|
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
|
|
|
|
|
Tâm trạng:
|
|
|
THẦN THÁI QUANG TRUNG
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
|
Cho đến nay, chúng ta chưa biết đích thực về diện mạo, thần thái của Hoàng Đế Quang Trung, mà chỉ cảm nhận được một Quang Trung có thật qua sử sách. Đó là hình ảnh “Quang Trung giả” do một hoạ sĩ truyền thần được vua Càn Long sai vẽ nhân dịp giả vương Phạm Công Trị đến Bắc Kinh năm 1790.
Ảnh Quang Trung (giả) cưỡi ngựa trắng, mang binh giáp được in trong tập Mãn Châu cổ hoạ của Trung Quốc (1) cũng nhân vật Phạm Công Trị đó, vào năm 1789 đã từng đóng giả vương Quang Trung ra Thăng Long nhận sắc phong của nhà Thanh.
Khi trở về Trung Quốc, hai viên sứ thần mang sắc phong sang nước ta, đã viết thư cho Quang Trung có nhận xét rằng: “Tôi mơ màng vẫn thấy quy mô, khí tượng của quốc vương vượt hơn người thường, nhưng khi về bắt chước lệ người xưa mà tặng quốc vương bằng những lời nói kể trên” (2)
Một nguồn tài liệu khác để chúng ta hình dung được thần thái của Quang Trung là những lời nói, nhận xét cửa đối phương đã từng trực tiếp diện kiến Quang Trung như các quan lại Lê - Trịnh, các giáo sĩ phương Tây đương thời hoặc các sử gia triều nhà Nguyễn về sau. Nhưng dù sao đó cũng là nguồn tư liệu có ích nếu chúng ta biết gạn lọc loại trừ những thiên kiến, chủ quan, những động cơ chính trị xấu xa.
Sách Đại Nam chính biên Liệt truyện của triều Nguyễn chép: “Huệ tiếng nói như chuông, mắt lập loè như ánh điện, là người thông minh giảo hoạt, giỏi chiến đấu, người người đều kinh sợ” (3).
Một quan viết sử dưới thời Nguyễn cũng đã chép: “Huệ tóc quăn, mặt đầy mụn, có con mắt nhỏ, nhưng cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn, ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu, lúc lâm trận thì thế thắng uy anh hùng lẫm liệt, cho nên mới bình định được phương Nam, dẹp phương Bắc, tiến đến đâu thì không ai hơn được” (4).
Óc thông minh đó sẽ làm nên sự nghiệp lớn, tiếng nói sang sảng như chuông sẽ là lệnh truyền hiệu nghiệm đầy sức thuyết phục, với đôi mắt như ánh điện, “thay được đèn” soi sáng cả chiếu vào lúc ban đêm, có thể xuyên thấu mọi tâm can sâu thẳm của mỗi con người, của đối phương nên đã làm “người người đều kinh sợ”. Cái “nhãn quang” đó cùng bộ óc thông minh của ông đã làm nên sự nghiệp phi thường như lịch sử đã ghi lại.
Trong một tờ dụ của vua Càn Long vào năm 1790 có nhận xét về Quang Trung như sau:
“Nguyễn Quang Bình dụng tâm chu đáo có thể trấn phủ được phương Nam và thừa thụ hậu ân của Trẫm lâu dài thật đáng khen” (5) . .
__________________________
(1) In lại trong tạp chí Đông Thanh của Việt Nam, số năm 1982.
(2) Trích trong Đại Việt quốc thư, Sài Gòn, dịch 1967, tr.167.
(3) Quyển 30,t. 17b
(4) Tây Sơn thuật lược, Tạ Quang Phát dịch, tập san Sử Địa, số 9, Sài Gòn, tr.165.
(5) Đại Nam thực lục, Q. 1345, t. 17b.
Các tác giả trong Hoàng Lê nhất thông chí đều thừa nhận Quang Trung là: “Người thông minh quyết đoán” (1).
Hình ảnh Nguyễn Huệ ra Thăng Long diệt quân Trịnh vào năm 1786 được ghi lại trong Minh đô sử: Văn Huệ mặc áo ngân giáp, đầu đội mão thêu đỏ, thúc hai đội quân Thiết đột xông thẳng vào quân Phùng Cơ, quân Phùng Cơ đang ăn cơm không kịp sắp hàng ngũ, đành vỡ tan. Văn Huệ tiên quân đền bên Tây Long ngồi đĩnh đạc trên chiếc tấm ván cao trong thuyền, dung mạo hùng vĩ, nhung phục chỉnh tề. Các tướng sĩ đứng vòng hai bên tả hữu trông thấy ai cũng nói: Bắc Bình Vương là vị thần sông vậy. Rồi cùng nhau tấm tắc khen ngợi mãi không thôi. (2)
Lúc Nguyễn Huệ vào kinh đô Thăng Long, vua Lê sai các quan lần lượt đến yết kiến. Thấy thần sắc của Bắc Bình Vương rực rỡ, nghiêm nghị, ai cũng run sợ, hãi hùng (3).
Ngô Cao Lãng có ghi chi tiết về Nguyễn Huệ vào năm 1786 như sau: “Vua Hiển Tông cho các quan văn thần Nguyễn Hoàn, Phan Trọng Phiên, Trương Đăng Quỷ, Uông Sĩ Lãng, Trần Công Xá n và Như Công Chẩn chầu hầu, tuỳ theo sự việc mà thù ứng với Huệ. ‘
Chẩn từ chối lấy cớ có tật, bọn Hoàn, Phiên, mỗi khi gặp Huệ thì khiếp sợ nép xuống đất, (khi hỏi) đối với mọi việc thì chỉ à uôm, không có ý kiên gì” (4).
Năm 1787, Lê Chiêu Thống triệu tập các đại thần đến Thăng Long bàn việc cắt cử người vào Phú Xuân xin lại đất Nghệ An, các quan lại nhà Lê đã có những nhận xét về Nguyễn Huệ được Hoàng Lê nhất thông chí thuật lại như sau:
Lê Chiêu Thông nói:
- Đến như trấn Nghệ An, thì chỉ cần sai một sử giả đem quốc thư sang bàn bạc với họ, một lời nói là xong. Ta cùng họ là thông gia, ta cũng không cần lo xa làm gì.
Quan Ngự sử Nguyễn Đình Giản nói:
- Xưa nay tình hình hoà hảo thông gia nói chung đều không thể tin cậy. Chỉ cớ bằng vào trước tự cường của mình làm, cho bờ cõi được vững chắc, ngăn chặn được sự dòm ngó của kẻ địch, như vậy mới tin cậy được. Bắc Bình Vương là bậc anh hùng, xem thường ông ta không được đâu.
Nguyễn Hữu Chỉnh nói:
- Tôi đã từng làm việc với ông ta, há lại không biết. Ông ta quả thật là bậc anh hùng, những nhân tài xứ Bắc ta đây cũng không thua lắm. Vạn nhất xảy ra việc binh đao tôi xin chọi với ông ta, còn như bọn Vũ Văn Nhậm thì không đáng kể.
Triều thần đề nghị Nguyễn Đình Giản và Phạm Đình Dư đi Phú Xuân, Phan Lê Phiên phản đối ngay và nói:
- Bắc Bình Vương là người rất quỷ quyệt, hay dùng mưu khôn để lung lạc người ta. Trong lúc bàn bạc, khi ném xuống, khi nâng lên, không biết đường nào mà dò. Thần sợ hai người ấy tranh biện với ông ta thế nào rồi cũng làm hỏng việc.
Sau mấy ngày bàn mãi với không tìm ra được người có thể thi thố ngoại giao được với Nguyễn Huệ, Nguyễn Hữu Chỉnh đề nghị với Trần Công Xán. Sở dĩ Chỉnh đề nghị Xán đi gặp Nguyễn Huệ vì đã một lần Chỉnh bị phách lạc hồn xiêu trước “đôi mắt thần” của Nguyễn Huệ. Đó là vào năm 1786, lúc mới chiếm xong Thuận Hoá, Nguyễn Hữu Chỉnh đề nghị với Nguyễn Huệ nhân thế thắng ra đánh luôn Thăng Long. Nguyễn Huệ đáp:
_____________________
(1) Tập II, 1984, tr. 43
(2) Minh đô sử, Q. 32, bản chép của Viện Sử học.
(3) Hoàng Lê nhất thống chí, tập II, 1984, tr. 43.
(4) Lịch triều tạp kỷ, tập II, 1975, tr. 380
- Bắc Hà là một nước to lớn, có nhiều người tài, lời xưa có nói: “Con ong có nọc” khá có thể khinh thường được ư?
Chỉnh nói:
- Người tài Bắc Hà chỉ có một Chỉnh này thôt. Nay tôi đã đi rồi, ấy là cả nước rỗng không, xin Ngài chớ có nghi ngại .
Nguyễn Huệ vôn khéo dùng ngôn ngữ để bẻ người liền đùa rằng:
- Không nghi ngại người nào thác, chả hoá ra chỉ có ông là đáng nghi ngại thôi ư?
Như soi thấu tâm địa hắc ám của Chỉnh, Chỉnh tái mặt tạ rằng:
- Sở dĩ tôi nêu lên cái ngu hèn của mình như thế, chẳng qua cũng chỉ để nói quá rằng, nước tôi tuyệt nhiên không có người tài đấy thôt.
Biết Chỉnh lo sợ nên Nguyễn Huệ an ủi mấy câu để Chỉnh an lòng.
Đối với Trần Công Xán, vào năm 1786, khi Nguyễn Huệ ra Thăng Long, các đại thần nhà Lê được mời ra kiến diện với Nguyễn Huệ, ai cũng run sợ trước uy phong lẫm liệt và tài lý luận sắc bén của Nguyễn Huệ chỉ trừ có Trần Công Xán.
Hoàng Lê nhất thông chí thuật lại như sau:
Trong khi ai cũng hãi hùng run sợ, riêng Xán thì tiến thoái như thường, không mất phong thể của bậc đại thần. Bắc Bình Vương lấy làm lạ, đã mấy lần mời Xán đế hỏi việc Bắc Hà. Hỏi đến đâu Xán đáp đến đó, nói như suối chảy, không có chỗ nào ngập ngừng, ấp úng.
Có lúc Bắc Bình Vuông cố ý hỏi vặn, nhưng Xán vẫn lật qua lật lại, tranh cãi nhiều lần, không mảy may chịu sự khuất phục.
Bắc Bình Vương bảo với tả hữu rằng:
- Ta nghe Bắc Hà nhiều nhân tài, nay đến tận nơi thì chỉ thấy có Trần Công Xán là có khí sắc con người mà thôi.
Xán làm thượng thư bộ Hình, rồi lãnh chúc Đồng binh chương quân quốc trọng sự. Vốn là thầy dạy học của Chỉnh nên Chỉnh rất trọng, việc gì Chỉnh cũng bàn với Xán, chờ ý kiến quyết định của Xán.
Xán bảo với Chỉnh:
- Bắc Bình Vương là người hiểm sâu khó lường, chuyến đi này vị tất ông ta đã nghe theo, nhưng tôi đã vâng mệnh vua thì cứ liệu chiều biện luận, liều chết mà cãi.
Và quả thật, lúc vào Phú Xuân, Xán đòi lại đất Nghệ An cũng không thành. Nguyễn Huệ trọng tài của Xán ra sức thuyết phục Xán về với Tây Sơn cũng không được, cuối cùng Xán phải chết để bảo vệ bí mật của Phú Xuân.
Việc đòi lại đất Nghệ An không thành, Chỉnh vừa bị mất lòng tin vừa bị mất cả thầy nên tự biện bạch rằng:
- Bắc Bình Vương là người anh hùng hào kiệt ở miền Nam ta cũng không thua. Hắn quỷ quyệt hơn ta, nhưng ta khôn ngoan hơn hắn. Năm trước ta thường cộng sự với hắn, nên ngày nay ta nhường hắn một nước cờ.
Ở Phú Xuân, sau khi đã ém nhẹm được vụ Trần Công Xán, Nguyễn Huệ đưa quân vào Quy Nhơn đế kịp dập tắt cuộc nội biên nguy hiểm. Trở lại Phú Xuân, Nguyễn Huệ có thái độ kiên quyết đối với Nguyễn Hữu Chỉnh. Một đại hội tướng sĩ được mở tại Phú Xuân vào năm 1787, Nguyễn Huệ tuyên bố rằng:
- Nguyễn Hữu Chỉnh là người đã chết, ta lại vẽ mặt vẽ mặt cho, nay hắn bay nhảy ở Bắc Hà, phò vua Lê để sai khiến cả nước. Đã không lo đền đáp ơn ta mà còn định cắn lại, mưu đồ giành lại đất Nghệ An đặt làm một trấn. quan trọng để bắt chước chúa Trịnh xâm lấn phương Nam ngày xưa. Thằng giặc ấy đáng giết, không biết hắn đã sắp sẵn bao nhiêu binh mã, có thể đánh nhau với ta được một trận không.
Thế là Võ Văn Nhậm tức tốc được cử ra Thăng Long để thực hiện mệnh lệnh của Nguyễn Huệ. Nhưng khi giết xong Chỉnh, Võ Văn Nhậm lại có mưu đồ thoán đoạt Bắc Hà, Ngô Văn Sở báo về Phú Xuân, Nguyễn Huệ nói với tướng sĩ rằng:
- Thằng Võ Văn Nhậm đáng chết thật, ta vẫn biết thế nào hắn cũng làm phản, quả nhiên không sai. Lúc đó có lời bàn ra, tiếng vào. Nguyễn Huệ quát to:
- Rắn độc cắn tay, tráng sĩ mất vế, anh hùng làm việc nhưng không thể ngờ đền tiêu danh, tiêu nghiệp. Nếu cứ lằng nhằng nghe những lời nói suông có hại cắn rốn không kịp. Các ngươi không biết, những người thô bạo, đảm to như báo, làm việc rất độc.
Rồi mật dụ cho các tướng sĩ rằng:
- Hễ ai nói ta có mặt trong chuyến hành binh này sẽ cắt lưỡi ngay.
Nói xong, liền hạ lệnh ra Bắc, thúc tướng sĩ đi suốt ngày đêm, không đầy 10 ngày đã đến Thăng Long (1)
Nhật ký của Giáo hội Bắc Kỳ có ghi lại sự việc như sau:
"Bắc Bình Vương tiến rất mau, cầm đầu một đại binh cùng đoàn hộ giá gồm 150 con voi, 100 người nằm võng, rất nhiều kiệu sơn son thiếp vàng lộng lẫy (một cái dành cho Nguyễn Huệ, một cái dành cho Ngọc Hân).
Ngày 2 tháng 5 (l788), tôi nghe tin Bắc Bình Vương còn cách trụ sở của tôi một ngày đường. Ngày mồng 7, tôi được biết ông vào kinh thành từ sáng mồng 4, nhưng không lộ vẻ vui tươi gì. Có người nói rằng quan Tiết chế Võ Văn Nhậm có ra đón ông ở một địa điểm cách xa thủ đô với ve nể sợ, nhưng thực ra cố ý định chặn đứng và tấn công ông nhưng thấy ông được bảo vệ kỹ lưỡng quá, nên Tiệt chế giả vờ vui vẻ như không có ý gì. Dù sao Bắc Bình Vương cũng cho người bắt ông túc khắc. Sáng hôm sau, ngày 5 tháng 5, ông bị trói dẫn ra pháp trường và bị bắt quỳ ở đó cho công chúng xem, phơi mình dưới cái nắng gay gắt của mặt trời. Ngày hôm sau ông bị xử trảm. Đó là vận mệnh xứng đáng cho những kẻ khát máu đã từng gieo tang tóc cho Tổ quốc nói chung và Bắc Kỳ nói riêng" (2).
Diệt xong Võ Văn Nhậm, giao Bắc Hà lại cho Ngô Văn Sở và Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Huệ trở về Phú Xuân, và cũng là lúc mẹ của Lê Chiêu Thống sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh. Những ngày cuối đông 1788, quân Thanh ồ ạt vào Thăng Long. Tuy là một cung nhân triều Lê nhưng đã có nhận xét khá xác đáng về Nguyễn Huệ, khi đối đáp với mẹ của Lê Chiêu Thống.
____________________
(1) Minh đô sử, Q. 40.
(2) Tài liệu Nha Văn khố quốc gia Paris F.5. A. 22, tr. 226 - 227.
- Không biết Nguyễn Huệ là tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân, xem hắn ra Bắc vào Nam ẩn hiện như quỷ thần không ai có thể lường biệt. Hắn bắt Nguyễn Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Võ Văn Nhậm như giết một con lợn. Không một người nào dám nhìn thẳng vào mắt hắn, thấy hắn trở tay, đưa mắt, là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu sợ hắn hơn sợ sấm sét, e rằng chẳng mấy lâu nữa hắn lại trở ra. Tổng đốc họ Tôn đem thứ quân nhớ nhà kia mà chống chọi thì địch sao nổi Họ chẳng qua chỉ là người khách. Chuyên này xem sự thể khó hay dễ liệu bề tiến lui mà thôt. Nhưng còn nhà nước của ta thì sao? Thái Hậu có thể chạy sang Trung Hoa một chuyến nữa không? (1)
Và quả thật, vua Quang Trung đã trở lại Bắc Hà, và hình ảnh của ông trên chiến trường Thăng Long trong những ngày đầu xuân Kỷ Dậu (1789) được ghi lại như sau:
Ngày 30 tháng 1 (1789), Quang Trung rời Kẻ Vôi trên lưng voi và đến chung sức, khuyến khích đội ngũ ông, nhưng khi thấy họ chiên đấu không được hăng hái lắm, ông liền bỏ roi và dùng ngựa. Theo lời đồn, ông đeo hai thanh kiếm chạy ngang dọc, đã chém rơi đầu nhiều tướng tá và binh lính Trung Hoa làm rất nhiều người chết dưới tay ông, ông luôn miệng hô xung phong và lúc nào ông cũng có mặt ở tuyên đầu của trận chiến. (2)
Nhưng khi cần trí tuệ lớn cho công việc xây dựng đất nước thì Quang Trung luôn kiên trì, thuyết phục khiêm tốn, kính trọng trí thức, nhưng cương quyết, rõ ràng, ân uy, công tội cũng phân minh. Lấy trường hợp về mối quan hệ giữa Quang Trung và Nguyễn Thiếp làm dẫn chứng.
Trong bức thư ngày 10 tháng 8 năm Thái Đức thứ 10 (1787), Nguyễn Huệ đã đề cao Nguyễn Thiếp như vị thánh sống của thiên hạ mà ví mình như cậu học trò bé nhỏ của phu tử, thư có đoạn viết: “Mong phu tử nghĩ đến thiên hạ với sinh dân, vụt dậy mcì đi ra, để cho Quả Đức có thầy mà nhờ, cho đời nay có người mà cậy, như thế mới ngõ hầu khỏi phụ ý trời sinh ra kẻ giỏi” (3).
Tiếp đó, bức thư đề ngày 13 tháng 9 (1787), Nguyễn Huệ có lời lẽ như sau:
"Từ lúc khởi binh đến nay, thân trải trăm trận, sùng chuộng võ uy, chưa chắc đã làm việc bất nghĩa, giết kẻ vô tội để lấy được nước. . .Nhưng gánh lấy việc binh dân rất nặng nề, công việc xếp đặt rất bề bộn, sụ làm đúng hay sai quan hệ không phải là, nhỏ. Nên suốt ngày, Quả Đức không dám rời ra một bước, nên đã không thân hành đến cửa tiên sinh mà đón. Mong phu tử xét soi cho tấm lòng thành vụt dậy mà đổi bụng, lấy lòng vì Nghiêu, Thuẫn quân dân mà ra dạy bảo giúp đỡ, Quả Đức xin ân nghe lời dạy bảo, khiến cho Quả Đức thoả được lòng ao ước tìm thầy và đời này được nhờ khuôn phép thế thì may lắm” (4).
Trong bức thơ đề ngày 18 tháng 3 (1787) do Cẩn Tín hầu Nguyễn Quang Đại trực tiếp mang đến tận nhà Nguyễn Thiếp, toàn văn bức thư như sau:
“Gửi cho La Sơn phu tử được hay.
Nay thiên hạ khôn khổ, không cùng phu tử mà cứu gỡ thì không biết cùng ai.
Quả Đức thân hành qua hạt. Đặc sai quan binh phiên phó tri phiên Cẩn Tín hầu Nguyễn Quang Đại lại vấn an mà mời phu tử tới, ngõ hầu được nghe lời phu tử bảo, thế là may cho Quả Đức và may cho cả thiên hạ lắm”. (5)
Nguyến Thiếp có chấp nhận cuộc hội kiến này của Nguyễn Huệ ở Phù Thạch nhưng không thoả mãn yêu cầu của Nguyễn Huệ đưa ra.
Cuộc hội kiến này, trong gia phả của họNguyễn do con cháu của Nguyễn Thiếp lưu giữ có ghi lại như sau:
__________________
(1) Hoàng Lê nhất thông chí, tập II, tr. 1175.
(2) Nhật ký giáo hội truyền giáo Đàng Ngoài, tài liệu Hội truyền giáo ở Paris.
(3) Hoàng Xuân Hãn, La Sơn phu tử, Mình Tân, Paris, 1952, tr. 105.
(4) (5) La Sơn phu tử, tr. 109, 107.
Nguyễn Huệ trách:
- Đã lâu nay nghe đại danh, ba lần cho tới mời, tiên sinh không thèm ra, ý tiên sinh cho Quả nhân là thằng giặc nhỏ, không đủ làm kẻ anh hùng trong thiên hạ chăng?
Nguyễn Thiếp trả lời:
- Hơn hai trăm năm nay, quyền về tay họ Trịnh hung bạo, Vương mới đưa quân ra một lần mà dứt ra được, lập lại nhà Lê, với danh nghĩa chính thì anh hùng ai lại không theo. Nếu giả tiếng nhân nghĩa nói dối tôn vua để lấy tiếng thì hoá ra là một kẻ gian hùng.
Huệ đổi sắc mặt, ngồi dịch ra và tiếp đãi rất trọng.
Nguyễn Thiếp không ra cộng tác bởi vì cụ hiểu quá rõ cái danh nghĩa “phò Lê” của Nguyễn Huệ. Cụ đã thẳng thắn nói lên điều mà không một ai dám nói trước Nguyễn Huệ, nhưng vì quý trọng một nhân tài, Nguyễn Huệ vẫn kiên trì thuyết phục và trân trọng đối với cụ.
Cụ đã từ chối việc cộng tác với Tây Sơn, từ chối việc coi đất để đóng đô ở Phù Thạch, cụ cho xứ Nghệ đất xấu, dân nghèo. Không những thế, cụ còn lên giọng dạy bảo Nguyễn Huệ, nhưng Nguyễn Huệ không phật lòng, tự ái, một mặt kiên trì mời cụ ra giúp nước, cứu dân.
Nguyễn Huệ có chiếu cho La Sơn phu tử như sau: “Ngày 19 tháng 6 năm nay, ta thấy tờ khải của Phu tử. Trong ấy có nói rõ địa thế nên chăng và mọi tình trạng sinh dân đau khổ lại lấy danh ngôn và sự tích của cổ nhân mà răn dạy ta, lời bàn ấy như liều thuốc hay, rất xứng với ý ta”
Khâm sai đặc chiếu.
Ngày 19 tháng 6 năm Thái Đức thứ 11" (1788).
Nhờ bỏ nhiều công sức, dẹp lòng tự ái, sự kiên trì nên Nguyễn Huệ đã được một trí thức tầm cỡ của xứ Nghệ ra cộng tác. Nguyễn Thiếp đã giúp Nguyễn Huệ coi đất Cổ Bi (Gia Lâm), xây dựng Phượng Hoàng trung đô (Nghệ An) và làm Viện trưởng Sùng Chính thư viện.
Quang Trung rất trọng nể Nguyễn Thiếp, nhưng cũng không vì thế mà tin dùng một cách mù quáng. Quang Trung đã quỳ xuống để mời Nguyễn Thiếp ra giúp nước, lợi dân. Nhưng nếu công việc được giao mà Nguyễn Thiếp làm qua loa vô trách nhiệm thì cũng vì lợi dân, ích nước mà Quang Trung phải phê phán nghiêm khắc, thưởng phạt công minh.
Chúng ta xem Nguyễn Thiếp chịu trách nhiệm dịch các thư sách ra tiếng Nôm ở Viện Sùng Chính. Ngày 14 tháng 4 năm nhuận năm Quang Trung thứ 5 (1792), vua Quang Trung đã truyền cho La Sơn phu tử rằng:
“Nguyên năm ngoái có chú thích các sách tiểu học xem ra thấy âm nghĩa sơ sài, thô lược, chưa xứng đáng với thượng chỉ. Còn về việc diễn nghĩa Tứ Thư thì hẹn rằng mùa xuân năm tới làm chậm. Truyền cho phải mau chóng chú thích âm và nghĩa, đóng thành bản gửi về để ngự tiến. Phải nên gia ý việc thích âm thiết cho tinh mật chớ làm thô lược lạo thảo như kỳ trước
Nhờ có lời phê bình thẳng thắn và nhắc nhở đó mà chỉ một tháng sau (tháng 5) các sách Tứ thư đã dịch xong, đóng thành 32 tập gửi vào Phú Xuân. Nhận được sách, Quang Trung lấy làm thích, liền ban chiếu khen ngợi La Sơn phu tử cùng những người giúp việc và ban thưởng tiền.
Tờ chiếu viết:
“Chiếu cho Sùng Chính viên Viện trưởng La Sơn Nguyễn Khải Xuyên được biết:
Nguyên kỳ trước diễn dịch xong các sách tiểu học đã đệ tiến nộp. Kỳ này diễn dịch Tứ thư đã xong, cộng thêm 32 tập. Trấn quan đã chuyển để về kinh tiến nộp. Trẫm đã từng xem tiên sinh giảng bàn phu diễn kể đã chăm chỉ, những viên giúp rập là Nguyễn Công, Nguyễn Thiện, Phan Tô Định, Bùi Dương Lịch đều có công.
Vậy ban thưởng cỗ tiền 100 quan, cho trấn quan chiếu theo mà cấp, lĩnh để chung hưởng ân tứ. Khi xong việc bốn bề, Trẫm nghỉ ngơi, vui ý đọc sách, Tiến sinh học vấn uyên bác, nên vì Trẫm mà phát huy những ý thư, khiến cho bổ ích thêm.
Quang Trung năm thứ 5, ngày 1 tháng 6 năm 1792”.
Đấy là một trong những biểu văn cuối cùng của Hoàng đế Quang Trung đã thể hiện một thái độ một cách nhìn, một phương thức trị nước và nghệ thuật dùng người nhất quán trong suốt cuộc đời làm chính trị của Nguyễn Huệ - Quang Trung.
|
|
|
|
|