Quận ấp
Đất Nam-Giao xưa, nhà Chu gọi là Việt-Thường, nhà Tần đặt tên là Tượng-Quận. Đến cuối nhà Tấn, Nam-Hải-Uý là Triệu-Đà đánh tóm thâm đất, tự lập làm một nước riêng và tiếm xưng vương-hiệu.
Sơ niên Tây-Hán, Cao-Tổ phong Đà làm Nam-Việt-Vương, trải được mấy đời, thì tướng Nam-Việt là Lữ- Gia làm phản, giết vua Triệu và các sứ-thần của nhà Hán. Vũ-Đế sai Phục-Ba tướng-quân Lộ-Bác-Đức sang đánh diệt Nam-Việt, rồi đặt ra chín quận, bổ quan cai trị. Nước An-nam ngày nay tức là 3 quận Giao-Chỉ, Cửu-Chân và Nhật-Nam ở trong chín quận ấy.
Về sau các triều đại kế tiếp, chế-độ quận huyện không nhứt định.
Qua đời Ngũ-Đại (907-959), người đất Ái-Châu là Ngô-Quyền, chiếm giữ quận Giao-Chỉ; đời sau các nhà Đinh, Lê, Lý, Trần, nối nhau tranh quyền, đều được nhà Tống phong vương tước. Quan-chế, hình-pháp và hành-chính, ít nhiều học của Trung Hoa, còn về quận-ấp hoặc theo cũ, hoặc đổi mới, nay lấy đại-khái mà chép lại.
Đại-La Thành-Lộ1: xưa là nước Giao-Chỉ, đời nhà Hán để như cũ, nhà Đường đặt làm An-nam đô-hộ-phủ, thành phủ ở tại phía tây bờ sông Lư-Giang; Trương-Bá-Nghi đời Đường bắt đầu xây thành ấy, Trương-Chu, Cao-Biền tiếp-tục sửa sang đắp thêm. Trong thời Chân-Tông nhà Tống, Lý-Công-Uẩn
người quận ấy, kiến-quốc tại đây. Đến nhà Trần nối theo nhà Lý lấy đất ấy đạt thêm ba phủ nữa: Long-Hưng, Thiên-Trường và Trường-An.
Long-Hưng-Phủ: tên cũ là Đa-Cương-Hương. Tổ-tiên họ Trần lúc còn hàn-vi, ban đêm đi qua một cái cầu khe, khi qua rồi, ngoảnh lại, không thấy cầu nữa. Chẳng bao lâu, họ Trần được nước, người ta gọi khe ấy là Long-Khê, nên đổi tên Đa-Cương làm Long-Hưng.
Thiên-Trường-Phủ: tên cũ là Tức-Mặc-Hương, nơi phát-đích họ Trần. Đến khi họ Trần được nước, xây một hành-cung tại đó, mỗi năm đến một lần, để tỏ ra là không bỏ quân chỗ phát-tích của ông bà, rồi đổi tên làm Thiên-Trường-Phủ, chỗ ấy có nước thuỷ-triều chảy quanh thành, hai bên bờ mọc nhiều cây hoa, khí thơm ngát người, hoạ-thuyền qua lại, giống như cảnh tiên vậy.
Trường-An-Phủ: vốn là động Hoa-Lư; chỗ sinh ra Đinh-Bộ-Lĩnh, cuối đời Ngũ-Quý, họ Đinh lập quốc tại đó.
Qui-Hoá-Giang-Lộ: tiếp với biên-giới Vân-Nam.
Tuyên-Hoá-Giang-Lộ: tiếp giáp đạo Đăc-Ma.
Đà-Giang-Lộ: tiếp với địa-giới Kim-Xỉ.
Lạng-Châu-Giang-Lộ: tiếp với tả-giang và hữu-giang.
Bắc-Giang-Lộ: ở trên đông-ngạn của La-Thành, nước sông Lư-Giang thông với biển, trên sông có bắc 10 cái cầu đồ sộ và đẹp đẽ.
Như-Nguyệt-Giang-Lộ.
Nam-Sách-Giang-Lộ.
Đại-Hoàng Giang-Lộ.
Hồng-Lộ.
Khoái-Lộ.
Châu
Các châu đều tiếp địa-giới Quảng-Tây và Vân-Nam, tuy gọi là châu huyện, nhưng sự thật là động Quốc-Oai-Châu: ở phía nam thành Đại-La.
Cổ-Châu: ở Bắc-Giang.
Tiên-Châu: xưa gọi là Long-Biên.
Phú-Lương-Châu.
Tư-Nông-Châu: một tên khác gọi là Dương-Xá.
Định-Biên-Châu: một tên khác gọi là Minh-Mỵ.
Vạn-Nhai-Châu: một tên khác gọi là Minh-Hoàng.
Văn-Châu: một tên khác gọi là Môn-Châu.
Thất-Nguyên-Châu.
Tư-Lang-Châu.
Thái-Nguyên-Châu: một tên khác gọi là Hoàng-Nguyên.
Thông-Nông-Châu.
Vị-Long-Châu: một tên khác gọi là Ất-xá.
Quang-Châu.
La-Thuận-Châu: một tên khác gọi là Lai-thần.
Hoàng-Đạo-Châu: tức Bình-Lâm-Trường.
Dư nữa, loại như thế, không chép.
Tên Châu Thời Xưa
(Nhiều tên đã thay đổi, chỉ còn lại số ít)
Phong-Châu: nhà Ngô gọi Tân-Châu.
Tô-Mậu-Châu.
Tô-Vật-Châu.
Trường-Châu.
Nga-Châu.
Đường-Châu: một tên khác gọi là Phương-Lâm.
Các Huyện
Võ-Ninh Huyện, Vạn-Tải Huyện, Khâu-Ôn Huyện, Tân-Lập Huyện, Hoảng Huyện, Chỉ Huyện, Lịch
Huyện, Lan-Kiều Huyện, Truy-Diên Huyện, Cổ-Dũng Huyện, Cung Huyện, Quẫn Huyện (Nguyên-sử chép
là Quật), Thượng-Pha Huyện, Môn Huyện.
Dư nữa không chép
Tên Huyện Thời Xưa
Long-Biên: Cuối đời Tây-Hán, trị-sở của Thứ-sử quận Giao-Châu tên là Long-Uyên, sau vì có Giao-Long hay lên nằm khoanh trên mặt nước, mới cải tên là Long-Biên1.
Chu-Diên: Huyện của đời Hán; đời Đường cải làm Diên-Châu, đặt ra hai huyện Cao-Lăng và An Định.
Liên-Lâu: Âm chữ trên là "liên", âm chữ dưới là "lâu". Thời Hán là tri sở của thứ-sử Giao-Châu.
My-Linh: Trị-sở của quan Đô-Uý quận Giao-Chỉ đời Hán.
Khúc-Dương: Âm là "Dương".
Câu-Lậu: Hồi trước Cát-Hồng làm huyện lệnh ở đây.
An-Thuận: Đời nhà Đường gọi là Thuận-Châu.
Sùng-Bình: Đời Đường là An-Bình.
Hải-Bình: Đời Đường là Ninh-Hải.
K.Đ.V.S.T.G.C.M. cho rằng: Long-Biên là tên huyện đời nhà Hán, theo Thuỷ-Kinh-Chú thì năm 13 hiệu Kiến-An (208), lúc bắt đầu xây thành, có loài giao-long đến khoanh mình trên mặt nước, ở hai bên bến phía nam và phía bắc, nhân đây mới cải tên lại là Long-Uyên. Như vậy thì, tên Long-Biên có trước và Long-Uyên có sau.
Phủ-Lộ Thanh Hoá
Đời Tây-Hán là quận Cửu-Chân, đời Tuỳ, Đường là Ái-Châu, những thuộc ấp của châu ấy hiện nay, gọi là giang1, trường, giáp và xã, kê như sau:
Lương-giang, Ba-lung-giang, Trà-giang, Cống-giang, Thái-xa-giang, An-tiêm-trường, Văn-trường, Cổ-đằng-giáp, Chi-minh-giáp, Cổ-hoằng-giáp, Cổ-chiến-giáp, Duyên-giáp, Điền-sử-giáp, Kiết-thuế-giáp.
Tên Huyện Thời Xưa
Đồ-Bàng: Chữ "bàng" theo Nhan-Sư-cổ-âm là "lung".
Cư-Phong: Là nơi Mã-Viện bắt được dư-đảng của Trưng-Trắc.
Vô-Công: Trị sở của Đô-Uý quận Cửu-Chân đời Hán.
Việt-Thường: Một tên khác là Cửu-Đức.
Nghệ An Phủ Lộ
Trong thời Tây-Hán là Quận Nhật-Nam, đời Tuỳ, Đường gọi là Hoan-Châu.
Ấu-Tân-Giang. Minh-Đạo-Giang.Kệ-Giang. Thương-Lộ-Giang. Đường-Gia-Giang. Trương-Xá-Giang.
Diễn-Châu lộ
Vốn là thuộc huyện của quận Nhật-Nam, gọi là Phù-Diễn và An-Nhân, nhà Đường đổi tên là Diễn-Châu.
Cự-Lại-Giang. Tha-Viên-Giang.
Hiếu-Giang. Đa-Bích-Trường.
Cự-Lam-Xã. Cao-Gia-Xã.
Ban-Bát-Xã.
Bố-Chánh phủ lộ
Nguyên là huyện Tượng-Lâm, quận Nhật-Nam đời Tây-Hán.
Cuối đời nhà Hán, có người trong ấp giết huyện lệnh, tự lập thành nước, gọi là Lâm-ấp. Đầu niên hiệu Nguyên-Hoà (806-820) nhà Đường, lại thuộc về An-nam phủ, nay tên là Bố-Chính. Trong xứ ấy, núi trùng-điệp, cho nên Liễu-Tử-Hậu có câu thơ rằng: "Lâm-ấp đông hồi sơn tợ kính", nghĩa là "từ phía đông quanh lại xứ Lâm-ấp, núi dựng như cây giáo".
Đồ-Lê-Giang: (Tiếp giới Chiêm-Thành).
Núi
Núi Phật-Tích: vì trên đá có dấu chân, nên đặt tên là Phật-Tích.
Núi Tản-Viên: hình núi như cái tán.
Núi Tiên-Du: có hòn đá bàn-thạch, dợn có đường gạch như bàn cờ, tương truyền rằng: xưa có tiên đánh cờ vây ở đó. Bọn con gái đi hái củi thường đến giao-hợp ở trên đá bàn cờ, nên hòn đá ấy đổ xuống và nứt vỡ.
Núi Võ-Ninh: Tục truyền rằng ở dưới núi có mộ của Triệu-Việt-Vương.
Núi Phổ-Lại: Năm Đinh-Vị, Chí-Nguyên, (có lẽ chép nhầm năm Đinh-Hợi Chí-Nguyên tức năm 1287 A.D.), quan binh có tới làm hang rào cây, để chứa lương thực ở đó.
Núi Vạn-Kiếp: Trở mặt ra một con sông lớn, sau lưng có núi muôn trùng, rừng rậm tre cao, dưới nước trên cầu, phong cảnh rất đẹp. Hưng-Đạo-Vương đã từng ẩn ở trong ấy.
Núi Kiệt-Đặc: Đi đường tắt vào núi thì thấy hoa và cây rậm rạp tốt đẹp, có suối ngọc chảy mòn đá, lửa đóm rước người (vào chơi), mát mẽ lạ lùng, cõi đời không có.
Núi Yên-Tử: Gọi là Yên-Sơn hoặc là Tượng Sơn, bề cao lên quá từng mây. Đầu niên hiệu Hoàng-Hựu, nhà Tống (1049-1053), gọi là Xứ-Châu, hồi giữa niên-hiệu Đại-Trung Trường-Phù (1008-1016), triều đình lại ban tên là Tử-Y-Đông-Uyên. Đại-Sư là Lý-Tư-Thông có dâng lên vua hải-nhạc danhsơn-đồ và vịnh thơ tán: Phúc-Địa thứ tư tại Giao-Châu là Yên-Tử-Sơn.
Tân kỳ chóp núi nêu vài nụ,
Yểu-điệu hình khe trổ một ngành.
Tiên cỡi loan qua ngồi cảnh tịnh,
Người xem rồng xuống giỡn đầm xanh.
Tắc Sơn: Có động Yên-La, đỉnh núi Tý-ngọ, đều xinh đẹp lạ kỳ. Thiện-Lạc-Vương thường dắt đệ-tử vào đó.
Núi Địa-Cận: Núi ấy rất cao và hiểm trở, có cây tùng đã lâu đời, tục truyền có rồng khoanh ở trên cây ấy. Trần-Thái-Vương có làm hành-cung tại đó.
Núi Thiên-Dưỡng: Tốt đẹp mà hiểm, khi thủy-triều lên xuống mới chèo ghe đi tới được. Họ nhà vua xây dựng nhà cửa ở trong, để tránh quốc-nạn.
Động Võ-Lâm: Xưa nước An-nam, đời vua thứ tư của nhà Trần là Trần-Nhân-Vương, bỏ ngôi vào ẩn ở đó để thành đạo, hiệu là Trúc-Lâm đạo-sĩ, có làm Hương-hải-ấn-thi tập, truyền lại đời sau.
Núi Thần-Đầu: Núi ấy làm ranh giới cho hai quận La-Thành và Thanh-Hoá. Thế núi liền nhau có hai bờ, nước thuỷ-triều ngoài biển chạy vào ở giữa.
Thời xưa người ta tới đục mở ba hòn núi ở bờ phía nam để tiện sự qua lại. Hồi trước Thánh- Vương nhà Lý, đánh nước Chiêm-Thành, ý muốn vượt qua biển, nhưng gặp mù và sóng lớn, đi không được, mới cầu thần ở núi ấy, rồi đi được, khi về lập đền thờ ở đó, từ đó về sau, các hòn núi đều thuộc về Thanh-Hoá cả.
Long Đại-Nham: Gọi là Bửu-Đài, sầm uất mà tốt đẹp đặc biệt, trong vách đá có khoảng trống làm chỗ thờ phật, ở ngoài như treo những hoành đối, trổ dáng nhà cửa, giàn trước có con sông trong, bọc sau lưng có hồ sen đỏ, cây thông bóng mát vài dặm, núi non liên tiếp muôn trùng. Xưa có truyền lại
rằng có con chuột rất lớn ở trong hang núi, nên tục gọi là hòn lèn "Con dơi".
Núi Văn-Trường: Đá núi ấy rất tinh khiết mà trắng, làm hạt châu-thuỷ-tinh được.
Biện-Sơn: Ở ngoài bể khơi, xưa có những thú-vật thình-lình hoá kiếp những võ và xương tấp vào, xuyên qua hang đá, nay vẫn còn.
Núi An-Hoạch: Sản-xuất đá làm bia, làm đỉa nghiên. Sách cũ có chép: Dự-Chương Thái-Thú Phạm-Nịnh sai sứ tới quận Cửu-Chân lấy đá làm khánh để dùng ở trong trường học.
Núi Đông-Sơn: Chạy tới sông Chi-Minh, đã cao lại tốt, trên núi có hang, trèo lên mà trông, sắc nước in trời thật là một cảnh rất đẹp. Phụ-thân tôi, (Lê-Tắc) thời trung-niên, thôi làm quan, tự hiệu là Tư-Duy cư-sĩ, thường ẩn-cư trong hang núi ấy.
Núi Khu-Na: Cao, rộng, nhiều ma, những con ma nầy mỗi khi ra khỏi núi lại đốt nhà của người ta. Nhân có nhà sư tên là Phụng-Phù, cứ ngày đêm đọc bài chú đại-bi, ma sợ tránh đi xa, người ta mới khỏi bị hại. Núi ấy có nhiều trái cây ăn được, ai đến tha hồ mà ăn, nhưng hễ đem về thì lạc mất đường.
Núi Lập-Thạch: Là một hòn đá đứng sững vậy. Tương truyền rằng thuở xưa có ông thần dựng một hòn đá to lớn để vạch địa hạt Ái-Châu và Diễn-Châu.
Núi Đà-Kỹ: Có một khoảng đất vườn, ở sát bờ biển, sinh ra thứ đá đen như hình con cờ, hình sắc thật đẹp, đáng yêu. Ta thường ra chơi, gặp ông già nói rằng: "cách đây hơn một trăm dặm, lại có sản-xuất con cờ đá trắng". Tục truyền rằng: người tiên thường đánh cờ vây ở đó.
Núi Hương-Tượng: Rất cao rộng, sản-xuất gỗ thơm, tê-ngu và voi.
Sùng-Sơn: Thẩm-thuyên-Kỳ, đời nhà Đường bị đày qua đất Hoan-Châu, có làm bài Sùng-Sơn hướng Việt-Thường thi:
Buổi mai leo đến núi Sùng,
Việt-Thường xế đến, ngồi trông bóng chiều.
Hang Sam-Cốc theo chiều bóng lặn,
Từ Trúc-Khê ra thẳng Bắc-Phương.
Trúc-Khê, Minh-Thuỷ thông-thương,
Rày Hang Sam-Cốc, xưa đường Sùng-Sơn.
Núi so le, cây ngàn thưa nhặt,
Quấn quít nhau ràng mắc thành chùm.
Đầy gò lá quế xanh um,
Hoa đằng nẩy nở trong lùm đá ngăn.
Trời lồng lộng còn dăng cửa sổ,
Cảnh âm thầm đá trổ hang mây.
Thợ trời dường lắm công xây,
Bao nhiêu thẳng-tích người rày tới nơi.
Không phải muốn tìm nơi quái dị,
Khoan thai chưa quyết chí lui về.
Phân Sơn: Lại còn gọi là Liệt-Sơn, hai nước An-nam và Chiêm-Thành, lấy núi này làm ranh-giới, tục truyền rằng cây cỏ ở trên núi ấy cũng chia hai: bên ngã về Nam, bên ngã về Bắc.
Núi Kim-Ngưu: Sách xưa chép đá núi ấy đều sắc đỏ, trong đá có chất vàng, đêm lại thì sáng như con đom-đóm.
Núi Đô-Long: Nơi Lưu-Phương đánh bại Lâm-ấp.
Sông
Sách xưa chép các con sông như Yêm-Thuỷ, Lô-Du-Thuỷ, Lậu-Thuỷ, Tây-Tuỳ-Thuỷ đều từ Đôngnam đất Tuấn-Việt chảy đến Long-Môn đất Giao-Chỉ.
Dương-Hùng (đời nhà Hán) nói rằng: "các xứ hoang nhàn ở giải đất Giao-Chỉ, nước tiếp giáp với trời.
Lô-Giang:Sông Tam-Đái (ba giải) chảy tới La-Thành, lại từ sông Lô thông ra biển.
Tô-Lịch-Giang: Chảy quanh La-Thành, trên sông có năm cái cầu, đều làm rất đẹp. Hiệu Chí- Nguyên năm Bính Tý (1276), nhà Tống mất, Tăng-Uyển-Tử trốn sang An-nam, đi chơi qua cầu Lịch- Giang có ngâm bài thơ rằng:
Đầu bạc chàng Tô, trời một góc,
Theo tiên vua Võ, nhạn về Nam.
Trên cầu sông Lịch trông về Bắc,
Trải mấy lằn thu thấy chẳng nhàm.
Tam-Đái-Giang: Nước sông Qui-Hóa từ Vân-Nam chảy về, nước sông Tuyên-Quang từ Đặc-Ma Đạo chảy tới, nước sông Đà từ nguồn Chàng-Long chảy về, nhân có ngã ba, nên đặt tên như vậy.
Phú-Lương-Giang: Là nơi Quách-Quỳ đời Tống đánh bại Giao-Chỉ.
Đại-Hoàng-Giang: Trong năm Giáp-Thân hiệu Chí-Nguyên (1284), là nơi quan quân đánh phá An-nam.
Đại-Ác-Giang: Một tên khác gọi là Đại-An.
Bà-Lữ-Uyên: (vực) nước sâu có nhiều thuỷ quái.
Từ-Liêm-Thuỷ: Theo sách Cửu-Vực-Chí chép rằng: Từ-Liêm-Thuỷ ở tại Giao-Chỉ. Xưa ở bên sông ấy, Lý-Nhân-Tổ có mười anh em đều từ hiếu cả, nhân đó, mới đặt tên như vậy.
Long-Môn-Thuỷ: Sách xưa chép: "huyện Phong-Khê, quận Giao-Chỉ có Long-Môn-Thuỷ, nước sâu trăm tầm, cá con nào lớn vượt lên suối ấy được, thì hóa rồng, nếu lên không được, thì bị thương nơi trán và bày mang ra".
Việt-Thường-Uyển: Cứ sách Phò-Nam-Ký, khoảng đất giữa khe núi, gọi là uyển. Vườn CửuĐắc, có tên là Bổ-Uyển.
|