7. 1963, khoảng 400 Tăng ni đến tập họp tại chùa Xá Lợi. Sau khi lễ Phật và mặc niệm tại chánh điện, họ xếp hàng diễu hành đến chợ Bến Thành giương biểu ngữ yêu cầu chánh phủthực thi bản thông cáo chung. Đoàn diễu hành đã bị cảnh sát đàn áp bắt lên xe chở đi giam giữ ở An Dưỡng Địa-Phú Lâm. Đến ngày 20.7. mới được thả ra trở về chùa Xá Lợi với rất nhiều vị bị trọng thương.

- Ngày 23. 7. 1963, Ni sư Diệu Huệ mở cuộc họp báo tại chùa Xá Lợi cho biết bà sẽ thiêu thân để chống lại chính sách kỳ thị tôn giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm. Ni sư Diệu Huệ là thân mẫu của ông Bửu Hội, một nhà Bác học hiện đang làm đại sứ cho chính quyền Diệm tại nhiều nước thuộc Tây Phi Châu. Cùng ngày này, trung tá Trần Thanh Chiêu, tác giả cuộc biểu tình của thương phế binh trước chùa Xá Lợi vào buổi sáng đã bị chính quyền cách chức và phạt 40 ngày trọng cấm.

- Ngày 1.8.1967. khoảng 300 anh em thương phế binh đã tự động tập họp tại chùa Xá Lợi, làm lễ ở chính điện. Đại diện của họ gặp chư vị lãnh đạo ủy ban liên phái phát nguyện ủng hộ cuộc đấu tranh. Cùng ngày này, Hòa thượng Hội chủ Thích Tịnh Khiết đã gởi một điện văn cho Tổng thống Hoa Kỳ J. F. Kennedy phản đối sự dối trá của đại sứ Mỹ F. Nolting khi tuyên bố với hãng thông tấn UPI rằng không có chuyện kỳ thị tôn giáo và ngược đãi Phật giáo đồ tại Việt Nam.

- Ngày 5. 8. 1963, lễ kỳ siêu Thánh tử đạo Thích Nguyên Hươngđược tổ chức tại chùa Xá Lợi, số lượng Tăng ni và các đoàn thể Phật tử tham dự lên đến hai mươi ngàn người.

- Ngày 12. 8. 1963, Nữ sinh Mai Tuyết An đến chùa Xá Lợichặt bàn tay trái của mình để cảnh cáo chính quyền. Trước khi chặt tay, cô đã viết 3 bức thư, một cho chư Tăng và Phật giáo đồ, một cho Tổng thống Diệm và một cho bà Ngô Đình Nhu.

- Ngày 18. 8. 1963, lễ cầu siêu cho tất cả những vị đã thiêu thân vì bảo vệ Phật giáo diễn ra tại chùa Xá Lợi, trên ba mươi ngàn người đã đến tham dự. Sau đó là một cuộc tuyệt thực tại chỗ của mười ngàn người, chủ lực là các đoàn thể Sinh viên Phật tử, Học sinh Phật tử và đoàn Thanh niên bảo vệ Phật giáo.

- Ngày 20. 8. 1963, chính quyền Diệm ra đòn ác liệt cuối cùng nhằm triệt tiêu Phật giáo trong trận tấn công vào chùa Xá Lợi vào lúc nửa đêm rạng sáng 21. 8 . Khoảng 200 người thuộc lực lượng đặc biệt đã tấn công vào chùa trong sự chống cự quyết liệt của Tăng ni cố thủ bảo vệ những vị lãnh đạo tối cao của ủy ban Liên phái, chúng lật đổ bàn thờ Bồ Tát Quảng Đức, đập phá tất cả và tấn công lên chánh điện, bị ngăn chặn bởi chướng ngại vật, chúng đã liệng nhiều lựu đạn cay,đánh đập dã man Tăng chúng. Sau một giờ ngăn cản, nhiều vị bất tỉnh, chư Tăng kiệt sức không còn đủ sức chống cự, chúng phá cửa lục soát các Tăng phòng bắt còng tay chư tôn đức lãnh đạo và tất cả Tăng chúng, ngót 250 vị Tăng ni đã bị bắt tại chùa Xá Lợi trong đêm đẫm máu ấy. Chùa Xá Lợi bị tàn phá tan hoang, tượng Phật Thích Ca tại chánh điện cũng bị xâm phạm. Cuộc tấn công này xảy ra đồng thời và toàn diện khắp nơi, có hơn 1.400 Tăng ni đã bị bắt trong đêm ấy. Sáng hôm sau chính quyền ban bố thiết quân luật và vu cáo cho giới Phật giáo nổi loạn, Tăng ni bị bắt là phần tử phản động, sự kiện này đã dấy lên một làn sóng phản đối quyết liệt của tất cả các tầng lớp xã hội, đã biến thành cuộc phản kháng mạnh mẽ đưa đến sự sụp đổ của chính quyền Ngô Đình Diệm trong cuộc chính biến ngày 1. 11. 1963, chấm dứt một chế độ mất lòng dân, coi thường đạo lý.

5. Từ ngày 31. 12. 1963 đến ngày 4. 1. 1964, khai mạc đại hội tại chùa Xá Lợi để soạn thảo ra hiến chương Phật giáo và thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.


V . CÁC ĐỜI LÃNH ĐẠO & ĐIỀU HÀNH

Là một ngôi chùa Phật học, nên sự quản lý được thiết lập thành hai hệ thống, giới tu sĩ xuất gia giữ vai trò lãnh đạo tinh thần và giới cư sĩ tại gia giữ nhiệm vụ điều hành Phật sự. Giới xuất gia có hai cấp : cấp lãnh đạo là phẩm vị Chứng minh đạo sư, cấp điều hành là phẩm vị Trụ trì. Giới tại gia cũng có hai cấp : cấp lãnh đạo là chức vị Hội trưởng, cấp điều hành là chức vị Tổng thư ký.

Do tiền thân của chùa Xá Lợi là hội Phật học Nam Việt hoạt động liên tục từ năm 1950, nên việc liệt kê lịch sử các đời lãnh đạo & điều hành được bắt đầu từ khởi nguồn.


Các đời Chứng minh đạo sư:

1 . Hòa thượng Thích Liễu Thiền (1950 ? 1956)

2 . Hòa thượng Thích Như Ý (1950 - 1954)

3 . Hòa thượng Thích Đạt Thanh (1950 - 1954)

4 . Hòa thượng Thích Huệ Quang (1955 - 1956)

5 . Hòa thượng Thích Khánh Anh (1957 ? 1961)

6 . Hòa thượng Thích Thiện Hòa (1957 - 1963)

7 . Hòa thượng Thích Hành Trụ (1957 - 1984)

8 . Hòa thượng Thích Thiện Hào (1984 - 1997)


Các đời Trụ trì:

1 . Hòa thượng Thích Trường Lạc (1957)

2 . Hòa thượng Thích Huyền Quí (1958)

3 . Hòa thượngThích Vĩnh Chơn (1959)

4 . Hòa thượng Thích Thiện Thắng (1962)

5 . Hòa thượng Thích Thiện Phước (1973)

6 . Thượng tọa Thích Minh Hạnh (1977)

7 . Thượng tọa Thích Minh Trí (1978)

8 . Hòa thượng Thích Hiển Tu (1979)


Các đời Hội trưởng:

1 . Pháp sư Quảng Minh (1950 ? 1954)

2 . Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ (1954 ? 1955)

3 . Cư sĩ Mai Thọ Truyền (1955 ? 1973)

4 . Bác sĩ Cao Văn Trí (1973 ? 1979)

5 . Cư sĩ Nguyễn Văn Hoanh (1979 ? 1996)


Các đời Tổng thư ký:

1 . Cư sĩ Mai Thọ Truyền (1950)

2 . Cư sĩ Võ Đình Dần (1953)

3 . Cư sĩ Lưu Văn Trừ (1954)

4 . Cư sĩ Tống Hồ Cầm (1955)

5 . Cư sĩ Đỗ Văn Giu (1959)

6 . Cư sĩ Lê Ngọc Diệp (1961)

7 . Cư sĩ Tăng Quang (1979)


VI . GIÁ TRỊ VĂN HÓA & LỊCH SỬ

Nói đến ngôi chùa Xá Lợi, là nói về một chốn yên tỉnh để mọi người tìm đến đọc sách, sinh viên học sinh chọn làm nơi ôn tập học bài, người già tìm đến vãn cảnh trầm tư, đó là một đặc điểm chỉ có ở nơi này trong các ngôi chùa ở thành phố. Nơi đây có cảnh trí thanh thoát tỉnh lặng, khiến người ta tìm thấy sự cân bằng tâm hồn giữa cuộc sống nơi chốn phồn hoa đô hội.

Là một ngôi chùa có truyền thống Phật học, đây là nơi sinh hoạt giáo lý hàng tuần của tín đồ và những người muốn tìm hiểu nghiên cứu triết lý Phật đà. Vào mỗi sáng chủ nhật, giảng đường mở cửa để mọi người đến nghe thuyết pháp, buổi chiều là lớp học giáo lý và sinh hoạt của thanh thiếu niên Gia đình Phật tử, cùng những buổi tu tập Bát Quan Trai của tín đồ Phật tử. Sức sống của ngôi chùa Xá Lợi trải qua bao năm tháng lịch sử thăng trầm, vẫn luôn sinh động phát triển theo định hướng thuở đầu của ngôi Tam bảo này.

Với thời gian hơn 40 năm, ngôi chùa lịch sử này cũng vừa được trùng tu lại toàn diện trong 3 năm từ 1999 đến 2001 theo như nguyên mẫu ban đầu, để giữ gìn những giá trị kiến trúc mang phong cách đặc thù của chùa Xá Lợi, như chính đường lối hoạt động trung dung chuyên về học Phật đã định ở thuở ban đầu.

Ngày nay, chùa Xá Lợi không chỉ là một địa chỉ lịch sử, một thắng cảnh văn hóa của thành phố góp phần làm nên một nét đẹp của đất Sài gòn, mà còn là niềm tự hào về truyền thống cho lịch sử Phật giáo Việt Nam và những người con Phật khắp năm châu. Cũng như thế, bất cứ người Sài gòn nào khi ca ngợi về bản sắc văn hóa của thành phố thân yêu mình, đều không thể thiếu bóng dáng ngôi chùa Xá Lợi, đãsánh cùng bao thắng cảnh khác làm nên nét đẹp văn hóa dân tộc cho quê hương Việt Nam.

Viết xong tại Xá Lợi

ngày 28. 6. năm Tân Tỵ - 2001



Nguồn : www.suutap.com

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 15-05-2009   #102
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.427
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Chùa Xà Tón




Chùa Xà Tón (Xvayton) là một ngôi chùa thờ Phật nổi tiếng (theo phái tiểu thừa), tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc chùa tháp của đồng bào Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long, Nam Bộ. Chùa Xà Tón nằm ngay ở trung tâm huyện lri Tôn (An Giang).

Đối với đồng bào Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long và An Giang, chùa là nơi thờ Phật, là trung tâm văn hóa, nơi gìn giữ những phong tục, tập quán, kiến trúc, điêu khắc, nghệ thuật dân tộc cổ truyền; nơi thanh niên và bà con dân tộc Khmer đến tu học để trở thành người có tri thức, đức hạnh và chăm chỉ lao động.

Các vị cao niên người Kher và các vị sư sãi ở đây cho biết, chùa Xà Tón đã được xây dựng cách đây hơn 200 năm. Lúc đầu, chùa được dựng bằng gỗ, lợp lá, nền đất. Ngày xưa vùng Tri Tôn còn hoang vu, rậm rạp, dân cư rất thưa thớt. Trên những ngọn cây to cao nhiều cành, nhiều lá có từng đàn khỉ (Xvay) đu vào nhau, nối đuôi nhau mà chuyền đi (ton). Bà con Khmer dựng chùa thờ Phật ở đây và đặt tên chùa là Xvayton (biến âm thành Xà Tón cho dễ đọc).

Năm 1896 và 1933 chùa Xà Tón được xây dựng lại bằng gạch ngói, cột bằng gỗ câm-xe, nền chùa đắp cao 1,8 m đễợc xây bằng đá xanh. Giống như các chùa Khmer khác ở đồng bằng sông Cửu Long, chùa Xà Tón cũng theo cùng một quy cách bố cục và kiến trúc thống nhất. Chính điện chùa Xà Tón nằm ở trung tâm khu đất của chùa. Chính điện được xây theo hướng đông-tây có nóc nhọn và hai mái cong gợi hình ảnh nằm dài uốn cong của rắn thần Naga,

tượng trưng cho sự bất diệt, dũng mãnh. Mái chính điện được dựng cao dần theo tam cấp, lợp ngói đỏ, xanh, vàng, trông rực rỡ dưới nắng. Chung quanh ngôi chính điện là các dãy tháp, kiểu thức thanh nhã tinh tế, vút dần lên cao, với các tượng nhỏ chung quanh và trên đỉnh là tượng thần Bayon bốn mặt bằng đá (thần sáng tạo). Trong các tháp này là hài cốt đã hỏa táng của các nhà tu hành ở chùa. Phía trước chùa có hồ lớn trồng hoa sen, hoa súng; bên trái chùa là hàng dừa trĩu quả và các cây cổ thụ cành là là rủ bóng xuống hàng tháp. Trong ngôi chính điện có tượng Phật lớn ngồi trên bệ cao. (Chỉ có một tượng Phật cao gần mái đặt ở chính điện). Trên các bức tường chung quanh có nhiều hình vẽ kể lại cuộc đời của Phật và các môn đồ, nhưng nay đã phai màu. Đằng trước tượng Phật còn có nhiều tượng nhỏ bằng bạc, bằng gỗ khá đặc sắc. Chính điện là nơi hành lễ, thuyết pháp, còn nơi học, nơi ở của các vị sư là những dãy nhà khác, có phần nhỏ hơn nhưng cũng có hai mái cong gập lại, có nóc nhọn và có hình tễợng thần rắn Naga.

Hằng năm ở chùa Xà Tón có 5 ngày hội lớn: Lễ hội Chol Chhnam Thmay là lễ năm mới vào tháng Tư; lễ Pisát Bôchia là lễ nhớ ơn Phật; lễ Phật sinh vào rằm tháng Tư âm lịch; lễ Chol Neasa là lễ cấm ba tháng sư không ra khỏi chùa (từ rằm tháng Sáu đến rằm tháng Chín âm lịch); lễ Pha Chum Bênh, còn gọi là Đôn ta là lễ thanh minh cúng ông bà, lễ tỏ lòng biết ơn tổ tiên; lễ Kà Thận là lễ sắm quần áo cho sư sãi, sắm vật dụng cho chùa hay cho trường làng. Vào những ngày đó, bà con Khmer đến chùa lễ Phật rất đông vui.

Những ngôi chùa Khmer như ngôi chùa Xà Tón với hình tượng rắn thần Naga - biểu tượng cho sự Bất diệt, với các ngôi tháp có tượng thần Bayon bốn mặt - thần sáng tạo là những nét độc đáo, cổ kính của các làng Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long, Nam Bộ.



Nguồn : www.suutap.com

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 15-05-2009   #103
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.427
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Chùa Yên Hòa (Báo Ân Tự)



Chùa Yên Hòa thuộc thôn Yên Hoà, xã Yên Hòa, huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội, cách trung tâm thành phố khoảng 7 km. Đường đi đến Cầu Giấy rẽ trái tho bờ sông Tô Lịch là đến di tích.

Chùa được dựng trên một khoảnh đất cao và rộng cùng với đình. Chùa có kiến trúc hình chuôi vồ, gồm tiền đường, thượng điện và nhà thiêu hương. Tiền đường gồm có 3 gian 2 chái. Thượng điện gồm 5 gian. Chùa cũng có nhà Mẫu, nhà Tổ. Chùa có quy mô kiến trúc vừa phải vì là chùa của một làng.

Hệ thống tượng Phật đầy đủ, có nhiều pho được tạo tác cuối thế kỷ 19 xen lẫn đầu thế kỷ 20.

Chùa (và đình) đã được Bộ Văn hóa và thông tin xếp hạng di tích kiến trúc, nghệ thuật ngày 10/3/1994.


Nguồn : www.suutap.com

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Trả lời

Tags
chùa, nam, việt


Quyền sử dụng
Huynh đệ không được phép tạo chủ đề mới
Huynh đệ không có quyền gửi bài trả lời
Huynh đệ không được phép gửi file-gửi-kèm
Huynh đệ không được phép sửa bài của mình

BB code is Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển nhanh đến:

 
Copyright © 2002 - 2010 Luongsonbac.club
Thiết kế bởi LSB-TongGiang & LSB-NgoDung
Loading

Múi giờ tính theo GMT +7. Hiện giờ là 05:45
vBCredits v1.4 Copyright ©2007 - 2008, PixelFX Studios
Liên hệ - Lương Sơn Bạc - Lưu trữ  
Page generated in 0,10654 seconds with 17 queries