Lịch sử qua câu đối trên lăng mộ Phùng Hưng
Lăng mộ Phùng Hưng ở Kim Mã Hà Nội mới được trùng tu năm 2010. Hai bên mộ đá của Phùng Hưng có đôi câu đối được khắc chìm trên đá như sau:
Đường nhân kỳ hữu tàm hoa ngạc liên huy thân hậu thiên vô Huyền Vũ giáp
và
Hán tặc hà túc sỉ thảo mao(?) xướng nghĩa sinh tiền bất sổ Lục Lâm binh.
Đây là 2 câu đối rất hay, ẩn chứa những thông tin lịch sử sâu sắc về Phùng Hưng, về họ Phùng và về lịch sử Việt Nam thời trung đại.
Trước hết để hiểu câu đối này cần ngắt đoạn trong các vế đối đúng chỗ. Theo luật thanh âm trong các câu đối dài thì nếu câu đối kết thúc bởi vần thanh bằng thì các chỗ ngắt đoạn phải là thanh trắc. Và ngược lại, nếu câu đối kết thúc bởi thanh trắc thì các chỗ ngắt đoạn phải là thanh bằng. Có như vậy câu đối cho dù dài bao nhiêu khi đọc lên cũng không bị trúc trắc, xuôi tai.
Như vậy câu đối trên phải được ngắt đoạn như sau:
Đường nhân kỳ hữu tàm/ hoa ngạc liên huy/ thân hậu thiên vô Huyền Vũ giáp
Hán tặc hà túc sỉ/ thảo mao xướng nghĩa/ sinh tiền bất sổ Lục Lâm binh.
Tiếp theo để hiểu câu đối này cần biết 2 điển tích được sử dụng là Huyền Vũ và Lục Lâm. Dưới thời Đường Cao Tổ đã xảy ra "sự biến cửa Huyền Vũ" khi Lý Thế Dân với sự trợ giúp của một hổ tướng là Uất Trì Kính Đức tiêu diệt 2 người anh em, dành ngôi vị, và lên ngôi Đường Trinh Quán. "
Huyền Vũ giáp" tượng trưng cho quyền lực, cho chế độ của triều Đường.
Vào triều Tân của Vương Mãng, tại núi Lục Lâm ban đầu có một đám giặc cướp tụ tập, người Trung Hoa gọi là "Lục Lâm thảo khấu". Khi triều đinh của Vương Mãng suy yếu lũ giặc cỏ này được thời, tiến đánh khắp nơi, lật đổ Vương Mãng, tôn Lưu Huyền là Cánh Thủy Đế, lập một triều đại riêng. Quân Lục Lâm sau đó bị quân Xích My của Phàn Sùng đánh bại. Lưu Tú, một tướng của quân Lục Lâm sau đó diệt Phàn Sùng, lên ngôi xưng là Hán Quang Vũ, mở đầu triều đại Đông Hán.
Điều lạ trong câu đối là thái độ của người viết đối với 2 triều đại Hán, Đường này. Phùng Hưng khởi nghĩa chống lại nhà Đường nhưng trong câu đối vẫn dùng từ "
Đường nhân", với ý coi Phùng Hưng và nhà Đường là cùng một tông tộc, chỉ khác ở khuôn khổ, chế độ ("
Huyền Vũ giáp"). Trong khi đó vế đối thứ hai lại gọi đích danh "
Hán tặc" đối với lũ "Lục Lâm thảo khấu", nói lên đây mới là kẻ ngoại xâm. Nếu triều Đông Hán là một triều đại Trung Hoa chính thống là quân Lục Lâm phải được gọi là "nghĩa binh" chứ sao lại là "giặc cỏ"?
Vế đối đầu với đoạn "
thiên vô Huyền Vũ giáp" thể hiện nghĩa là Phùng Hưng đã không theo chế độ của nhà Đường, mở ra một quốc gia riêng, tỏa sáng trong lịch sử ("
hoa ngạc liên huy"). Thế còn vế đối sau nói tới cuộc đối đầu với Hán tặc Lục Lâm binh thì liên quan gì đến Phùng Hưng mà lại được khắc ở mộ ông?
Điều này có thể hiểu được khi ta xem thủ lĩnh quân Xích My chống lại lũ giặc cỏ Lục Lâm là Phàn Sùng. Cuộc khởi nghĩa Xích My là cuộc khởi nghĩa nhân dân ("
thảo mao xướng nghĩa") đã đánh thắng lũ giặc Hán Lục Lâm.
Phàn Sùng khi phiên thiết sẽ là ... Phùng. Tới đây ta chợt hiểu, Phàn Sùng chính là một người họ Phùng, là tiền nhân của Phùng Hưng. Hiển nhiên Phàn Sùng phải là người Việt. Cuộc khởi nghĩa Xích My như vậy là cuộc khởi nghĩa của người Việt, dưới sự lãnh đạo của một tướng quân họ Phùng, chống lại lũ giặc Hán ở núi Lục Lâm.
Một thông tin khác khẳng định lập luận này là cặp từ đối "
thân hậu" và
"sinh tiền" trong câu đối trên. "
Thân hậu" hay hậu thế, chỉ Phùng Hưng, người đã phá bỏ chế độ nhà Đường ở Phong Châu. Còn "
sinh tiền" tức là tiền nhân, tức là Phàn Sùng, người đã đánh bại quân Lục Lâm. Cặp "
thân hậu - sinh tiền", hay "hậu thế - tiền nhân" này đã nối 2 vế đối thành một thể thống nhất, nói lên công nghiệp của cả họ Phùng (Phùng Hưng và Phàn Sùng) trong lịch sử.
Toàn bộ câu đối sau khi giải mã có thể được dịch như sau:
Người Đường có biết xấu, đài hoa liền sáng, hậu thế đâu núp giáp Huyền Vũ
Giặc Hán bao hổ thẹn, thảo mãng dấy nghĩa, tiền nhân sá gì lũ Lục Lâm.
Câu đối trên mộ Phùng Hưng đã cho một thông tin rõ ràng: khởi nghĩa Xích My cuối triều Tân là khởi nghĩa lãnh đạo bởi tiền nhân họ Phùng, là cuộc khởi nghĩa của người Việt chống lại giặc Hán. Nói cách khác, Trung Hoa trước thời Đông Hán là đất nước của người Việt. Chính giặc Hán từ núi Lục Lâm, đám giặc cỏ Lưu Huyền, Lưu Tú mới là quân xâm lược, đã chiếm nước của người Việt, dựng nên nhà Hán, đặt dân Việt dưới tình thế mất nước mấy trăm năm.