Về đời Đường, có một nhà ẩn giả họ Thôi tên Huyền Vĩ, là một người mộ đạo. Suốt đời ẩn náu một mình ở Lạc Đông Thôn xử sĩ không thèm biết dư vị phấn hương của mối tình kháng lệ. Trong mảnh vườn u tịch muôn sắc thắm tươi của đủ các giống hoa kỳ, cỏ lạ : nào tùng biếc, trúc xanh, mai trắng, đào hồng... đều tăng vẻ kiều diễm.
Bài thơ tiếc hoa sau nói lên được cái thú tiêu khiển thanh tao, nỗi buồn dịu vợi của con người tài hoa phong nhã, trọn đời chỉ biết tiêu khiển, chỉ biết bầu bạn với hoa lá, gió trăng. Một đêm mưa nghe lòng mình nằng nặng.
Liên tiêu phong vũ bế sài môn
Lục tận thâm hồng, chỉ liễu tồn
Dục tảo thương đài thả đình chửu
Giai tiền điểm điểm thị hoa ngân
Dịch :
Cửa sài đóng kín đêm mưa gió
Liễu rụng hồng rơi bóng nhạt phai
Niềm riêng phủ lớp rêu xanh biếc
Lốm đốm hoa in mấy bậc ngoài
Gặp lúc tiết xuân êm ả, trăng vườn hoa muôn cánh rạt rào, sắc hương chìm trong sương lạnh. Đêm thanh, bản nhạc thanh bình rít lên pha lẫn vào khóm dương đanh thánh thót những giọt sương đục màu sữa. Vừng trăng lơi lả giữa giấc ngủ im lìm của tạo vật, Huyền Vi thấy lòng mình lâng lâng, một mình đi lẫn thẫn từ khóm hoa này sang khóm hoa khác, bỗng thấy trong vườn có một mỹ nhân áo xanh non màu lá mạ thất thểu đi đến... chập chùng dưới ánh trăng màu vàng nhạt.
Huyền Vi lấy làm lạ, tự hỏi :
— Đêm khuya, canh tỉnh, tại sao lại có người con gái ở vườn hoa này ?
Huyền Vi còn ngơ ngác chưa rõ sự thế ra sao, thì mỹ nhân đã bước đến trước mặt thi lễ.
Huyền Vi bối rối ngước nhìn nét hoa, hỏi :
— Chẳng hay tiểu thư ở đâu, đêm khuya cảnh vắng lại vào nơi tệ viên, ắc hẳn có điều chi chỉ giáo ?
Cặp môi đào hé mở, vừng ngập chói ngời, như giọng oanh thánh thót, thiếu nữ đáp :
— Tiện nữ nhà ở gần đây. Nay cùng mấy người bạn đến đông môn để thăm người dì, tiện đây xin tá túc một đêm biết công tử có khứng cùng chăng.
Tuy trước cảnh bất ngờ, nhưng không lẽ từ chối lời nói của mỹ nhân, nên vui vẻ nhận lời. Mỹ nhân cúi đầu cảm tạ rồi bước ra lối cũ.
Một lát sau, thiếu nữ kia lại dẫn một đoàn mỹ nhân khác rẽ hoa bước vào. Dưới trăng mờ huyền ão, nét diễm kiều trong gió bụi vẫn không phai, mỗi người như một cánh hoa phù dung lắc lư trước gió.
Huyền Vi như hoa mắt, miệng không nói được lời nào, lặn đưa các thiếu nữ vào phòng khách, mời ngồi và hỏi :
— Thưa quý nương, chẳng hay quý nương phương danh liệt tánh là gì, mà vóc ngọc thân ngà lại lặn lội đến tệ xá làm vậy.
Một thiếu nữ mặc áo màu lục đứng dậy đáp :
— Chúng em sống nơi quê mùa, tên họ lại xấu xí, e nói ra làm rát tai công tử chăng !
Huyền Vi mỉm cười, nói :
— Xin quý nương đừng quá khiêm tốn.
Cô thiếu nữ mặc áo nguyệt bạch đứng dậy đáp :
— Em đây vốn họ Dương, còn chị mặc áo xanh đây là họ Là, còn chị mặc áo hồng kia là họ Đào...
Mỗi thiếu nữ đều đứng dậy tự giới thiệu tên mình. Cuối cùng đến người mỹ nhân nhỏ tuổi nhất. Dương mỹ nhân đứng dậy vỗ vai nói :
— Đây là em út của chúng tôi, họ Thập tên A Thác. Tuy có khác họ thật, song từ lúc nhỏ đến giờ mối tình tha thiết và gắn bó với nhau lắm.
Đêm nay chúng em hẹn đến Thập Bát Di Nương để chào người, tiện đây chúng em vào yết kiến công tử, để cảm ơn công tử cho chúng em mượn vườn hoa này làm nơi gặp gỡ.
Nghe các thiếu nữ ăn nói lưu loát, Huyền Vi toan tìm lời văn hoa và cử chỉ nhã nhặn để đối đáp, nhưng chàng chưa biết nói lời nào thì các thiếu nữ đã đứng dậy nhìn ra vườn hoa, reo to :
— A ! Thập Bát Di đã đến kìa !!!
Dứt lời, mọi người đều chạy ra vườn để đón. Huyền Vi vội lãng tránh sang một phòng bên để lánh mặt.
Bọn thiếu nữ thi lễ xong đồng nói :
— Chúng tôi đến đây để đón Di Nương, nhưng được chủ nhân mời vào hỏi chuyện nên tiếp đón có hơi chậm trễ, xin Di Nương miễn thứ cho.
Di Nương có tên là Phong Di, một thiếu nữ oai vị, tuy vẻ đẹp phong nhã, nhưng có hơi đanh ác, bước tới nhìn các thiếu nữ kia, mỉm cười nói :
— Đã mấy lần định đến thăm các em nhưng vì bận việc không đi được, hôm nay mới có dịp, để các em phải nóng lòng mong đợi, thực chị có lỗi lắm.
Các thiếu nữ đồng thanh đáp :
— Được quý nương chiếu cố đến thăm các em, các em có gì mừng hơn. Vậy đêm nay trăng sáng, hoa tươi, xin quý nương vào tạm nơi đây để chúng em được dâng ly rượu thọ.
Phong Di nhìn vào căn phòng trống, hỏi :
— Hội họp ở đây có gì bất tiện không ?
Dương mỹ nhân đáp :
— Chủ nhân ở đây là một bậc quân tử, thanh tao và nho nhã, vả lại khu vườn này cũng khá u tịch, không có gì đáng để cho Di Nương ái ngại cả.
Phong Di hỏi :
— Thế thì chủ nhân hiện giờ ở đâu ?
Huyền Vi đang ở phòng kế cận, nghe Phong Di hỏi đến mình, liệu khó bề trốn tránh nên vội bước ra thi lễ.
Các cô thiếu nữ vội vàng nhắc ghế mời Phong Di ngồi trên rồi lần lượt nắm tay nhau ngồi chung quanh. Huyền Vi kéo ghế ngồi bên ngoài để giữ lễ.
Chẳng bao lâu, bên ngoài có một cô tỳ nữ bưng vào một mâm đầy những thứ món ngon vật lạ, tỏa trong phòng một mùi thơm ngát. Trong đó đủ các thứ bánh, Huyền Vi không biết thứ bánh gì mà gọi. Lại còn có những thứ rượu gì bay hơi ngọt ngào như mật ong vậy.
Các thiếu nữ rót rượu, mời Phong Di uống trước.
Phong Di cầm ly rượu, tỏ lời mời các thiếu nữ đồng nhau đối ẩm.
Các thiếu nữ tiếp lời mời Huyền Vi.
Đêm thanh trăng tỏ, bên ngoài gió hiu hiu thổi, tiếng trúc rạc rào như muôn nhạc điệu lắng chìm trong cảnh tịch mịch u huyền.
Cạn nửa tuần rượu, thiếu nữ mặc áo hồng đứng lên, rót thêm đầy chén ngọc tử hà, dâng cho Phong Di và nói :
— Tiện nữ có mấy câu hát này xin dâng cho Di Nương giải muộn.
Nói xong nàng cất tiếng hát lâng lâng :
Phi y, phi phất lộ doanh doanh
Đạm nhiễm yên chi, nhất đóa khinh
Tự hận hồng nhan lưu bất tục
Mạc cán xuân phong đạo bạc tình.
Dịch :
áo xiêm phất phới giữa sương lam
Một đóa hương hoa phận yếu mềm
Nghĩ trách hồng nhan thường mệnh bạc
Trách chi ngọn gió chẳng thương tình
Tiếng ca lảnh lót, lâng lâng một mối buồn nhè nhẹ... hòa nhịp theo khúc nhạc trúc êm đềm, tưởng như vũ trụ đang quay cuồng giữa cảnh bồng lai.
Dứt tiếng hát, thiếu nữ mặc áo màu nguyệt bạch lại đứng dậy dâng rượu cho Phong Di rồi ca tiếp một bài khác :
Hạo thiết ngọc nhan trăng bạch tuyết
Huống mãi đương niên đối phương nguyệt
Trầm ngâm bất cảm oán đông phong
Tự thán dung hoa ám tiêu yết
Dịch :
Tấm thân trong tợ tuyết sương pha
Bát ngát hơi hương dưới nguyệt tà
Nhìn ngọn gió đông không dám trách
Chỉ than cho một kiếp đời hoa
Tiếng hát rít lên như muôn cung đàn rào rạc trong gió lộng u hoài.
Phong Di lúc đó đã say, lòng vẫn có tánh khinh bạc mọi người, nên lòng trắc ẩn nỗi lên, chưa nghe hết câu đã vội trách mắng :
— Đêm thanh trăng tỏ, cuộc hội ngộ này đáng lẽ tìm những lời vui vẻ hát ca, sao các cô lại tấu lên những khúc nhạc nghe bi thảm làm vậy ? Vả lại trong lời hát, ta cảm thấy như có một cái gì hống hách, ngạo mạn, ta phạt cho mỗi cô phải uống thêm một chén lớn nữa để rồi mỗi người phải hát lên một khúc hát vui vẻ xem nào ?
Nói xong, Phong Di lại nâng chén uống một hơi.
Lúc bấy giờ hơi rượu đã thắm vào tâm não, Phong Di say liểng niểng, bưng ly rượu ngất ngưởng ngã xiêu vẹo đổ vào chiếc áo hồng của nàng A Thác, một thiếu nữ ngồi gần bên cạnh.
Nàng A Thác vốn tánh điềm tĩnh, bị rượu đổ vào áo, nàng phật ý, nét mặt cau lại trong hơi men đã chếnh choán, nàng vụt đứng dậy nói :
— Tại sao lại có những cử chỉ thô lỗ như vầy ? Bữa tiệc hôm nay là bữa liên hoan, phải đâu để dùng quyền thế mình mà khinh bạc kẻ khác. Các chị ai muốn cầu cạnh thì ở đó, phần tôi, tôi không cần gì đến ai cả.
Nói xong, A Thác đứng dậy rũ áo bước ra khỏi phòng.
Phong Di tái mặt, chỉ tay ra cửa nói :
— Khốn nạn, nó dám mượn hơi rượu để mà miệt hạ ta như thế sao ? Ta quyết cho một trận để cho nó biết phận mình.
Nói xong, Phong Di cũng đứng dậy rũ áo bỏ ra ngoài.
Các thiếu nữ đều một mặt khuyên giải :
— A Thác tuổi trẻ, lại bị say quá nên xúc phạm đến Di Nương, xin Di Nương để đến hôm khác, chúng tôi sẽ dẫn A Thác đến mà tạ tội.
Phong Di chẳng cần nghe lời can gián của các thiếu nữ kia, mặt hầm hầm bước xuống thềm.
Các thiếu nữ sợ sệt, từ giã Huyền Vi rồi bước theo, vạch hoa đi tản ra tứ phía.
Huyền Vi lấy cớ tiễn khách, bước ra thềm để xem tông tích cá thiếu nữ ở nơi đâu. Nhưng khi Huyền Vi vừa bước ra đến thềm thì bóng các cô thiếu nữ kia không còn thấy đâu nữa.
Lấy làm lạ, Huyền Vi nghĩ bụng :
— Những con người áo xiêm ủy mỵ, ăn nói lưu loát như thế chẳng lẽ lại mà ma quái gì hiện đến sao ? Mà cũng không lẽ ta đã nằm mộng ?
Nỗi thắc mắc tràn ngập trong lòng Huyền Vi. Chàng lảo đảo bước vào phòng thì mâm chén cùng các đồ ăn lúc nãy cũng đã biến đi đâu mất, chẳng còn lưu lại một vết tích gì; duy chỉ có mùi hương còn phảng phất chưa phai.
Huyền Vi càng kinh ngạc, nghĩ bụng :
— Đây hẳn là một điều quái gỡ, tuy nhiên dù sao cũng không đến nỗi tai hại gì.
Nghĩ như thế, chàng an tâm, và cố tìm hiểu xem các cô nàng kia thuộc vào giống gì cho biết.
Chiều hôm sau, Huyền Vi đang thơ thẩn trong vườn. Vừng trăng bắt đầu buông những tia sáng yếu ớt rải trên các khóm cây cao, chàng thoáng thấy xa xa có bóng đoàn mỹ nhân hôm trước đang quây quần quanh một thiếu nữ.
Chàng rón rén bước đến. Thì ra các cô kia đang khuyên nàng A Thác nên đến tạ tội với Phong Di.
A Thác vùng vằng nói :
— Các chị cứ đầu phục mãi cái con mẹ độc ác ấy sao ? Người ta đã không có lòng thương chúng mình thì dù chúng mình có cầu khẩn đến đâu cũng không ích gì. Tốt hơn chúng ta nên cầu công tử Huyền Vi đây, có tốt hơn không ?
Vừa nói, A Thác vừa quay lại. Các thiếu nữ đưa mắt nhìn theo. Thấy bóng Huyền Vi, mọi người đều reo lên. Huyền Vi cực chẳng đã phải ra mặt bước đến.
A Thác bước đến trước mặt Huyền Vi kính cẩn chào và nói :
— Chị em chúng em đều trú ngụ trong vườn của công tử. Nhưng phận liễu yếu đào tơ không nơi nương tựa. Hàng năm thường có trận gió đông thổi đến bắt chúng em phải dập liễu vùi hoa. Vì vậy mà chúng em phải cầu khẩn nàng Thập Bát Phong Di che chở. Tuy nhiên, tánh Phong Di ác nghiệt, thường hay giận hờn, vì thế tìm đủ lời sách hạch làm chúng em khổ sở vô cùng. Mới đây Phong Di lên mặt giận dữ em, chúng em đoán chắc thế nào rồi đây chúng em cũng bị một trận trừng phạt. Nếu công tử đoái lòng thương chúng em, che chở cho chút phận yếu mềm của kiếp đời hoa thì chúng em nguyện ghi ơn muôn thưở.
Huyền Vi hỏi :
— Tôi làm sao mà che chở cho các cô được ?
A Thác nhanh nhẩu đáp :
— Cứ mỗi năm vào ngày nguyên đán, chúng em cầu xin công tử làm cho một lá phan màu đỏ, trong đó vẻ một tấm bùa bát quái trấn ngũ lôi, dựng ở phía đông hoa viên, như thế chúng em sẽ được bình yên ngay.
Huyền Vi nói :
— Năm nay nguyên đán đã qua rồi, thì còn làm thế nào được.
— Ngày hăm mốt tháng hai là ngày tết. Nếu buổi bình minh hôm ấy mà có gió thổi nhiều thì nhờ công tử giúp cho.
Huyền vi mỉm cười nói :
— Việc đó đâu có khó gì, chỉ sợ công việc giúp ích của tôi không đem lại cho các cô một kết quả nào thì lòng tôi không an đó thôi.
— Nếu được công tử nhận lời thì chúng tôi không còn lo gì nữa cả.
Nói xong, các thiếu nữ đều từ giã Huyền Vi, rẽ hoa, thoăn thoắt bước đi. Chẳng mấy chốc bóng các thiếu nữ đã biến đi đâu mất. Trong vườn chỉ còn mùi hương thoang thoảng, cái thứ mùi hương quen thuộc thường ngày.
Muốn chiêm nghiệm thử xem những lời nói của các thiếu nữ kia có đúng không, ngày hôm sau Huyền Vi làm một cành phan màu đỏ, vẽ bùa ngũ lôi chực sẵn ở đó.
Đúng vào ngày hai mươi mốt tháng hai, trời chưa rạng sáng, Huyền Vi đã thức dậy ra vườn.
Giữa lúc ấy quả có luồn gió lốc từ xa thổi đến; ban đầu còn yếu ớt, nhưng mỗi lúc một mạnh dần, sau thành một trận cuồng phong rất dữ dội.
Huyền Vi lập tức đem cành phan vẽ bùa ngũ lội, dựng về hướng đông theo lời dặn của các thiếu nữ. Bốn bề cây cối xao động, các cây cao đổ lá tơi bời, bay phất phới như cánh chuồng. Tuy nhiên, trong vườn các cây hoa vẫn đứng nguyên vẹn và tươi tốt, khoe màu khoe sắc muôn vẻ.
Huyền Vi nghĩ ra một kế, các thiếu nữ kia là kết tinh của các giống hoa. A Thác là tinh hoa Thạch Lựu, còn Phong Di là nàng gió...
à ! té ra lại có những nàng hoa sống chung trong vườn thưởng thức, nhưng chàng đâu có hiểu.
Chiều hôm ấy, các thiếu nữ, với vẻ diễm kiều, bước đến tạ Ơn :
— Được nhờ ơn công tử đoái lòng thương, giúp đỡ cho các em thoát khỏi tai nạn, chúng em không có gì để đền ơn cho xứng đáng. Chúng em có chất Anh hoa đây là kết tinh của muôn hoa, xin dâng cho công tử. Xin công tử cứ che chở cho các em mãi như thế thì các em có thể trường sinh mà đạt đến địa vị hoa tiên.
Huyền Vi không nỡ từ chối, tiếp nhận tặng phẩm của mấy cô nàng.
Chất Anh hoa ấy quả nhiên quà hóa vô cùng. Mỗi sáng, Huyền Vi dùng một chút với nước trà, tự nhiên thấy trong người khoan khoái và vui vẻ suốt ngày. Chẳng bao lâu, dung nhan của Huyền Vi bỗng trẻ lại như người trai trên tuổi đôi mươi.
Sau đó, chẳng ai hiểu rõ chàng ta đi đâu, chỉ thấy trong truyện còn lưu lại một bài thơ như vầy :
Lạc Trung, Xử Sĩ ái tài ba
Tuế tuế chu phan hội thái hòa
Học đắc xan anh kham bất lão
Hà tu canh mịnh táo vi qua !
Dịch :
Xử Sĩ yêu hoa chốn Lạc Trung
Năm năm dựng một cánh phan hồng
Anh hoa đã nếm mùi bất lão
Dưa, táo cần gì đợi suốt canh !
Thành viên sau đã gửi lời cám ơn đến Lăng Độ Vũ vì bài viết hữu ích này:
Vào đời vua Nhân Tôn nhà Tống, tại thôn Trường Lạc thuộc huyện Bình Giang, có người họ Thu, tên Tiên là một nhà ẩn dật, tánh ưa sống trong cảnh an nhàn, cô tịch, không màng đến công danh phú quý. Người người đều gọi chàng ẩn sĩ này là Thu Công.
Thu Công vợ chết sớm, không con, gia tài gồm có mấy mẫu đất cha mẹ để lại, nếu chàng chịu khó chăm sóc ruộng vườn thì cũng đủ một cuộc sống phong lưu, đàng này Thu Công tánh lại thích trồng các thứ hoa, và suốt đời cũng chỉ thích có hoa mà thôi.
Do đó bao nhiêu vườn đất, chàng ta trồng hoa cả. Giữa vườn cất một cái trại khá lớn, năm tháng một mình thơ thẩn vào ra, lo việc trồng tỉa. Nếu kiếm đâu được một vài thứ hoa nào lạ thì chàng còn quý hơn làm tìm được châu báu.
Lúc nào rảnh rỗi, dạo chơi các miền lân cận, nếu gặp nhà ai có vườn hoa thì chàng nhứt định xin vào xem cho kỳ được. Nếu người chủ vườn không bằng lòng, chàng ta cũng ở đó nài nỉ mãi, lúc nào được xem mới chịu đi.
Gặp những giống hoa bình thường, đương tuần hoa nở thì chàng say sưa thưởng thức, còn gặp cái thứ danh hoa, thôi thì không thể nào mà tả nổi cái cảm khoái của chàng được. Chàng nhứt thiết hỏi mua, dù bằng giá nào. Nếu không tiền thì chàng cởi áo thế.
Bọn lái hoa biết tánh Thu Công như vậy, cho nên lúc nào chàng ta hỏi mua thì đòi giá rất cao. Tuy nhiên cái con người sai hoa ấy chẳng bao giờ chịu bỏ qua.
Lại một bọn lưu manh tinh quái, biết Thu Công là người mến hoa, nên đi tìm nhiều thứ hoa rất lạ đem về bán với giấ rất đắt, làm cho nhiều lúc vì mê hoa mà Thu Công bỏ cả tiền bạc để mua, không còn một đồng trong nhà, phải nhịn ăn nhịn mặc.
Tháng ngày trôi qua, trong vườn Thu Công góp nhặt đầy các thứ hoa rất lạ và rất quý, nổi tiếng tại đất Giang Nam.
Quanh vườn một dậu trúc dày, chính giữ nào là trà mi, mộc hương, tảo mai, mộc cẩn, tường vi... Trong đó có xen lẫn các thứ hoa thục quỳ, phượng tiên, oanh trúc, kim quang... Thật không làm sao mà kể hết được.
Bốn mùa, tám tiết, lúc nào cũng có hoa nở, hoa, đứng ngoài trông vào như một tấm đệm gấm thêu đủ màu. Cứ mỗi lúc trăng lên, mùi hương xông lên ngào ngạt. Dù người ta đi cách đó hai dặm cũng còn nghe thoảng mùi hương.
Hai bên ngõ, những cây tòng, cây bá, sắp theo hai hàng lắc lư trước gió, thỉnh thoảng những cánh lá vàng lác đác bay như những cánh bướm, trông rất ngoạn mục.
Bên trong vút tận xa mờ, lấp sau ngõ trúc quanh co, một ngôi nhà lá ba gian, tuy là thô sơ, nhưng rất sạch sẽ. Đó là nhà của Thu Công vậy.
Trong nhà không có trưng bày gì lộng lẫy cả.
Giữa thảo đường có treo một bức họa “Khổng Tử vấn lễ Lão Đam”, một bên có một bộ tràng kỷ để một bộ đồ trà, một bên có một cái bàn để một chiếc đỉnh đồng to lớn, cắm đủ các thứ hoa, bên đó là một chồng sách cổ.
Trước mặt nhà, trong góc vườn, chúng ta còn thấy một hồ nước xanh dờn, những cành liễu tha thướt rũ xuống. Đẹp nhất là những đêm xuân, ánh trăng lả lướt rắc màu vàng nhạt trên mặt hồ, lăn tăn nhảy múa, trông rất ngoạn mục.
Còn về mùa thu, những ngọn gió vàng hiu hắc, các cành hoa là đà chen chúc nhau, phô muôn màu vạn sắc, xinh đẹp vô cùng. Nếu gặp tiết đông, khí trời ẩm thấp, mưa phùn lã tã, thì những cành liễu buông mành, như những bức rèm màu sữa, lồng bên trong muôn hồng ngàn tía, như một tấm đệm kim cương.
Cái cảnh tươi đẹp bốn mùa của vườn hoa chàng Thu Công kể sao cho xiết.
Thời đó người ta có làm rất nhiều bài thơ ca tặng, và đây là một trong những bài ấy :
Hồ trung nhất sắc, thủy liên thiên
Bất xướng ngư ca, tức thái liên
Tiểu tiểu mao đường, hoa vạn chủng
Tà dương nhựt nhựt đối hoa miên
Dịch :
Mặt hồ trong vắc, nước im trời
Mấy lá thuyền rơi, lác đác trôi
Lều cỏ thơ thơ, hoa vạn gốc
Bóng chiều soi dấu bóng hoa rơi
Cứ mỗi sáng, Thu Công dậy sớm quét dọn trong vườn rất sạch sẽ, nhặt những cánh hoa rơi bỏ vào một cái hộp riêng, cất trong phòng rất cẩn thận, xong xách nước tưới cây.
Nếu có cụm hoa nào mới nở, chàng ta mừng rỡ nưng niu, đứng hàng giờ nơi đó để ngắm nghía, có khi chàng lại đem cả bầu rượu, nhắc ghế đến ngồi bên gốc cây uống say mèm cả ngày như đứng trước một người bạn tri âm vậy.
Từ lúc hoa hé nở đến lúc hoa nở đều không khi nào Thu Công rời đi đâu nửa bước. Nếu gặp lúc trời nắng, thì chàng đem nước phun cho cánh hoa tươi. Nếu gặp lúc trời mưa thì chàng kiếm đồ che đậy cho hoa khỏi đọng nước. Nhất là những lúc gặp gió lớn, Thu Công ngồi đứng không yên, chạy từ nơi này sang nơi khác, tìm những đồ chống đỡ. Nếu gặp cành hoa nào yếu kiềm không chịu nổi với gió, gãy đi, thì chàng thương tiếc, hái đem vào cắm ở lọ hoa nơi đầu giường.
Lúc hoa tàn là lúc làm cho Thu Công đau đớn nhất.
Cứ mỗi cành hoa sắp tàn, Thu Công bắc ghế ngồi một bên nhìn hoa than thở cho đến khi hoa héo, rơi xuống đất, chàng lượm lên đem rửa sạch, cất vào hộp.
Thu Công rất phản đối hành động bẻ hoa cắm vào lọ. Lọ hoa của chàng chỉ dùng cắm những cành hoa rủi ro bị gãy mà thôi; ngoài ra, những nhánh tươi trên cành không bao giờ bẻ cả.
Chàng nói :
— Kiếp hoa mỗi năm chỉ nở một lần, trong bốn mùa chỉ chiếm được một, và mỗi mùa chỉ nở trong mấy ngày mà thôi. Đời hoa đã mong manh như thế, mà khi hoa nở ta lại nỡ đang tay bẻ đi để làm cho hoa kia chóng tàn thì lòng ta độc ác biết bao !
Vì vậy chàng không bao giờ bẻ hoa, và cũng rất ghét những kẻ bẻ hoa.
Chẳng những vườn hoa của chàng, chàng không muốn cho ai động đến, mà cả những lúc chàng đi đâu, gặp ai bẻ hoa, chàng cũng phàn nàn, giải thích. Nếu người ấy không nghe thì chàng năn nỉ, cốt làm sao trước mắt chàng đừng trông thấy cái cảnh mà chàng cho là tàn nhẫn ấy.
Khu vườn của chàng lúc bấy giờ nổi tiếng là đẹp nhất ở Giang Nam.
Nhiều người làm thơ khen tặng :
Tiên quyền viên hề mộ quyền viên
Quyền thành viên thượng bách hoa tiên
Hoa phai mỗi nhật khan bất túc
Vị ái khan niên, bất khẳng niên
Dịch :
Vườn hoa sớm tối chăm nom
Trăm màu khoe sắc một chòm nước mây
Xem hoa chưa thỏa lòng say
Đêm đêm còn đợi nguyệt lay trước thềm
Thời đó, trong thành Bình Giang có một anh chàng họ Trương tên Uỷ vốn con nhà quyền thế, tánh khí lại ngang tàn, độc ác, dâm đãng.
Suốt năm tháng chỉ cậy vào thế lực mình để hiếp đáp dân lành. Hễ ai có cái gì đẹp thì nhứt định chiếp đoạt cho được, bất kỳ là vật gì. Cả đến vợ người ta nữa, nếu kẻ nào có chút nhan sắc mà vô phước lọt vào đôi mắt vọ ấy thì coi như khó thoát.
Dân chúng khắp vùng đều than oán hành động của Trương Uỷ, nhưng biết làm sao. Dân chúng là những người ngắn cổ, bé miệng đâu dễ gì kêu thấu đến cửa quan, mà có đến chăng nữa cũng chỉ chuốc lấy phần thiệt thòi vào mình, vì Trương Uỷ là kẻ có thế lực, rất đỗi các quan phủ huyện còn sợ chàng thay, huống hồ là dân !
Quen thói bạo ngược, Trương Uỷ bao giờ cũng nghinh ngang, dưới mắt không coi ai ra gì nữa. Trong nhà chàng có nuôi một số thủ hạ, hễ ra đâu gặp kẻ nào can thiệp vào hành động mình, thì Trương Uỷ lập tức hô bọn thủ hạ kia xúm lại đánh.
Một buổi sớm, Trương Uỷ dắt bọn thủ hạ kia đi qua vùng Trường Lạc, vào quán uống rượu la cà đến say mèm.
Khi đi ngang qua vườn hoa của Thu Công, Trương Uỷ liếc mắt vào trong, thấy vườn hoa rực rỡ phô đủ trăm hồng ngàn tía, ý muốn vào tìm, nhưng ngõ trúc then gài kín mít, không biết phải làm sao. Giữa lúc ấy có một người dân làng đi qua, Trương Uỷ gọi lại hỏi :
— Đây là vườn nhà ai mà quan cảnh tươi đẹp như thế ?
Người dân làng nghe hỏi khiếp sợ kính cẩn đáp :
— Thưa công tử đó là vườn hoa của Thu Công, một người suốt đời chỉ biết yêu hoa và vun xới cho hoa mà thôi.
Trương Uỷ cau mày hỏi :
— Thu Công trước kia có làm chức tước gì không ?
— Thưa không. Chàng ta lâu nay chỉ là một nhà ẩn sĩ.
Trương Uỷ nghe nói cười híp mắt lẩm bẩm :
— Tưởng là một vị quan gia gì ton lớn, chứ một thằng dân quèn như vậy thì khó gì mà ta không vào đó để thưởng ngoạn.
Nói xong đưa tay vẫy bọn thủ hạ theo mình, thẳng đến cửa vườn hoa của Thu Công. Bọn thủ hạ chạy đến đập cửa ầm ĩ.
Thu Công đang ngồi trong vườn ngắm các cánh mẫu đơn đang hé nhụy, bỗng nghe bên ngoài có tiếng đập cửa, vội vàng bước ra xem, thấy năm sáu người lực lưỡng, mặt mày đỏ gay, nồng nặc mùi rượu.
Thu Công bước đến hỏi :
— Các anh có điều gì gấp rút, muốn hỏi đến tôi ?
Bọn thủ hạ trợn mắt hét :
— Mày là một người dân ở đây mà không biết chúng tao là thủ hạ của Trương công tử hay sao mà hỏi ngớ ngẩn như thế chứ ? Nay Trương công tử nghe đồn trong vườn của mi có nhiều hoa đẹp nên muốn vào trong vườn đó để thưởng thức.
Thu Công nói :
— Trong vườn của tôi không có trồng được cây hoa nào quý lạ, đáng để cho công tử phải nhọc lòng đến, ở đây chỉ có mấy gốc cây mận, cây đào đều đã cằn cỗi.
Trương Uỷ bước tới chỉ vào mặt Thu Công nói :
— Nhân dịp ta đi ngang qua đây, muốn ghé vào vườn của mi, đó cũng là một vinh dự cho mi, sao mi lại dám kiếm cớ từ chối như vậy. Để ta xem thử trong vườn mi có những thứ hoa gì cho biết.
Nói xong, Trương Uỷ hạ lệnh cho bọn thủ hạ phá ngõ mà vào.
Thu Công giận đỏ mặt, nhưng không làm sao ngăn cản bọn người đầu trâu mặt ngựa ấy được. Chúng hò nhau đập phá một hồi, xô Thu Công té vào dậu trúc, rồi rước Trương Uỷ vào trong.
Trong vườn lúc đó các thứ hoa tuy nhiều, nhưng chỉ có hoa mẫu đơn đang nở thịnh hơn cả. Giống mẫu đơn này là chúa của muôn hoa, sản xuất tại Lạc Dương, một giống danh hoa quý nhất trong thiên hạ.
Tục truyền rằng, trước kia Vũ Tắc Thiên hoàng đế (tức là Võ Hậu) nhà Đường, hoang dâm vô đạo, rất yêu hai tên cận thần : Trương Dịch Chi và Trương Xương Tôn. Một chiều đông lạnh lẽo, mưa lác đác rơi, Võ Hậu ngự giá, xuất du nơi vườn thượng uyển, thấy cây cỏ xác xơ, trăm hoa ủ rũ, trong lòng hằn học đề bốn câu thơ :
Lai triều du Thượng uyển
Hỏa tốc báo xuân tư
Bách hoa liên dạ phát
Mạc đãi hiểu phong suy
Dịch :
Bãi triều dạo Thượng uyển
Gấp rút báo xuân hay
Trăm hoa đêm nay nơ?
Không đợi gió xuân lay
Trăm hoa chẳng dám trái mạng chỉ trong một đêm mà đua nhau nở khoe đủ muôn màu, ngàn sắc trong khu vườn bát ngát giữa bầu trời đông giá lạnh mưa phùn.
Sáng hôm sau Võ Hậu dắt hai tên cận thần ra vườn ngắm cảnh, trông thấy các hoa đua nhau hớn hở đón chào, chỉ riêng có hoa mẫu đơn bướng bỉnh không chịu phụng mệnh gian thần, bạo chúa, nên lá cành đều khô khan, không nứt ra một chiếc lá non nào. Võ Hậu nổi giận, giáng chiếu đày hoa mẫu đơn xuống Giang Nam.
Vì thế mà hoa mẫu đơn tại xứ Lạc Dương đẹp nổi tiếng trong thiên hạ. Người đương thời có làm khúc ca “Ngọc Lâu xuân từ” để ca tụng chí khí khẳn khái, và tán dương vẻ đẹp yêu kiều của hoa mẫu đơn bị luân lạc rời khỏi mảnh vườn vương giả của đất Thần kinh :
Danh hoa sước ước đông phong là
Chiếm đoạn thiều hoa đô lại thư?
Lao tâm nhất phiến nhả nhân lân
Xuân sắc tam phân sầu vũ tẩy
Ngọc nhân tận nhật yêm yêm địa
Phước lị Ong ca kinh phá trụy
Sạ lâm trang kính tự kiền tu
Cận nhật thương xuân thâu dữ nhĩ
Dịch :
Mẫu đơn say cả đông phong
Cành hoa mơn mỡn màu hồng đẹp xinh
Yêu hoa giữ tấm lòng trinh
Gió mưa vùi dập xuân tình phôi pha
Sớm hôm nét ngọc không nhòa
Sinh ca khắc khoải đời hoa bẽ bàng
Dáng kiều ấp ủ đãi trang
Thương xuân bỡ ngỡ bóng vàng hắt hiu
Khóm mẫu đơn trong vườn Thu Công rất tươi tốt, mỗi cây có trồng một cột gỗ để chống đỡ, bên trên có dăng một mành vải thưa để che nắng. Mỗi cây cao chừng một trượng, hoa nở to như những chiếc mâm ngọc, đủ năm sắc.
Trương Uỷ thấy đẹp mắt, vội chạy đến níu một cành hoa để vào mũi ngửi. Trước cử chỉ sỗ sàng ấy làm cho Thu Công áy náy, chàng chạy đến bên Trương Uỷ nói :
— Xin công tử đứng xa mà ngắm, đừng động đến nó e bất tiện.
Trương Uỷ nổi giận mắng :
— Ta hạ cố đến đây là một điều vinh dự cho nhà ngươi. Ngươi đã không đón tiếp lại còn kiếp cớ để chối từ. Bây giờ ngươi lại còn khinh ta như thế sao ? Khóm mẫu đơn trong vườn hoa của ngươi giá đáng bao nhiêu mà ngươi dám buông lời lỗ mãng như vậy ?
Nói xong, Trương Uỷ bẻ một cành hoa mẫu đơn để vào mũi ngửi...
Thu Công giận đỏ mặt, nhưng biết Trương Uỷ là tay quyền thế, động đến hắn là có chuyện nên chẳng dám làm phật lòng, một mặt năn nỉ, nói :
— Trong vườn tôi chỉ có mấy cành mẫu đơn, công phu tôi vun trồng hàng mấy năm mới có, xin công tử để nó ở trên cành mà ngắm cho đẹp mắt.
Trương Uỷ chẳng trả lời, quay lại gọi mấy tên thủ hạ bảo :
— Hoa nở đẹp thế này, thực ít khi được gặp, vậy chúng bay ra quán mua vài hồ rượu đem vào đây khề khà cho vui để thưởng ngoạn.
Được lệnh, bọn thủ hạ dạ vang.
Thu Công lòng đau nhói, cúi đầu lễ mễ, nói :
— Thưa công tử nơi đây chật hẹp, nghèo nàn, không có chỗ nơi xứng đáng, xin công tử thưởng hoa xong trở về phủ yến ẩm cho thuận tiện.
Trương Uỷ nhe răng cười, nhìn xuống đất nói :
— Trong vườn rộng và mát mẻ thế này lại không đủ chỗ để ta ngồi uống rượu sao ?
— Mặt đất gồ ghề làm sao công tử ngồi cho được.
— Cái đó không hề gì. Ta sẽ truyền bọn thủ hạ của ta đem đệm đến mà trải.
Một lúc sau, bọn thủ hạ mang đủ cả rượu thịt và đệp gấm đến. Chúng ngồi chung quanh, vừa rót rượu uống vừa nói chuyện với nhau toàn là những lời lẽ tục tằn, thô bỉ.
Thu Công ngồi một bên không biết làm sao, phải bịt tai lại.
Du cho Trương Uỷ là kẻ tham tàn, tục tánh, nhưng đứng trước một vườn hoa lộng lẫy muôn màu, mùi hương bát ngát, chàng không thể không xúc động được. Chàng đưa đôi mắt nhìn quanh bốn phía thấy đâu đâu cũng phưởng phất như chốn tiên bồng, bèn hỏi Thu Công :
— Nhà ngươi là kẻ quê mùa, đần độn, dẫu ngươi có công phu trồng tỉa, song ta nhắm ngươi không có tâm hồn để thưởng thức cái đẹp của thiên nhiên, vậy ngươi hãy bán khu vườn cho ta.
Câu nói ấy làm cho Thu Công chạm lòng tự ái, không nhịn được nữa, chàng nói :
— Khu vườn này là tánh mạng, là đời sống của tôi, chỉ khi nào tôi chết đi thì nó mới thuộc về kẻ khác.
Trương Uỷ trợn đôi mắt tròn vo nhìn Thu Công nói :
— Nếu mi đã không muốn bán thì ta sẽ chiếm không cho mi xem. Xưa nay có vật gì ta muốn mà không được đâu.
Thu Công mặt giận xám ngắt, chưa nói ra lời thì bọn thủ hạ của Trương Uỷ đã hùa vào nói rối rít :
— Ngươi không nghe tiếng Trương công tử quyền thế như thế nào sao ? Nếu khôn thì bán đi, kiếm chút ít tiền mà độ nhựt kẻo bị mất toi, mà lại bị ngồi tù nữa đấy.
Trương Uỷ cười gằn hỏi tiếp :
— Sao có bán hay không, cứ nói một lời cho ta biết là đủ.
Thu Công không biết làm sao đành phải nói xuôi cho qua chuyện :
— Nếu công tử muốn mua cũng thư thả để tôi suy nghĩ đã chớ.
Bọn thủ hạ cười vang nói :
— ý ! như thế mới là khôn chứ. Thôi, hắn đã hứa bán rồi thì trước sau cũng về tay công tử, vậy công tử an lòng, để thư thẻ vài hôm, bây giờ thì cứ uống cho say cái đã.
Nói xong cả bọn thi nhau rót rượu uống vùi. Một lúc sau chúng đã say mèm, không còn uống nổi nữa, Trương Uỷ mới truyền lệnh :
— Thôi, dẹp đồ đạc mà về. Nhưng trước khi về ta muốn bẻ vài cành hoa mẫu đơn đem hteo để ngửi cho thỏa thích.
Trong lúc ấy bọn thủ hạ cuốn đệm, dọn cả ly chén đem đi, còn Trương Uỷ thì sấn đến khóm mẫu đơn loạng choạng đưa tay bẻ hoa.
Thu Công vội vã chạy đến, xô Trương Uỷ té nhào và nói :
— Đừng bẻ hoa của tôi.
Trương Uỷ té ngửa muốn le lưỡi, thở hò he như muốn chết giấc, trong lòng tức giận, hô bọn thủ hạ :
— A ! thằng khốn kiếp này nó dám vô lễ với ta đến thế. Bây áp lại bẻ hết các cành mẫu đơn cho ta.
Bọn thủ hạ chạy lại, đứa thì đỡ Trương Uỷ dậy, đứa thì áp vào bẻ hoa. Thu Công một mình làm sao ngăn cản được năm bảy đứa, chúng xô Thu Công té nằm dài xuống đất rồi áp lại bẻ sạch mấy cành mẫu đơn.
Tiếc thay ! những cành hoa quý giá kia, chỉ một phút đã tan tác trong bàn của kẻ độc ác, vùi dập trong cát bụi.
Cảm cảnh ấy, người đương thời có đề một bài thơ như vầy :
Lão quyền, độc thủ gia giao ha.
Thúy diệp, kiều hoa nhứt nhật hưu
Hảo tự nhất ban phong vũ ác
Loạn hồng linh lạc một nhân thu
Dịch :
Bàn tay độc ác buông lơi
Hoa tươi lá biếc rã rời kiếp hoa
Khác chi một trận phong ba
Lòng người thương tiếc lòng hoa tủi hờn
Thu Công nằm lăn lộn trên mặt đất, không ngớt lời chửi rủa. Những người láng giềng nghe tiếng chạy đến, thấy hoa mẫu đơn tan nát trên mảnh đất, còn Thu Công ôm bụng nằm rên la. Lại thấy Trương Uỷ cùng bọn tùy tùng mặt giận hầm hầm kéo nhau ra ngõ.
Dẫu lòng họ có biết Thu Công bị áp bức đi nữa, trước mặt Trương Uỷ cũng không một ai dám nói. Họ đợi cho bè lũ Trương Uỷ đi rồi mới bước đến đỡ Thu Công dậy, khiêng vào trại, rồi kiếm lời an ủi :
— Tên quỷ sứ ấy đến đâu mà chẳng sanh chuyện lôi thôi. May chỉ có mấy cụm mẫu đơn chứ không nguy hại đến bản thân cũng là điều tốt đó.
Thu Công mếu máo nói :
— Mẫu đơn tôi trồng đã bao năm mới nẩy chồi đâm hoa, ấy thế mà vô cớ, chúng lại đến đây đập phá, thực là ngang ngược.
Các người lân cận nói :
— Ai chẳng biết Trương Uỷ là tên ngang ngược. Nhưng nếu không nhịn hắn thì rồi lại mang tai. Thà chịu mất khóm mẫu đơn sau này có thể trồng lại được.
Ôm lòng hậm hực, Thu Công chẳng biết nói sao, đành bước liểng xiểng ra gốc hoa, nhìn những cánh hoa tan nát, rồi vừa sụt sùi khóc, vừa nhặt những cành mẫu đơn rơi dưới đất đem rửa thật sạch, định phơi khô để cất vào hộp.
Mọi người thấy vậy, nhìn Thu Công mỉm cười rồi ra về.
Thu Công ngồi lại một mình lẩm bẩm :
— Hoa ơi ! đời ta chưa hề nhẫn tâm để mi phải chịu một phút phủ phàng. Nay vì bàn tay của quân độc ác đến đây phá phách làm cho mi phải rời rã, thật lòng ta đau đớn lắm.
Đương than vãn, bỗng chàng giật mình vì đàng sau có tiếng thỏ thẻ :
— Việc gì mà Thu Công lại thở than, phiền não như thế ?
Thu Công quay lại, thấy sau lưng mình, một thiếu nữ kiều diễm ăn mặt lộng lẫy, môi hé nụ cười, hai hàm răng ngọc chói ngời, khuôn mặt như trăng rằm tháng tám.
Thu Công hỏi :
— Tiểu thư ở nơi nào, chẳng hay đến tệ xá có điều gì chỉ bảo chăng ?
Thiếu nữ đáp :
— Tiện nữ ở cách đây không xa, vì nghe công tử than khóc nên đến đây để hỏi thăm nỗi buồn của công tử.
Thu Công sụt sùi đem chuyện vừa rồi kể lại cho thiếu nữ nghe.
Thiếu nữ thản nhiên, mỉm cười nói :
— Hoa đã rụng rồi, song nếu công tử muốn hoa rơi được chấp lại đầu cành cũng không khó khăn gì.
Thu Công nghe nói trợn đôi mắt nhìn thiếu nữ với vẻ ngạc nhiên, hỏi :
— Tôi đang buồn vì những cánh hoa rơi này, sao cô nương lại đến đây để trêu cợt với tôi làm vậy ? Có bao giờ hoa rơi mà có thể chắp lại.
Thiếu nữ nói :
— Tôi có học phép chắp hoa, và tôi đã có nhiều lần thực nghiệm.
Lấy làm lạ, Thu Công ngơ ngẩn nhìn thiếu nữ hồi lâu. Tuy trong lòng nghi ngại, song đang buồn bã vì tiếc mấy đóa hoa rơi, nay lại được người ta nói là có thể chắp lại đầu cành được, trong lòng bừng lên một tia hy vọng, hỏi :
— Cô nương không nói đùa đấy chứ ?
Vẫn với nụ cười tươi thắm, thiếu nữ nói :
— Tôi nói đùa với công tử làm gì. Nếu tôi không chắp lại được, quyết không đời nào thấy mặt công tử nữa.
Thu Công mừng quýnh, hỏi :
— Thế thì bây giờ xin cô nương ra ơn cho.
Thiếu nữ bảo Thu Công đi múc cho mình một bát nước trong.
Thu Công y lịnh lểnh mểnh ra đi.
Khi đã múc nước xong, Thu Công bưng bát nước đến gần khóm mẫu đơn thì thấy khóm mẫu đơn kia đã nở đầy hoa, đóa nào đóa nấy tươi tốt phô đủ màu sắc như cũ. Các mảnh hoa rơi biến đi đâu mất hết.
Thu Công lấy làm lạ, chẳng biết thiếu nữ kia đã có phép gì thần thông thế, nên vội tìm thiếu nữ để tạ Ơn, nhưng thiếu nữ lại cũng đi đâu mất, chàng tìm mãi khắp vườn hoa mà không thấy đâu cả.
Sau cùng, Thu Công đoán chừng thiếu nữ kia chắc là ra ngoài phía cổng vườn nên vội vã chạy theo. Nhưng khi ra đến cổng, thì cổng vẫn còn đóng.
Thu Công mở cổng nhìn ra, thấy hai lão già hàng xóm, Ngu Công và Đơn Lão đang ngồi trước bờ sông xem các người chài đang phơi lưới.
Thấy Thu Công, hai ông già bước đến chào và hỏi :
— Nghe nói công tử bị Trương Uỷ đến nhà hiếp, phá phách vườn tược, nhưng chúng tôi đang ở ngoài đồng chưa đến thăm kịp, xin công tử miễn thứ.
Thu Công cảm tạ và hỏi :
— Chẳng hay hai ngài có thấy cô thiếu nữ mặc đầo trắng vừa mới ở trong vườn tôi bước ra đây không ?
Hai ông già ngơ ngác đáp :
— Chúng tôi ngồi đây từ sớm đến giờ nào có thấy ai đi ra đâu ?
Thu Công lấy làm lạ, bấm trán suy nghĩ một hồi lâu, không nói. Hai ông già hỏi :
— Chẳng hay người thiếu nữ ấy là ai, đã làm gì mà công tử lo lắng đến thế.
Thở ra một hơi dài, Thu Công đưa mắt ngơ ngàng nhìn trời nói :
— Nếu thế thì nàng này không phải là người phàm, mà là một vị thần thánh gì đây.
Thu Công đem đầu đuôi câu chuyện mình gặp người thiếu nữ ráp hoa đầu cành kể lại cho hai ông lão láng giềng nghe.
Hai ông lão nghe xong cũng lấy làm lạ, yêu cầu Thu Công cho phép vào vườn hoa để xem hư thật. Thu Công dẫn hai ông già vào.
Quả nhiên, trên cành hoa mẫu đơn nở dầy đặc, mỗi đóa hoa to bằng chiếc mâm lớn, rực rỡ màu tươi. Hai ông lão luôn mồm khen ngợi và nói :
— Nếu vậy thì đúng là thần thánh đã cảm lòng chân thành của công tử nên hiện đến để làm phép lạ đó.
Thu Công cảm động, vào nhà lấy ra mấy nén hương đốt lên và van vái, cảm tạ thần linh đã chiếu cố đến mình.
Hai ông lão nói :
— Sáng mai tin cho Trương Uỷ để chúng nó đến đây mà xem, cho nó xấu hổ chết đi cho rồi.
Thu Công xua tay nói :
— ấy chết ! Cái giống sài lang ấy chúng ta cần phải tránh xa nó đi. Vì khiêu khích với nó chẳng ích lợi gì đâu.
Hai ông già nghĩ một lúc rồi khen phải. Thu Công rất vui mừng, vào nhà xách bình rượu ra, mời hai ông già lân cận cùng với mình ngồi dưới gốc mẫu đơn uống vùi cho đến tối, trao đổi nhau câu chuyện tâm tình.
Khi bầu rượu đã cạn, câu chuyện đã tàn, hai ông lão mới từ giã Thu Công ra về. Lúc ra đường, hai ông lão này gặp ai cũng vui vẻ kể lại câu chuyện trong vườn hoa của Thu Công. Vì vậy chẳng mấy chốc, khắp trong vùng đều rõ câu chuyện kỳ lạ ấy...
Sáng hôm sau, mọi người trong thôn xóm hay được tin đều kéo nhau đến xem. Họ sợ Thu Công không chịu mở cửa vườn. Nhưng không, lần này Thu Công rất niềm nở, không khó tánh như trước kia nữa.
Chàng ta tự nghĩ rằng việc đời nên hư do trời định, không phải ai muốn làm hại mà được. Đến như bọn Trương Uỷ, độc ác như thế mà vẫn chưa làm tan nát được vườn hoa chàng thay.
Do đó, lúc dân làng đến xin vào xem, Thu Công tiếp đón mời vào rất nồng hậu. Ông ta nói :
— Xin mời các ngài nếu muốn vào xem hoa thì cứ tự tiện, miễn đừng bẻ hoa là được.
Trong lúc đó, Trương Uỷ vì bữa trước uống rượu say, lại bị Thu Công xô té, nên trong mình đau đớn như dần. Đêm ấy chàng ngủ say mèm không hay biết gì hết.
Sáng ra, lúc tỉnh rượu Trương Uỷ trong lòng căm tức, kêu bọn thủ hạ nói :
— Ta từ lớn đến bây giờ chưa một ai dám trái ý ta. Nay thằng Thu Công, một đứa hư danh lại dám vô lễ như vậy, nếu ta không trừ được nó thì bao nhiêu oai quyền của ta từ trước đến nay đều mất hết.
Bọn thủ hạ nịnh dọc :
— Lệnh công tử xưa nay có đâu dám chẳng tuân. Nếu hôm qua công tử ra lệnh thì chúng tôi đã đánh chết nó mất rồi.
Trương Uỷ nói :
— Hôm nay chúng ta đến nữa để hỏi mua khu vườn, nếu nó bằng lòng bán thì thôi, bằng không chúng bay phá cho tan hoang hết đi, thử xem nó làm gì cho biết.
Bọn thủ hạ reo lên một lượt, kéo nhau ra cửa.
Trương Uỷ lểnh mểnh theo sau. Khi gần đến nơi, bọn thủ hạ nghe người ta kể lại câu chuyện thần tiên giáng hạ trong đêm vừa rồi, làm cho hoa bị phá hủy trở lại liền cành như cũ. Chúng thất kinh báo lại với Trương Uỷ.
Trương Uỷ nói :
— Khéo đặt chuyện. Rõ là một âm mưu của Thu Công rồi. Vì nó sợ ta đến đó phá phách cho nên nó đặt điều nói như thế để ta không dám đến đó thôi. Chúng bay cứ đi, không hề gì hết cả.
Khi đến cổng vườn hoa, bọn Trương Uỷ thấy cửa vườn mở rộng, dân chúng tấp nập ra vào, ai ai cũng đều nói y như vậy.
Bọn thủ hạ đứa nào đứa nấy rởn tóc gáy. Trương Uỷ trong lòng cũng sợ sệt, nhưng chẳng lẽ lui bước để cho thiên hạ cười chê, bèn làm gan xốc tới, hô kẻ thủ hạ theo mình :
— Hèn nhát như chúng bây thì làm gì được việc. Dẫu cho có thần tiên ngồi trong vườn ta há sợ sao !
Đi vòng quanh mấy luống hoa, Trương Uỷ quả thấy mấy khóm mẫu đơn bị phá hủy hôm trước nay lại hoàn như cũ. Các đóa hoa tươi tốt khoe màu dưới nắng xuân, như đang mỉm cười ngạo nghễ trước mắt bọn dã tâm ấy.
Tuy trong lòng sợ sệt, song vẫn làm ra vẻ thản nhiên, Trương Uỷ nhìn ngắm một hồi rồi loay hoay ra một ác ý. Kẻ có lòng gian ác bao giờ cũng chực sẵn những âm mưu sâu độc trong lòng.
Trương Uỷ kêu bọn tùy tùng nói :
— Thôi, chúng ta đi hè !
Bọn thủ hạ ngạc nhiên không rõ ý định của Trương Uỷ như thế nào, trố mắt hỏi lại :
— Đi sao ?
— ừ, đi.
— Thế công tử không chất vấn hắn về việc bán vườn nà ?
Một nụ cười đanh ác nở trên môi, Trương Uỷ nhìn bọn thủ hạ nói :
— Không cần phải hỏi đến hắn làm gì... Khu vườn này sớm muộn cũng về ta.
Vốn biết Trương Uỷ là đứa gian ác, đa mưu túc kế, bọn thủ hạ không lấy làm lạ trước thái độ thay đổi bất ngờ của chàng, song muốn biết chủ mình sẽ thực hiện âm mưu nào, nên vội hỏi :
— Công tử sẽ thực hành diệu kế nào vậy ?
Trương Uỷ vừa kéo bọn chúng ra ngõ, vừa nói :
— Hiện nay Vương Tắc ở Bối Châu mưu phản triều đình, chuyên dùng tà thuật để mê hoặc lòng dân, kết bè kết cánh. Khắp các châu, quận đang có lệnh nã tróc yêu nhân rất gấp. Người nào bắt được yêu thuật thì được thưởng ba ngàn. Ngày mai, ta sẽ đem việc “hoa rụng về cành” báo cho phủ đường, trong tờ tố cáo thêm vài chi tiết quan trọng thì thế nào hắn cũng bị bắt.
Một tên bộ hạ vỗ tay khen hay, và nói tiếp :
— ít ra công tử cũng phải tố giác hắn về tội mưu loạn thì hắn mới bị tội nặng chứ.
— Dĩ nhiên như vậy rồi. Mà một khi hắn đã bị tội thì khu vườn của hắn phải bị tịch thu đem ra phát mãi. Chừng đó ai dám tranh với ta. Chỉ nội ba ngàn đồng bạc thưởng, ta cũng đủ mua lấy khu vườn kia rồi.
Bọn thủ hạ đồng reo lên :
— Thật là diệu kế. Thế thì ngày mai công tử phải thi hành gấp việc này mới được chứ.
Trương Uỷ suy tính rồi nói :
— Mưu tính ấy rất hay, song ta muốn tránh tiếng đừng để người ngoài biết. Vậy thì ta làm đơn, để một người trong chúng bay đứng tên đưa đến phủ đường. Phần ta, ta sẽ vận động bên trong.
Trương Bá một tên thủ hạ, nghe nói ứng lên :
— Thưa công tử, xin công tử để tôi đứng tên tố cáo cho.
— Được, nếu mày làm việc đó thành công ta sẽ trọng thưởng.
Sáng hôm sau, Trương Uỷ thảo đơn, đưa cho Trương Bá đem nạp vào phủ đường.
Gặp lúc quan phủ được lệnh trên nã trác những người tà thuật thi đua với các quận huyện khác để đoạt tiền thưởng. Khi gặp lá đơn của Trương Bá đút vào, quan phủ vội vàng ra lệnh phái bọn hộ dịch đi bắt Thu Công lập tức.
Trương Uỷ lại đi tay trong, đón bọn hộ dịch dặn dò to nhỏ và cho thêm tiền bạc để bọn này đến đó hoành hành ; một mặt, Trương Uỷ dẫn bọn thủ hạ của mình hùa theo.
Bọn hộ dịch đi thẳng đến vườn Thu Công. Lúc đó Thu Công đang săn sóc mấy khóm hoa trong vườn, thấy trước cổng tụ tập đông người, tưởng dân chúng đến xem hoa, không để ý. Mãi đến khi chúng hò hét, xô ngõ vào, áp đến thộp cổ, Thu Công mới ngạc nhiên đứng sững sờ, hỏi :
— Tôi có tội gì mà các người lại đến bắt tôi ,
Khi ấy một bầy quỷ sứ, bọn hộ dịch xỉ vào mặt Thu Công mắng nhiếc :
— Mày là một yêu nhân phản tặc toan mê hoặc lòng dân để gây loạn triều đình. Nay có lệnh trên nã tróc mi về trị tội, mi chưa biết thân còn làm ra kẻ ngớ ngẩn ý ?
Chúng không để cho Thu Công phân trần một lời nào hết, đứa trói tay, đứa trói chân, đứa nắm đầu lôi ra khỏi cổng.
Xóm giềng thấy thế thất kinh, bu quanh để hỏi thăm sự việc. Bọn công sai hò hét :
— Các người muốn liên can với tên bạo loạn này hay sao mà xúm nhau đông đảo như vậy.
Ai nấy nghe nói đều sợ sệt cho thân phận mình, vội lảng tránh ra nơi khác. Duy chỉ có hai ông già Ngu Công và Đơn Lão xưa nay vốn ái mộ Thu Công, nay thấy Thu Công bị áp bức trong lòng như dao cắt không nỡ bỏ đi.
Bọn công sai thấy thế chỉ vào mặt hét :
— Hai lão già này muốn bắt về nha một thể ý ?
Ngu Công và Đơn Lão nghe nói hoảng sợ, bỏ đi.
Lúc bọn công sai giải Thu Công đi rồi, Trương Uỷ và những đứa tùy tùng nhân cơ hội ấy vào trại Thu Công lục lạo, vơ vét hết cả đồ đạc. Lấy xong khóa cửa vườn rồi trở về. Thật là một bọn tham tàn vô đạo.
Bọn công sai dẫn Thu Công về đến phủ đường giao cho giám ngục. Tên giám ngục này vì có ăn tiền của Trương Uỷ nên hành hạ một cách tàn nhẫn.
Đêm ấy, quan phủ bận việc chưa tra hỏi được, nên giám ngục tống cổ Thu Công vào phòng giam, cùm cả hai tay hai chân không cho nhúc nhích. Lại còn dùng roi đánh cho mấy cái vào mặt. Thu Công chân tay đau nhức cả đêm rên siết không ngủ được tí nào.
Trời lờ mờ sáng... Tiếng trống vừa điểm. Quan phủ thăng đường truyền dẫn Thu Công đến. Thu Công mặt mày sưng húp, lễ mễ đứng trước viên quan phủ, định dùng lời để kêu oan, nhưng viên quan phủ đã vỗ bàn hét to :
— Mi là yêu tinh xứ nào lại dám đến đây mê hoặc lòng dân để mưu tạo loạn ?
Câu nói ấy làm cho Thu Công choáng váng, không biết tội lỗi ấy do đâu mà có, vội vã tường trình :
— Thưa, tôi là người dân thôn Trường Lạc, lâu nay vẫn ở đây, đâu phải yêu tinh ở xứ nào ? Khắp trong vùng ai ai cũng biết tôi là kẻ lương thiện làm ăn, xin ơn trên suy xét.
Quan phủ vỗ bàn hét :
— Hôm trước mi dùng tà thuật, ráp hoa rơi trở lại liền cành khắp vùng ai ai cũng biết, chứng cớ ấy đã hiển nhiên rằng mi muốn gây loạn, phá rối an ninh, mi còn dám chối nữa sao ?
Thu Công ngạc nhiên đoán biết Trương Uỷ tố cáo, vu oan để muốn hại mình, vội vàng ứng khẩu kể lể tất cả các hành động phá phách của Trương Uỷ nơi vườn hoa mình. Song Thu Công kể chưa được mấy câu, viên quan phủ đã đập bàn hét lớn, làm cho Thu Công phải im bặt.
Thì ra quan phủ cũng đã được Trương Uỷ bẩm trước, và ông này cũng thuộc vào hạng người ô trọc tham lam vàng bạc không kể đến công là.
Quan phủ nói :
— Mi đừng chối cãi nữa. Đúng mi là một yêu nhân làm loạn. Nếu mi không chịu cung khai hành động phá rối của mi, mi sẽ tan xác tức thì.
Thu Công mới ú ớ, thì quan phủ đã vỗ bàn, hô lính đến bắt Thu Công đem tra khảo. Bọn công lại dạ vang, áp đến vật Thu Công xuống, đứa dằn đầu đứa dằn chân, trông rất khủng khiếp.
Quan phủ mặt hầm hầm, vừa bước tới cầm trượng, toan đánh Thu Công thì bỗng ông ta mặt mày choáng váng, té xỉu xuống đất. Tất cả công lại trong phủ đều thất kinh, xúm đến đỡ quan phủ dậy, lay gọi một hồi lâu, ông ta mới tỉnh.
Lúc tỉnh lại, mặt mày quan phủ còn lơ láo, nhìn chung quanh như kẻ mất hồn. Một tên công sai vào bẩm :
— Bẩm quan lớn, bây giờ tên Thu Công phải làm thế nào ?
Nhìn tên công sai một lúc, quan phủ mới mở miệng nói được một câu :
— Đem nó nhốt vào ngục, ngày mai sẽ xét xử.
Nói xong quan phủ vào phòng riêng, nằm vật trên giường. Bên ngoài, bọn công sai lôi Thu Công đi xền xệt.
Thu Công mặt buồn rười rượi. Ra đến cổng phủ đường, Thu Công thấy Trương Uỷ và bọn thủ hạ tụ tập nơi đố để nghe ngóng. Thu Công tức giận, nhìn vào mặt Trương Uỷ mắng:
— Trương Uỷ, ta với mi lâu nay không thù oán, sao mi nỡ nào vu oan cho ta để ta phải chịu cảnh cực hình này.
Trương Uỷ nhìn thẳng vào mặt Thu Công khúc khích cười. Một giọng cười đầy nham hiểm, đanh ác.
Thu Công quá tức giận, nhưng không biết làm sao, nói rằng :
— Mi cố làm cho ta chết để mi chiếm đoạt vườn hoa của ta phải không ?
Trương Uỷ bĩu môi rồi lặng lẽ dắt bọn thủ hạ ra đi, không đáp. Giữa lúc đó có hai ông già, Ngu Công và Đơn Lão thấy bọn công sai dẫn Thu Công ra vội chạy đến hỏi thăm.
Thu Công kể lại đầu đuôi sự việc của mình. Hai ông già xít xoa nói :
— Công tử đừng lo. Công tử bị hàm oan như vậy, ngày mai thế nào chúng tôi cũng rủ nhau đến công đường để kêu oan cho công tử.
Thấy tấm lòng chân thật của hai ông lão, Thu Công cảm động khóc sướt mướt, nói :
— Cảm ơn hai ngài có lòng tốt nghĩ đến tôi, ơn ấy tôi không lấy gì đền đáp được. Song đây là tai vạ đến với tôi, xin các ngài chớ có vì thương tôi mà mang họa vào thân. Bọn Trương Uỷ nay rất thân thế, khó mà kêu oan lắm.
Thu Công nói vừa dứt lời thì bọn công sai đã kéo cổ đi, không cho nói nữa. Hai ông lão thấy vậy rơi lụy dầm dề, nhìn Thu Công từ từ bước đi vào ngục.
Khi Thu Công đã khuất bóng, hai ông già vội vàng chạy ra chợ mua bánh trái, rượu thịt đưa vào ngục để tặng Thu Công. Bọn công sai trông thấy rượu thịt cười híp mắt, tiếp lấy và nói rối rít. Chúng chờ cho hai ông già ra về, chia nhau ăn uống chứ không đưa cho Thu Công.
Thu Công đêm ấy nằm đói trong ngục, chân tay bị cùm cứng ngắt, không cựa quậy được chút nào. Dần dần, vì quá mỏi mệt, ông ta thiếp đi.
Trong cái giấc ngủ nặng nề ấy, Thu Công nằm mộng thấy mình nhẹ nhàng tung tăng chạy nhảy trong khung trời rộng bao la, gió núi mây ngàn.
Bỗng dưng chàng thấy nàng thiếu nữ hôm nọ, nàng thiếu nữ đã gặp chàng nơi vườn hoa, và chắp những cánh hoa rơi liền lại nơi đầu cành.
Thu Công mừng rỡ gọi to :
— Xin cô nương cho biết cô nương là ai ? ở đâu vậy ?
Thiếu nữ mỉm cười, bước tới nói :
— Chẳng hay công tử có muốn thoát khỏi cảnh gông cùm cả tinh thần lẫn thể xác không ?
Câu nói ấy làm cho Thu Công cảm thấy mơ màng nhớ lại mình đang mắc một tai nạn gì đây, vội quỳ xuống hỏi :
— Chẳng hay nương tử có phải là một vị tiên giáng trần để ban ơn cho tôi hay không ?
Thiếu nữ se sẽ đáp :
— Thiếp không phải là tiên, phật, thần thánh gì cả, thiếp chỉ là tinh anh của muôn hoa kết thành, và ở ngay trong vườn hoa của công tử. Thấy công tử quý trọng bạn bè của thiếp, nên thiếp đền ơn đó thôi.
Thiếu nữ vừa nói đến đó vụt biến mất. Thu Công thất kinh, toan chạy theo, bỗng lúc đó tiếng kiểng tù khua vang làm cho Thu Công giật mình tỉnh dậy, mồ hôi ướt đẫm. Thu Công thấy tay chân mình vẫn còn cùm chặt cứng. Chàng mới biết mình vừa nằm mộng, nên buông tiếng thở dài buồn bã.
Chàng nằm lẳng lặng nghe từng hơi thở của mình. Bên ngoài bọn quân canh ăn nhậu say sưa ngủ khì, tiếng ngáy vo vo.
Mãi cho đến khi mặt trời mọc lên cao, Thu Công mới thấy một vài thằng hé cửa ngục bước vào ném cho Thu Công một vắt cơm và một hũ nước, nhướng mắt nhìn chiếc cùm một lúc rồi lặng lẽ bước ra không nói gì cả.
Thu Công cũng cứ nằm ì ở đấy, không thèm hỏi han gì. Lúc này chỉ có thầy trò Trương Uỷ là vui vẻ nhất vì chúng hay được tin Thu Công bị ghép vào tội yêu nhân phiến loạn.
Trương Uỷ nói với bọn thủ hạ :
— Thằng giặc ấy đã bị ghép vào tội phiến loạn thì sớm tối nó cũng phải chết. Vườn hoa kia thế nào cũng phải về tay ta.
Bọn thủ hạ nói :
— Chỉ tiếc là chẳng biết bao giờ quan phủ mới cho đấu giá để thầy trò mình sớm được thưởng ngoạn.
Trương Uỷ mỉm cười nói :
— Cần gì. Hiện nay nó đã nằm trong ngục rồi, nếu chúng ta muốn vào vườn thưởng ngoạn lúc nào mà chẳng được.
Bọn thủ hạ reo lên :
— Như thế thì sung sướng biết bao ! Hôm trước vì thái độ cổ quái của tên giặc ấy làm cho chúng tôi cụt hứng. Nay nếu công tử chịu dắt chúng tôi đến đó để tự do dạo trong vườn thì còn gì thú hơn.
Làm ra vẻ đắc ý, Trương Uỷ truyền cho bọn thủ hạ đem rượu thịt cùng các vật dụng thẳng đến vườn hoa Thu Công.
Những người lân cận trông thấy bọn Trương Uỷ đến đều sợ sệt, bỏ đi nơi khác. Khu vườn vắng tanh, không một tiếng động.
Trương Uỷ dắt bọn tùy tùng ồ ạt kéo vào. Lạ thay, lúc ấy hoa mẫu đơn trong vườn đều khô héo, rụng bừa bãi, cành lá khô đét, không còn lấy một đóa hoa nào.
Trương Uỷ lấy làm lạ, nói với bọn tùy tùng :
— Mẫu đơn hôm nọ đã trổ lại đầu cành, nở sum sê, đủ màu tươi thắm, thế mà hôm nay lại tàn tạ ! Như vậy quả Thu Công dùng tà thuật chi đây rồi.
Bọn thủ hạ nghe nói, đứa nào đứa nấy xanh mặt, hỏi :
— Thế thì thầy trò chúng ta nên trở về đi là hơn.
Trương Uỷ lắc đầu :
— Đã đem rượu thịt đến đây dầu không có hoa, chúng ta cũng cứ ăn uống cho vui, tội gì mà mang trở về.
Nói xong truyền bọn thủ hạ trãi đệm ngồi dưới gốc hoa chè chén. Tuy mẫu đơn khô héo, rơi rụng đầy đất, song nhờ khu vườn cây cối rậm rạp, gió hiu hiu thổi nên Trương Uỷ thấy tâm hồn mình cũng khoan khoái.
Chàng ta rót một ly rượu đầy bưng cho tên thủ hạ Trương Bá và nói :
— Thu Công bị hạ ngục, ấy là công của mi đã cố gắng tận tâm giúp sức ta, vậy ta thưởng cho ngươi một chén đây.
Trương Bá nâng ly rượu nốc một hơi, thở khà ra, nói :
— Nếu phải vì công tử mà thác thì bọn tôi cũng vui lòng huống chi một chút việc như vậy có đáng vào đâu. Song công tử đã ban ơn, tôi không dám từ chối.
Nói xong, Trương Bá lại nốc một hơi nữa cho đến cạn chén. Sau đó, cả bọn xúm nhau ăn uống vui cười mãi cho đến lúc mặt trời chen lặn, đứa nào đứa nấy say tít.
Trương Uỷ muốn ra về thì bỗng một luồng gió thổi đến nghe lành lạnh, làm cho tất cả các bông hoa rơi trên mặt đất bay đi đâu mất.
Tiếp đó một đoàn thiếu nữ cao độ một thước, chẳng biết từ đâu hiện đến đứng bao quanh bọn Trương Uỷ, mắt nhìn chúng chòng chọc. Thầy trò Trương Uỷ thất kinh, hoảng vía, run cầm cập. Có đứa líu lưỡi không nói được, rét lên như tiếng kêu của loài ác thú.
Một luồng gió thứ hai thổi đến, đoàn thiếu nữ kia bỗng cao lớn như người thường, mặt mày sáng rỡ nước da mịn màng, ăn mặc lả lướt, cô nào trông cũng xinh đẹp bội phần.
Nếu trong trường hợp thường, thì trước những cặp má đào mơn mởn ấy, Trương Uỷ làm sao khỏi động lòng ham muốn, nhưng ở đây, chàng ta run như một con thằn lằn đứt đuôi, đứng trân trân không nói ra lời.
Một cô thiếu nữ trong bọn, nhìn các cô kia nói :
— Chị em chúng ta sống nơi đây bao năm rồi, nhờ Thu Công thăm nom săn sóc, che chở cho. Nay bỗng nhiên tên vô loại này đến phá phách chúng ta, lại còn vu oan Thu Công để chiếm vườn hoa này. Thế thì hôm nay chị em chúng ta đã gặp được kẻ thù trước mắt, chúng ta phải rửa hận, trước là trả nghĩa cho Thu Công, sau là phải tự bảo vệ lấy mình chứ !
Các thiếu nữ kia đồng reo lên một lượt, tỏ ý tán thưởng lời đề nghị ấy. Chỉ trong nháy mắt, đoàn thiếu nữ vây phủ chung quanh bọn Trương Uỷ, xiêm áo tha thướt, dáng điệu mềm mại, múa tưng bừng.
Nhưng lạ thay ! Những tà áo lướt thướt kia vung vút tung ra những luồng gió lạnh buốt, quất vào bọn Trương Uỷ như những luồng điện đánh vào người, đau thấu xương.
Bọn thủ hạ của Trương Uỷ hét lên, run cầm cập, mạnh đứa nào đứa nấy tìm đường mà chạy. Mặt mày tối sầm, chúng va vào những gốc cây, té liểng xiểng.
Sau trận gió, các thiếu nữ đã biến đi đâu mất. Bọn thủ hạ của Trương Uỷ mới lòm còm bò ra khỏi cổng vườn kiểm điểm lại thì không thấy Trương Uỷ và Trương Bá đâu cả.
Chúng hoảng kinh, song không dám trở vô vườn hoa nữa, nên tri hô với hàng xóm. Lúc đó trời đã bắt đầu tối, khu vườn tỉnh mịch ấy lại lặng ngắt, trong cảnh hoang vu ấy ai cũng phải khiếp vía.
Các người hàng xóm nghe tiếng la cầu cứu vội chạy đến. Bọn thủ hạ của Trương Uỷ rối rít kể lại câu chuyện đầu đuôi gốc ngọn. Mọi người thắp đuốc vào vườn.
Sau khi tìm khắp nơi, đến bên hồ nước họ nghe tiếng người rên rỉ, nhưng hình như đã kiệt sức. Hai ông già Ngu Công và Đơn Lão lúc đó cũng có mặt trong đám hàng xóm, thấy thế trong lòng thích thú lắm.
Ngu Công nói nhỏ với Đơn Lão :
— Cái bọn ác quỷ này ngày đêm cứ lo việc vu oan, giá họa cho dân lành để mong chiếm đoạt tiền của, sắc đẹp. Nay chúng phải cái tai nạn này kể ra cũng đáng tội. Chúng ta tội gì mà tìm kiếm cho mệt.
Đơn Lão đáp :
— Đành vậy, nhưng chúng ta hẳn tìm xem chúng nó bị tai nạn gì cho biết.
Hai người nói đến đây thì thấy hai tên thủ hạ của Trương Uỷ theo sau rụt rè bước đến. Ngu Công chỉ tay ra đàng trước nói :
— Kìa, trước mặt chúng ta có tiếng ai rên rĩ đó. Vậy hai ngươi hãy bước đến đó xem sao.
Hai tên kia rụt đầu, le lưỡi nói :
— Nhờ các ngài đến xem chứ chúng tôi vừa bị một trận đến bây giờ chưa hết sợ.
Đơn Lão cười thầm :
— A ! té ra mấy chú được cái mạnh dạn là lúc bình thường, đi phá phách thiên hạ, còn lúc nguy biến lại co đầu rút cổ !
Nói xong ông ta bước đến chỗ có tiếng rên, tìm kiếm một lúc mới bắt gặp một người máu me ràng rụa, quần áo dính đầy đất cát, đang nằm bên gốc cây dương thở thoi thóp.
Lật mặt người ấy lên, Đơn Lão nhận ra là Trương Bá, bèn hô to :
— Trương Bá đây rồi bà con ơi !
Mọi người chạy đến đỡ Trương Bá dậy, xét thấy thương tích khá nặng, liệu bề khó mà cứu chữa, nên giao cho hai tên thủ hạ của Trương Uỷ khiêng Trương Bá về nhà.
Tiếp đó mọi người lại lục soát khắp khu vườn để tìm Trương Uỷ. Tìm khắp nơi không nghe tăm hơi gì nữa cả, mọi người muốn ra về, bỗng Ngu Công chạm phải một vật gì mềm nhũn, giật nẩy người, hét to :
— Cái gì thế ?
Đơn Lão vội chạy lại, cầm đuốc soi, thì ra một người đang cắm đầu vào vũng bùn, dưới gốc cây đào. áo quần người ấy tuy sang trọng, song lấm đầy đất cát.
Mọi người xúm nhau vực xác lên thì mặt mày không ai còn nhận định được nữa. Cái xác ấy đã chết đờ tự bao giờ rồi.
Ngu Công lấy tấm khăn vấn cổ của mình lau cho nạn nhân, bỗng ông ta hốt hoảng la to :
— Công tử đây rồi !
Thật thế, cái xác chết ấy đúng là Trương Uỷ.
Hàng xóm xúm lại bàn tán rất xôn xao.
— Tại sao Trương Uỷ lại cắm đầu trong vũng bùn mà chết như vậy ?
Có kẻ thì thầm :
— ác nhơn ác báo. Sống ở đời tàn ác thì lúc chết như vậy.
Có người nói :
— Có lẽ khu vườn này linh thiêng lắm nên mới có sự báo oán ghê gớm như vậy. Thôi chúng ta hãy trở về kêu vợ con của hắn đếnđ ây mà nhận xác đem về chôn cất, còn chúng ta đi báo cho quan trên biết.
Mọi người nghe lời, xúm nhau ra về, làm đơn tả tự sự, và nói rõ hành động của thầy trò Trương Uỷ từ trước đến nay để minh oan cho Thu Công.
Vợ con Trương Uỷ hai được tin chạy đến khóc sướt mướt, rồi lo y quan tẩm liệm cho chồng. Còn Trương Bá, vì vết thương quá nặng, rạng ngày hôm sau tắt thở. Hai đám táng của hai kẻ vô lương cùng chung một lúc. Thiên hạ được dịp nguyền rũa không tiếc lời.
Lúc này bọn thủ hạ của Trương Uỷ như rắn mất đầu, không còn chỗ nương tựa, sợ khiếp vía, không dám ra khỏi nhà.
Hôm sau, viên tri phủ khỏi bịnh thì ông ta vừa tiếp được lá đơn của hàng xóm hạch tội Trương Uỷ để minh oan cho Thu Công. Cả bọn công sai cũng tường trình lại cho viên tri phủ nghe cái chết ly kỳ của Trương Uỷ và Trương Bá.
Bây giờ quan phủ mới thức tỉnh, liền hạ lệnh tha cho Thu Công khỏi tội, lại ra cáo thị cấm mọi người không được vào vườn hoa của Thu Công, nếu không được Thu Công đồng ý.
Thu Công tạ Ơn tri phủ, và cảm kích mối tình nồng thắm của lâng bàng, nhứt là hai ông già Ngu Công và Đơn Lão.
Thu Công cùng mọi người ra về.
Khi về đến vườn hoa, thì lạ thay, hoa mẫu đơn đua nở muôn màu, mười phần tươi tốt, hương xông ngào ngạt, cành lán xanh dờn, lắc lư trước gió như hớn hở đón chào người bạn cũ.
Thu Công mời tất cả lâng bàng đến, bày tiệc rượu đãi đằng, để đền đáp ơn sâu.
Từ đó, Thu Công đêm ngày đóng cửa vườn tu luyện phép “thổ nạp dưỡng sinh” của người luyện khí.
Rồi một sớm, ông ta bỏ nhà đi mất, không bao giờ còn thấy trở về nữa.
Thành viên sau đã gửi lời cám ơn đến Lăng Độ Vũ vì bài viết hữu ích này:
Vào năm Thiệu Hưng đời Tống, tại Lâm An, kinh đô hoa lệ của Đông phương, tuy là hàohoa tráng lệ, song những kẻ hành khất rất đông.
Trong bọn hành khất có bầu ra một “Đầu nậu”, có nhiệm vụ cai quản, xét xử lấy họ. Cứ hàng ngày, bọn ăn xin đi xin được bao nhiêu tiền bạc lại phải về trình với Đầu nậu một số ít. Vì vậy mà người Đầu nậu tuy không đi xin vất vả như bọn hành khất, song có rất nhiều tiền bạc.
Bọn hành khất lại kính trọng người Đầu nậu lắm. Người Đầu nậu nói gì chúng cũng phải nghe theo. Thường thường người Đầu nậu qua một thời gian trở nên giàu có vô cùng.
Thuở ấy, một người họ Kim, tên Lão Đại, đã ba đời lĩnh chức Đầu nậu từ tổ tiên truyền lại. Ông ta giàu có lắm. Tuy không phải là bậc phú gia địch quốc song cũng đứng vào hạng nhì hạng ba trong thành phố.
Kim Lão Đại già nua, xét mình không thể giữ nhiệm vụ ấy mãi nên truyền lại cho người em họ là Kim Lại Tử.
Gia đình sung túc, Lão Đại lại có một người con gái tên Ngọc Nô. Ông ta cưng đứa con gái ông lắm.
Nàng Ngọc Nô tuổi mới trăng tròn, mà nhan sắc hoa nhường nguyệt thẹn. Nàng lại thông minh, học hành rất giỏi.
Lão Đại muốn kén cho con một người chồng xứng đáng, song vì tăm tiếng xưa nay, nên những bậc văn nho, thế phiệt không ai buồn để ý đến.
Lão Đại buồn lắm, ngày đêm ngẫm nghĩ :
— Nếu tổ tiên ta không làm cái nghề Đầu nậu thì chắc với tài năng, nhan sắc đứa con gái ta, ít ra cũng kén được người khoa mục. Tiếc thay !
Một hôm, Lão Đại đem ý ấy tỏ với người hàng xóm. Ông lão hàng xóm thương tình, tỏ à:
— Dưới cầu Thái Bình có một anh chàng rất nghèo khổ, họ Mặc tên Tư, đã đậu tú tài, nhưng tuổi mới đôi mươi cha mẹ mất sớm, nếu ngài không chê nghèo khổ thì tôi có thể làm mai cho ái nữ được.
Lão Đại nghe nói rất vui mừng, tỏ ý ưng thuận. Ông già hàng xóm vội vã đến cầu Thái Bình nói với Mặc Tư.
Mặc Tư lâu nay sống trong cảnh túng thiếu cơ cực, nay được người giàu có để ý đến thì còn gì mừng rỡ hơn.
Thế là cuộc hôn nhân tác thành. Lão Đại chọn ngày lành để làm lễ thành hôn.
Mặc Tư vì nghèo khổ, trăm việc đều nhờ Lão Đại lo liệu cả. Ngày tiệc lễ quan khách đến dự rất đông. Ai nấy thấy Mặc Tư dung nhan tuấn tú, ra vẻ hào hoa, trong lòng rất phục, cho Lão Đại là một kẻ có phúc.
Mặc Tư thấy nàng Ngọc Nô mười phần xinh đẹp, trong lòng rất cảm khoái.
Tuy nhiên, vì sợ mang tiếng với người rể, nên hôm ấy Lão Đai không mời Lại Tử, người chú họ mà hiện đang giữ chức Đầu nậu trong bọn hành khất.
Không được mời, Lại Tử hậm hực trong lòng, thầm trách Lão Đại đã khinh mình, bèn xúi bọn hành khất đến nhà làm nhục để trả đũa.
Vốn kính nể người Đầu nậu, Lại Tử nói gì mà bọn hành khất không nghe. Vì vậy trong lúc quan khách đang ăn uống thì có vài chục người hành khất xông vào, áo quần dơ dáy, mình mẩy hôi thúi, kéo ghế ngồi, rót rượu uống, làm huyên náo cả nhà.
Lại Tử ngồi giữa bàn, lớn tiếng nói :
— Mau gọi cháu rể ra chào chú vợ chớ.
Mặc Tư và cả bạn bè của chàng được mời đến hổ thẹn bỏ đi hết. Lão Đại ngồi chết điếng, nhưng không biết phải làm sao đành năn nỉ người chú họ và bọn “quý khách” thương tình cho.
Người Đầu nậu và bọn hành khất chẳng nói gì cả, cứ ăn uống và chuyện trò mãi. Đến lúc quan khách bỏ đi hết, trong nhà vắng tanh mới chịu ra về.
Tối hôm ấy, Lão Đại buồn bã, ngồi đứng không yên...
Nàng Ngọc Nô trong lòng căm tức, thỉnh thoảng bước ra tìm đủ lời để an ủi cha nàng. Nàng nói :
— Cha đừng buồn làm gì. Dẫu sao số phận của con đã như vậy rồi. Nếu phải duyên nợ thì Mặc Tư sẽ không vì thế mà khinh nhà mình. Còn nếu như chàng khinh bỉ thì con đành cam số phận vậy.
Lão Đại thấy con tha thiết, trong lòng đau đớn vô ngần.
Mặc Tư sau khi bỏ đi, nghĩ mình đang cảnh khốn khổ, nay lại được vợ đẹp, giàu sang, bỏ đi thì tiếc, nên tối hôm ấy chàng trở lại...
Lão Đại mừng rỡ, tiếp đón ân cần.
Nàng Ngọc Nô khuyên chồng cố công đèn sách, ăn học để chuộc lại tiếng tăm cho gia đình. Mặc Tư nghe lời, ở đó học hành.
Thôi thì sách vở, chi phí mỗi mỗi đều sắm sửa cho Mặc Tư, không thiếu một món gì cả. Hễ Mặc Tư muốn gì thì có nấy.
Qua ba năm đèn sách, Mặc Tư thi đỗ giải nguyên, rồi đỗ luôn tiến sĩ.
áo gấm, hốt ngà. Mặc Tư vinh quy trở về nhà nhạc phụ. Khi đám rước về đến nơi, bọn hành khất xúm lại bàn tán :
— Kìa ! Rể người Đầu nậu đỗ tiến sĩ kia !
Câu nói ấy lọt vào tai Mặc Tư làm chàng ta áy náy, hổ thầm. Chàng tự nghĩ :
— Nếu biết số phần ta có ngày vinh hiển như hôm nay thì thiếu gì nơi trâm anh thế phiệt, tội gì lại chui vào cái nơi thô bỉ để suốt đời chịu lây tiếng xấu của người.
Vì ý nghĩ như vậy, từ khi được đỗ tiến sĩ, chàng về nhà lạt lẽo với nàng Ngọc Nô, và có ý khinh dễ gia đình nhạc phụ.
Một hôm, Mặc Tư được chiếu vua bổ đi nhậm chức Tư bộ trong trại quân Vi Vô. Kim Lão thấy rể mình bước lên đường danh vọng, mừng rỡ làm tiệc đãi đằng để tiễn biệt.
Dự tiệc xong, Mặc Tư đem nàng Ngọc Nô theo và từ giã nhạc phụ. Lão Đại thương con không nỡ rời, song nghĩ đến câu “xuất giá tùng phu” nên phải cam lòng, cắp cho bốn đứa a hườn và hai tên tùy tùng để theo phò tá Ngọc Nô.
Thuyền của Mặc Tư đi được mấy ngày thì đến ven sông Thái Thạnh. Mặc Tư lòng buồn, nghĩ đến tăm tiếng của mình, nên ra nơi đầu thuyền ngồi ngắm trăng than thở.
Bỗng chàng sanh ra một ác ý, gọi con a hườn mời nàng Ngọc Nô ra đầu thuyền thưởng nguyệt. Nàng Ngọc Nô bỗng nhiên thấy được chồng lưu luyến, lòng mừng khôn tả, vội sửa soạn xiêm y ra ngồi một bên chồng âu yếm.
Trăng khuya, gió lạnh, chờ cho bọn tùy tùng ngủ hết, Mặc Tư xô nàng Ngọc Nô xuống sông, rồi hô oán rằng nàng đã vô ý rơi xuống nước.
Bọn tùy tùng đâu biết được ác ý ấy, khi thức dậy thì Mặc Tư đã cho thuyền chạy cách đó năm mươi thước rồi cắm lại. Mặc Tư sai người lặn xuống sông tìm kiếm để tránh tiếng. Nhưng làm sao tìm được khi người rơi một nơi mà tìm một ngả.
Nàng Ngọc Nô khi rơi xuống nước tâm thần mê loạn, khi tỉnh dậy thì thấy mình đang nằm trên một chiếc thuyền lạ. Chiếc thuyền này là chiếc thuyền của Hứa Công, quan tổng trấn tại Vi Vô.
Nguyên Hứa Công đi kinh là, đêm ấy cắm thuyền xem trăng, bỗng thấy xác một người đàn bà trôi tấp bên ven thuyền nên vội vàng rớt lên, và cùng vợ là Hứa phu nhân săn sóc.
Khi nàng Ngọc Nô tỉnh dậy, vợ chồng Hứa Công gạn hỏi, nàng đem đầu đuôi công việc kể lại cho vợ chồng Hứa Công nghe.
Hứa Công nói :
— Con đừng buồn, con cứ ở với ta, làm nghĩa nữ, một ngày nào đó ta sẽ tác thành con một nơi xứng đáng.
Từ đó, nàng Ngọc Nô là con gái của Hứa Công.
Hứa Công lại làm quan Tổng trấn ở Vi Vô, nên chức tư bộ của Mặc Tư vẫn là chức trong thuộc hạ của ông ta.
Một hôm, thấy Mặc Tư, Hứa Công đau đớn thầm trách :
— Đáng tiếc con người thanh niên tuấn tú như vậy mà lòng dạ lại bạc bẽo vô luân.
Rồi cách đó vài tháng, Hứa Công tỏ ý cho mọi người biết là ông đang tìm cho con gái ông một người rể.
Mặc Tư lúc đó mang tiếng là góa vợ, nay thấy quan Tổng trấn có ý kén chọn khách đông sàn, lòng mừng khắp khởi, gắm ghé tỏ ý muốn cầu hôn.
Hứa Công thấy vậy vào hỏi nàng Ngọc Nô :
— Nay cha đã lựa cho con được một người chồng xứng đáng, tuổi trẻ, học giỏi, vậy ý con như thế nào ?
Nàng Ngọc Nô khóc sướt mướt nói :
— Tuy Mặc Tư bạc bẽo, nhưng thân con gái chỉ lấy một lần chồng thôi, con xin nguyện thủ tiết trọn đời, không màn đến chồng con nữa.
Thấy Ngọc Nô có lòng trung nghĩa, Hứa Công thương tình, đem câu chuyện chàng Mặc Tư cầu thân tỏ bày với con gái nuôi mình.
Nàng Ngọc Nô cảm thấy tấm lòng tham của Mặc Tư đáng khinh bỉ, tuy nhiên, muốn được trọn vẹn câu “bất sự nhị phu”, nàng buộc lòng ưng thuận. Ngày lễ thành hôn đến, Mặc Tư trong lòng rất vui đẹp. Chàng nghĩ thầm :
— Nếu trước kia ta không tàn nhẫn như thế thì làm sao hôm nay có được một nơi danh giá như vầy.
Tối hôm ấy cửa phòng hương hé mở, Mặc Tư bước vào làm lễ hoa chúc, vừa bước vào liếc thấy dung nhan của vị hôn thê hoa nhường nguyệt thẹn, trong lòng chàng rộn lên một niềm hoan lạc, nhưng khi bước đến gần, nhìn tận mặt thì bỗng chàng ré lên :
— Ma ! ma !
Mặc Tư kinh ngạc là phải, vì chàng có ngờ đâu trước măt chàng người vợ mới cưới của mình lại là nàng Ngọc Nô thuở nọ.
Nàng Ngọc Nô mỉm cười nói :
— Tôi là người thật, đâu phải là ma. Có gì mà sợ thiếp như thế ! Chàng nỡ đang tâm giết vợ để lấy một người vợ danh giá hơn.
Mặc Tư ấp úng :
— Tại sao nàng lại còn sống được ?
Nàng Ngọc Nô đem đầu đuôi câu chuyện chết đuối của mình kể lại cho Mặc Tư nghe. Mặc Tư cảm động, biết lỗi mình, ân hận vô cùng. Chàng quỳ xuống đất tạ tội, rồi gục đầu vào chiếc gối khóc rả rít.
Thấy chồng đã hối ngộ, dù có mắng nhiếc đến đâu cũng bằng thừa, nàng Ngọc Nô vội đỡ Mặc Tư dậy.
Từ đó hai vợ chồng rất quý nhau, coi Hứa Công như cha nuôi, lại rước Lão Đại về ở chung với mình, phụng thờ như cha đẻ vậy, không bao giờ còn có ý nghĩ sang hèn nữa.
Thành viên sau đã gửi lời cám ơn đến Lăng Độ Vũ vì bài viết hữu ích này:
(Hữu tâm vô tướng, tướng tự tâm sanh,
Hữu tướng vô tâm, tướng tùng tâm diệt)
Vào đời nhà Hán Văn Đế, có một người bề tôi tên Đặng Thông, vốn kẻ trung nghĩa. Đối với dân, ông ta là bậc thanh liêm, đối với vua, ông ta là kẻ chính trực, đối với nước, ông ta là kẻ trung thành.
Với những bản tính đó, Đặng Thông được vua Văn Đế yêu dùng và biệt đãi hơn các quan cận thần khác. Vua Văn Đế trao cho Đặng Thông tất cả mọi quyền hành, khi ra xa giá, lúc ở lâu đài, mỗi mỗi đều tỏ ra một người phong lưu thế phiệt.
Tài đức như thế, cao sang như thế, trong đời còn ai dám sánh. Thế mà một hôm, Đặng Thông ra khỏi thành độ vài dặm thì gặp một gã xem tướng số tên Huỳnh Liên, ăn mặt rách rưới, mặt mày bẩn thỉu, trông thấy ông liền ngửa mặt lên trời cười ha hả, rồi chỉ vào mặt nói :
— Kìa, Đặng quan nhân, chớ thấy sang trọng nhất thời mà mừng ! Tôi e ngài chết đói một ngày không xa đấy.
Đoàn quân tùy tùng thấy Huỳnh Liên, gã thầy tướng có cử chỉ vô lễ với đại quan, thất kinh vội xúm lại bắt, và toan giải về triều trị tội. Nhưng Đặng Thông lại không lấy thế làm giận, truyền bộ hạ dẫn Huỳnh Liên đến trước kiệu, hỏi :
— Ta là một bậc đại quan tại triều đình, phú quý có thừa, quyền uy có một, sao ngươi dám bảo ta là kể chết đói ?
Huỳnh Liên lễ mễ nói :
— Thưa đại quan, kẻ hèn này dám vô lễ nói lời ấy, xét ra rất có tội ! Nhưng kẻ hèn này cũng không phải biết nói sao hơn, vì sự thật là thế. Chẳng bao lâu đại quan sẽ là một người chết vì đói khát.
Đặng Thông mỉm cười hỏi lại :
— Chết sống là chuyện thường của người có trách nhiệm với nước với dân. Nhưng ngươi căn cứ vào đâu mà bảo ta sẽ bị chết đói ?
Huỳnh Liên thưa :
— Tiện nhân có nghề xem tướng lưu truyền đã mấy đời, kẻ nào chết đói khi trông thấy đã biết ngay. Kìa nơi miệng đại quan có một đường vạch chạy thẳng từ cầm đến mép, đó là tướng chết đói rồi. Dẫu đại quan có sang trọng đến đâu bạc vàng đầu kho, cũng không thể nào tránh khỏi.
Đặng Thông không tin. Bọn quân hầu khúc khích cười bảo nhau :
— Thật là kẻ điên cuồng ! Một vị quan giàu có nhất triều mà hắn dám bảo là chết đói !
Có kẻ thưa với Đặng Thông :
— Gã này muốn dùng nghề xem tướng xỉ mạ đại quan. Xin đại quan cho phép chúng tôi bắt nó đem về triều đình cho một bữa để nó chừa tính ngông cuồng ấy.
Đặng Thông xưa nay vốn tính nhân từ, không muốn hành hạ ai nên cười lớn, khoác tay bảo bọn thủ hạ :
— Nó bảo ta chết đói nhưng ta không chết đói thì thôi, có hại gì mà phải bắt nó đánh đập làm gì ?
Dứt lời, Đặng Thông truyền quân khiêng kiệu trở về tư dinh, không lưu tâm đến câu nói của gã Huỳnh Liên nữa. Hai hôm sau, có kẻ hay việc ấy vội vào triều tâu với vua Văn Đế.
Vua Văn Đế tức giận phán :
— Chết sống số mạng do trời định, còn giàu sang là do ta. Ai dám làm cho Đặng Thông nghèo khổ mà đến nỗi phải chết đói ?
Dứt lời nhà vua truyền xuất kho cấp cho Đặng Thông mấy xe lụa là châu báu để làm của riêng, lại đặc ân ban cho Đặng Thông cả một hòn núi “Thiết đồng” để đúc tiền tiêu xài nữa.
Đặng Thông thấy nhà vua quá hậu đãi mình, lòng cảm kích vô cùng. Tuy nhiên, ông ta là kẻ không tham lam, nên cố ý từ chối không nhận.
Vua Văn Đế nói :
— Ta thuở nay không tin vào tướng số, nay có gã thầy tướng bảo khanh có tướng chết đói, vậy ta cấp cho khanh của tiền châu báu, khanh cứ nhận lấy xem thử làm thế nào chết đói được ?
Đặng Thông tâu :
— Hạ thần đã được Bệ hạ ưu đãi thế này, kể cũng quá lắm rồi ! Tiền của hạ thần dẫu tiêu suốt đời cũng chưa hết, vậy xin Bệ hạ để của ấy cấp phát cho dân nghèo.
Vua Văn Đế không nghe, nhất quyết buộc Đặng Thông phải nhận lụa là châu báu và hòn núi “Thiết đồng” kia ! Do đó, Đặng Thông trở thành một người giàu có nhất trong nước, sang trọng vô cùng.
Trong thời gian đó, mỗi lần vua Văn Đế thấy mặt Đặng Thông vào chầu, mỉm cười bảo:
— Ta ra lệnh cho khanh phải ăn tiêu cho thật sang trọng đấy nhé.
Triều thần ai nấy đều lắc đầu, le lưỡi thầm bảo nhau :
— Gã thầy tướng đã làm giàu cho Đặng Thông như thế thì làm sao Đặng Thông chết đói được ?
Thời gian chẳng bao lâu, vua Văn Đế bị bệnh nặng, thổ huyết, máu luôn đầy miệng, nghẹt thở nằm xỉu trên long sàng. Đặng Thông cảm nghĩa, xem thân vua như thân mình, vội cúi xuống ghé mồm hút huyết tiếp hơi, cứu nhà vua tỉnh lại.
Ngay lúc đó, Thái tử vào thăm, thấy máu ra ràn rụa, và cử chỉ của Đặng Thông trông rất ghớm ghiết, làm cho Thái tử trở về cung không ăn uống được, nhất là các món ăn tươi có máu, Thái tử thấy rợn cả người.
Và từ đấy, Thái tử cũng ít lui tới, viếng thăm vua cha.
Văn Đế biết được việc ấy, tức giận than :
— Bây giờ ta mới rõ, chỉ có Đặng Thông là bầy tôi trung thành mà thôi ! Rất đỗi Thái tử còn gớm ghiếc ta, tình nghĩa cha con thực không bằng người ngoài vậy.
Câu nói ấy tuy Văn Đế chỉ nói riêng với Đặng Thông, nhưng về sau cũng lọt vào tai Thái tử, làm cho Thái tử bất bình, đem lòng căm tức Đặng Thông vô cùng.
Đối với Đặng Thông là kẻ tôi trung, hành động của ông ta là hành động đền đáp ơn vua. Tuy nhiên, Thái tử lại cho đó là hành động dua nịnh, để vua cha ghét mình, thế mới rắc rối.
Rủi thay, bịnh tình Văn Đế mỗi lúc một nặng thêm, rồi chẳng bao lâu nhà vua phải băng hà, để lại một mối cừu thù sâu sắc trong lòng vị Thải tử non trẻ kia.
Thái tử lên ngôi kế vị, lấy hiệu là Cảnh Đế.
Lòng đã sẵn thâm thù, Cảnh Đế liền hạ lệnh bắt Đặng Thông trị tội, sung công hết tài sản, giam Đặng Thông vào ngục, và cấm không cho đem cơm nước.
Thế là Đặng Thông phải chịu chết đói trong ngục, không có một lời thán oán.
Lời tiên đoán của gã Huỳnh Liên đến lúc ấy mới thấy là đúng. Các quan trong triều lớn bé đều kinh khủng, cho rằng tướng mạo con người đã hình ra không thể nào tránh khỏi được.
Bấy giờ, tại triều Cảnh Đế có quan Thái sư tên Châu á Phú vốn là kẻ tham giàu sang, thấy mình đang trọng chức, sợ ngày sau có điều gì rủi ro chăng nên lẻn ra ngoại thành đến nhà gã Huỳnh Liên hỏi thăm tướng mạo.
Huỳnh Liên xem qua thấy quan Thái sư họ Châu lại cũng có một vằn chỉ chạy xéo vào miệng, nên vỗ tay cười lớn, nói :
— Ôi thôi ! Quan Thái sư lại cũng có tướng chết đói rồi ! Đường chỉ “chết đói” đã hiện rồi thì ngày chết đói cũng chẳng bao lâu nữa.
Quan Thái sư buồn bã vô cùng, trở về dinh lo thu xếp bạc vàng gởi đến một nhà người thân cách kinh đô trăm dặm, để phòng khi có xảy ra tai nạn thì trốn đến đó dung thân. Việc làm của quan Thái sư tuy kín đáo, nhưng không thoát khỏi tai mắt của các cận thần.
Các quan cho là quan Thái sư sanh dị tâm nên mậu tâu với vua Cảnh Đế.
Vua Cảnh Đế lập tức cho ngự lâm quân vây phục tư dinh quan Thái sư họ Châu, bắt quan Thái sư hạ ngục và tịch thâu tài sản.
Chẳng bao lâu Châu á Phú cũng bị chết đói như Đặng Thông trước kia.
Lúc này, chẳng những quan quân trong triều, mà khắp cả kinh đô, ai cũng ca tụng Huỳnh Liên là một nhà tướng số giỏi vào bậc nhất.
Đặc biệt hơn nữa, thời bấy giờ, trên mặt người nào có đường vạch chạy xéo vào miệng, thì dân chúng hoặc phỉ nhổ, hoặc thương hại, cho là kẻ “chết đói” vậy.
Trong lúc dân chúng đang sợ những người có tướng chết đói, thì nơi một làng kia có gã Bùi Độ, tuổi trẻ nhà nghèo, đi bán dầu lang thang khắp đó đây, lại xuất hiện nơi miệng một đường chỉ “chết đói”.
Một hôm, Bùi Độ đi qua kinh thành. Huỳnh Liên đứng ở đầu chợ trông thấy lấy tay vẫy gọi chàng lại, và nói :
— Kìa, ông bạn ! Ông bạn đã nghèo khổ mà lại bị đường chỉ vạch xéo trên miệng thế kia tránh sao khỏi bị chết đói.
Bùi Độ thản nhiên nói :
— Tôi nghèo khổ, buôn bán độ nhật thì việc chết đói là chuyện thường, có gì lạ ?
Dứt lời, chàng gánh dầu đi vào thôn quê bán, không lấy thế làm buồn bã.
Ngày kia Bùi Độ đi ngang qua một khu đồng vắng, trời mới tinh sương bỗng thấy một cô gái tuổi độ đôi mươi, nhan sắc diễm lệ, đang ngồi trên bờ giếng lạnh, khóc nỉ non.
Lấy làm lạ, Bùi Độ bước đến hỏi :
— Cô nương từ đâu đến, có việc gì đau buồn ?
Thiếu nữ ngẩng mặt lên, thấy Bùi Độ anh chàng bán dầu, quần áo tươm tả, mồ hôi nhễ nhại, tuy nghèo nàn nhưng khuôn mặt có vẻ hiền từ, nàng lau nước mắt đáp :
— Tôi quả đang có việc buồn, nhưng nói với anh cũng chẳng ích gì, xin đừng hỏi đến làm chi !
Bùi Độ trông thấy nàng con gái nét hoa ủ rũ, thương tình hỏi :
— Xin quý nương chớ ngại ! Tôi tuy là kẻ nghèo khó, hèn hạ, song nếu được quý nương cần tôi việc gì, tôi xin nguyện hết lòng. Chẳng hay quý nương từ đâu đến. Tại sao phải ngồi nơi đây khóc than ?
Thiếu nữ thở dài nói :
— Tôi là con gái của quan huyện Lạc Châu, nhà ở cách đây mười dặm. Cha tôi đã già, làm quan thuở nay rất thanh liêm chính trực. Vừa rồi, chẳng may cha tôi bị gian thần sàm tấu, bươi móc những lỗi nhỏ nhen, khiến cho Hoàng đế nổi giận, truyền bắt cha tôi hạ ngục tại triều. Tôi đã đến đó thăm viếng và kêu oan nhiều lần, nhưng tên gian thần đó đã không xét đơn, còn hạ lệnh tịch thu hết tài sản của cha tôi nữa !
Thiếu nữ nói đến đấy khóc òa.
Bùi Độ cũng thở dài, để gánh dầu xuống đất nói :
— Vì mất hết cả nhà cửa, tài sản mà quý nương buồn đi lang thang đây đó chăng ?
Thiếu nữ lắc đầu :
— Không ! Tên gian thần buộc tôi phải chạy đủ ba nén vàng mới chịu dâng sớ xin tha cho cha tôi. Vì vậy đã sáu tháng nay, tôi đem cả tư trang bán hết, và đi xin xỏ các người trong thân tộc, góp nhóp đủ ba lượng vàng, định sáng mai đem vềkinh lo việc cho cha tôi. Chẳng ngờ vừa rồi tôi đi lễ chùa vô ý đánh rơi ba lượng vàng ấy dưới giếng lạng này...
Nói đến đó, thiếu nữ khóc nức nở, không sao nói được nữa.
Bùi Độ biết nàng đang đau lòng vì cha nàng, nên không dám hỏi, rón rén bước tới nhìn xuống giếng lạng.
Giếng không sâu lắm, nhưng vì bỏ hoang lâu ngày lá khô rụng đầy, không ai còn rõ được bề sâu bao nhiêu nữa. Nhất là mùi hôi tanh xông lên nồng nực.
Bùi Độ thở dài, bảo thầm :
— Ba nén vàng mà đánh rơi xuống đáy giếng này thì còn biết làm sao vớt lên được ! Khốn thay !
Nhưng chàng lại nghĩ :
— Ba nén vàng ấy là sinh mạng của cha nàng ! Nàng đã góp nhóp, cực khổ sáu tháng trường mới tìm ra. Nếu mất đi tức là mất mạng cha nàng rồi ! Thế thì nàng đau đớn khóc than cũng là lẽ phải.
Nhìn thấy vẻ mặt thất vọng, đầy nước mắt của thiếu nữ, Bùi Độ động lòng nhân, nói :
— Xin quý nương cứ an lòng, tôi xin vì quý nương lặn xuống giếng nầy tìm thử, may ra có hy vọng !
Thiếu nữ khoa tay bảo :
— Không được ! Anh có lòng tốt như vậy tôi rất đội ơn ! Nhưng dưới giếng này có con trăn rất dữ. Từ hôm qua tôi đã tìm người trong thôn xóm thuê vớt, nhưng ai cũng sợ trăn không dám mạo hiểm.
Bùi Độ nhìn xuống giếng, thấy lá khô nổi lềnh bềnh, bất giác thở dài, than :
— Nếu vậy thì biết làm sao giải thoát được hoàn cảnh rủi ro đau đớn của quý nương ?
Thiếu nữ nói :
— Tôi đành chịu chết mà thôi ! Trời đã muốn hại mạng cha tôi tức như đã cắt đứt tình máu mủ. Tôi còn sống trên đời nầy làm gì nữa !
Bùi Độ biết nàng đã có ý định nhảy xuống giếng quyên sinh, nên không nỡ bỏ đi, cứ đứng nhìn mặt giếng thở ngắn than dài mãi.
Bỗng chàng nhớ đến lời gã thầy tướng Huỳnh Liên, và đường gạch “chết đói” nơi miệng, thầm bảo :
— Ta đã có tướng chết đói thì trước sau cũng chết. Vậy cứ hy sinh để cứu nàng còn hơn.
Chàng nhìn thiếu nữ bảo :
— Thưa quý nương, tôi thật đau đớn trước hoàn cảnh của quý nương, muốn được quý nương cho phép tôi hy sinh giúp đỡ.
Vừa nói, Bùi Độ vừa xăm xuối bước tới bờ giếng lạng.
Thiếu nữ thất kinh hét lên :
— Trời ơi ! Xin chớ vì tôi mà chết như vậy thực chẳng ích gì !
Nàng nhào đến, nắm vạt áo Bùi Độ kéo lại.
Bùi Độ thật tình bảo :
— Thưa quý nương, tôi vốn chẳng may sinh vào cảnh nghèo khổ, lại có tướng chết đói. Nếu ham sống sợ ngày gần đây chẳng tránh khỏi cảnh chết thảm. Vậy quý nương cứ để tôi xuống giếng tìm vàng. May ra lấy được vàng tôi có thể giúp ích quý nương, bằng không nếu rủi ro chết vào bụng trăn thì tôi cũng chẳng ân hận gì !
Thiếu nữ không hiểu tướng chết đói là gì, còn đang ngơ ngác thì Bùi Độ đã co chân nhảy ùm xuống giếng.
Nhờ có sức mạnh, và nhờ biết bơi giỏi, Bùi Độ lặn xuống, chẳng mấy chốc đã mò được khăn gói vàng trồi lên mặt nước.
Chàng mừng quá, bấu vào các rễ cây lần lần leo lên.
Thiếu nữ vừa mừng vừa sợ, trố mắt nhìn, nói hổn hển :
— Người ta bảo dưới giếng này có con trăn lớn lắm, anh có thấy nó không ?
Bùi Độ lắc đầu đáp :
— Không ! Đáy giếng đầy cả bùn, mà không thấy có trăn. Chắc họ đồn ngoa đó.
Chàng trao gói vàng lại cho thiếu nữ với niềm hoan hỉ vô biên.
Thiếu nữ tiếp lấy gói vàng, rũ xiêm sụp lạy đền ơn.
Bùi Độ cản lại :
— Thưa quý nương, công tôi một chút chẳng có là bao. Miễn sao quý nương cứu được đại quan là tốt lắm rồi, xin chớ bảo là ân huệ.
Thiếu nữ nhoẻn cười, nụ cười như đóa hoa xuân :
— Thưa ân nhân, xin ân nhân cho tiện nữ biết họ tên, để còn có ngày đền đáp.
Bùi Độ nói :
— Tôi chỉ là một kẻ nghèo hèn, bán dầu khắp đó đây, không gia cư, sự nghiệp. Xin quý nương chớ bận lòng. Từ trước đến nay dân chúng trong vùng vẫn quen gọi là Bùi Độ.
Thiếu nữ cuối đầu tạ Ơn rồi mang vàng vào kinh đô lo việc chuộc tội cho cha. Trong lúc đó, Bùi Độ vẫn gánh dầu lang thang đây đó, khắp làng mạc.
Một hôm, Bùi Độ gánh dầu đi ngang qua đầu chợ, gặp gã Huỳnh Liên. Nhưng làn này Huỳnh Liên không nhìn Bùi Độ với đôi mắt khinh khi nữa, mà với vẻ kính trọng.
Lấy làm lạ, Bùi Độ toan hỏi thì Huỳnh Liên đã nói :
— ý ! Anh thật tốt phước ! Tướng chết đói của anh biến mất rồi, mà thay vào đấy tướng mạo của kẻ công khanh, giàu sang tuyệt đỉnh. Tôi chúc cho anh sớm được vinh hoa.
Bùi Độ cười hề hề :
— Thôi, xin ông chớ nhạo báng tôi. Kẻ nghèo khổ này không đủ cơm ăn, lại có tướng chết đói, chẳng biết chết vào lúc nào, xin chớ đùa nhau.
Huỳnh Liên chấp tay xá dài, nói :
— Đã mấy đời làm nghề tướng số, tôi chẳng hề đoán sai. Chẳng bao lâu nữa anh trở nên một kẻ công hầu phú quý đó.
Bùi Độ hỏi lại :
— Thế tại sao thời gian trước đây ông bảo là tôi sắp chết đói ?
Huỳnh Liên giảng giải :
— Đúng vậy ! Thời gian gần đây tôi đã thấy anh có tướng chết đói, chẳng biết vì sao nay lại có tướng quan sang ! Chắc có lẽ anh đã ra công thi ân bố đức nhiều lắm ?
Bùi Độ nói :
— Tôi chỉ vừa mới cứu một thiếu nữ trong lúc hoạn nạn mà thôi.
Huỳnh Liên nở một nụ cười :
— ý ! Thế chỉ vì việc ấy mà anh đã đổi tướng mạo. Sách có nói : “Hữu tâm vô tướng, tướng tự tâm sanh. Hữu tướng vô tâm, tướng tùng tâm diệt”.
Bùi Độ không tin, chỉ cười hề hề rồi gánh dầu đi bán như cũ.
Ngày kia, vì mỏi mệt, chàng nằm ngủ quên nơi một quán vắng. Khi thức dậy, thấy gánh dầu biến đi đâu mất.
Chàng thất kinh, chạy đi tìm khắp nơi nhưng không thấy đâu cả. Thật là nguy khốn ! một kẻ nghèo khổ thế kia, chỉ biết gánh dầu đi bán kiếm lời độ nhựt, mà nay mất cả gánh gióng thì biết tiền đâu đem về trả cho chủ, tiền đâu nuôi sống trong ngày.
Bùi Độ chạy như ma đuổi, mặt mày tái nhợt, miệng lẩm bẩm chửi gã thầy tướng Huỳnh Liên :
— Cái thằng râu quặp, mày cố nhạo tao ! Hôm nay tao mất cả gánh dầu thế là ngày chết đói đã đến rồi, mày lại bảo tao sắp được vinh hoa phú quý ! Ôi, khổ quá !
Chạy một lúc đã mệt, Bùi Độ đến một mé rừng, thấy có một tảng đá bằng, chàng bèn trèo lên đó nghỉ, và tự bảo :
— Thôi ! Số ta là số chết đói ! Ta cứ nằm đây mà chết cho xong.
Chàng nhắm mắt để chờ chết. Bỗng trong rừng có hai người xông ra, nắm chân Bùi Độ lay gọi :
— Này này ! Gã bán dầu ! Hãy bán dầu cho chúng ta rồi sẽ ngủ.
Bùi Độ mở mắt, nhìn thấy hai người ấy mặt mày sáng sủa, ăn mặc sang trọng, lại có vẻ đùa cợt, nên tức giận đáp :
— Thôi thôi ! Để cho ta chết ! Gánh dầu của ta đã bị quân gian lấy mất còn đâu nữa.
Hai người nhìn nhau cười ngặt nghẽo, nói :
— Gánh dầu của anh đã có người mua rồi, giờ đây anh theo chúng tôi đến đó lấy tiền.
Bùi Độ ngơ ngác hỏi :
— Sao lại có chuyện lạ vậy ?
Một người đáp :
— Có gì mà lạ ! Anh bán dầu thì người ta mua. Mà đã mua thì trả tiền. Anh có bằng lòng theo chúng tôi để nhận tiền hay không thì nói.
Bùi Độ nửa mừng nửa ngại, lủi thủi theo hai người lạ xuyên rừng đi thẳng.
Chẳng bao lâu, hai người dẫn Bùi Độ đến trước một cửa cổng lớn, có đề bốn chữ “Lạc Châu huyện đường”, và dắt Bùi Độ vào đấy.
Bùi Độ sợ hãi hỏi :
— Sao các người lại dẫn tôi vào đây ?
Một người nói :
— Vì đây là khách mua hàng của anh.
Hai người dẫn Bùi Độ đi vòng quanh một lúc, vào hậu đường. Chàng thấy trước cửa một ngôi nhà mát có để hai thùng dầu của chàng, nên chàng mừng quá, chạy xổ đến, nói lớn:
— Gánh dầu của tôi đây rồi !
Chợt sau vườn hoa có bóng xiêm y phất phới, lả lướt tiến dần đến. Một thiếu nữ cực kỳ diễm lệ, mặt hoa da phấn, vóc ngọc mày ngài, vừa trông thấy Bùi Độ đã nhoẻn miệng cười, cất tiếng oanh thỏ thẻ :
— Ân nhân vẫn mạnh giỏi đấy chứ ?
Bùi Độ ngơ ngác, nhìn thấy thiếu nữ ấy chính là cô gái mà chàng đã lặn xuống giếng tìm vàng để giúp nàng chuộc cha hôm nọ.
Tuy nhiên, khác với hôm ấy, ở đây nàng đẹp như một tiên nga, tươi như một đóa trà mi buổi sáng.
Gặp lại người cũ, Bùi Độ vui mừng, vồn vã hỏi :
— quý nương đã chuộc được tội cho đại quan rồi chớ ?
Thiếu nữ mỉm cười nói :
— Nhờ anh mà cha con tôi đã đoàn tụ. Cha tôi lại được phục chức huyện quan, nên nhớ ơn anh cho người đến thỉnh, tìm mãi mới gặp, lại sợ anh không đến, nên tôi lập kế cho người mạo muội gánh hai thùng dầu về đây trước, xin anh chớ trách.
Dứt lời, thiếu nữ ra hiệu cho mấy tên quân hầu đưa Bùi Độ vào một căn phòng trang bày lộng lẫy, đồ đạc sang trọng.
Bùi Độ thấy chỗ nào cũng sạch sẽ uy nghi, chưa biết ngồi vào đâu, thì bọn lính hầu đã bưng lên một mâm rượu thịt ê hề, món ăn toàn là những món cao quý.
Đang đói bụng lại gặp cảnh này, Bùi Độ không còn biết ngại ngùng gì nữa, ngồi lại ăn uống no say.
Ăn xong, thấy buồn ngủ, chàng trèo lên bộ ván đánh một giấc, mơ màng theo men rượu. Đến lúc tỉnh giấc, Bùi Độ thấy trời đã tối, trong phòng leo lét ánh đèn dầu, cái mùi dầu quen thuộc của chàng thường ngày.
Ngoài cửa có tên quân hầu bước vào bảo chàng :
— Xin mời quý nhân qua phòng hương dùng cơm tối.
Bùi Độ vội bước theo tên quân hầu, rẽ qua đến một căn phòng rất mỹ lệ, ánh đèn le lói, các cửa đều có treo màn thêu nhiều hoa bướm.
Tên quân hầu đưa chàng đến cửa lập tức lui gót. Tức thì bên trong có một tỳ nữ, phất tay áo bước ra cung kính rước Bùi Độ vào.
Qua khỏi bức màn, một mùi thơm ngào ngạt. Giữa phòng có một chiếc bàn xinh xắn, hai bên có hai chiếc ghế thêu. Trên bàn sắp sẵn thức ăn và rượu.
Tỳ nữ đưa Bùi Độ vào ngồi đấy chưa bao lâu thì phòng bên cạnh bức màn nhung lay động, tỳ nữ chấp tay thưa với Bùi Độ :
— Cô nương tôi đến.
Bùi Độ vừa quay mặt lại đã thấy thiếu nữ khuê các mà chàng cứu nạn trước kia ung dung trong bộ y phục màu hồng từ từ bước đến, nhoẻn cười nói :
— Thưa ân nhân chớ lấy làm lạ. Tiện nữ xin tạm bỏ chút lễ nghi để đền ơn ân nhân thuở nọ.
Bùi Độ đứng dậy đáp lễ, nói :
— quý nương là con chí hiếu, trên đời này thật ít có. Phận tôi là kẻ hèn mọn dám đâu chịu lấy ân huệ của cô nương. Chẳng hay cô nương danh hiệu là gì ?
Thiếu nữ đáp :
— Em là Ngọc Hà, từ thuở bé đến giờ theo cha trấn nhậm nơi đây, mẹ mất sớm, cố noi theo nề nếp gia phong. Nhưng vì đối với chàng ơn sâu, không thể vì phận gái mà không báo đáp.
Dứt lời, Ngọc Hà cầm lấy chung rượu, rót đầy dâng tận tay Bùi Độ.
Trước cảnh người đẹp, rượu ngon, Bùi Độ ngây ngất cả lòng. Chàng uống mãi. Càng uống càng thấy ngon.
Cho đến khuya, rượu say lúy túy, ngọn huyền đăng chập chờn ánh sáng, lung linh tỏa khắp phòng một màu huyền ảo, Bùi Độ thần trí mơ màng như lạc đến cõi tiên bồng, không cầm được dục vọng, không còn nghĩ đến phận hèn mọn của mình, liền cầm tay Ngọc Hà thở hổn hển, nói :
— quý nương !
Ngọc Hà nghiêm nét mặt, bảo :
— Em tiếp đãi ân nhân là để đáp đền lòng hiếu đạo, đâu phải kẻ trên bộc trong dâu, xin ân nhân chớ làm thế.
Bùi Độ sợ hãi buông tay Ngọc Hà, nói run rẩy :
— Kẻ hèn nầy biết phận, không được quý nương chiếu cố, vậy thì kẻ hèn này xin từ giả, chẳng còn dám lưu lại đây để nhìn mặt quý nương nữa.
Thấy vẻ mặt thật thà của Bùi Độ, Ngọc Hà thương hại, nói :
— quý nhân thành thật muốn cùng tiện thiếp xe duyên sao ? Điều đó không khó gì. Tiện thiếp đã mang ơn quý nhân, đâu còn kể đến chuyện sang hèn, chỉ sợ quý nhân hiểu lầm, xem tiện thiếp là kẻ không đứng đắn mà thôi.
Bùi Độ như cởi mở, chớp chớp đôi mi, nhìn thẳng vào mặt Ngọc Hà nói :
— Nếu được cùng quý nương gầy duyên can lệ thì phận hèn này suốt đời xin ở bên gối để phụng sự quý nương !
Ngọc Hà cầm tay Bùi Độ nói :
— Em chỉ sợ không làm tròn phận sự nâng khăn sửa trắp cho chàng ! Chàng là người ân của em, dẫu em có đem thân thờ chàng trọn đời cũng là lẽ phải ! Nhưng việc đó còn phải đợi lệnh nghiêm đường, chúng ta sẽ tính sau.
Bùi Độ lửa lòng phừng cháy, không cầm được yêu đương trước sắc đẹp diễm kiều, và giọng nói trong như suối ngọc của Ngọc Hà. Chàng ôm Ngọc Hà vào lòng, và không còn biết gì đến trời đất nữa.
Thế rồi từ đấy, Bùi Độ Ở luôn trong một phòng riêng, cách phòng hương của Ngọc Hà không xa lắm. Đêm đêm yến tiệc vui vầy. Đôi trai gái vì nghĩa mà kết nên tình cầm sắc.
Nàng Ngọc Hà vốn là gái trâm anh, từ nhỏ đã theo đòi nghiêng bút, nên các môn đờn ca thi họa đều xuất sắc. Bùi Độ được nàng đem hết khả năng con nhà khuê các ra phụng sự, làm cho chàng chẳng bao lâu cũng nhuốm mùi phong lưu, không còn có cử chỉ như một gã bán dầu ngày nào ở thôn xóm nữa.
Trong thời gian đó, Ngọc Hà giấu cha nàng, không nói. Vì nàng thấy cha nàng là kể môn phong quý tộc, chẳng lẽ kén rể dốt nát quê mùa. Do đó, Ngọc Hà cố tâm rèn luyện cho Bùi Độ nên người trang nhả trước khi tỏ ý với phụ thân.
Do đó, hàng ngày Ngọc Hà gần gũi Bùi Độ, đem sách vở, chữ nghĩa ra giảng dạy, khuyên Bùi Độ cố gắng học hành để tìm đường tiến thân về sau.
Được Ngọc Hà yêu mến, Bùi Độ như cởi mở tâm hồn, mỗi mỗi đều nghe lời nàng, học hành tiến bộ vượt bực.
Mối tình đôi bạn vì thế mà thấm thiết, mỗi ngày một chặc chẽ thêm. Thời gian qua mau như bóng ngựa, thấm thoát đã ba năm, Bùi Độ trở thành một khách phong lưu, văn chương thông suốt, tướng mạo đoan trang, hào hoa đến mực.
Và cũng trong thời gian đó, Ngọc Hà đã hiến trọn chữ trinh cho Bùi Độ, đến lúc thành tài thì đóa trà mi không còn giữ được mùi thanh khiết nữa.
Giữa lúc hương lửa đang nồng, Ngọc Hà nghĩ đến tương lai của Bùi Độ, quyết không để chàng ở mãi địa vị thấp hèn, nên một hôm, nàng đem câu chuyện ân nghĩa ấy thuật lại với cha nàng, xin cha nàng dung tha cho tội bất hiếu.
Cha nàng Ngọc Nữ vốn đã già, lại thương con. Hơn nữa từ nhỏ đến lớn, Ngọc Nữ thờ cha chí hiếu, nên ông không nỡ trái ý, liền cho dời Bùi Độ đến yết kiến.
Bùi Độ sợ sệt vào hầu. Ngọc Lão thấy Bùi Độ đoan trang, ăn nói nhã nhặn, văn chương thông suốt nên có ý mừng thầm, bèn tính việc xe duyên.
Ngọc Hà thưa :
— Thưa cha, việc lương duyên tuy quan hệ, nhưng chẳng muộn gì. Con muốn cho chồng con trước khi thành gia thất phải có một địa vị nào trong xã hội đã. Xin cha nghĩ đến đường tiến thân trước.
Ngọc Lão gật đầu nói :
— Con tính như thế cũng phải. Song cha chức phận nhỏ nhen, không đủ tư cách để tiến cử hiền tế. Vậy cha có một người bạn thân hiện giữ chức Đô úy ở Thiểm Tây, nếu Bùi hiền tế chịu hạ mình đến đó, nhờ quan Đô úy tiến cử thì mới nên danh phận. Ngặt vì từ đây đến Thiểm Tây đường xa diệu vợi, chẳng biết ý con thế nào ?
Ngọc Nữ thưa :
— Việc đó không hề gì, miễn chồng con được thành danh, sau này đoàn tụ, hạnh phúc lâu dài.
Ngọc Lão rất hài lòng, liền viết bức tâm thư trao cho Bùi Độ, để sáng hôm sau Bùi Độ đến Thiểm Tây.
Bùi Độ lạy tạ Ngọc Lão, rồi lãnh thư trở về phòng riêng, mà lòng nghĩ đến việc phải xa cách Ngọc Hà, áy náy không an.
Đêm đó, Ngọc Nữ bày tiệc rượu, thết đãi Bùi Độ trọng thể chẳng khác nào buổi ban đầu. Bùi Độ gạt nước mắt nói :
— Anh muốn trọn đời ở mãi gần em, không muốn có địa vị cao sang làm chi.
Ngọc Nữ buồn bã nói :
— Làm người phải trọng đến thân danh. Nếu cứ say mê ân ái mà không nghĩ đến tương lai thì còn gì thân trai bảy thước ? Xa anh em cũng đau buồn lắm, chỉ mong sao ngày thành danh, lòng anh cũng như ngày nay không đổi khác là được. Từ đây, em đóng cửa phòng khuê, ấp mình trong chăn đơn gối lẽ, để chờ ngày anh thành đạt trở về.
Bùi Độ khóc sướt mướt.
— ý em đã muốn, anh không dám trái lời ! Nhưng lòng anh luôn luôn hướng về đất Lạc Châu này để tưởng nhớ đến em, chẳng phút nào quên.
Đêm đó, đôi trai gái tâm sự cho đến sáng, nước mắt vơi đầy, không một cái gì còn giấu giếm, bao nhiêu yêu đương được cởi mở cạn nguồn, mà coi như chưa đủ.
Mờ sáng hôm sau, Bùi Độ từ giã lên đường, thẳng tới Thiểm Tây, lòng đau như cắt.
Quan Đô úy Thiểm Tây họ Đõ tên Tâm Giao, vốn là kẻ quen thân với Ngọc Lão từ thuở còn bé. Mối tình tri âm thống thiết ! Do đó, khi được thư Ngọc Lão gởi đến, Đỗ Lão quý trọng Bùi Độ chẳng khác nào một vị tân khách.
Bùi Độ được Đỗ trưởng lão cho ở một phòng riêng, cấp cho hai kẻ hầu hạ, rồi chọn ngày về triều để vận động cho Bùi Độ được bổ dụng quan chức.
Trong thời gian vắng mặt ở Thiểm Tây, Đỗ trưởng lão giao cả công việc cho người con gái là Tiểu Oanh xử là.
Tiểu Oanh là đứa con gái duy nhất của Đỗ Đô úy, từ nhỏ đến lớn theo cha trấn nhậm khắp nơi, nên công việc văn từ đã thông thạo. Gia dĩ nàng là người thông minh đỉnh ngộ, mới mười tám tuổi đầu tài kiêm văn võ, bậc râu mày cũng ít ai sánh kịp.
Từ khi Đỗ Đô úy về triều, nàng Tiểu Oanh sớm tối thường lui tới thính đường để giải quyết các công văn, giấy má.
Một đêm kia nhằm tiết trung thu, trăng vàng rực rỡ, hoa viên trăm màu sắc phô diễn dưới bầu trời sao, Bùi Độ chợt nhớ đến Ngọc Hà, mới độ nào đây, cũng cùng chàng dạo gót dưới trăng, trăm lời tâm sự. Nay chàng tấm thân vò võ một mình, thấy trăng mà nhớ đến tình xưa nghĩa cũ, bồi hồi không sau ngủ được.
Chàng thả gót ra huê viên, dạo một vòng, mặt buồn vời vợi.
Bỗng phía tây có một ánh đèn le lói, chiếu qua khe cửa sổ. Chàng lẩm bẩm :
— Nơi đây là thính đường, mà Đỗ Đô úy đã lai kinh, còn ai ở đó ? Tại sao đêm khuya vẫn còn có ánh đèn ?
Chàng tò mò bước đến, ghé mắt nhìn vào trong. Một hình ảnh quen thuộc tự ngày nào lại diễn ra trước mắt.
Trong phòng đó, một thiếu nữ diễm kiều, vẻ đẹp như tiên nga, mắt phụng mày ngài, đang ngồi trước án thư bóc từng công văn ra xem. Thỉnh thoảng môi hồng chóm nở, vẻ uy nghi không thể tả.
Hai bên lại có hai viên lại thuộc đứng hầu. Mỗi lần xem xong một công văn, nàng cầm bút phê vào đấy, rồi trao cho hai tên thuộc hạ.
Bùi Độ say sưa, ngây ngất cả người. Chẳng những chàng say sưa vì vẻ đẹp của thiếu nữ, mà chàng còn thâm phục cái uy nghi của con người khuê tú đó.
Chàng thở dài lẩm bẩm :
— Ta những tưởng chỉ có nàng Ngọc Hà của ta là đẹp hơn cả, ngờ đâu trong thế gian này có nhiều người đẹp gấp bội. Ôi ! Trong khuê môn là cả một vũ trụ huyền bí, là cả một bầu trời thiên thai, ước gì ta được làm thân gái, để được lui tới nơi khuê môn của các quan chức, chiêm ngưỡng những nét diễm kiều của các cô tiểu thơ cho thoa? thích.
Chàng đứng đó ngắm mải, say sưa như đang chìm sâu trong men rượu tình.
Thời gian chẳng biết là bao lâu, mãi cho đến lúc nàng Tiểu Oanh xem hết các công văn, giải quyết hết mọi việc, truyền cho thuộc lại tắt đèn, và nàng trở gót về phòng, Bùi Độ mới giật mình sực tỉnh.
Bấy giờ nàng Tiểu Oanh đã tung xiêm bước ra cửa thính đường. Bùi Độ ngượng ngịu, muốn lánh mặt, nhưng chân chàng không sao bước nổi, chỉ kịp lê vài bước ra khỏi chỗ núp mà thôi.
Nàng Tiểu Oanh trông thấy bóng chàng, vội cất tiếng hỏi :
— Người là ai ? Sao đêm đã khuya còn làm gì nơi đây ?
Bùi Độ lễ mễ thưa :
— Kính tiểu thư, kẻ hèn này có tên là Bùi Độ, được quan Đô úy thương tình lưu lại tư dinh đã hơn nửa tháng nay. Vì đêm khuya chạnh lòng nhớ quê hương nên lén ra đây nhìn trăng giải muộn, chẳng may bị tiểu thư đến bất ngờ, không kịp lánh mặt.
Nàng Tiểu Oanh thấy Bùi Độ ăn nói trang nhã, tướng mạo có vẻ đoan trang, đoán chàng là con nhà thế phiệt. Vả lại lúc cha nàng lai kinh có nói cho nàng biết việc Bùi Độ, và mục đích cha nàng về triều cũng chỉ để vận động xin cho Bùi Độ được bổ dụng.
Nghe Bùi Độ nói thế, Tiểu Oanh mỉm cười bảo :
— Tôi đã được nghe công tử vốn là người ở Lạc Châu, văn tài có một. Nay đến đâychờ ngày tiến thân. Làm trai đứng ở trong đời công danh là trọng, cớ sao lại còn mang nặng tình quê hương ?
Bùi Độ nói :
— Tiện nhân từ thuở bé đến giờ chưa quen đi xa, nên trước cảnh xứ lạ quê người lòng không tự chủ được, xin tiểu thư tha lỗi cho.
Tiểu Oanh nói :
— Nếu thấy buồn xin công tử lấy việc văn chương thi phú giải khuây, việc đó còn ích lợi hơn là cứ vò võ trông tin nhà.
Nói đến đó, Tiểu Oanh nhoẻn miệng cười rồi tung xiêm bước về phòng hương, thân hình uyển chuyển chẳng khác một cánh bướm vờn hoa.
Dưới bầu trăng sáng, Bùi Độ ngây ngất nhìn theo, hình ảnh của nàng Ngọc Hà ngày nào như hiện lên trước mắt chàng, nỗi nhớ nhung tràn ngập cõi lòng người lử thứ.
Chàng không sao chịu nỗi, và cũng không thể để cho hình bóng của người khuê tú kia khuất mắt chàng. Chàng vội bước theo, đôi mắt đăm đăm nhìn vào tấm lưng ong uyển chuyển, vòng ngực nở tròn của mỹ nhân, đang vạch hoa lã lướt. Chàng thấy như muôn ngàn cánh ong bướm đang tung tăng trước mắt.
Nhưng khổ thay, cửa phong hương cách hoa viên chẳng bao xa, chỉ phút chốc mỹ nhân đã bước vào phòng, rồi cánh cửa đóng sầm lại, hình bóng mỹ nhân đâu còn nữa.
Bùi Độ thở dài, ngồi dưới gốc cây hòe than thở, những lời nói của Ngọc Hà lúc biệt ly như còn văng vẳng bên tai. Chàng khóc ! Khóc vì nhớ nhung, vì không còn thưởng thức được cái cảnh đầm ấm tự thuở nào nữa.
Đêm khuya, bốn bề lặng ngắt, ngoài tiếng dế tỉ tê, tiếng xào xạc của gió khóc hoa rơi, thì hình như chỉ còn có tiếng thở dài của Bùi Độ mà thôi.
Chàng ngồi mãi cho đến trời hừng sáng, ánh trăng đổi màu, chàng mới lê gót về phòng, áo quần ướt đẫm.
Rồi đêm nào cũng thế, cứ mỗi tối là chàng lại lén ra vườn hoa để âm thầm nhìn bóng dáng Tiểu Oanh, nhớ đến Ngọc Hà, ôm vào lòng một niềm nhớ nhung mỗi lúc một tha thiết thêm.
Tâm tư chàng trai si tình không thể nào tả hết. Lúc khóc, lúc cười, một mình trong đêm vắng. Chàng trai đó đêm nào cũng nhuốm sương, mượn hình bóng của Tiểu Oanh để tưởng tượng đến Ngọc Hà, người vợ tương lai của chàng.
Có nhiều lúc chàng đem Ngọc Hà so sánh với Tiểu Oanh thì thấy mặc dầu Ngọc Hà đượm tình nghĩa sâu, nhưng cái đẹp lộng lẫy còn kém Tiểu Oanh mấy bực.
Thế là Bùi Độ, chàng trai bán dầu học đòi phong lưu kia, chẳng biết vì nhớ Ngọc Hà hay vì say nhan sắc Tiểu Oanh mà đêm nào cũng lén ra vườn hoa, thật khó lòng biết được.
Mãi mấy đêm trường, lòng Bùi Độ nóng nung như đốt, còn Tiểu Oanh đêm nào cũng thấy vẽ mặt âu sầu của Bùi Độ nơi hoa viên, áy náy không yên. Nàng muốn tìm cách giúp cho Bùi Độ giải khuây nên một hôm bảo chàng :
— Mỗi đêm công tử ra huê viên nhìn trăng than thở chỉ thêm buồn và hại sức khỏe. Thôi thì từ nay, mỗi tối công tử nên đến thính đường, xem tôi giải quyết công việc, đọc giúp cho tôi các công văn còn ích lợi hơn. Một là để công tử quên sầu bớt nhớ, hai là để cho công tử quen dần việc quan, mai sau nhậm chức khỏi qua một thời gian bỡ ngỡ.
Bùi Độ đang mong ước được dịp gần mỹ nữ, nay nghe Tiểu Oanh nói như vậy có khác nào kẻ sắp chết đói được bữa ăn, chàng vui vẽ nhận lời :
— Được tiểu thư chiếu cố, kẻ hèn này nguyện đổi buồn làm vui để theo hầu hạ tiểu thư.
Thế là từ đấy, hàng đêm Bùi Độ quần áo chỉnh tề, dung nghi chải chuốt đến thỉnh đường ngồi song song với Tiểu Oanh để xem các văn án.
Việc đó quả đã làm cho Bùi Độ vơi sầu. Lòng nhớ nhung Ngọc Hà mỗi ngày một dịu đi. Tuy nhiên, lòng chàng lại tràn ngập lòng yêu mến Tiểu Oan. Vắng Tiểu Oan, chàng không chịu nỗi.
Qua một thời gian, Bùi Độ lại được phong thư của Đỗ Đô úy từ Kinh đô gởi về, tin cho biết chàng sắp được triều đình bổ dụng vào chức huyện quan, một ngày gần đây phải lên đường đi trấn nhậm. Công việc của chàng đã lo xong, nhưng quan Đô úy còn ở nán lại kinh đô thù tiếp mấy người bạn thân chưa về ngay được.
Tin ấy làm cho Tiểu Oanh mừng vô hạn, nói với Bùi Độ :
— Đường công danh công tử đã may mắn đạt được. Ngày gần đây công tử phải nhậm chức rồi.
Bùi Độ nghĩ đến ngày ra làm quan phải xa cách Tiểu Oanh, lòng không vui. Nhưng nhớ đến lời nói của Huỳnh Liên, gã thầy tướng thuở nọ, chàng khâm phục vô cùng, và thầm nghĩ :
— Ta đã có địa vị giàu sang trong xã hội như thế này thì việc gần gũi người đẹp không khó nữa. Vả lại trong trời đất, gái nữ lưu khuê tú đâu đâu chẳng có. Biết đâu, sau này ta còn gặp được người đẹp hơn Tiểu Oanh nữa.
Thế là mộng quan sang đã chiếm cả cõi lòng Bùi Độ, làm cho Bùi Độ nhìn thấy trước mắt chàng một bầu trời thăm thẳm, trong đó là một cõi thiên đàng, và những gì dĩ vãng chàng đều quên mất hết.
Một ngày kia, Bùi Độ giã từ Tiểu Oanh, trở về làng cũ để thăm viếng Huỳnh Liên, đồng thời cũng để tạ Ơn Huỳnh Liên đã cho chàng biệt được tướng quan sang ấy.
Tiểu Oanh nói :
— Xin công tử hãy mau mau trở lại đây để tiếp nhận chỉ dụ của Thánh Thượng, kẻo thân phụ tôi về đây mà không thấy công tử ắt quở trách.
Bùi Độ nói :
— Tiểu thư chớ lo ! Tôi chỉ đi một thời gian ngắn sẽ trở về ngay.
Với khăn gói đầy vàng bạc, với mộng cao sang tràn ngập cõi lòng, nét mặt Bùi Độ tươi vui trẩy bước về làng cũ.
Chẳng mấy hôm, chàng đã đến đầu chợ tìm gặp Huỳnh Liên.
Gã Huỳnh Liên râu quặp vẫn còn làm nghề tướng số như thuở nào. Vừa thấy mặt, Bùi Độ đã vồn vã nói :
— Này thánh nhân ! Tôi sắp được bổ dụng quan chức rồi đấy. Lời nói của thánh nhân ngày nào thật đúng lắm.
Huỳnh Liên nhìn nét mặt Bùi Độ rồi âu sầu bảo :
— Anh phải là người bán dầu thuở xưa không ?
Bùi Độ nói :
— Đúng vậy ! Và là một quan chức trong tương lai đó.
Huỳnh Liên lắc đầu nói :
— Không không ! Tướng chết đói của anh ngày nào lại xuất hiện như cũ. Kìa, đường vạch chạy xéo nơi miệng kia thì dầu giàu có đến đâu cũng không tránh khỏi.
Bùi Độ trợn mắt hét :
— Lão chớ nói bậy ! Ta hiện được triều đình bổ dụng làm quan ! Trước kia ta nghèo khổ có thể chết đói, còn ngày nay ta đang vinh hiển kia mà !
Huỳnh Liên chỉ mỉm cười khinh bỉ. Bùi Độ không vui, bỏ đi và nghĩ :
— Được ! Lão này chỉ nói bậy. Đợi lúc ta có đủ quyền hành trong tay sẽ bắt lão trị tội, nhốt vào ngục không cho ăn xem ai chết đói cho biết.
Chàng hậm hực trở về Thiểm Tây, đến dinh quan Đô úy họ Đỗ.
Bấy giờ quan Đô úy đã trở về mang sắc dụ của nhà vua bổ dụng Bùi Độ làm quan huyện ở Hà Lạc.
Bùi Độ liền sửa soạn hành trang, từ giả cha con Đô úy Thiểm Tây đến đó trấn nhậm, với mộng là sẽ tìm cho mình một tuyệt thế giai nhân, để tận hưởng trong ngày xuân xanh bù lại những ngày nhớ nhung khao khát.
Lòng dục đã khiến anh chàng bán dầu lang thang trước kia đổi tánh.
Chỉ một thời gian ngắn, Bùi Độ đã dùng quyền hành mình lục lạo khắp nơi trong huyện, tìm đến những danh gia phú hộ để kiếm giai nhân.
Khổ thay, các mỹ nữ khuê môn trông thấy tư cách của Bùi Độ là kẻ si tình đốn mạt đều khinh bỉ, chẳng ai chịu hòa thân.
Bùi Độ uất quá, nghĩ mình địa vị cao sang, giàu có rất mực, thế mà nữ nhi không phục tùng, chàng dùng quyền hành ép buộc, cưỡng bức.
Trong lúc đó, thì nàng Ngọc Hà ở tại huyện nhà, ngong ngóng tin chồng, những mong đến ngày vinh thân chàng sẽ về thăm để tỏ tình chỉ thắm.
Nào ngờ, mỗi ngày mỗi bặt tin. Đến lúc sau, nàng được biết Bùi Độ đã đến trấn nhậm Hà Lạc, giữ chức huyện quan. Nàng muốn tìm đến. Nhưng than ôi ! bấy giờ tiếng đồn đã rộn bên tai, Bùi Độ đã trở thành người bất liêm bất chính, cậy thế cậy quyền, hiếp đáp dân lành.
Nàng Ngọc Hà quá đau lòng tủi phận, cố lòng đến đó một phen để dò xét cho tận mắt. Nhưng Ngọc Lão còn ngờ chưa dám cho nàng đi, chỉ sai người đến dọ thám trước xem sao đã.
Thời gian chưa bao lâu, đã có tin về báo :
— Quan huyện Hà Lạc vì hiếp đáp gái lành, nên bị dân chúng kiện thưa, quan trên cách chức, và triệu về kinh để trị tội rồi !
Thật vậy, tin ấy chẳng lầm ! Hành động cuồng si của Bùi Độ đã làm chấn động khắp nơi, do đó chàng bị cất chức.
Bùi Độ tự biết mình không thoát khỏi tội nên chẳng dám về triều, trốn vào rừng núi.
Rồi một ngày kia, không có cơm ăn, đói khát, hơn nữa đã thất bại trên đường đời, Bùi Độ không còn muốn sống nữa, chàng nằm trên mặt tảng đả, chết giữa một cánh rừng hoang vu.
Nàng Ngọc Hà đau lòng quá, không biết tin tức của chồng ra sao, vội lén cha về kinh để được gặp tận mặt Bùi Độ.
Nhưng khổ thay, nàng về kinh tìm hỏi suốt tháng trời, vẫn không biết được. Sau đó, nàng mới được tin : “Quan huyện Hà Lạc đã sợ tội bỏ trốn rồi, không dám về kinh trần tố”.
Nàng thất thểu ra đi, hết nơi này đến nơi nọ, hỏi thăm mãi vẫn chẳng thấy bóng chồng. Sáu tháng trời trôi qua, Ngọc Hà đi từ huyện này sang huyện khác, mỏi gối chồn chân, quần áo rách nát, tấm thân tiều tụy tưởng không còn bút nào tả nổi. Nàng khóc đã cạn nước mắt mà nỗi buồn chưa vơi.
Một hôm, nàng đi qua khu rừng vắng, thấy có một bộ xương khô của ai đã chết rũ tự bao giờ. Nàng ngờ đó là bộ xương chồng, nên ngồi đó khóc mãi. Bao nhiêu giọt lệ thừa nhỏ xuống rưới trên đống xương tàn quyết trả nghĩa cho chồng.
Đau đớn thay ! Một người đàn bà có nghĩa như vậy lại vướng phải kẻ vô tình như Bùi Độ, quả đã uổng đời hồng nhan.
Chẳng biết nắm xương khô của Bùi Độ có vì giòng nước mắt chân thành kia mà ân hận nơi chốn suối vàng chăng.
Ngọc Hà khóc đến mấy ngày đêm, sau đó vì quá đau đớn, buồn duyên tủi phận, nàng đã ngất xỉu trên đống xương khô kia, và chết tại đấy.
Ôi ! Hồng nhan bạc mệnh thay !
HẾT
Có 2 thành viên đã gửi lời cám ơn đến Lăng Độ Vũ vì bài viết hữu ích này: