Lương Sơn Bạc  
Trang chủ Lương Sơn Bạc  Lương Sơn Diễn Đàn  Nơi Lưu Trữ: Truyện Ngắn, Truyện Dài, Bài Viết, Nhân Vật, Sách Lịch Sử, Sách Dạy Võ Thuật...   Xem hình thành viên và hình các buổi giao lưu LSB   Nơi Lưu Trữ: Cổ Thi VN, Cổ Thi TQ, Thơ Mới & Các Tuyển Tập Thơ
Quay Lại   Lương Sơn Bạc > Kim Ngư Thành > Quảng Kiến Đài > Văn Hóa Thế Giới
Thành viên
Mật khẩu
Những câu hỏi thường gặp Danh sách các thành viên LSB  Lương Sơn Thương Quán
Văn Hóa Thế Giới Chia sẻ những nền văn hóa của các nước trên thế giới

Trả lời
 
Tiện ích Chế độ hiển thị
Cũ 30-10-2006   #28
Ảnh thế thân của LSB_Lãng Tử
LSB_Lãng Tử
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Vô Tình Lãng Tử
Gia nhập: 27-10-2006
Bài viết: 2.983
Điểm: 245
L$B: 1.108.829
Tâm trạng:
LSB_Lãng Tử đang offline
 
Thumbs up

Tết Nha Trang


Em đi chợ Tết Nha Trang,
Nhớ mua một bó mai vàng cho anh...

Chợ Tết Nha Trang bắt đầu nhóm từ phiên sau rằm tháng Chạp âm lịch, tuy nhiên chợ đông nhất kể từ ngày 25 trở đi. Chợ Đầm là chợ lớn nhất ở Nha Trang, là trung tâm buôn bán đủ các mặt hàng nội ngoại, trên rừng, dưới biển. Vào những ngày áp Tết, chợ Đầm quá tải bởi dòng người đi mua sắm quá đông, chợ ngày càng lan rộng ra chiếm các đường phố lân cận. Điểm nổi bật ở chợ Tết Nha Trang là mai vàng. Đây là loại hoa chiếm ưu thế và người địa phương ưa thích chưng bày trong mấy ngày Tết. Ngoài mai chậu còn có đủ các loại mai cành có nguồn gốc từ các vùng núi Ninh Hòa, Diên Khánh, Cam Ranh, Khánh Vĩnh, Vạn Ninh, hàng ngày nhờ xe đổ về đây nườm nượp nhưng rồi đến ngày 30 vẫn hết sạch.

Không khí Tết bắt đầu nở rộ từ 27, 28 tháng Chạp. Người ta bắt đầu gói bánh tét, đóng bánh in. Đây là hai loại bánh “chủ lực”, dù nhà giàu sang hay nghèo khó cũng phải có, trước là để cúng ông bà, sau nữa, cũng có mặt trên mâm cỗ ngày Tết theo đúng truyền thống lâu đời ở đây.

Chiều 30 (nếu là tháng đủ) nhà nào nhà nấy sửa soạn tươm tất trang hoàng sáng sủa. Các câu đối, tranh Tết cũ được thay thế bằng cái mới. Trên bàn thờ mọi thứ đều lau chùi sạch sẽ nhưng lư hương thì tuyệt đối không đụng đến, chờ cho đến khi cúng giao thừa mới thay bỏ các chân nhang cũ. Mọi nhà đều lo sắm mâm cơm để cúng gia tiên gọi là “rước ông bà” về ăn Tết. Đến nửa đêm 30, mọi người cúng giao thừa. Nhiều bô lão cao niên thức để cúng mà cũng vừa để nghe ngóng chiêm nghiệm con vật nào phát ra tiếng kêu trước mà đoán điều hung kiết trong năm mới. Sau giờ giao thừa, làn sóng người đi hái lộc đầu năm đổ về nhiều ngả. Người ta chen nhau về hướng cầu Xóm Bóng để lên Tháp Bà hay đổ về đường Trần Phú, dọc theo bãi biển Nha Trang. Mấy năm gần đây, người ta còn kinh doanh lá lộc sau giờ giao thừa. Tại các ngã ba, ngã tư, bến xe, bến đò đều có bán lá lộc. Người đi tìm hái lá lộc khỏi phải đi xa.

Tục đi hái lộc đầu năm khiến cho phố xá về đêm vẫn nhộn nhịp, xe cộ ngược xuôi hối hả, tất cả như hướng về năm nới tốt đẹp, an khang, thịnh vượng. Tuy nhiên, hái lộc xuân không chỉ có người đứng tuổi mà trái lại, phần lớn thanh niên nam nữ tranh nhau đi hái lộc. Phải chăng, hái lộc trở thành cái “mốt” đầu năm ?

Trong giờ giao thừa, một số quán cà phê cũng bắt đầu mở cửa với những bản nhạc xuân vui tươi để chào đón xuân sang, đồng thời mở hàng cho một năm mới buôn may, bán đắt.

Sáng mồng Một, người theo đạo Phật thì lũ lượt về chùa Long Sơn, người theo đạo Thiên Chúa thì đến nhà thờ Núi cầu nguyện cho quốc thái dân an, nhà nhà hạnh phúc. Đó là chưa kể đến người hành hương đầu năm về Tháp Chàm Pô Nagar để cầu tài, cầu phúc, cầu lộc, cầu duyên... Có thể nói không khí ở khu quần thể tháp Bà trong mấy ngày Tết luôn đắm chìm trong màn hương khói, nghi ngút đến nghẹt thở. Còn ở các nghĩa trang, dòng người đi viếng mộ ông bà, người thân cũng đông chẳng kém. Họ mang theo hoa quả, nhang đèn để cúng những người đã khuất. Các nghĩa địa vào ngày đầu năm đông vui chẳng khác nào những ngày hội lớn.

Đối việc thăm viếng, chúc Tết, người Nha Trang không bao giờ xem nhẹ. Ngày Tết, nhà nhà đều râm ran tiếng nói cười và những lời chúc xoay quanh công việc làm ăn, buôn bán và sức khoẻ. Khi đi chúc Tết, họ có lệ mang theo trong mình những bao tiền “lì xì” cho trẻ con. Và tục mừng nhau ly rượu đầu năm, dù không biết dùng rượu nhưng cũng không chối từ.

Thuở xưa, người Nha Trang ăn Tết kéo dài đến mồng mười và lai rai cho đến ngày rằm tháng Giêng. Còn ngày nay, người Nha Trang ăn Tết có vẻ gọn nhẹ hơn, tuy nhiên, không khí Tết vẫn kéo dài đến ngày “hạ nêu” với những trò chơi dân gian như lô tô, bài chòi sôi nổi và hào hứng.

Người Nha Trang rất thích du xuân. Chính vì vậy mà vào ngày Tết, ngành du lịch thành phố vẫn hoạt động liên tục và phục vụ tối đa để đưa đón khách chơi xuân ra các hải đảo, ven đầm để tham quan, vui chơi, thưởng thức các món ăn đặc sản biển tại chỗ. Gia đình du xuân cũng là “mốt” của người Nha Trang trong những năm gần đây. Và ngành du lịch - mũi nhọn của thành phố biển là ngành làm ăn “phát tài” sớm nhất.
Nha Trang, mùa xuân lại về! Tết Nha Trang muôn màu muôn vẻ...


Chữ ký của LSB_Lãng Tử

Tài sản của LSB_Lãng Tử
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 30-10-2006   #29
Ảnh thế thân của LSB_Lãng Tử
LSB_Lãng Tử
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Vô Tình Lãng Tử
Gia nhập: 27-10-2006
Bài viết: 2.983
Điểm: 245
L$B: 1.108.829
Tâm trạng:
LSB_Lãng Tử đang offline
 
Thumbs up Danh Nhân Việt Nam

Nguyễn Trãi, ngôi sao Khuê của văn hóa Việt Nam



Nguyễn Trãi (1380 - 1442) là Anh hùng dân tộc, nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hóa vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. Năm 1406, giặc Minh xâm lược Đại Việt, đánh bại nhà Hồ, áp bức muôn dân, bắt cha Nguyễn Trãi đưa về Trung Quốc. Nợ nước, thù nhà, ông đã tìm đến với phong trào khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi và trở thành nhà tổ chức soạn thảo và thực thi những quyết sách đúng đắn, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.

Dưới triều Lê, cả lúc vinh hoa tột đỉnh làm quan tới chức Gián nghị đại phu tri tam quân sư hay khi lui về ở ẩn, tấm lòng trung với nước, với dân vẫn luôn ngời sáng. Bị bọn gian thần hãm hại, phải chịu họa "tru di tam tộc", mãi đến năm 1464 ông mới được vua Lê Thánh Tông minh oan. Nguyễn Trãi để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng như Dư địa chí, Quốc âm thi tập, v.v và đặc biệt bài Bình Ngô đại cáo được người đời sau ca ngợi là áng "thiên cổ hùng văn".

Nguyễn Trãi, sinh ở Thăng Long trong gia đình ông ngoại là quan Đại tư đồ Trần Nguyên Đán. Cha ông là Nguyễn ứng Long, hiệu ức Trai (tức là Nguyễn Phi Khanh). Mẹ ông là Trần Thị Thái, con gái Trần Nguyên Đán.

Năm Nguyễn Trãi lên 5 tuổi, mẹ ông mất. Sau đó không lâu, Trần Nguyên Đán cũng mất. Ông về ở với cha tại quê nội ở làng Nhị Khê.

Năm 1400, để cứu vãn chế độ phong kiến đang khủng hoảng trầm trọng, Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần và tiếp tục thi hành các cải cách như chính sách hạn nô, hạn điền, tổ chức lại giáo dục, thi cử và y tế.

Cũng năm 1400, sau khi lên ngôi Vua, Hồ Quý Ly mở khoa thi. Nguyễn Trãi ra thi, ông đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) năm ông 20 tuổi. Hồ Quý Ly cử ông giữ chức Ngự sử đài chánh chưởng. Còn cha ông là Nguyễn Phi Khanh đỗ bảng nhãn từ năm 1374, được Hồ Quý Ly cử giữ chức Đại lý tự khanh Thị lang tòa trung thư kiêm Hàn lâm Viện học sĩ tư nghiệp Quốc Tử Giám.

Năm 1406, Minh Thành Tổ sai Trương Phụ mang quân sang xâm lược Việt Nam. Nhà Hồ đem quân ra chống cự, nhưng bị đánh bại. Cha con Hồ Quý Ly và một số triều thần trong đó có Nguyễn Phi Khanh bị bắt và bị đưa về Trung Quốc.

Nghe tin cha bị bắt, Nguyễn Trãi cùng em là Nguyễn Phi Hùng khóc theo lên tận cửa Nam Quan với ý định sang bên kia biên giới để hầu hạ cha già trong lúc bị cầm tù.

Nhân lúc vắng vẻ, Nguyễn Phi Khanh bảo Nguyễn Trãi:

- Con là người có học, có tài, nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới là đại hiếu. Lọ là cứ phải đi theo cha, khóc lóc như đàn bà mới là hiếu hay sao?

Nguyễn Trãi nghe lời cha quay trở lại tìm con đường đánh giặc, cứu nước.

Về đến Thăng Long, ông bị quân Minh bắt. Thượng thư nhà Minh là Hoàng Phúc biết Nguyễn Trãi là một nhân vật có tài, tìm cách dụ dỗ, nhưng ông kiên quyết không theo giặc.

Sau một thời gian bị giam lỏng ở Đông Quan (tức Thăng Long), Nguyễn Trãi vượt được vòng vây của giặc vào Thanh Hóa theo Lê Lợi. Ông gặp vị thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn ở Lỗi Giang. Ông trao cho Lê Lợi bản chiến lược đánh đuổi quân Minh mà sử sách Việt Nam gọi là Bình Ngô sách.

Trong bài tựa ức Trai di tập, Ngô Thế Vinh cho biết: Bình Ngô sách "hiến mưu trước lớn không nói đến việc đánh thành, mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người".

Lê Lợi khen chiến lược của Nguyễn Trãi là đúng. Và ông đã vận dụng chiến lược này để đánh quân Minh. Từ đây, ông thường giữ Nguyễn Trãi gần bên mình để cùng bàn mưu tính kế đánh quân Minh.

Cuối năm 1426, Lê Lợi lập bản doanh ở bến Bồ Đề (Gia Lâm). Tại đây, ông cho dựng một cái chòi cao ngang bằng tháp Báo Thiên ở Đông Quan. Lê Lợi ngồi tầng thứ nhất của chòi, Nguyễn Trãi ngồi tầng thứ hai. Hai nhân vật luôn luôn trao đổi ý kiến với nhau.

Trong kháng chiến, Nguyễn Trãi chủ trương phải dựa vào dân thì mới đánh được giặc, cứu được nước. Khi kháng chiến đã thắng lợi, ông cũng thấy rằng phải lo đến dân, thì mới xây dựng được đất nước. Trong tờ biểu tạ ơn được cử giữ chức Gián nghị đại phu tri tam quân sư, ông đã viết: "Chí những muốn, việc cố nhân đã muốn: để tâm dân chúng, mình lo trước điều thiên hạ phải lo".

Năm 1437, khi vua Lê Thái Tông cử ông định ra lễ nhạc, ông cũng nói cho vua biết những điều mà vua phải làm trước hết là chăn nuôi nhân dân:

- Dám mong Bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăn nuôi muôn dân khiến cho trong thôn cùng xóm vắng, không có một tiếng hờn giận oán sầu. Đó tức là giữ được cái gốc của nhạc.

Do luôn luôn "lo trước điều thiên hạ phải lo, vui sau cái vui của thiên hạ", Nguyễn Trãi lúc nào cũng sống một cuộc đời giản dị, cần kiệm liêm chính. Nhà của ông ở Đông Kinh (Thăng Long) chỉ là một túp nhà tranh (góc thành Nam lều một gian). Khi ông cai quản công việc quân dân ở hải đảo Đông Bắc, nhà của ông ở Côn Sơn "bốn mặt trống trải, xác xơ chỉ có sách là giàu thôi" (thơ Nguyễn Mộng Tuân, bạn Nguyễn Trãi).

Bài Bình Ngô đại cáo của ông là một "thiên cổ hùng văn". Đó là một thiên anh hùng ca bất hủ của dân tộc.

Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi là những thư từ do ông viết trong việc giao thiệp với quân Minh. Những thư này là những tài liệu cụ thể chứng minh đường lối ngoại giao vào địch vận hết sức khéo léo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi làm cho quân Lam Sơn không mất xương máu mà hạ được rất nhiều thành.

Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là tác phẩm xưa nhất bằng Việt ngữ mà chúng ta còn giữ được. Tác phẩm này rất quan trọng cho công tác nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam và lịch sử ngôn ngữ Việt Nam.

Năm 1442, cả gia đình ông bị hãm hại (tru di tam tộc) khiến cho người đương thời vô cùng thương tiếc.

Năm 1464, vua Lê Thánh Tông hạ chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng quan tước và tìm hỏi con cháu còn sót lại.

Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. ông là anh hùng dân tộc, là nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hóa lớn của nước ta. Tâm hồn và sự nghiệp của ông mãi mãi là vì sao sáng như Lê Thánh Tông truy tặng "ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo".


Chữ ký của LSB_Lãng Tử

Tài sản của LSB_Lãng Tử
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 30-10-2006   #30
Ảnh thế thân của LSB_Lãng Tử
LSB_Lãng Tử
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Vô Tình Lãng Tử
Gia nhập: 27-10-2006
Bài viết: 2.983
Điểm: 245
L$B: 1.108.829
Tâm trạng:
LSB_Lãng Tử đang offline
 
Thumbs up

Chu Văn An - người thầy mẫu mực



Chu Văn An (1292 - 1370) người làng Văn Thôn, huyện Thanh Đàm (nay là huyện Thanh Trì-Hà Nội) đương thời đã nổi tiếng là một nhà giáo tài đức, có nhiều học trò thành đạt. Đời vua Trần Minh Tông, ông được mời làm Tư nghiệp Quốc tử giám để dạy Thái tử học. Đến đời Trần Dụ Tông, triều chính suy vị, bị bọn gian thần lũng đoạn, ông dâng sớ Thất trảm (xin chém 7 kẻ nịnh thần). Vua không nghe, ông bỏ quan về ở ẩn. Với tài năng, đức độ và tính cương trực, ông được coi là tấm gương tiêu biểu cho nhà giáo Việt Nam.

Trần vãn thử hà thời, dục vịnh đại phi hiền giả lạc
Phượng sơn tồn ẩn xứ, trĩ lưu trường ngưỡng triết nhân phong.

(Cuối Trần đó là thời nào, ngâm vịnh rong chơi đâu phải thú vui hiền giả.
Non phượng còn dấu nơi ẩn, núi sông mãi mãi ngắm nhìn phong cách triết nhân).

Đó là đôi câu đối mà người đời mãi mãi còn truyền tụng để tỏ lòng mến phục đối với Chu Văn An - nhà Nho, nhà hiền triết, nhà sư phạm mẫu mực cuối thời Trần.

Chu Văn An tên hiệu là Tiều ẩn, tên chữ là Linh Triệt, người làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là huyện Thanh Trì - Hà Nội). Theo thần tích đình làng Thanh Liệt, nơi thờ ông làm thành hoàng, thì ông sinh năm Nhâm Thìn (1292) và mất năm Canh Tuất (1370).

Chu Văn An ngay từ hồi còn trẻ đã nổi tiếng là một người cương trực, sửa mình trong sạch, giữ tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách. Khi thi đỗ Thái học sinh, ông không ra làm quan, mà trở về mở trường dạy học ở quê nhà. Học trò nhiều nơi tìm đến theo học rất đông. Trong số môn đệ ông có nhiều người thành đạt, thi đỗ ra làm quan to trong triều như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát khi về thăm thầy vẫn giữ lễ, được thầy nói chuyện ít lời thì rất lấy làm mừng. Có những học trò cũ không tốt, ông thẳng thắn quở trách, thậm chí quát mắng không cho gặp. Tính nghiêm nghị, tư cách thanh cao và học vấn sâu rộng làm cho tiếng tăm ông ngày càng lan xa. Đức độ và uy tín của ông như vậy, khiến cho học trò đến theo học càng nhiều và có đủ các loại.

Một huyền thoại vẫn được lưu truyền nói về ngôi trường và nhân cách, đạo đức của ông như sau: "Tương truyền khi Chu Văn An mở trường dạy học ở quê nhà, có nhiều học trò tìm đến theo học. Trong số này có một người sáng nào cũng đến thật sớm nghe giảng. Thầy dạy khen là chăm chỉ nhưng không rõ tông tích ở đâu. ông bèn cho người dò xem thì cứ đến khu đầm Đại (khu đầm lớn hình vành khuyên, nằm giữa các làng Đại Từ , Tứ Kỳ, Huỳnh Cung) thì biến mất. Ông biết là thần nước. Gặp lúc đại hạn kéo dài, giảng bài xong ông tụ tập các trò lại hỏi xem ai có tài thì làm mưa giúp dân, giúp thầy. Người học trò kỳ lạ trước có vẻ ngần ngại, sau đứng ra xin nhận và nói với thầy: "Con vâng lời thầy là trái lệnh Thiên đình, nhưng con cứ làm để giúp dân. Mai kia nếu có chuyện gì không hay, mong thầy chu toàn cho". Sau đó người này ra giữa sân lấy nghiên mài mực, ngửa mặt lên trời khấn và lấy bút thấm mực vẩy ra khắp nơi. Vẩy gần hết mực, lại tung cả nghiên lẫn bút lên trời. Lập tức mây đen kéo đến, trời đổ mưa một trận rất lớn. Đêm hôm ấy có tiếng sét và đến sáng thấy có thây thuồng luồng nổi lên ở đầm. Chu Văn An được tin khóc thương luyến tiếc rồi sai học trò làm lễ an táng, nhân dân các làng lân cận cũng đến giúp sức và sau nhớ công ơn bèn lập đền thờ. Nay vẫn còn dấu vết mộ thần. Theo truyền thuyết, chỗ nghiên mực bị ném rơi xuống đã biến thành đầm nước lúc nào cũng đen, nên thành tên là Đầm Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả Thanh Oai biến làng này thành một làng văn học quê hương của Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, v.v... Trong đền thờ thần còn đôi câu đối khá tiêu biểu ghi lại sự tích này.

Mặc nghiễn khởi tường vân, nhất bút lực hồi thiên tự thuận.
Chu đình lưu hóa vũ, thiên trù vọng thiếp địa phồn khô.

( Mây lành từ nghiên mực bay lên, một ngọn bút ra công trời thuận theo lẽ phải.
Mưa tốt giữa sân son đổ xuống, nghìn cánh đồng đội nước, đất nẻ trổ mùa hoa).

(Chu đình có hai nghĩa: sân son và sân họ Chu, chỉ Chu Văn An).

Câu chuyện trên đây chỉ là một giai thoại về Chu Văn An để nói rằng tài đức của họ Chu có sức mạnh cảm hóa được cả quỷ thần. Tuy nhiên, qua đó cũng thấy được đức độ của Chu Văn An lúc đương thời là rất lớn.

Đến đời vua Trần Minh Tông, ông được mời vào làm Tư nghiệp ở Quốc Tử Giám để dạy Thái tử học. Ông đã cùng với Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn tham gia vào công việc củng cố triều đình lúc đó đang đi dần vào con đường khủng hoảng, suy thoái. Đến đời Dụ Tông, chính sự càng thối nát, bọn gian thần nổi lên khắp nơi. Chu Văn An nhiều lần can ngăn Dụ Tông không được, bèn dâng sớ xin chém bảy kẻ nịnh thần, đều là người quyền thế được vua yêu. Đó là Thất trảm sớ nổi tiếng trong lịch sử. Nhà vua không nghe, ông bèn "treo mũ ở cửa Huyền Vũ" rồi bỏ quan về ở ẩn tại núi Phương Sơn thuộc làng Kiệt Đắc, huyện Chí Linh (Hải Hưng) lấy hiệu là Tiều ẩn (người đi ẩn hái củi). Sau ông mất tại đó.

Theo thư tịch cũ thì Chu Văn An viết nhiều sách, ông đã để lại cho đời sau những tác phẩm: hai tập thơ Quốc ngữ thi tập bằng chữ Nôm và Tiều ẩn thi tập bằng chữ Hán. Ông còn viết một cuốn sách biện luận giản ước về Tứ thư nhan đề Tứ thư thuyết ước. Theo một tài liệu nghiên cứu gần đây thì Chu Văn An còn là một nhà đông y đã biên soạn quyển Y học yếu giải tập chu di biên gồm những lý luận cơ bản về chữa trị bệnh bằng Đông y. Khi ông mất, vua Trần đã dành cho ông một vinh dự lớn bậc nhất đối với một trí thức là được thờ ở Văn Miếu. Vua còn ban tặng tên thụy cho ông là Văn Trinh. Ngô Thế Vinh, nhà văn học nổi tiếng thế kỷ 19 trong bài văn bia ở đền Phương Sơn đã thích nghĩa hai chữ "Văn Trinh" như sau: (Văn, đức chi biểu dã; Trinh, đức chỉ chính cổ dã. Văn là sự bên ngoài (thuần nhất )của đức; Trinh là tính chính trực, kiên địch của đức). Tên thụy như vậy nhằm biểu dương một người đã kết hợp được hai mặt của đạo đức: bên ngoài thuần nhã, hiền hòa với bên trong chính trực, kiên định. Trong lịch sử giáo dục nước nhà, ông cũng đã giành được địa vị cao quí bậc nhất, xứng đáng đứng đầu các nhà giáo từ xưa tới nay. Ông đã vượt qua ngưỡng cửa: làm thầy giáo giỏi của một đời để đạt tới làm thầy giáo giỏi của muôn đời như Phan Huy Chú đã ngợi ca ông: "học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, làng Nho nước Việt trước sau chỉ có mình ông, các ông khác không thể so sánh được".

Ngày nay, để tưởng nhớ tới đạo đức và sự nghiệp của ông, nhân dân Thủ đô đã lấy tên ông để đặt tên cho một đường phố và một trường trung học lớn của Hà Nội. Đó là phố Chu Văn An và Trường phổ thông Trung học Chu Văn An. Phố Chu Văn An, nguyên là đại lộ Van Vôlenhôven thời Pháp thuộc, đi từ đường Điện Biên Phủ đến phố Nguyễn Thái Học. Còn Trường trung học Chu Văn An nằm trên đường Thụy Khuê ngay ven Hồ Tây, nơi lưu truyền đầy những giai thoại và truyền thuyết cổ xưa. Trường này nguyên trước là Trường cao đẳng tiểu học Bảo hộ (collège du protectorat) do thực dân Pháp lập từ năm 1907 để chống lại phong trào Đông kinh Nghĩa thục, nhưng nhân dân ta thường vẫn quen gọi là Trường Bưởi.

Năm 1945, Cách mạng thành công, các nhà giáo và nhân dân Hà Nội đã nhất trí chọn tên nhà giáo dục mẫu mực Chu Văn An đặt tên cho trường.


Chữ ký của LSB_Lãng Tử

Tài sản của LSB_Lãng Tử
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 30-10-2006   #31
Ảnh thế thân của LSB_Lãng Tử
LSB_Lãng Tử
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Vô Tình Lãng Tử
Gia nhập: 27-10-2006
Bài viết: 2.983
Điểm: 245
L$B: 1.108.829
Tâm trạng:
LSB_Lãng Tử đang offline
 
Thumbs up

NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU (1822 – 1888)



Ông sinh ở làng Tân Khánh, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay thuộc tỉnh Bên Tre) trong một gia đình nhà Nho nghèo. Năm 1833, Lê Văn Khôi nổi lên chống triều Nguyễn, chiếm Gia Định, Nguyễn Dình Chiểu theo cha về Thừa Thiên tránh loạn và học tập. Năm 1848, ông trở về Gia Định, thi đậu Tú tài, sau đó ra Huế học thêm để chờ thi Hội, bỗng được tin mẹ mất, phải trở về Gia Định chịu tang. Dọc đường về, do khóc mẹ nhiều và nhiễm phong sương nên bị đau mắt đến mù. Từ đó ông mở trường dạy học, học trò rất đông. Thời gian này, ông viết Dương Từ Hà Mậu, nội dung cuốn sách nhằm bênh vực Nho giáo chân chính, chống bọn giả đạo đức, tham danh lợi. Gia đình trước kia hứa hôn gả con gái cho ông, nay thấy ông mù bèn cắt đứt. Sau, ông lấy em gái một học trò của ông. Khoảng năm 1850, ông viết quyển Lục Vân tinh, tỏ rõ lòng yêu chính nghĩa, ghét gian tà của mình. Quyển sách mang tính “tự truyện” này có tính chất nhân dân, có tác dụng giáo dục đạo đức rất lớn đối với quần chúng.

Năm 1859, giặc Pháp tiến đánh Gia Định, rồi mở rộng xâm lược Nam Kì. Đang dạy học ông phải chạy về Cần Giuộc (Chợ Lớn) tham gia kháng chiến, bàn bạc công việc cứu nước với các bạn hữu như Phan Văn Trị, Hố Huân Nghiệp, Bùi Hữu Nghĩa..., liên hệ mật thiết với Đốc binh Là, người chỉ huy anh dũng trong trận Cần Giuộc, tích cực giúp đỡ nghĩa quân về mọi mặt. Trương Định vẫn thường đến hỏi ý kiến và coi ông như người tham mưu của mình. Hồi này, ông sáng tác nhiều văn thơ yêu nước, ca tụng khí tiết anh hùng của những chiến sĩ hi sinh vì Tổ quốc kịch liệt lên án quân bán nước, làm tay sai cho giặc. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, cùng với nhiều tác phẩm thơ, phú, hịch khác của ông đã có ảnh hưởng rộng lớn khắp trong Nam ngoài Bắc. sáu tỉnh Nam Kì bị giặc chiếm (1867), Nguyễn Đình Chiểu vì mù lòa, không đi ra "tị địa" ở Bình Thuận được, ông tiếp tục dạy học tại Bến Tre, nêu gương bất hợp tác với thực dân. Nhiều lần, bọn quan cai trị Pháp đến tìm cách mua chuộc, nhưng đều thất bại thảm hại trước tinh thần bất khuất của một trí thức chân chính. Ngày 8-7-1888, Nguyễn Đình chiếu mất trong sự tiếc thương vô hạn của đồng bào.

Nguyễn Đình Chiểu là một chiến sĩ yêu nước dũng cảm, là ngôi sao sáng nhất trong nền văn học ở miền Nam nửa sau thế kí XIX. Ông đã sáng tác được nhiều thơ, văn tế, hịch . . góp phấn to lớn trong việc cổ vũ, động viên nhân dân chiến đấu chống giặc. Điều đáng chú ý là trong thơ văn, ông đã ca ngợi tinh thần chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, cũng như vai trò và sức mạnh của những người "dân ấp, dân lân'! trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Ngoài hai tác phẩm Lục Văn Tiên, Dương Từ Hà Mậu, ông có tập truyện thơ Ngư Tiều y thuật vấn đáp đề cao phẩm chất trong sạch, cũng như đạo đức trung hiếu, tiết nghĩa, để động viên sĩ phu và nhân dân giết giặc cứu nước.


Chữ ký của LSB_Lãng Tử

Tài sản của LSB_Lãng Tử
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 30-10-2006   #32
Ảnh thế thân của LSB_Lãng Tử
LSB_Lãng Tử
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Vô Tình Lãng Tử
Gia nhập: 27-10-2006
Bài viết: 2.983
Điểm: 245
L$B: 1.108.829
Tâm trạng:
LSB_Lãng Tử đang offline
 
PHAN BỘI CHÂU (1867 - 1940)



Phan Bội Châu (tên cũ là Phan Văn San) hiệu là Sào Nam, sinh ngày 26-12-1867 ở làng Đan Nhiễm (nay là xã Xuân Hòa), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình nhà Nho nghèo. Ngay từ nhỏ, Phan Bội Châu đã nổi tiếng thông minh, 8 tuổi đã thông thạo các loại văn cử tử, 13 tuổi đi thi ở huyện, đỗ đầu; 16 tuổi đỗ đầu xứ, nên cũng gọi là đầu xứ San. Phan Bội Châu còn là một người rất gần gũi cuộc sống của nhân dân lao động và từng là một chàng trai hát phường vải có tài.

Nhưng điểm đặc sắc nhất ở Phan là sớm có tinh thần yêu nước. Từ 9 tuổi Phan đã được sống giữa phong trào Bình Tây sôi nổi nổ ra ở xứ Nghệ. 17 tuổi, được tin Pháp đánh Bắc Kì (1882), Phan đã thảo hịch Bình Tây thu Bắc dán ở cây to đầu làng. 19 tuổi (1885), kinh thành Huế thất thủ, hưởng ứng chiếu Cấn vương của Hàm Nghi, thân hào Nghệ - Tĩnh nổi lên khắp nơi, Phan cũng tổ chức một đội "Thí sinh quân" 60 người để ứng nghĩa, nhưng chưa kịp hành động đã bị đàn áp tan rã.

Trong khoảng 10 năm cuối thế kỉ XIX, Phan Bội Châu vừa làm một thầy đồ dạy học để nuôi cha già vừa tìm đọc thêm "Tan thư, Tân báo” và mở rộng giao du, tìm người đồng tâm, đồng chí chuẩn bị cho công cuộc cứu nước.

Năm 1900, Phan Bội Châu dự kì thi Hương và đỗ thủ khoa (giải nguyên) trường Nghệ, chính thức bước vào cuộc đời hoạt động cách mạng. Cùng các bạn bè đồng chí, Phan thành lập hội Duy tân (1904), chủ trương dùng vũ trang bạo động và nhờ ngoại viện để đánh đuổi giặc Pháp khôi phục nước Việt Nam, lập ra chính phủ độc lập.

Đầu năm 1905, Phan Bội Châu lãnh đạo phong trào Đông Du, từ 1905-1908, ông đã tổ chức cho gần 200 thanh niên yêu nước xuất dương sang Nhật học tập ở các trường Đồng văn thư viện, Chần vũ học hiệu ; lại lập ra Công hiến hội để quản lý việc học tập, tu dưỡng tư tưởng, đạo đức của lưu học sinh. Đồng thời, ông cũng liên lạc với các hội, đảng yêu nước tiến bộ của học sinh và chính khách các nước có mặt ở Tôkiô (Nhật Bản) nhằm trao đổi kinh nghiệm vận động cứu nước, ủng hộ lẫn nhau. Đặc biệt, ông còn sáng tác rất nhiều thơ văn yêu nước như Việt Nam vong quốc sử, Hải ngoại huyết thư, Tân Việt Nam, Sùng bái giai nhân, Việt Nam quốc sử khảo v.v..:

Tháng 3-1909, tổ chức Đông Du bị giải tán. Phan Bội Châu bị chính phủ Nhật trục xuất, phải về ẩn náu ở Trung Quốc một thời gian ngắn, rồi sang Thái Lan mở trại cày Bạn Thầm để tính kế lâu dài. Năm 1911, Cách mạng Tân Hợi Trung Quốc thành công, ông trở lại Trung Quốc tập hợp số anh em còn lại, tuyên bố giải tán Duy tân hội, thành lập Việt Nam quang phục hội với tôn chỉ duy nhất : "Đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước Cộng hòa dân quốc Việt Nam".

Hội cử người về nước hoạt động, đã gây nên một số vụ bạo động vũ trang có tiếng vang, nhưng kẻ thù thẳng tay đàn áp. Phan Bội Châu bị bọn quân phiệt Trung Quốc bắt giam ngày 24-12-1913.

Năm 1917, khi ông ra tù, Chiến tranh thế giới thứ nhất sắp kết thúc, ảnh hưởng Cách mạng tháng Mười Nga và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc sôi nổi khắp thế giới, đặc biệt là ở phương Đông. Ông dần dần nghiêng về cách mạng thế giới, tìm hiểu Cách mạng tháng Mười, viết báo ca ngợi Lênin vĩ đại. Giữa năm 1924, phỏng theo Quốc dân đảng của Tôn Trung Sơn, ông đã cải tổ Việt Nam quang phục hội thành Việt Nam quốc dân đảng. Tháng 12-1924, sau khi được tiếp xúc và được sự góp ý của Nguyễn Ái Quốc, Phan Bội Châu dự định sẽ cải tổ lại Việt Nam quốc dân đảng theo hướng tiến bộ. Nhưng ngày 80-6-1925 trên đường từ Hàng Châu về Quảng Châu để gặp anh em, vừa đến ga Bắc Thượng Hải thì bị thực dân Pháp bắt cóc đem về nước, rồi đem xử ở tòa Đề hình Hà Nội. Một phong trào bãi khóa, bãi công, bãi thị đã bùng nổ rầm rộ khắp cả nước, đòi trả tự do cho Phan Bội Châu. Cuối cùng, thực dân Pháp buộc phải tha bổng ông, nhưng bắt an trí tại Huế.

Từ 1926 trở đi, Phan Bội Châu bị cách li với thực tế đấu tranh của dân tộc. Tuy vậy, ông vẫn cố vươn lên, hi vọng tiếp tục hoạt động cứu nước và trong điều kiện sống bị bao vây theo dõi vẫn cố gắng làm một người tuyên truyền yêu nước. Thơ văn của ông vẫn tiếp tục nói nhiều đến nỗi khổ nhục của người dân mất nước và trách nhiệm của người dân đối với nước. Đó là các tác phẩm : Nam, nữ quốc dân tu tri, Thuốc chữa dân nghèo, Cao đẳng quốc dân, Luân lí vẫn đáp, Lời hỏi thanh niên... Đó cũng là các công trình biên khảo có giá trị : Phan Bội Châu niên biểu, Xã hội chủ nghĩa, Nhân sinh triết học, Khổng học đăng, Chu dịch v.v. cùng với trên 800 bài thơ, phú, văn tế và rất nhiều câu đối và tạp văn khác để lại đã làm phong phú kho tàng thơ văn yêu nước và cách mạng Việt Nam thời cận đại.

Những năm tháng cuối đời, nhà chí sĩ Phan Bội Châu vẫn chan chứa biết bao nỗi niềm ưu ái, hi vọng tin tưởng vào đôgng bào, đồng chí. Cho đến trước khi mất ngày 29-10-1940, tại căn nhà tranh ở dốc Bến Ngự (Huế), ông vẫn có lời ,,Chúc phường hậu tứ tiến mau !". .



PHAN ĐÌNH PHÙNG - LÃNH TỤ PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CUỐI THẾ KỶ 19






Phan Đình Phùng là một lãnh tụ tiêu biểu của phong trào yêu nước chống Pháp vào cuối thế kỷ 19. Cụ sinh năm 1847, ở làng Đông Thái, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh (nay là xã Châu Phong, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh), trong một gia đình nho học. Phan Đình Phùng là con cụ phó bảng Phan Đình Tuyến, em ruột chí sĩ Phan Đình Thông và cử nhân Phan Đình Thuật, anh ruột phó bảng Phan Đình Vận.

Phan Đình Phùng đỗ cử nhân năm 1876. Năm sau, đậu đình nguyên tiến sĩ, được bổ làm Tri huyện Yên Khánh (tỉnh Ninh Bình). Sau đó cụ được đổi về kinh đô Huế, sung chức Ngự sử đô sát viện. Cụ Phan nổi tiếng trong triều về đức tính cương trực, thẳng thắn. Năm 1882, cụ dâng sớ đàn hặc thiếu bảo Nguyễn Chánh về tội "ứng binh bất viện" (cầm quân ngồi yên không đi tiếp viện) khi giặc Pháp tấn công thành Nam Định. Do bất đồng quan điểm với Tôn Thất Thuyết về việc phế Dục Đức, lập Hiệp Hòa (1883) cụ bị cách chức, về quê lập trại cày, tự hiệu là "Châu Phong".

Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương, Phan Đình Phùng đã đứng ra chiêu tập lực lượng chống Pháp. Các anh hùng, hào kiệt khắp bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Quảng Bình tự nguyện liên kết lực lượng dưới quyền chỉ huy của cụ Phan. Nghĩa quân đã xây dựng căn cứ tại Hương Sơn, Hương Khê (Hà Tĩnh).

Cụ Phan đã tổ chức lực lượng nghĩa quân theo đạo quân chính quy; có 15 quân thứ với cùng một kiểu trang phục, kỷ luật nghiêm minh. Các quân thứ được đặt tại các địa phương, rải suốt bốn tỉnh và hợp tác tác chiến nhịp nhàng theo kế hoạch từ đại bản doanh núi Vụ Quang. Cụ cùng các tướng như Cao Thắng nghiên cứu, chế tác thành công được gần 500 khẩu súng trường kiểu 1874 của Pháp để trang bị cho quân lính.

Phan Đình Phùng rất chú ý đến công tác ngụy vận. Cụ thường bảo với nghĩa quân: "Hễ khi giao chiến vạn bất đắc dĩ hãy bắn giết lính tập, bởi họ là anh em đồng bào với mình".

Bằng đức tính và tài năng của mình, Phan Đình Phùng đã cảm hóa được các tướng lĩnh giỏi như Cao Thắng, Nguyễn Thanh, Nguyễn Trạch, Phan Đình Cam, Cầm Bá Thước, Nguyễn Mục, v.v... hết lòng trung thành với sự nghiệp chống Pháp...

Suốt mười năm trời (1885 - 1895), bất chấp mọi khó khăn gian khổ, nghĩa quân Phan Đình Phùng đã gây cho giặc Pháp nhiều tổn thất nặng nề. Ngoài các hình thức chiến đấu tiến lui, công đồn, diệt viện, Phan Đình Phùng đã chỉ huy nghĩa quân xây dựng làng chiến đấu, áp dụng lối đánh du kích, có hầm chông cạm bẫy. Sau một loạt trận công đồn, chiến thắng lẫy lừng, trận Vụ Quang (10-1894) là nổi tiếng, vang dội và gây cho giặc thất bại nặng nề nhất.

Thực dân Pháp thấy không thể dùng sức mạnh quân sự dẹp tắt được nghĩa quân, nên dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc cụ Phan. Chúng lợi dụng các tên Việt gian như: Phan Trọng Mưu, Võ Khoa, Hoàng Cao Khải viết thư lấy tình xưa nghĩa cũ để khuyên cụ ra hàng. Trước mọi sự cám dỗ, đường mật, Phan Đình Phùng vẫn giữ lòng son sắt cự tuyệt. Trong lúc cuộc chiến đấu còn tiếp diễn thì không may ngày 28-12-1895, do mắc bệnh lỵ nặng, Phan Đình Phùng đã qua đời tại bản doanh (núi Quạt) thọ 49 tuổi.

Phan Đình Phùng mất đi, cuộc khởi nghĩa cũng kết thúc. Song, cuộc khởi nghĩa Hương Khê xứng đáng là đỉnh cao của phong trào Cần Vương. Đây cũng là thời điểm kết thúc sứ mạng lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu phong kiến Việt Nam chống Pháp.

Phan Đình Phùng không chỉ là người lãnh đạo tài năng mà còn là nhà thơ. Cụ đã sáng tác một số câu đối (Điếu Lê Ninh, Khốc Cao Thắng), thơ (Đáp hữu nhận ký thi, Thắng trận hậu cảm tác, Kiến ngụy binh thi cảm tác, Phúc đáp Hoàng Cao Khải). Tác phẩm của cụ cho ta thấy cụ là nhà nho trung nghĩa với dân với nước.


Chữ ký của LSB_Lãng Tử

Tài sản của LSB_Lãng Tử
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 30-10-2006   #33
Ảnh thế thân của LSB_Lãng Tử
LSB_Lãng Tử
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Vô Tình Lãng Tử
Gia nhập: 27-10-2006
Bài viết: 2.983
Điểm: 245
L$B: 1.108.829
Tâm trạng:
LSB_Lãng Tử đang offline
 
Thumbs up

MẠC ĐĨNH CHI (1280 - 1350)



Mạc Đĩnh Chi - Danh thần nhà Trần. Ông tự là Triết Phu, quê ở Lũng Động, huyện Chí Linh Hải Dương), từ nhỏ đã nổi tiếng học giỏi. Năm 1304, ông đi thi Hội. Truyền rằng, bài thi của ông rất hay, các khảo quan xếp hạng nhất, dâng lên vua. Vua nghĩ ông là học trò của tên Việt gian Trần Ích Tắc nên lấy cớ là người xấu xí, không cho đỗ Trạng Nguyên. Ông biết được ý vua, bèn làm bài phú “Ngọc tỉnh liên” (Hoa sen trong giếng ngọc) dâng lên. Vua đọc xong xúc động vì tài năng và đức độ trong sáng của ông đã quyết định cho ông đỗ Trạng nguyên. Năm 1808, ông được cử đi sứ nhà Nguyên, khi đến Nam quan, bọn quan giữ cửa ải đã đóng cửa, ra câu đối thử tài : Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan (Qua cửa quan muộn cửa quan đóng, mời khách muộn qua cửa) . Ông đối ngay lại :
Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối (Ra câu đối dễ, đáp câu đối khó, xin tiên sinh đối trước) .

Chúng phục tài, mở cửa mời sứ đoàn ta đi. Từ đó, ông luôn được thử tài đối đáp với các đại thần nhà Nguyên, lần nào các đại thần cũng khâm phục. Thậm chí ngày vào chầu vua Nguyên, làm bài minh đề vào quạt để dâng, ông đã được vua Nguyên hết lời khen ngợi và viết bên lề bài minh 4 chữ “Lưỡng quốc trạng nguyên". Gặp lúc công chúa nhà Nguyên mất, ông được mời đọc điếu văn và một lần nữa, lời điếu của ông đã làm mọi người cảm phục. Tuy làm quan đến chức Nhập nội hành khiển, hữu ty lang trung, ông vẫn luôn luôn là vị quan nghiêm túc, liêm khiết. Vua Trần rất quý trọng, thậm chí có lúc đã bày cách để cấp thêm tiền cho ông. Ông cho sửa lại và xây thêm chùa Dâu (Bắc Ninh). Cuối đời ông được thăng Tả bộc xạ thuộc hàng ngũ đại thần


Ỷ LAN phu nhân



Nói đến triều Lý không thể không nói về Ỷ Lan, một trong những danh nhân có tài trị nước của dân tộc. Tên thật của Ỷ Lan là Lê Thị Yến, quê ở làng Thổ Lỗi sau đổi thành Siêu Loại (Thuận Thành, Bắc Ninh) nay thuộc Gia Lâm, Hà Nội. Vì mẹ mất từ lúc 12 tuổi, cha lấy vợ kế nên thân phận Ỷ Lan khổ như cô Tấm trong chuyện cổ. Sử ghi, Ỷ Lan là cô Tấm lộ Bắc, hay gọi đền thờ Ỷ Lan ở Dương Xá (Gia Lâm, Hà Nội) là đền thờ Bà Tấm là vì thế.

Năm ấy, vua Lý Thánh Tông 40 tuổi chưa có con trai nối dõi nên về chùa Dâu cầu tự. Vua và quần thần vãn xem phong cảnh trong vùng, chợt thấy trong ngày hội vui, mà trên nương vẫn có một người con gái vừa hái dâu vừa hát, vua vời xuống hỏi sự tình. Thấy Lê Thị Yến bội phần xinh đẹp, lại đối đáp lưu loát, vua cảm mến đưa về triều, rồi phong làm Nguyên phi, cho xây một cung riêng, đặt tên là cung Ỷ Lan để nhớ lại sự tích cô gái tựa gốc cây lan buổi đầu gặp gỡ.

Khác với các hậu phi, Ỷ Lan không lấy việc trau chuốt nhan sắc, mong chiếm được tình yêu của vua mà quan tâm đến hết thảy mọi công việc trong triều đình. Ỷ Lan khổ công học hỏi, miệt mài đọc sách, nghiền ngẫm nghĩa sách nên chỉ trong một thời gian ngắn, mọi người đều kinh ngạc trước sự hiểu biết uyên thâm về nhiều mặt của Ỷ Lan. Triều thần khâm phục Ỷ Lan là người có tài. Một lần vua Lý Thánh Tông hỏi Ỷ Lan về kế trị nước, Ỷ Lan tâu : "Muốn nước giàu dân mạnh, điều hệ trọng là biết nghe lời can gián của đấng trung thần. Lời nói ngay nghe chướng tai nhưng có lợi cho việc làm. Thuốc đắng uống khó chịu nhưng chữa được bệnh. Điều hệ trọng thứ hai là phải xem quyền hành là một thứ đáng sợ. Quyền lực và danh vọng thường làm thay đổi con người. Tự mình tu đức để giáo hóa dân thì sâu hơn mệnh lệnh, dân bắt chước người trên thì nhanh hơn pháp luật. Nước muốn mạnh, Hoàng đế còn phải nhân từ với muôn dân. Phàm xoay cái thế thiên hạ ở nhân chứ không phải ở bạo. Hội đủ những điều ấy, nước Đại Việt sẽ vô địch."

Nghe Ỷ Lan tâu, vua phục lắm. Bởi thế, năm 1069, vua Lý Thánh Tông thân cầm quân đi đánh giặc, đã trao quyền nhiếp chính cho Ỷ Lan. Cũng ngay năm ấy, nước Đại Việt không may bị lụt lớn, mùa màng thất bát, nhiều nơi sinh loạn. Nhưng nhờ có kế sách trị nước đúng đắn, quyết đoán táo bạo, loạn lạc đã được dẹp yên, dân đói đã được cứu sống. Cảm cái ơn ấy, cũng là cách suy tôn một tài năng, nhân dân đã tôn thờ Ỷ Lan là Quan Âm Nữ, lập bàn thờ Ỷ Lan. Vua đánh giặc lâu không thắng, bèn trao quyền binh cho Lý Thường Kiệt, đem một cánh quân nhỏ quay về. Đến châu Cư Liên (Tiên Lữ, Hải Dương) hãy tin Ỷ Lan đã vững vàng đưa đất nước vượt qua muôn trùng khó khăn, giữ cảnh thái bình, thịnh trị, vua hổ thẹn quay ra trận quyết đánh cho kỳ thắng mới về.

Năm Nhâm Tý (1072), vua Lý Thánh Tông đột ngột qua đời, triều Lý không tránh khỏi rối ren. Nhưng khi Ỷ Lan trở thành Hoàng thái hậu nhiếp chính và Lý Thường Kiệt nắm quyền Tể tướng thì nước Đại Việt lại khởi sắc, nhanh chóng thịnh cường. Ỷ Lan đã thi hành những biện pháp dựng nước yên dân, khiến cho thế nước và sức dân đã mạnh hẳn lên.

Năm Đinh Tỵ (1077), Tống triều phát đại binh sang xâm lược. Để Lý Thường Kiệt rảnh tay lo việc trận mạc, Thái hậu Ỷ Lan đã bỏ qua hiềm khích cũ, điều Lý Đạo Thành từ Nghệ An về, trao chức Thái sư như cũ, để cùng mình điều khiển triều đình, huy động sức người sức của vào trận. Nhờ vậy, nước Đại Việt đã làm nên chiến thắng hiển hách. Quân giặc hùng hổ toan làm cỏ nước Đại Việt đã phải cam chịu thất bại, lủi thủi rút quân về nước.

Làm nên chiến thắng này, công Thái hậu Ỷ Lan thực lớn. Nhưng trong đời Ỷ Lan không phải không có tì vết. Sau khi vua Lý Thánh Tông qua đời, Hoàng hậu Thượng Dương dựa vào thế lực của Thái sư Lý Đạo Thành, đã gạt Ỷ Lan ra khỏi triều đình. Mãi 4 tháng sau, có Lý Thường Kiệt giúp sức, Ỷ Lan mới trở lại nắm quyền nhiếp chính. Bà đã bắt giam Hoàng hậu Thượng Dương cùng 72 cung nữ vào lãnh cung, bỏ đói cho đến chết. Vì tội trạng ấy, sử sách phong kiến đã xóa sạch mọi công lao của bà đối với dân nước, mà quên mất rằng, trong nghiệp làm chính trị, đó là chuyện thường thấy.


Chữ ký của LSB_Lãng Tử

Tài sản của LSB_Lãng Tử
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 30-10-2006   #34
Ảnh thế thân của LSB_Lãng Tử
LSB_Lãng Tử
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Vô Tình Lãng Tử
Gia nhập: 27-10-2006
Bài viết: 2.983
Điểm: 245
L$B: 1.108.829
Tâm trạng:
LSB_Lãng Tử đang offline
 
Thumbs up

Những điều ít được biết về Hoàng đế Quang Trung






Nguyễn Huệ quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, cùng dòng họ với Hồ Quý Ly và Hồ Xuân Hương. Năm Ất Mùi (1655), quân Nguyễn chiếm được 7 huyện ở sông Lam, bắt dân đưa vào Đàng Trong khai hoang. Cụ tổ bốn đời của Nguyễn Huệ bị bắt vào Nam. Lúc đầu ở ấp Tây Sơn Nhất thuộc huyện Quy Ninh, phủ Quy Nhơn. Đến đời Hồ Phi Phúc rời đến ở ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn, nay là thôn Kiên Mỹ, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, Bình Định. Hồ Phi Phúc và bà vợ là Nguyễn Thị Đồng sinh ra 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ.

Nguyễn Huệ sinh năm 1753 tại một ngôi nhà nhỏ bên bờ sông Côn, nơi có bến Trường Trầu, cùng với giếng nước, cây me xưa vẫn còn đến ngày nay. Thuở nhỏ, Nguyễn Huệ có tên là Hồ Thơm. Ba anh em Nguyễn Huệ đều theo học thầy giáo Hiến - một nhà Nho bất đắc chí với chính sách tàn ác của Trương Phúc Loan nên trốn vào Quy Nhơn mở trường dạy học ở ấp An Thái (An Nhơn ngày nay). Biết tài năng khác thường của ba anh em Tây Sơn, nên ông đã truyền cho họ hoài bão và ý chí của mình. Ông thường kể với họ việc chúa Nguyễn mưu biến Đàng Trong thành một nước riêng biệt, sống xa hoa đàng điếm. Quyền thần Trương Phúc Loan mặc sức đặt quan lập chúa, hãm hại người trung, vơ vét tiền của. Vàng bạc châu báu của Loan sáng rực cả sân. Ông khích lệ, cổ vũ cho sự nghiệp lớn của họ bằng câu sấm: “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công”, nghĩa là Tây Sơn khởi nghĩa sẽ lập nên sự nghiệp lớn ở đất Bắc, các con phải gắng sức.

Mùa xuân năm 1771, lúc Nguyễn Huệ 18 tuổi, cuộc khởi nghĩa bùng nổ, đất Tây Sơn sôi động. Lá cờ nghĩa bằng lụa đỏ dài 10m được dựng lên với khẩu hiệu lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo và lời hịch kể tội Trương Phúc Loan: “Giận phó quốc ra lòng bội thượng; Nên Tây Sơn xuống nghĩa Cần Vương”. Trong sách viết về nhà Tây Sơn được phổ biến dưới thời Nguyễn, con người và sự nghiệp Nguyễn Huệ đã bị xuyên tạc. Nhưng qua những tài liệu ấy, kết hợp với những tài liệu mới phát hiện gần đây, ta có thể thấy vài nét chân dung Nguyễn Huệ. Ông có mái tóc xoăn, da săn, mắt sáng, tiếng nói sang sảng như chuông, nhanh nhẹn và khỏe mạnh. Ông “có một con mắt nhỏ, nhưng cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn, thì ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu” (Tây Sơn lược thuật). Thậm chí, một cung nhân của nhà Lê nói rằng: “Nguyễn Huệ trỏ tay, đưa mắt, ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sợ sấm sét…”. (Hoàng Lê nhất thống chí).

Tiếng nói của Nguyễn Huệ cũng rất đặc biệt, như tiếng chuông, lời nói ngắn gọn, giản dị, thấm vào lòng người, tạo nên sự gần gũi, đồng cảm sâu sắc. Một lần ở Thanh Hóa, Nguyễn Huệ ngồi trên mình voi nói lớn: “Chư quân, hãy vì ta giết sạch chó Ngô đi. Nếu ai không muốn chiến đấu thì hãy xem ta trong một trận giết hàng vài vạn mạng người, đấy không phải là chuyện lạ đâu”. Ông vừa dứt lời, quân lính dạ ran như sấm, rung động núi rừng, trời đất biến đổi cả cảnh sắc, chiêng trống đồng thời vang lên (Lê Quý kỷ sự).

Nguyễn Huệ được xem là một bậc anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Năm lần vào Nam, ba lần ra Bắc, đều ẩn hiện như quỷ thần. Mỗi lần xông trận, ông thường dẫn quân đi đầu. Ngày mồng 5 tết Kỷ Dậu, trời còn chưa sáng, Nguyễn Huệ thân chinh đốc chiến, cho hơn trăm voi tiến lên trước, bộ binh theo sau, đánh nhau kịch liệt với quân Thanh. Giữa trưa, ông cùng với tướng sĩ, chiến bào nhuộm đen khói thuốc súng, tiến vào Thăng Long, kết thúc chiến dịch Ngọc Hồi - Đống Đa lịch sử. Tuy là võ tướng, nhưng Nguyễn Huệ rất am hiểu văn chương. Ông là vị Hoàng đế đầu tiên mạnh dạn dùng chữ Nôm để viết các văn bản của triều đình và cho lập Viện Sùng chính, sắc phong La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp làm Viện trưởng để lo việc dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm dùng vào việc dạy học cho nhân dân. Tương truyền trong một bức thư của vua Càn Long xin hai con voi đực đã được huấn luyện thuần thục của nước ta, Hoàng đế Quang Trung đã phê dí dỏm rằng: “Thằng Càn Long nó xin hai con voi; Xem con nào cụt vòi cho nó một con”. Hàng ngày, Nguyễn Huệ ứng đối, pha trò rất giỏi. Lần ra Bắc diệt họ Trịnh, khi Nguyễn Hữu Chỉnh ngỏ ý làm mối công chúa Lê Ngọc Hân cho ông, ông đã nói làm cho mọi người đều cười ầm: “Vì dẹp loạn mà ra, để rồi lấy vợ mà về, bọn trẻ nó cười cho thì sao. Tuy nhiên, ta mới chỉ quen gái Nam Hà, chưa biết con gái Bắc Hà, nay cũng thử xem có tốt không…”. Tuy vậy, Nguyễn Huệ rất nhân hậu, biết trọng nhân tài và giàu lòng thương người, với người tài và biết thời thế như Trần Văn Kỷ, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thiếp… thì ông tin dùng đối đãi rất hậu. Với kẻ có tài nhưng không chịu cộng tác, ông vẫn mở cho họ con đường sống: “Đáng lẽ trẫm phải ra oai sấm sét, khép các ngươi vào tội không chịu làm tôi, tịch thu gia sản và giết các ngươi để tỏ rõ phép thường. Nhưng các ngươi như người có bệnh nặng mà tối tăm nhầm lẫn... Trẫm một lòng yêu tiếc nhân tài, không thể chốc lát quên được. Nên đặc trách ban ơn tha tội cho các ngươi”.

Trong gia đình, Nguyễn Huệ sống với vợ con rất tình cảm. Ông có hai bà Hoàng hậu. Bà chính cung quê ở Quy Nhơn, là em cùng mẹ khác cha với Thái sư Bùi Đắc Tuyên và Hình bộ thượng thư Bùi Văn Nhật. Bà này sinh được 5 người con, 3 trai, 2 gái. Nguyễn Quang Toản là con cả, được lập làm Thái tử, về sau là vua Cảnh Thịnh. Bà họ Phạm là một phụ nữ thôn dã, nhưng có lẽ do gắn bó với Nguyễn Huệ từ rất sớm nên được ông quý trọng, thương yêu. Khi bà bị bệnh nặng, ông đã mời một thầy thuốc người Tây tên là Gi-ra vào chữa. Nhưng khi Gi-ra đến nơi thì bà đã mất. Trong một bức thư viết ngày 17/7/1791, giáo sĩ Sécrard đã kể: “Chánh hậu của Tiên vương (Quang Trung) mất vào khoảng tháng ba và ông đã khóc bà một cách sầu thảm. Ông đã cử hành tang lễ vô cùng linh đình trang trọng cho bà vào cuối tháng sáu. Dân Nam Hà đồn khắp nơi rằng ông đã băng hà vì quá đau buồn”.

Bắc cung hoàng hậu là công chúa Lê Ngọc Hân, con gái thứ chín vua Lê Hiển Tông và bà nguyên phi Nguyễn Thị Huyền người làng Phù Ninh, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay là xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà Nội). Ngọc Hân sinh ngày 27 tháng 4 năm Canh Dần (1770) tại quê ngoại, mất năm Kỷ Mùi (1799). Ngọc Hân đã sinh hạ cho Nguyễn Huệ một con trai là Nguyễn Văn Đức và một con gái là Nguyễn Thị Ngọc, sau này đều bị triều đình nhà Nguyễn giết hại. Công chúa Ngọc Hân là người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, vua Quang Trung rất yêu và có phần tự hào về bà. Hôm cưới, ông đắc ý nói với Ngọc Hân: “Con trai con gái nhà vua đã có mấy người được vẻ vang như nàng ?”. Hôm lễ tế vua Lê Hiển Tông, Nguyễn Huệ mặc đồ tang, đứng coi xét lễ nghi hết sức chu đáo… Nguyễn Huệ sống khoan dung, nhân hậu nên những người gần gũi ông đều tỏ lòng cảm kích. Bài thơ khóc chồng của công chúa Ngọc Hân thật cảm động, chứng tỏ tình yêu và lòng ngưỡng mộ của bà với tài, đức, công lao sự nghiệp của Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ...


Chữ ký của LSB_Lãng Tử

Tài sản của LSB_Lãng Tử
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 30-10-2006   #35
Ảnh thế thân của LSB_Lãng Tử
LSB_Lãng Tử
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Vô Tình Lãng Tử
Gia nhập: 27-10-2006
Bài viết: 2.983
Điểm: 245
L$B: 1.108.829
Tâm trạng:
LSB_Lãng Tử đang offline
 
Thumbs up

Nhà bác học Lê Quý Đôn



Lê Quý Đôn (1726 - 1784) quê tại Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ (nay thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Ngay từ nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh, năm 27 tuổi đỗ Đình Nguyên, làm tới chức Bồi tụng. Ông được coi là nhà bác học lớn nhất của Việt Nam trong lịch sử trung đại, là tác giả của 40 bộ sách gồm hàng trăm quyển viếtvề nhiều lĩnh vực khác nhau. Ngoài ra, ông còn có cuốn Quế Đường thi tập với nghệ thuật thơ phong phú, đa dạng, tư tưởng sâu xa.

Lê Quý Đôn nguyên là Lê Danh Phương, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường, sinh ngày 2-8-1726, trong một gia đình khoa bảng; cha là tiến sĩ Lê Trọng Thứ, quê tại làng Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ, nay là thôn Phú Hiếu, xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Ngay từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh, chăm học. Năm 14 tuổi, Lê Quý Đôn theo cha lên học ở kinh đô Thăng Long. Lúc ấy cậu bé 14 tuổi đã học xong toàn bộ sách kinh, sử của Nho gia. 18 tuổi, Lê Quý Đôn thi Hương đỗ Giải nguyên. 27 tuổi đỗ Hội nguyên, rồi đỗ Đình Nguyên Bảng nhãn. Sau khi đã đỗ đạt, Lê Quý Đôn được bổ làm quan và từng giữ nhiều chức vụ quan trọng của triều Lê - Trịnh, như: Hàn lâm thừa chỉ sung Toản tu quốc sử quán (năm 1754), Hàn lâm viện thị giảng (năm 1757), Đốc đồng xứ Kinh Bắc (năm 1764), Thị thư kiêm Tư nghiệp Quốc tửGiám (năm 1767), Tán lý quân vụ, Thị phó đô ngự sử (năm 1768), Công bộ hữu thị lang (năm 1769), Bồi tụng (Phó thủ tướng) (năm 1773), Lại bộ tả thị lang kiêm Tổng tài quốc sử quán (năm 1775), Hiệp trấn tham tán quân cơ Trấn phủ Thuận Hóa (năm 1776), Hiệp trấn Nghệ An (năm 1783), Công bộ thượng thư (năm 1784)...

Lê Quý Đôn mất ngày 1-5-1784 tại quê mẹ, làng Nguyên Xá, huyện Duy Tiên (nay thuộc Hà Nam). Thi hài ông được đưa về mai táng ở quê nhà.

Trong cuộc đời làm quan của Lê Quý Đôn, có mấy sự kiện sau có ảnh hưởng lớn đối với sự nghiệp trước tác, văn chương của ông. Đó là chuyện đi sứ Trung Quốc năm 1760 - 1762. Tại Yên Kinh (Bắc Kinh), Lê Quý Đôn gặp gỡ các sứ thần Triều Tiên, tiếp xúc với nhiều trí thức nổi tiếng của nhà Thanh, bàn lận với họ những vấn đề sử học, triết học... Học vấn sâu rộng của ông được các học giả Trung Quốc, Triều Tiên rất khâm phục. ở đây, Lê Quý Đôn có dịp đọc nhiều sách mới lạ, kể cả sách của người phương Tây nói về địalý thế giới, về ngôn ngữ học, thủy văn học... Đó là các đợt Lê Quý Đôn đi công cán ở các vùng Sơn Nam, Tuyên Quang, Lạng Sơn những năm 1772, 1774, làm nhiệm vụ điều tra nỗi khổ của nhân dân cùng tệ tham nhũng, ăn hối lộ của quan lại, khám đạc ruộng đất các vùng ven biển bị địa chủ, cường hào địa phương man khai, trốn thuế... Chính nhờ quá trình đi nhiều, thấy nhiều, nghe nhiều, biết nhiều việc đời như vậy mà kiến thức Lê Quý Đôn trở nên phong phú vô cùng. Ông viết trong lời tựa sách Kiến văn tiểu lục: "Tôi vốn là người nông cạn, lúc còn bé thích chứa sách, lúc trưởng thành ra làm quan, xem lại sách đã chứa trong tủ, vâng theo lời dạy của cha, lại được giao du nhiều với các bậc hiền sĩ đại phu. Thêm vào đấy phụng mệnh làm việc công, bốn phương rong ruổi: mặt bắc sang sứ Trung Quốc, mặt tây bình định Trấn Ninh, mặt nam trấn thủ Thuận Quảng (Thuận Hóa, Quảng Nam). Đi tới đâu cũng để ý tìm tòi, làm việc gì mắt thấy tai nghe đều dùng bút ghi chép, lại phụ thêm lời bình luận sơ qua, giao cho tiểu đồng đựng vào túi sách".

Ngoài đầu óc thông tuệ đặc biệt cộng với vốn sống lịch lãm và một nghị lực làm việc phi thường, phải kể đến thời đại mà Lê Quý Đôn sống. Và ông là đứa con đẻ, là sản phẩm của thời đại ấy kết tinh lại.

Lê Quý Đôn sống ở thế kỷ thứ 18 thời kỳ xã hội Việt Nam có nhiều biến động lớn. Trong lòng xã hội Việt Nam đầy mâu thuẫn khi ấy đang nảy sinh những mầm mống mới của thời kỳ kinh tế hàng hóa, thị trường trong nước mở rộng, thủ công nghiệp và thương nghiệp có cơ hội phát triển... Tình hình đó đã tác động mạnh mẽ tới đời sống văn hóa, tư tưởng, khoa học. ở thế kỷ 18, xuất hiện nhiều tên tuổi rực rỡ như Đoàn Thị Điểm, Ngô Thì Sĩ, Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn, Lê Hữu Trác... Đồng thời các tri thức văn hóa, khoa học của dân tộc được tích lũy hàng ngàn năm tới nay đã ở vào giai đoạn súc tích, tiến đến trình độ phải hệ thống, phân loại. Thực tế khách quan này đòi hỏi phải có những bộ óc bách khoa và Lê Quý Đôn với học vấn uyên bác của mình đã trở thành người "tập đại hành" mọi tri thức của thời đại. Có thể nói, toàn bộ những tri thức cao nhất ở thế kỷ thứ 18 đều được bao quát vào trong các tác phẩm của Lê Quý Đôn. Tác phẩm của ông như cái mốc lớn đánh dấu thành tựu văn hóa của cả một thời đại với tất cả những ưu điểm cùng nhược điểm của nó.

Tác phẩm của Lê Quý Đôn thống kê có tới 40 bộ, bao gồm hàng trăm quyển, nhưng một số bị thất lạc. Những tácphẩm tiêu biểu của Lê Quý Đôn còn giữ được có thể kể ra như sau:

- Quần thư khảo biện, tác phẩm chứa đựng nhiều quan điểm triết học, lịch sử, chính trị được viết trước năm ông 30 tuổi.

- Vân đài loại ngữ, Lê Quý Đôn làm xong lúc ông 30 tuổi. Đây là một loại "bách khoa thư", trong đó tập hợp các tri thức về triết học, khoa học, văn học... sắp xếp theo thứ tự: Vũ trụ luận, địa lý, điển lệ, chế độ, văn nghệ, ngôn ngữ, văn tự, sản vật tự nhiên, xã hội... Vân đài loại ngữ là bộ sách đạt tới trình độ phân loại, hệ thống hóa, khái quát hóa khá cao, đánh dấu một bước tiến bộ vượt bậc đối với nền khoa học Việt Nam thời phong kiến.

- Đại Việt thông sử, còn gọi Lê triều thông sử, là bộ sử được viết theo thể ký truyện, chép sự việc theo từng loại, từng điều một cách hệ thống, bắt đầu từ Lê Thái Tổ đến Cung Hoàng, bao quát một thời gian hơn 100 năm của triều Lê, trong đó chứa đựng nhiều tài liệu mới mà các bộ sử khác không có, đặc biệt là về cuộc kháng chiến chống Minh.

- Kiến văn tiểu lục, là tập bút ký nói về lịch sử và văn hóa Việt Nam từ đời Trần đến đời Lê. Ông còn đề cập tới nhiều lĩnh vực thuộc chế độ các vương triều Lý, Trần, từ thành quách núi sông, đường xá, thuế má, phong tục tập quán, sản vật, mỏ đồng, mỏ bạc và cách khai thác cho tới các lĩnh vực thơ văn, sách vở...

- Phủ biên tạp lục, được viết trong thời gian Lê Quý Đôn làm Hiệp trấn Thuận Hóa. Nội dung ghi chép về tình hình xã hội. Đàng Trong từ thế kỷ thứ 18 trở về trước.

Công trình biên soạn lớn nhất của Lê Quý Đôn là bộ Toàn Việt thi lục 6 quyển, tuyển chọn 897 bài thơ của 73 tác giả từ thời Lý đến đời Lê Tương Dực (1509 - 1516). Lê Quý Đôn hoàn thành Toàn Việt thi lục năm 1768, dâng lên vua, được thưởng 20 lạng bạc.

Về sáng tác văn xuôi, theo Phan Huy Chú, Lê Quý Đôn có Quế Đường văn tập 4 quyển, nhưng sách này đã mất. Về sáng tác thơ, Lê Quý Đôn để lại có Quế Đường thi tập khoảng vài trăm bài làm ở trong nước và trong thời gian đi sứ Trung Quốc.

Nhận xét tổng quát về thơ Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú viết: "Ông là người học vấn rộng khắp, đặt bút thành văn. Cốt cách thơ trong sáng. Lời văn hồn nhiên..., không cần suy nghĩ mà trôi chảy dồi dào như sông dài biển cả, không chỗ nào không đạt tới, thật là phong cách đại gia".

Quan niệm về thơ của Lê Quý Đôn được tổng hợp lại như sau: "Làm thơ có 3 điểm chính: một là tình, hai là cảnh, ba là việc. Tiếng sáo thiên nhiên kêu ở trong lòng mà động vào máy tình; thị giác tiếp xúc với ngoài, cảnh động vào ý, dựa cổ mà chứng kim, chép việc thuật chuyện, thu lãm lấy tinh thần... đại để không ngoài ba điểm ấy".

Đây là những tiêu chuẩn về thơ mà Lê Quý Đôn đề ra cho quá trình sáng tác của mình. Đọc thơ Lê Quý Đôn, chúng ta thấy thơ ông thật phong phú đa dạng, sâu sắc về tư tưởng, nghệ thuật và để lại trong lòng ta những xúc động đẹp đẽ, sâu xa:

Thành cổ lộng

Thành hoang tường đổ đã bốn trăm năm,
Dây dưa, dây đậu leo quấn xanh tốt.
Sóng biết đã rửa sạch nỗi hận cho vua Trần,
Cỏ xanh khó che lấp sự hổ thẹn của Mộc Thạnh.
Sau trận mưa bò vàng cầy bật gươm cũ,
Dưới trăng chim lạnh kêu bên lầu tàn.
Bờ cõi cần gì phải mở rộng mãi
Đời Nghiêu Thuấn xưa chỉ có chín châu thôi.


Chữ ký của LSB_Lãng Tử

Tài sản của LSB_Lãng Tử
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 30-10-2006   #36
Ảnh thế thân của LSB_Lãng Tử
LSB_Lãng Tử
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Vô Tình Lãng Tử
Gia nhập: 27-10-2006
Bài viết: 2.983
Điểm: 245
L$B: 1.108.829
Tâm trạng:
LSB_Lãng Tử đang offline
 
Thumbs up

- HỒ CHÍ MINH - Khía cạnh đặc trưng của nhà văn hóa Việt Nam





Trở lại cuộc hành trình của Bác Hồ vào những năm 20 với nhiều khao khát học tập xem nghe, tích luỹ bằng sự cần cù và trí thông minh. Bác đã nhanh chóng tạo được một vốn kiến thức khá rộng trên nhiều mặt : xã hội, chính trị, khoa học, văn hóa, văn học, nghệ thuật. Nhiều khả năng sáng tạo đã được bộc lộ : khả năng diễn thuyết, viết truyện, dựng kịch, vẽ tranh, và có thể, cả làm thơ không kể khả năng làm báo, viết báo với mọi phong cách luận chiến sắc sảo. Trong hành trang tinh thần cửa mình ở tuổi ba mươi, Bác đã có không ít các thứ vốn : tư tưởng, triết học, văn hóa, văn học, nghệ thuật...


Nhưng rõ ràng, Bác không có ý định trở thành bất cứ một nhà gì trong số đó. Bác càng không bị các ham mê đó chi phối, hay nói cách khác, Bác đã biết kìm giữ niềm yêu thích vun đắp cho mình một sự nghiệp riêng dẫu bất cứ là nghề gì. Bởi lẽ, cái định hướng lớn nhất, có sức cuốn hút mạnh nhất đối với anh vẫn là số phận của hai mươi lăm triệu đồng bào quê hương còn chìm trong đau khổ. Anh không thể là nhà văn, nhà báo : họa sĩ, diễn viên hoặc người thông dịch, hoặc khách du lịch,... Tất cả mọi thứ nghề đó, đối với anh đều chỉ là phương tiện. Và như sau này Trần Dân Tiên kể lại, để mượn lời ông Nguyễn : "Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đó là tất cả những điều mà tôi muốn, đó là tất cả những điều tôi hiểu".

Điều dễ hiểu là sau những tìm tòi để rút ra được cái "cẩm nang" cứu nước, Nguyễn Ái Quốc sẽ chuyển hướng mọi hoạt động của mình vào một mục tiêu cụ thể : đó là công việc tuyên truyền và tổ chức cách mạng. Sau rất nhiễu thử nghiệm với công cụ chữ nghĩa, bẵng đi mấy năm vào năm í927, Nguyễn Ái Quốc đã xuất hiện trong một tác phẩm có cái tên vang động : Đường kách mệnh. Đường kách mệnh đó mới chính là câu chuyện Bác ngày đêm tâm nguyện : "Sách này chỉ ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm kách mệnh. Văn chương này hy vọng này chỉ ở trong hai chữ : "Kách mệnh". Rồi tiếp đó, chỉ ba năm sau, sau cuốn sách cho đội tiên phong của "đường kách mệnh", Bác viết tiếp Nhật ký chìm tàu cho chính quần chúng cách mệnh. Nhật ký chìm tàu đó là bức tranh cần thiết cho quần chúng số đông, kịp cổ vũ họ và nâng đỡ họ bước vào một cao trào đấu tranh rồi sẽ bị dìm vào khói súng - cao trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh.

Con người mang tên Nguyễn Ái Quốc đã định hướng cho cuộc đời mình, ngay từ tên gọi. Con người có vốn hiểu biết lớn trên nhiều lĩnh vực, nhưng không có ý định làm một trí thức, một nhà văn hóa phương Tây, vì sự tất yếu của lịch sử buộc anh phải trở thành một nhà cách mạng phương Đông. Và phương Đông trong cách nhìn của "thế giới văn minh" lúc này - sản phẩm của chính sách bóc lột và ngu dân, là sự đồng nghĩa với tối tăm và đau khổ. Tác phầm lớn của Nguyễn Ái Quốc viết cho phương Đông, cho Đông Dương đang đòi hỏi "thức tỉnh", dĩ nhiên phải là Đường Kách mệnh, và Nhật ký chìm tàu. Cả hai gộp lại có vị trí của một "Nhà nước và cách mạng" của Lê-nin : nhưng là một Lê-nin của phương Đông, nói cách khác nó phải mang một hình thức chuyên chở khác : giản dị, phổ cập, dễ hiểu, mà chương đầu được chọn là chương Tư cách người cách mệnh.

Những năm 30, đối với dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc là nhà cách mạng, và nhà cách mạng trở thành lãnh tụ của dân tộc, khi tình thế cách mạng xuất hiện vào buổi đầu những năm bốn mươi. Cũng như giai đoạn tìm đường, mọi công cụ báo chí văn học, nghệ thuật, tranh vẽ để tuyên truyền cổ động cách mạng lại được Bác Hồ khẩn trương huy động. Đó là những năm xuất hiện dồn dập các thư từ, lời kêu gọi, diễn ca lịch sử, bài ca Việt Minh và báo Việt Nam độc lập... Cuộc ra quân rầm rộ của đội quân chữ nghĩa này, dưới sự điều hành linh hoạt của Bác Hồ sẽ là chất gây men, là ngòi nổ dồn dập cho các hoạt động của phong trào quần chúng xốc tới cao trào tháng Tám năm 1945. Và thời điểm 1945 đã chứng kiến sự hội nhập, và tỏa sáng của hai cuộc hành trình : vũ khí tiếng nói và tiếng nói vũ khí, trong một bản văn lịch sử : Tuyên ngôn độc lập.

Tuyên ngôn độc lập là sáng tạo của một cá nhân, cũng đồng thời là sản phẩm của lịch sử. Là kết quả của những hy sinh của dân tộc trong gần một thế kỷ, đồng thời là sự kết tinh giá trị của hàng ngàn năm văn hóa Việt Nam. Người viết Tuyên ngôn, vừa là đại diện cho nhân dân ở tư cách một hậu sinh xứng đáng với truyền thống, vừa là đại diện cho dân tộc tìm được sự khai thông với nhân loại như một người đồng thời. Trên hai bình diện lịch đại và đồng đại, Tuyên ngôn độc lập xứng đáng là đại diện cho dân tộc ở tư thế của lịch sử văn minh và văn minh của lịch sử. Đó là lời của lãnh tụ nói với dân tộc hay cũng chính là lương tâm dân tộc ? Đó là lời của dân tộc nói với nhân loại, hay chính là lương tâm nhân loại ?

*****

Người cách mạng Nguyễn Ái Quốc đi tìm sự soi sáng về lý luận, rồi dùng lý luận để soi sáng cho cả một dân tộc trên suốt 30 năm đã thành lãnh tụ Hồ Chí Minh, từ sau 1945. Cuộc sống vẫn tiếp tục không cho phép Bác đi tìm thú vui riêng cho mình - cái thú lâu lâu ta lại thấy bất chợt loé lên trong các vần thơ

"Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau"
(Tin thắng trận, 1948)
Việc quân việc nước đã bàn
Xách bương dắt trẻ ra vườn tưới rau
(Không đề)

Trong vị trí lãnh tụ của dân tộc, Người vẫn phải tiếp tục sứ mệnh mà lịch sử và nhân dân phó thác. Hai cuộc kháng chiến nối liền nhau trên trọng trách lịch sử - Tổng tư lệnh tối cao, Hồ Chủ Tịch phải tổ chức cho dân tộc Việt Nam sự kết hợp chiến đấu và sản xuất để bảo đảm chiến thắng và duy trì cuộc sống xây dựng hòa bình theo hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Quả thực cho đến bây giờ, sau 20 năm Bác đi xa, ta càng nhận rõ : Bác là lãnh tụ hiếm hoi, nếu không nói là duy nhất trong lịch sử dân tộc, có sự quan tâm đến nhiều lĩnh vực của đời sống, có vốn hiểu biết trên nhiều hoạt động xã hội. Một cái vốn lớn do sự từng trải mà có, và sau này, do yêu cầu chỉ đạo mọi hoạt động thực tiễn mà Bác là người chỉ huy và chịu trách nhiệm tối cao. Một kiểu lãnh tụ với các phẩm chất toàn năng hiếm hoi không dễ có, được tạo nên do những tình thế lịch sử đặc biệt. Một kiểu người khai sáng với ưu thế đặc biệt của trí tuệ, không chỉ có sứ mệnh mở đường mà còn phải đưa toàn dân lên đường và thực hiện từng bước các mục tiêu đã chọn. Phải làm sao cho dân tin và hiểu. Và hiểu để mà tin thêm. Đó là một quá trình rất đáng chú ý trong sinh hoạt tinh thần của dân tộc Việt Nam hơn nửa thế kỷ qua. Trong cái động tác lắng nghe và theo gương Bác Hồ của toàn dân tộc Việt Nam quả có một quá trình chiêm nghiệm và chuyển hóa, vì người nói là Bác, là người có cả một cái lớn của sự từng trải bao gồm cả cái vốn kiến thức văn hóa kim - cổ, đông - tây mà người đã thâu nhận được từ rất nhiều nguồn. Trước cái vốn ấy, quả bất cứ ai trong chúng ta, không kể những người bình thường, mà ngay cả những trí thức tên tuổi, những nghệ nhân lão luyện cũng phải khâm phục và vị nể. Chẳng hạn trong lời Bác căn dặn hai nghệ sĩ Nguyễn Nho Tuý và Ngô Thị Liễu, sau đêm diễn vở tuồng "Chị Ngộ" : "Nghệ thuật của cha ông hay lắm, tốt lắm. Cố mà giữ gìn. Nhưng chớ có gieo vừng ra ngô". Khỏi phải nói thêm, đã tuồng thì phải giữ cho được chất tuồng, chứ không phải là cải lương, kịch nói, là chèo. Còn trong lời Bác khen Tú Mỡ khi nhà thơ trào phúng biểu diễn chèo "cây nhà lá vườn" : "Chèo thì phải chèo cho vững !" lại bao hàm một ý khuyên nhủ khác, không chỉ riêng với Tú Mỡ, nhà thơ nhân dân như cách Bác nói, mà có thể là cho cả một lớp nhà văn trong buổi đầu gian nan của kháng chiến chống Pháp. Còn có thể kể thêm nhiều những dẫn chứng như thế.

Vậy là với tư cách lãnh tụ, Bác Hồ đã không nhận vai trò chuyên gia trên bất cứ lĩnh vực nào của hoạt động tinh thần hoặc thực tiễn. Nhưng với tư cách là người khai sáng, các ý kiến của Người luôn luôn có giá trị soi rọi. Có thể nói, cho đến nay, qua kiểm nghiệm của thực tiễn, và thử thách của thời gian, nhiều ý kiến của Bác vẫn cứ là chân lý. Không kể những chân lý lớn đã thành tuyên ngôn, thành khẩu ngữ chung cho dân tộc, và mang tầm thời đại, ngay trong lĩnh vực văn hoá, khoa học, nghệ thuật, nhiều ý kiến của Bác vẫn tiếp tục là sự chỉ đạo cho nhận thức và hoạt động nghề nghiệp : "Văn hóa, văn nghệ, cũng như mọi hoạt động khác không thể ở ngoài mà phải ở trong kinh tế, chính trị..."Dân tộc bị áp bức thì văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do thì phải tham gia cách mạng", "Chúng tôi không chỉ vay mà không trả...", "Phải có trước mới có sau, có cũ mới có mới, nh­ng ta không nên nệ cổ...", "Miêu tả cho hay, cho chân thật, cho hùng hồn những người mới, việc mới". Có điều, Bác là người biết dừng lại ở chỗ cần dừng, không quá đi sâu vào những điều quá "chuyên", hoặc còn có thể bàn cãi.... Đặc biệt với trí tuệ uyên bác và với lối sống giản dị, chan hoà với quần chúng của Người, Người đã tạo một từ trường rộng rãi có sức thu hút, cảm hóa mọi tầng lớp trí thức, khoa học, văn hóa, văn học, nghệ thuật Việt Nam. Với sức thu hút đó, Người đã tập hợp, dẫn dắt biết bao nhiêu trí thức đi vào con đường cách mạng và cống hiến xuất sắc cho sự nghiệp cách mạng. Trong số họ, có không ít người còn xa lạ hoặc chưa biết cách mạng, nhưng do may mắn được tiếp xúc với Bác mà đến với cách mạng. Đối với họ, giây phút gặp gỡ Bác có ý nghĩa một cuộc đổi mới.

Hẳn rồi còn phải đi sâu thêm vào sức hút đó, nó là hạt nhân, là từ trường, là vùng phát sáng lớn để tạo nên sự đồng tâm nhất trí, tạo nên mối giao cảm vĩ đại vốn là nét đặc trưng cho đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam giữa thế kỷ XX.

*****

Nguyễn Ái Quốc, rồi Hồ Chí Minh đã viết trong suốt cuộc đời mình, từ Đông Dương thức tỉnh, đến Di chúc thiêng liêng, Người đã viết trên rất nhiều thể loại nhưng chưa bao giờ lấy viết làm một sự nghiệp. Dễ hiểu, Người không nhận bất cứ tư cách chuyên gia hoặc nghệ sĩ. Trong khi trả lời những bạn bè nước ngoài, Người đã khéo léo hoặc cương quyết từ chối tất cả mọi danh hiệu. Nhưng những gì có giá trị vẫn cứ tự nhiên tồn tại. Tôi sẽ không nhắc lại ở đây những ý kiên đánh giá Nhật ký trong tù - một sản phẩm ngẫu nhiên, Bác đã hái l­ợm trên lộ trình gian nan và vĩ đại của đời mình. ở tất cả những gì Bác đã viết, ngay cả trong dạng ngắn gọn và ngẫu nhiên, vẫn thấy toát lên một phong cách riêng - vừa sự lịch lãm, am hiểu, vừa là sự giản dị, dễ hiểu. Thông thường khó có thể dung hoà hai vế thật ra là tương phản nhau như vậy. Nhưng điều kỳ diệu, nó lại chính là nét riêng làm thành đặc trưng của văn chương Bác Hồ, không bắt chước ai, và cũng không ai bắt chước được.

Lý giải điều này khỏi phải đi tìm sự tìm độc đáo, khác thường ở Bác Hồ. Người khác với mọi người, nhưng không xa lạ hoặc đứng trên mọi người. Người không bao giờ đi săn cái lạ. Mà vì một lẽ đơn giản Bác là người quan tâm hàng đầu đến chuyện viết cho ai ? Thế kỷ XX, đối với Việt Nam là thế kỷ cách mạng hoá một dân tộc, đưa dân tộc ra khỏi số phận nô lệ, cũng đồng thời là thế kỷ khoa học hóa, để đưa trình độ nhân dân thoát khỏi ra khỏi một khởi điểm quá thấp, trên 95% mù chữ. Người đã viết và sử dụng sành sõi tiếng Pháp, tiếng Hán cũng chính là người quan tâm hơn hết đến khả năng của tiếng Việt, sao cho tiếng Việt đến được với mọi tầng lớp đồng bào. Khi chưa có một cuộc cách mạng đem lại quyền sống, cơm áo và tự do cho đồng bào thì việc làm báo (tờ Le Paria, Việt Nam hồn đến Việt Nam độc lập) là đưa lại một ánh sáng văn hoá để soi cho họ con đường đi vào cách mạng chính trị. Người biết viết cho một công chúng chọn lọc bằng cách huy động tất cả cái vốn kiến thức của nhiều chục năm tích luỹ từ nhiều nền văn hóa, cũng chính là là người biết viết cho một công chúng còn đang thanh toán nạn mù chữ. Đặt nhiệm vụ chống giặc dốt, bên cạnh giặc đói và ngoại xâm, một tuần lễ sau khi dọc Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chủ Tịch đã ký sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ. Hơn một năm sau cuộc vận động Bình dân học vụ, hai triệu người Việt Nam thoát nạn mù chữ. Trong cách thức đưa nội dung chính trị vào văn chương trong yêu cầu tuyên truyền trực tiếp các nhiệm vụ cách mạng, trong cách chọn câu chữ, thể loại, văn phong sao cho linh hoạt, sát hợp với các loại công chúng khác nhau, ta nhận ra ở văn chương Bác Hồ một cách có hiệu quả và tối ưu những tình thế éo le đặt ra khá căng thẳng, ít ra là trong nửa đầu thế kỷ XX của văn chương Việt Nam hiện đại.

Trong "Sửa đổi lề lối làm việc", trong cách viết, những bài nói, bài viết của Người với các giới văn hoá, khoa học, nghệ thuật, trên một định hướng lớn "Kháng chiến hóa văn hóa và Văn hóa hóa kháng chiến" được đề ra ngay sau Cách mạng thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp công lớn vào việc xây dựng những nền tảng cơ bản cho quá trình khoa học hóa, văn hóa hoá nền dân trí Việt Nam. Ng­ời là nhà cách mạng, là danh nhân lịch sử, đó là điều hiển nhiên. Nhưng đồng thời Người còn là danh nhân văn hóa, không phải, ở cái khối lượng rộng lớn các kiến thức mà Người đã huy động để làm một nhà văn hóa phương Đông hoặc phương Tây, hoặc Đông - Tây kết hợp - mà là nhằm vào một sự nghiệp cao cả, với sự nghiệp đó, cả một dân tộc và cả một nền văn hóa dân tộc được phục hưng. Người còn danh nhân văn hóa ở chỗ đã lĩnh sứ mệnh là người đầu tiên có quyết tâm và đủ sức đưa lên trên đôi vai mình một nhân dân được trang bị cơ bản để đón nhận dần dần, từng bước các tầng cao của văn hoá.



******

HỒ CHÍ MINH trong lòng nhân loại


"Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một nền văn hóa, không phải văn hóa châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa của tương lai...

Dân tộc Việt Nam là một dân tộc giản dị và lịch sự. Qua cử chỉ cao thượng, tiếng nói trầm lắng của Nguyễn Ái Quốc, tôi như thấy được ngày mai, như thấy được viễn cảnh trời yên bể lặng của tình hữu ái toàn thế giới bao la như đại dương"

ÔXÍP MANDENXTAM, 1924

"Cử chỉ văn hóa và thân mật của Người gây một ấn tượng là Người có uy tín. Người có thể trở thành lãnh tụ không phải bằng một cái gì bề ngoài mà bằng học thức, bằng trí tuệ của Người".

"Hồ Chí Minh kết hợp chất anh hùng và đạo lý (...), ông luôn luôn là một thứ Gandhi mác-xít... đại diện cho triết lý Á Đông"

GIĂNG RU

" Hồ Chí Minh là một trong số các nhân vật lạ lùng nhất của thời đại chúng ta - pha trộn một chút Gandhii, một chút Lênin, hoàn toàn Việt Nam. Chắc chắn là hơn hẳn bất cứ nhân vật nào của thế kỷ này, Người là sự hiện thân sinh động cho Cách mạng của dân tộc Người và của toàn thế giới".

ĐAVÍT HAMBECXTAM

" Đó là một người cộng sản theo lý tưởng... Tôi thấy ông dường như luôn luôn chịu ảnh hưởng của tác giả lớn của ông là Mác, chắc chắn là cả Lênin nữa... Nhưng trong ông có Giô-rex... Ông là người đã chọn chủ nghĩa cộng sản, đúng thế, nhưng có một chủ nghĩa nhân văn sâu sắc... Tôi cho là trong thế giới cộng sản, chắc chắn ông là một trong những người chấp nhận cách mạng cộng sản chủ nghĩa, phải !... nhưng trong tự do"

ETMÔNG MISƠLÊ

" Xét thấy sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh truyền thống của văn hóa hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau".

Nghị quyết của UNESCO

" Hồ Chí Minh đã thành công trong việc liên kết nhiều sắc thái văn hóa vào một nền văn hóa Việt Nam duy nhất. Người đã làm được việc này nhờ sự hiểu biết sâu sắc và tôn trọng những đặc điểm văn hóa khác nhau. Người đã hoàn thành được nhiệm vụ này và trong việc làm và lời nói của Người, ta có thể nhìn thấy rõ hình ảnh, tư tưởng của nhà thơ, nhà văn, nhà nghệ sĩ dân ca, những người đem lại nguồn cảm xúc cho nhiều thế hệ nhân dân Việt Nam. Cuộc đời của Người mang ảnh hưởng của những giá trị và truyền thống dân tộc, có những đóng góp vào việc tạo nên một nền văn hóa Việt Nam hiện đại.

Chỉ có ít nhân vật trong lịch sử trở thành một bộ phận của huyền thoại ngay khi còn sống và rõ ràng Hồ Chí Minh là một trong số đó. Người sẽ được ghi nhớ không phải chỉ là người giải phóng cho Tổ quốc và nhân dân bị đô hộ, mà còn là một nhà hiền triết hiện đại đã mang lại một viễn cảnh và hy vọng mới cho những người đang đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi trái đất này".

Tiến sĩ M.AMÉT
Giám đốc UNESCO Khu vực châu Á - Thái Bình Dương


" Để hiểu ý nghĩa của bản Nghị quyết của UNESCO, tôi hình dung Hồ Chí Minh là người đem lại ánh sáng, ánh sáng văn hóa, ánh sáng cách mạng cho nhân dân ta và góp phần đem lại ánh sáng cho nhân dân nhiều nước khác, để xua tan bóng tối của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, của dốt nát, đói nghèo, bệnh tật đè nặng lên cuộc sống của các dân tộc bị áp bức...

Sự nghiệp văn hóa lớn lao nhất, quan trọng nhất của Hồ Chí Minh là đã huy động sức mạnh của truyền thống 4000 năm văn hiến của dân tộc kết hợp với tinh hoa văn hóa của thời đại, lãnh đạo thành công sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành lại cho nhân dân ta quyền làm người, quyền được sống một cuộc sống xứng đáng với con người. Sự nghiệp đó trả lại địa vị xứng đáng cho nền văn hóa Việt Nam, cũng là một sự nghiệp có ý nghĩa to lớn đối với nền văn hóa thế giới, góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa, từng bước tiến lên thanh toán chủ nghĩa thực dân, xóa đi một vết nhơ trong lịch sử và trong nền văn hóa của loài người.

Sự nghiệp văn hóa của Hồ Chí Minh đem đến cho kho tàng văn hóa thế giới những giá trị lớn, thể hiện khát vọng của nhân dân các nước trong cuộc đấu tranh vì các quyền dân tộc cơ bản, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc, mỗi dân tộc khẳng định bản sắc văn hóa của mình và phát triển sự hiểu biết với các dân tộc khác".

"... Hồ Chí Minh là một nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam và của loài người, với ý nghĩa đầy đủ nhất của danh hiệu Nhà văn hóa. Ở Hồ Chí Minh, nhà văn hóa lớn gắn liền với nhà nhân văn lớn, phát huy truyền thống của một dân tộc "văn hiến".

Hồ Chí Minh là một nhà văn hóa lớn, vì cuộc đời và sự nghiệp của Người là tấm gương về nhân sinh quan và thế giới quan cao đẹp, làm sáng lên một chủ nghĩa nhân văn trùng với những ước mơ cổ truyền của dân tộc Việt Nam và các dân tộc, kết tinh những tư tưởng và tình cảm lớn của loài người".

"... Đổi mới và văn hóa quan hệ mật thiết với tư tưởng Hồ Chí Minh như hình với bóng... Nghiên cứu, học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là một kho tàng đầy của báu, là di sản chứa đựng biết bao giá trị, giá trị đó nói cho cùng là giá trị văn hóa mà chúng ta khai thác chưa được bao nhiêu"

Cố thủ tướng PHẠM VĂN ĐỒNG

" Sự nghiệp văn hóa quan trọng nhất của Người là đã lãnh đạo toàn dân đánh đuổi giặc ngoại xâm trong thời đại mới, giành lại cho nhân dân những quyền sống của của người, một cuộc sống có văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần cùng với loài người loại trừ một trở lực to lớn trên con đường tiến lên thế giới văn minh, xóa đi một vết nhơ trong lịch sử là chế độ thuộc địa".

"...Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao, nhưng cũng rất coi trọng văn hóa. Văn hóa là sức mạnh cơ bản của mọi dân tộc, của mỗi một con người. Dân tộc Việt Nam đã từng bị đô hộ 1000 năm, nhưng vẫn tồn tại và phát triển, vì Việt Nam giữ vững được dân chủ ở cơ sở, xóm làng, giữ được nền văn hóa truyền thống lâu đời.

Bác Hồ, văn hóa là sự kết tinh văn hóa nghìn năm của đất nước Việt Nam trên cơ sở đổi mới, kết hợp hài hòa tinh hoa văn hóa của nhân loại, tinh hoa của Sếch-spia, Vích-to Huy-gô, Lỗ Tấn, v.v...tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin...

Bác Hồ là nhà văn hóa kiệt xuất, là sự kết tinh tinh hoa của nền văn hóa Việt Nam và phần nào đó là tinh hoa văn hóa của nhân loại."


Đại tướng VÕ NGUYÊN GIÁP


Chữ ký của LSB_Lãng Tử

Tài sản của LSB_Lãng Tử
Trả lời kèm theo trích dẫn
Trả lời


Quyền sử dụng
Huynh đệ không được phép tạo chủ đề mới
Huynh đệ không có quyền gửi bài trả lời
Huynh đệ không được phép gửi file-gửi-kèm
Huynh đệ không được phép sửa bài của mình

BB code is Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển nhanh đến:

 
Copyright © 2002 - 2010 Luongsonbac.club
Thiết kế bởi LSB-TongGiang & LSB-NgoDung
Loading

Múi giờ tính theo GMT +7. Hiện giờ là 10:25
vBCredits v1.4 Copyright ©2007 - 2008, PixelFX Studios
Liên hệ - Lương Sơn Bạc - Lưu trữ  
Page generated in 0,19577 seconds with 17 queries