PDA

View Full Version : Dịch Cân Kinh ( Võ Lâm Chí Tôn)


Bach-Dien-Thu-Sinh
19-02-2003, 10:45
Phương pháp luyện Dịch Cân Kinh
Đầu tiên là nói về tư tưởng:
- Phải có hào khí, nghĩa là phải có quyết tâm luyện tập cho đến nơi đến chốn, vững vàng, tin tưởng không vì lời bàn ra tán vào mà chán nản bỏ dở.
- Phải lạc quan, không lo sợ đang mang bệnh mà mọi người gọi là hiểm nghèo, phải tin tưởng rằng mình sẽ thắng bệnh do việc luyện tập Dịch Cân Kinh.
Tư thế:
1) Lên không, xuống có: Trên phải không, dưới nên có. Đầu treo lơ lửng, miệng không hoạt động, bụng phải mềm, lưng thẳng, thắt lưng mềm dẻo, hai cánh tay phải vẫy, cùi chỏ thẳng và mềm, cổ tay mềm, hai bàn tay ngửa ra phía sau xoè ra như cái quạt. Trong khi vẫy, hậu môn phải thót, gót chân lỏng, hậu môn phải chắc, bàn chân phải cứng, các ngón chân bám chặt như bám trên đất trơn. Đây là những qui định cụ th của các yêu cầu cơ bản khi tập luyện Dịch Cân Kinh.
Dựa theo yêu cầu này, khi tập vẫy tay thì từ cơ hoành trở lên phải giữ cho được trống không, buông lỏng, thảnh thơi, đầu không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ý vào việc luyện tập, xương cổ buông lỏng để có cảm giác như đầu treo lơ lửng, mồm giữ tự nhiên (không mím môi), ngực trên buông lỏng để phổi tự nhiên. Hai cánh tay để tự nhiên giống như hai mái chèo gắn vào vai. Từ cơ hoành trở xuống phải giữ cho chắc đủ sức căng, bụng dưới thót vào, hậu môn nhích lên, mười ngón chân bám sát mặt đất, gót chân để phẳng lên mặt đất, bắp chân trong trạng thái căng thẳng, xương sống thẳng như cây gỗ. Khi vẫy tay nhớ nhẩm câu: 'lên có, xuống không.' Nghĩa là lấy sức vẫy tay về phía sau (lên), khi tay trả lại phía trước là do quán tính, không dùng sức đưa tay ra phía trước (xuống).
2) Trên ba dưới bảy: Là phần trên để lỏng độ ba phần khí lực, phần dưới lấy gân sức bảy phần khí lực. Vấn đề này quán triệt đầy đủ thì hiệu quả sẽ tốt.
3) Mắt nhìn thẳng: Không nghĩ ngợi gì cả, miệng nhẩm đếm lần vẫy.
* Các bước tập cụ thể như sau:
a) Đứng hai bàn chân bằng khoảng cách hai vai.
b) Hai cánh tay duỗi thẳng theo vai, các ngón tay xoè thẳng, lòng bàn tay quay ra sau.
c) Bụng dưới thót lại, lưng thẳng. Bụng trên co lại, cố để lỏng, đầu và miệng bình thường.
d) Các đầu ngón chân bám trên mặt đất, gót sát đất, bắp chân và đùi chân căng thẳng.
e) Hai mắt chọn một điểm đằng xa làm mục tiêu để nhìn, không nghĩ ngợi lung tung, luôn chú ý vào các ngón chân đang bám đất. Đùi vế bắp chân cứng. Thót hậu môn thật chặt và nhẩm đếm.
f) Dùng sức vẫy hai tay về phía sau, khi trả hai bàn tay lại phía trước, chú ý để nó buông theo quán tính, tuyệt đối không dùng sức. Tuy nhiên chân vẫn lấy gân cứng lên, hậu môn vẫn thót và co lại không lơi lả.
g) Vẫy tay từ 200, 300, 400, 500, 600, 700 lần, dần dần tăng lên tới 1,800 lần vẫy, (1,800 ước chừng 30 phút).
h) Phải có quyết tâm đêu đặn tập trung vào sự luyện tập, không nôn nóng tập nhanh, tập nhiều vì dục tốc bất đạt. Nhưng cũng không tùy tiện bữa tập nhiều, bữa ít hoặc nghỉ tập, vì như vậy sẽ làm mất lòng tin trong luyện tập, khó có hiệu quả.
Bắt đầu tập luyện cũng không nên làm tổn thương các ngón chân (sau buổi tập vuốt ve các ngón chân mỗi ngón 9 lần). Nôn nóng muốn khỏi bệnh này mà dùng nhiều sức sẽ không đem lại kết quả. Có quyết tâm nhưng phải từ từ tiến dần mới đúng cách, mới kết quả tốt. nếu tinh thần không tập trung, tư tưởng phân tán thì khí huyết loạn xạ, và không chú ý đến 'trên nặng, dưới nhẹ' là sai hỏng.
Khi đã vẫy tay đến 600 lần trở lên thường có trung tiện (đánh dắm), hắt hơi, và hai chân nhức mỏi, toát mồ hôi, mặt nóng bừng... chỉ là hiện tượng bình thường đừng lo ngại. Trung tiện và hắt hơi là do nhu động của đường ruột tăng lên đẩy mạnh cơ năng tiêu hóa. Chân mỏi là do khí huyết dồn xuống cho hợp với vũ trụ là 'thiên khinh địa trọng' (trên nhẹ dưới nặng), đấy là qui luật sinh hợp với vũ trụ: Thiên khinh địa trọng.
Sở dĩ bệnh gan là do khí huyết tạng gan không tốt gây nên khí bị tích lũy làm cho gan khó bài tiết, do đó ảnh hưởng đến ống mật và cả tì vị. Luyện Dịch Cân Kinh có th giải quyết được vấn đềnày, nếu sớm có trung tin là hiệu quả tốt.

Về bệnh mắt, luyện Dịch Cân Kinh là có thể khỏi chứng đau mắt đỏ với các chứng đau mắt thông thường, cận thị, thậm chí được cả chứng đục thủy tinh thể trong nội kinh có nói mắt nhờ huyết mà nhìn được, khi khí huyết không dẫn đến các bộ phận của mắt, do vậy sinh ra các bệnh tật do mắt. Đôi mắt là bộ phận thị giác cũng là bộ phận quan trọng của cơ thể.
Những phản ứng khi luyện Dịch Cân Kinh:
Khi luyện tập, cơ thể sẽ có những phản ứng, nhưng tất cả đều là hiện tượng thải bệnh, không nên lo nghĩ. Liệt kê 34 phản ứng thông thưng và còn nhiều phản ứng không kể hết được.

1) Dau buốt. 2) Tê dại. 3) Lạnh. 4) Nóng. 5) Đầy hơi. 6) Sưng. 7) Ngứa. 8) Ứa nước giải. 9) Ra mồ hôi. 10) Cảm giác như kiến bò.
11) Giật gân, giật thịt. 12) Đầu khớp xương có tiếng lục cục. 13) Cảm giác máu chảy dồn dập. 14) Lông tóc dựng đứng. 15) nang to lên. 16) Lưng đau. 17) Máy mắt, mi giật. 18) Đầu nặng. 19) Hơi thở nhiều, thở dốc. 20) Nấc.
21) Trung tiện. 22) Gót chân nhức như mưng mủ. 23) Cầu trắng dưới lưỡi. 24) Đau mỏi toàn thân. 25) Da cứng, da dày rụng đi (chai chân). 26) Sắc mặt biến đi. 27) Huyết áp biến đổi. 28) Đại tiện ra máu. 29) Tiểu tiện nhiều. 30) Nôn, mửa, ho.
31) Bệnh từ trong da thịt bài tiết ra. 32) Trên đỉnh đầu mọc mụt. 33) Ngứa từng chỗ hay toàn thân. 34) Chảy máu cam.

Các phản ứng trên đây là do trọc khí bài tiết ra ngoài cơ thể, loại trừ các thứ ứ đọng gọi là bệnh tật. Khi có sự phản ứng là có sự xung đột giữa chánh khí và tà khí, nếu ta vẫn tập luyện sẽ sản sinh các chất bồi bổ có lợi cho chánh khí. Ta tập đúng cách và làm tăng sức đề kháng, nó đẩy cặn bã trong cơ, gan, thần kinh và các tế bào khác mà mạch máu lưu thông bình thường không thải nổi. Như luyện tập Dịch Cân Kinh mà khí huyết lưu thông mới đưa nổi cặn bã ra ngoài nên sinh ra phản ứng. Vậy không nên lo sợ, cứ tiếp tục luyện tập như thường. Có một phản ứng hiển nhiên là khỏi một căn bệnh, cứ tập luyện đều đặn sẽ đạt hiệu quả tốt.

Luyện Dịch Cân Kinh đạt được 4 tiêu chuẩn sau:
- Nội trung: Tức là nâng cao khí lên, then chốt là điều chỉnh tạng phủ. Lưu thông khí huyết. Thông khí sẽ thông suốt lên đến đỉnh đầu.
- Tứ trưởng tố: Tức là tứ chi phối hợp với các động tác theo đúng nguyên tắc theo luyện tập. Tứ trung tế song song với nội trung sẽ làm cho tà khí bài tiết ra ngoài, trung khí dồn xuống, cơ năng sinh sản ngày càng mạnh.
- Ngũ tam phát: Nghĩa là 5 trung tâm của nhiệt dưới đây hoạt động mạnh hơn lúc bình thường. Đó là Bách hội: một huyệt trên đỉnh đầu, Gio cung: huyệt ở hai bàn tay, Dũng tuyền: huyệt ở hai gan bàn chân.
Khi luyện tập, 5 huyệt này đều có phản ứng và hoàn toàn thông suốt Nhâm dốc và 12 kinh mạch đều đạt tới hiệu quả, nó làm tăng cường thân thể, tiêu trừ các bệnh nan y mà ta không ngờ.
- Lục phủ minh : Đó là ruột non, ruột già, mắt, dạ dày, bong bóng, tam tiêu sẽ thông suốt, nghĩa là không trì trệ. Lục phủ có nhiệm vụ thâu nạp thức ăn, tiêu hóa, bài tiết được thuận lợi nếu không bị trì trệ, ứ đọng, cơ năng sinh sản có sức tiếp, giữ vững trạng thái bình thường của cơ thể tức là Dương thăng bằng, cơ thể thịnh vượng.

Một số điều cần lưu ý khi luyện tập:
1) Số lần vẫy tay không dưới 800 lần. Từ 800 lần lên dần 1,800 lần (khoảng 30 phút) mới tới ngưỡng cửa của điều trị. Người bệnh nặng có thể ngồi mà vẫy tay, tuy nhiên phải nhớ thót hậu môn và bấm mười đầu ngón chân.
2) Số buổi tập: - Sáng thành tâm tập mạnh - Trưa trước khi ăn tập vừa - Tối trước khi ngủ tập nhẹ.
3) Có thể tập nhiều tùy theo bệnh trạng. Có bệnh nhân nâng số vẫy tay tới 5, 6 ngàn lần trong một buổi tập. Nếu sau khi tập thấy ăn ngon ngủ tốt, tiểu và đại tiện thấy điều hòa, tinh thần tỉnh táo, thì chứng tỏ số lần vẫy tay khi luyện tập là thích hợp.
4) Tốc độ vẫy tay. Theo nguyên tắc thì nên chậm. Bình thường thì vẫy 1,800 lần hết 30 phút. Vẫy lúc sau hơi nhanh hơn lúc đầu một chút, khi đã thuần thì vẫy hẹp vòng. Bệnh nhẹ thì nên vẫy nhanh và dùng sức nhiều hơn. Bệnh nặng thì nên vẫy hẹp vòng và chậm, bớt dùng sức. Vẫy tay nhanh quá làm cho tim đập nhanh mau mệt, mà chậm quá thì không đạt tới mục đích. Vì luyện tập là cần có mạch máu lưu thông.
5) Khi vẫy tay dùng sức nhiều hay ít (nặng hay nhẹ): Vẫy tay là môn thể dục chữa bệnh chứ không phải môn thể thao khích biệt. Đây là môn thể dục mềm dẻo, đặc điểm của nó là dụng ý không dùng sức, nhưng nếu vẫy tay nhẹ quá cũng không tốt, bởi vì bắp vai không lắc mạnh thì lưng và ngực không chuyển động nhiều, tác dụng sẽ giảm đi. Vẫy tay không chỉ có chuyển động cánh tay mà chính yếu là chuyển động hai bắp vai. Bệnh phong thấp thì dùng sức ở mức nhẹ và vẫy tay chậm.
Nói tóm lại, phần lớn tự mình nắm vững tình trạng, phân tích các triệu chứng sau khi nghe sự nhận xét của mọi người, tự mình cảm nhận sự biến chuyển trong cơ thể, nhanh nhẹn, hồng hào, tươi tỉnh hay là xấu hơn trước. Tự mình suy nghĩ rồi quyết định cách cách tập trên nguyên tắc là tập thế nào cho cảm thấy thoải mái, d chịu là đúng và tốt nhất. Đông y cho rằng động tác nhẹ là bổ ích (ích lợi cho cơ thể), động tác mạnh là loại bỏ các chất cặn bã có hại cho cơ thể (tức bệnh tật). Lý luận này đang được nghiên cứu.
6) Khi vẫy tay về phía sau dùng sức 7 phần, khi trả tay về phía trước thuộc về quán tính còn chừng 5 phần.
7) Đếm số lần vẫy tay : Đếm không phải đ nhớ mà có tác dụng làm cho đầu óc bình tĩnh, có tác dụng tốt cho não được căng thẳng và không nghĩ ngợi lung tung. Chân được bồi dưỡng.
8) Hoàn cảnh khi luyện tập (nơi chốn): Không có khác biệt, ở nơi đâu cũng tập được, dĩ nhiên nơi nào có không khí trong lành và yên tĩnh vẫn tốt hơn.
9) Trưóc và sau khi tập: Trước khi tập, đứng bình tĩnh cho tim được thoải mái, đầu óc được yên tĩnh để chuyển hóa về sinh lý và tâm lý. Ta có thể làm những động tác nhẹ nhàng thoải mái như trong môn khí công. Sau khi tập cũng phải bình tĩnh vê 10 đầu ngón tay và 10 đấu ngón chân đủ 9 lần. Người không đủ bình tĩnh nên cần chú ý đến điểm này.
10) Luyện tập Dịch Cân Kinh đúng phép: Sau khi tập thấy ngứa và bụng nhẹ nhàng, hơi th điều hòa.,mắt sáng, nước giải ứa ra nhiều, đại tiện d dàng, ăn ngon ngủ tốt, tinh thần tỉnh táo, bệnh tật bớt dần, thì đó là đã luyện tập Dịch Cân Kinh đúng phép. Sau khi tập, đại đa số thấy có phản ứng nhưng về hiệu quả thì rất khác nhau. Nguyên nhân chính là khi tập, tư thế có thích hợp với người tập hay không.
11) Khi tập cần chú ý đến các điểm sau đây:
- Nửa thân trên buông lỏng (thượng hư)
- Nửa thân dưới giữ chắc, căng mạnh (hạ thực)
- Khi tay trả lại phía trước, không dùng sức (nhẹ)
- Tay vẫy về phía sau dùng sức (nặng, mạnh)
- Mỗi lần tập tăng dần số lần vẫy tay
- Tâp ngày 3 buổi, kiên quyết tự chữa bệnh cho mình.
12) Sự liên quan giữa tinh thần và hiệu quả khi tập luyện: Hết lòng tin tưởng, kiên quyết tới cùng. Tập đủ số lần nhất định, tập thường xuyên thì hiệu quả rất tốt. Nếu khi tập khi nghỉ, không đủ số lần tập nhất định, trong lòng còn nghi hoặc, bị động theo dư luận, thấy phản ứng lo sợ vội bỏ tập thì nhất định không kết quả.
13) Vẫy tay có sinh ra bệnh gì không? Có thể sinh bệnh do tư thế không đúng và làm sai nguyên tắc. Nhưng trong trường hợp này cũng hạn hữu không tới 1%.
14) Khi tập phải tránh đứng đầu ngọn gió cả mùa hè lẫn mùa đông.
Tóm lại, cần lưu tâm vào những điều sau:
- Khi tập, luôn luôn bám chặt các ngón chân vào mặt đất.
- Thót hoặc co hậu môn thật mạnh để giữ thế 'thượng thư hạ thực'.
- Vẫy tay từ ít tới nhiều và phải đạt 1,800 lần mới có hiệu quả.
- Khi gặp phản ứng đừng ngại, đó là din biến tốt, cứ tập số lần như cũ. Khi hết phản ứng hãy tăng số lần vẫy tay lên.
- Giữ vững lòng tin, kiên trì quyết tâm tin tưởng, tập luyện tới cùng, chắc chắn sẽ đẩy lùi các bệnh tật ta đang mắc phải.
- Luyện tập Dịch Cân Kinh không chỉ chữa khỏi bệnh mà còn là một phương pháp phòng bệnh rất hữu hiệu.

LSB-luisKoo
06-05-2003, 21:23
Tap nhu the nay` chac la` bi dien do

Tặng 1 thẻ làm quà!

HoangThienLong
09-05-2003, 20:07
hẻ hẻ hẻ ! Dịch cân kinh mà gặp " Như Lai Thần Chưởng " của tại hạ thì chẳng khác nào chuột nhìn thấy mèo , ha ha ha !

Cả bác này nữa, tặng 1 thẻ, thích nhỉ ? ;)

DO_RE_WAN
27-05-2005, 18:55
nói vậy cũng nói nếu DỊCH CÂN KINH VÀ NHƯ LAI THẦN CHƯỞNG mà đọ với súng thì chỉ có nước mà khiên xác về chôn mà thôi he he he...
:vio24: :vio15:
:vio27: :vio20:
:vio16: :vio:


Mình hào phóng, gì chứ thẻ phạt thì chẳng tiếc! ;)

along
28-05-2005, 14:49
tui cũng đồng ý vơí tiêủ đệ dorewan hehehe :vio24: :vio20: :vio16: :vio15: :vio26: :vio14:

Châu Chỉ Nhược
28-05-2005, 16:08
Người ta mất công post bài dài thế kia mà các bạn lại nói thế sao ? các bạn không xem "Tiểu bảo và khang hy " à ? Ngao bái túm được cả đạn đại bác cơ đấy , mà đấy là Ngao bái còn chưa học được đến mức luyện được Dịch Cân Kinh Đấy, nếu tập dược DCK thì không biết đạt đến cảnh giới nào
Hơn nữa khi súng hết đạn thì sao, các bạn không học DCK chắc chắn là bị người học hạ như nhái rồi :p

namhongson
28-05-2005, 16:18
đề nghị cho cái này ra ngâòi đi nhìn chán wá
chẳng có tinh thần võ học chi cả?

girl_chanh
28-05-2005, 16:19
huynh tỉ biết sao điên ko? tập nhiều và chăm chỉ quá tẩu hoả nhập ma thôi mà
nhưng mà công nhận Bạch Diễn cầu kì quá là em hả? chắc chẳng bao giờ post 1 bài dài như thế
em chẳng bít Dịch Cân Kinh la` gì? nhưng mà Như Lai Thần chưởng thì quả là tuyệt vời đấy
ĐẤU VỚI NHAU ĐÊ ..............

Nam đại ca
28-05-2005, 18:10
:cuoilon: Dịch Cân Kinh là cái gì, năm xưa, sư huynh Đạt Ma Sư Tổ của ta còn sáng tạo ra một bộ nữa sau DCK đó là Tẩy Tuỷ Kinh kinh thiên động địa hơn nhiều, có bị thả bom napan vào người cũng không sao :cuoilon:

Sói_Sẹo
27-01-2006, 15:34
chậc chậc BDTS nói hay quá thực ra thì dịch cân kinh chẳng qua chỉ la yoga thôi, cứ tưởng thông minh lắm, về mua sách yoga mà đọc nghe chửa

vidatnet420
29-01-2006, 21:58
Mới ghé diễn đàn này.Thấy cái gì luyện công trong này.Cái gì Dịch chân kinh..Không biết có thiệt không.
============
Toàn là nói sạo không.:)):))

LSB_Shiva
02-03-2006, 17:45
hình như bài này trên TNVNOL có người post rùi mà O_o?????????????????

tamhung
08-03-2006, 09:53
Ừ tui không học võ Nhưng rất Thích coi phim kiếm hiệp . Cảm ơn đã xho tui biết thêm đôi chút về võ học .

nguyenduongtn2004
28-03-2006, 14:26
hẻ hẻ hẻ ! Dịch cân kinh mà gặp " Như Lai Thần Chưởng " của tại hạ thì chẳng khác nào chuột nhìn thấy mèo , ha ha ha !

Cả bác này nữa, tặng 1 thẻ, thích nhỉ ? ;)

cac bac ah luyen dich can kinh nay thi co ma chua thanh tai da thanh ma:cuoilon: luic xuong mo chac duoc lam vo lam chi ton mat:D
quen biet day thien ha
tri ki duoc may nguoi

Ngọc Diện Thư Sinh
30-03-2006, 06:38
Theo tôi
DCK luyện mã chỉ có 30 chấm thôi dc cái kháng tất cả 30% đâu có cần luyện tập khổ sở như ông đâu :cuoilon: :cuoilon:

Tây Môn Kiếm Khách
30-03-2006, 10:15
Thưa các huynh đệ, tại hạ hôm nay lần đầu tiên đăng sơn, có được đọc bài Phương pháp luyện Dịch cân Kinh.Tiện đây,tại hạ xin post một bài khác do mình sưu tầm được để các huynh đệ cùng ngâm cứu.
Dịch Cân Kinh



Dịch Cân Kinh (phiên âm "Yin Gin Ching") là gì ? Dịch là thay đổi, Cân là gân cốt, Kinh là bài học quí giá. Dịch Cân Kinh chỉ cho ta phương pháp luyện tập gân cốt và ý chí chuyển yếu thành mạnh, là phương pháp kết hợp nguyên tắc Thiền và động tác (Động và Tỉnh), giữa Cương và Nhu, giữa Thần và Khí (Tâm và Hơi thở), giữa Khí và Lực (Hơi thở và Sức mạnh).
Khoảng thế kỷ thứ 6, Đạt Ma Tổ Sư từ Ấn Ðộ sang Trung Quốc thuyết pháp và truyền giáo, sau ở lại Trung Sơn - Hà Nam - Trung Quốc, xây dựng chùa Thiếu Lâm, có nhiều đệ tử nhập môn học Phật để mai sau đi truyền giáo. Bồ Đề Đạt Ma thấy các đệ tử càng ngày càng xanh xao ốm yếu . Tìm hiểu nguyên do và thấy rằng : các đệ tử tuy tinh tấn tu thiền, nhưng hầu như không vận động cơ thể . Tỉnh dư mà động thiếu là cội nguồn của căn bệnh của họ. Nhằm mục đích cải thiện tình trạng sức khỏe cho các đệ tử, người đã nghiên cứu và biên soạn ra phương pháp Dịch Cân Kinh.
Theo tài liệu của Trần Văn Bình và một số tài liệu Anh ngữ khác thì Dịch Cân Kinh là phương pháp tập đong đưa cánh tay (swinging the arms hay là bãi tí) . Khi cánh tay được đong đưa liên tục, gân cốt và hệ thống khí ở trong khớp vai được kích thích cao độ và khí sẽ chuyển luân vào các vùng có tầng số thấp để điều hòa lưu thông .
Vì hệ thống khí nối liền với các bộ phận trong cơ thể đều chấm dứt ở bàn tay nên các động tác đong đưa cánh tay sẽ làm tăng thêm lưu lượng máu từ những cái vẫy tay lên xuống . Khí được lưu chảy vào các tế bào của thân thể để có được oxy hóa và sinh ra nhiệt năng đồng thời cũng đưa ra những khí thải và thức ăn thải từ các tế bào trên cơ thể thu hồi và bài tiết ra ngoài .
Tay vẫy đúng phép, miệng, dạ dày mở, máu mới sinh ra nhiệt năng đầy đủ, các vật chèn ép làm mất thăng bằng trong cơ thể bị xóa bỏ ,làm cho khí huyết hoạt động điều hòa nên có tác dụng chửa bệnh tốt, nhất là bệnh mãn tính, vì đông y cho rằng vấn đề cơ bản của bệnh tật là do khí huyết (Âm, Dương) mất thăng bằng mà sinh ra. Lúc tập Dịch Cân Kinh, nên cố gắng áp dụng căn bản khí công : lúc hít vào thì bằng mủi, cho đến khi đầy lồng ngực, rồi nín thở, dồn hơi xuống đan điền (dưới rốn) sau đó thở ra từ từ bằng miệng, ép bụng đẩy cho kỳ hết hơi ra ngoài.
Theo tác giả Trần Ðại Sỹ thì bộ sách Dịch Cân Kinh đầy những huyền thoại, ngụy tạo, và mơ hồ, đã làm hại biết bao nhiêu người tin vào các bản ngụy tạo, rồi luyện tập, gây ra phản ứng nguy hại cho cơ thể .Thực sự Dịch Cân Kinh là bộ sách khí công do các Đạo gia Trung-Quốc soạn ra vào cuối đời Minh hay đầu đời Thanh, tương đương với bên Đại Việt vào cuối đời Lê sang đời Nguyễn. Lúc mới xuất hiện Dịch Cân kinh chỉ là một trong hằng trăm bộ sách khí công, không quá siêu việt. Bản Dịch Cân kinh nầy, các Đại-học Y-khoa Trung-Quốc dùng là cổ bản từ cuối đời Minh, đầu đời Thanh, lưu truyền tới nay. Nội dung Dịch Cân Kinh chia ra làm 12 thức. Năm 1985 , các trường Ðại Học Y khoa Trung Quốc đưa Dịch Cân Kinh lên hàng đầu để giảng dạy chung với các bộ khí công khác . Sở dĩ Dịch Cân kinh được đưa lên hàng đầu vì những lý do sau: dễ luyện, mau kết quả và nếu luyện sai, chỉ thu kết quả ít, chứ không sợ nguy hiểm.
Dịch Cân Kinh từ ngàn xưa, đã chứng minh có một ích lợi phi thường cho cơ thể con người, giúp chúng ta vượt qua nhiều bịnh tật. Tuy nhiên kết quả cuối cùng đều do ở chính ta. Khi tập thì phải tập đủ số. Đặc điểm của Dịch Cân Kinh là rất đơn giản, dễ tập, chỉ cần bền chí và vững lòng tin là có kết quả tốt. Chúng ta thường xuyên tập luyện Dịch Cân Kinh trong một thời gian dài, khí huyết sẽ được sung mãn, cơ thể cường tráng, tinh thần mạnh khỏe, đẩy lui được bịnh tật . Hiệu năng của Dịch Cân Kinh là: điều thông khí huyết, gia tăng chân-nguyên khí, minh tâm, định thần, giữ tuổi trẻ lâu dài, gia tăng nội lực.
Tuy nhiên cho đến nay có nhiều tài liệu chỉ dẫn về cách luyện tập Dịch Cân Kinh khác biệt nhau . Bài này chỉ viết đại cương, còn phần luyện tập cụ thể thì đọc giả cần nghiên cứu kỹ càng trước khi thực hành .



Phần thứ nhất: Dẫn nhập
1. Nguồn gốc
2. Nội dung
Phần thứ nhì: Chuẩn bị
1. Điều kiện để luyện
2. Trường hợp không nên luyện Dịch Cân Kinh
3. Tư thức dự bị lúc mới luyện
4. Hiệu năng
5. Chủ trị
6. Thu công
Phần thứ ba: 12 thức Dịch Cân kinh
Phần thứ tư: Tổng kết
Phụ lục: Tài liệu Dịch Cân kinh ngụy tạo.

DỊCH CÂN KINH
Dịch Cân kinh là tiếng gọi tắt của Dịch Cân Tẩy Tủy Kinh. Bộ sách này đầy những huyền thoại, đầy những ngụy tạo, đầy những mơ hồ, đã làm hại biết bao nhiêu người tin vào các bản ngụy tạo, rồi luyện tập, gây ra phản ứng nguy hại cho cơ thể, dĩ chí chết người.
Phần thứ nhất: Dẫn nhập
1. NGUỒN GỐC
Trong hằng trăm nghìn ngôi chùa Phật-giáo trên thế giới, không một ngôi chùa nào được tiểu thuyết hóa, huyền thoại hóa và thần thánh hóa bằng chùa Thiếu-Lâm bên Trung-Quốc (1). Và cũng trong hằng triệu vị tăng, không vị nào được viết, được nói, được tôn sùng bằng ngài Bồ-đề Đạt-ma. Bỏ ra ngoài vấn đề tôn giáo, quả thực Ngài là một trong những người đã đem Thiền-công vào Trung-Quốc, và làm cho quảng bá.
Ghi chú:
Trung-Quốc có 3 ngôi chùa đều mang tên Thiếu-Lâm.
1. Hà-Nam đăng phong Tung-Sơn Trung-Châu Thiếu-Lâm tự,
2. Hà Bắc Bàn-Sơn Thiếu-Lâm tự,
3. Phúc-Kiến Tuyền-Châu Nam Thiếu-Lâm tự,
Một trong những sự kiện người ta từ thần thánh hóa ngài, rồi đi đến ngụy tạo ra những bộ Thiền-công, Khí-công và gán cho ngài là tác giả. Trong đó có bộ Dịch Cân Tẩy Tủy Kinh. Bài tựa bộ Thiếu-Lâm tự tư liệu của Vưu Cốc, Diêu Nguyên, do Văn-Hiến xuất bản xã Bắc-Kinh, xb. tháng 10-1984, phần tựa, trang 2 viết:
"Từ trước đến nay, mật bản Dịch Cân kinh nói là nội công Thiếu-Lâm, rồi được lưu truyền trên trăm năm đến giờ. Căn cứ vào sự kết thành của nội dung bộ sách cũng như cú pháp thì không thể nào tin được. Bộ này chỉ có thể được viết vào thời Thanh Khang-Hy (1662-1723), Ung-Chính (1723-1736) là quá. Trong thời vua Quang-Tự (1875-1909), chính Phúc-Sơn Vương Tổ Nguyên cũng đã viết: Xét đến Tung-Sơn Thiếu-Lâm tự, người ta mạo ra tập Nội-công đồ, phổ biến rất rộng".
Thực sự Dịch Cân kinh là bộ sách Khí-công do các Đạo-gia Trung-Quốc soạn ra vào cuối đời Minh hay đầu đời Thanh, tương đương với bên Đại Việt vào cuối đời Lê sang đời Nguyễn. Lúc mới xuất hiện Dịch Cân kinh chỉ là một trong hằng trăm bộ sách Khí-công, không quá siêu việt. Bộ sách này trước năm 1950 chẳng nổi tiếng cho lắm. Nhưng từ khi nhà văn Kim Dung, tiểu thuyết hóa đi trong Thiên-long Bát-bộ, thì bộ kinh này trở thành thánh kinh. Nổi tiếng đến độ đã có người bị ngã gẫy chân, thay vì đi tìm thầy điều trị, lại nằm ỳ ở nhà luyện, chút nữa phải cưa chân. Tác giả Dịch Cân kinh không biết là ai.
Dịch Cân kinh ra đời khoảng 1662-1736, thế nhưng Kim-Dung lại cho nhân vật tiểu thuyết Mộ Dung Bác, Du Thản Chi, Cưu Ma Trí luyện vào đời Bắc Tống (960-1127). Có lẽ Kim Dung cho rằng mình viết tiểu thuyết, nên không cần sự chính xác, rồi ông cũng và gán cho tác giả là ngài Bồ-đề Đạt-ma của chùa Thiếu-Lâm. Thành ra từ thập niên 60 thế kỷ thứ 20, người Việt không hề thấy bộ sách này, rồi cho rằng đó là bộ sách trong huyền thoại, không có thực.
Một số người thất học, trong đó có vài võ sư, vài thầy lang Việt-Nam, chưa hề thấy bản Dịch Cân kinh trên, họ bịa ra nhiều bản Dịch Cân kinh, rồi đem phổ biến. Tất nhiên quần chúng tin ngay. Trong thời gian 1960-1975 ở miền Nam Việt-Nam, ngay khi ra ngoại quốc (1975-2001) lưu truyền một phương pháp luyện Dịch Cân kinh, bằng tiếng Việt, chỉ có một thức duy nhất là đứng thẳng buông lỏng rồi vẫy tay như chim non tập bay. Đính kèm còn chép thêm rằng nhiều người tập, đã chữa khỏi ung-thư gan, lao, thận, Parkinson, huyết áp cao, và hàng chục thứ bệnh nan y. Cho rằng đây là một ấn bản khác của Dịch Cân kinh, tôi đã bỏ công tra trong các thư viện của những Đại-học Y-khoa Thượng-Hải, Giang-Tô, Hồ-Nam, Phúc-Kiến, dĩ chí đến các gia, các phái võ thuộc các hệ Thiếu-Lâm ở Hương-Cảng, Đài-Loan, nhưng cũng không thấy. Vì vậy tôi đặt tên bản này là Dịch Cân Kinh Việt-Nam (DCKVN), vì được sáng tác vào thời kỳ 1960-1975.
Gần đây một vài tờ báo Việt-ngữ bên Hoa-Kỳ lại lưu truyền một bản Dịch Cân kinh nữa, hơi giống bản DCKVN, hơn nữa còn đăng lời xác nhận giá trị của Bác-sĩ Lê Quốc Khánh (sinh 1932), người từng học ở Đại-học Quân-y, từng làm việc chung với các Bác sĩ Pháp, Mỹ, Phi-Luật-Tân, và cộng tác với Bác-sĩ Đinh Văn Tùng trong công cuộc nghiên cứu trị ung thư bằng Phẫu-thuật (1936-1965), nghĩa là ông Khánh mới 3 tuổi đã thành Bác sĩ. (Tài liệu đính kèm). Tôi không phủ nhận tập tài liệu này, tôi hứa sẽ nghiên cứu kỹ rồi xác nhận sau.
Từ năm 1974, một số Đại-học Y-khoa Trung-Quốc dùng Dịch Cân kinh làm khóa bản giảng dạy cho các thầy Tẩm-quất (Kinésithérapeutre) và Bác-sĩ Thể-thao để luyện lực phục hồi sau khi trị bệnh bị tiêu hao chân khí. Tài liệu còn dùng trị bệnh kết hợp Tây-y, Trung-dược, Châm-cứu:
- Lão khoa (Geratology)
- Thần kinh, (Psychiatrics)
- Não khoa, (Neurology)
- Niệu khoa (Urology)
- Phong thấp (Rhumatology)
- Phế khoa (Pneumology)
- v.v...
Đến Đại hội Y-khoa toàn quốc năm 1985 tại Trung-Quốc, các trường Đại-học Y-khoa trao đổi kinh nghiệm, đã chú giải, phân tích, tước bỏ phần có hại, hoặc không có kết quả đi. Từ đấy Dịch Cân kinh được giảng dạy chung với một số bộ Khí-công khác, theo thứ tự là:
1. Dịch Cân kinh,
2. Tráng yêu bát đoạn công, (8 thức luyện cho lưng khỏe).
3. Ngũ cầm công, (năm thức luyện nhái theo 5 loại thú).
4. Bát đoạn cẩm, (8 thức Khí-công đẹp như gấm).
5. 24 thức luyện công của Trần Hy-Di.
6. Nội đơn thuật (căn cứ vào Kinh Dịch, Đạo Đức kinh).
7. Thất diệu pháp môn (bẩy phép luyện công tuyệt diệu).
Sở dĩ Dịch Cân kinh được đưa lên hàng đầu vì những lý do sau:
- Dễ luyện,
- Luyện mau kết quả,
- Khi luyện dù trẻ con, dù người già, dù ngộ tính kém cũng thu được kết quả.
- Dù luyện sai, chỉ thu kết quả ít, chứ không sợ nguy hiểm.
Tuy vậy nếu bàn về kết qủa luyện thần, luyện thể thì Dịch Cân kinh thua xa 24 thức luyện của Trần Hy Di. Vì luyện Thiền-công, Khí-công từ nhỏ, nên trong thời gian học tại Đại-học Y-khoa Thượng-hải, tôi theo dõi những buổi giảng Khí-công rất kỹ. Sau khi rời Thượng-Hải, trở về Paris, tôi luyện Dịch Cân kinh liên tiếp 5 năm. Rồi giảng dạy. Trong lúc giảng, tôi đã gặp những khúc mắc khó khăn về sư phạm, không phân giải được, đành chịu, không biết bàn với ai. Phải chờ đến 1987, tôi sang Úc, ở tại nhà bào đệ là Trần Huy Quyền vấn đề mới được soi sáng.
Trong gia đình sáu anh em tôi, thì Quyền là người thông minh nhất. Bất cứ vấn đề gì rắc rối, bí hiểm đến đâu, Quyền chỉ suy nghĩ khoảng nửa giờ là kiến giải sáng suốt. Tôi là thầy thuốc thiếu kinh nghiệm dạy võ thuật, lại nữa tôi chỉ dạy Khí-công cho những sinh viên đã tốt nghiệp Đại-học Y-khoa, nên không có cái nhìn tổng quát. Còn Quyền thì dạy đệ tử nhỏ nhất là 6 tuổi, lớn nhất có khi tới 80, lại có đủ trình độ kiến thức. Vì vậy Quyền nhiều kinh nghiệm sư phạm hơn tôi. Tôi đem Dịch Cân kinh ra bàn với Quyền. Vì Quyền đã học võ từ năm 11 tuổi, dạy võ 22 năm (năm đó Quyền 42 tuổi), rất nhiều kinh nghiệm. Trong một tháng, anh em đã trao đổi, bao nhiêu khúc mắc đều giải được hết. Năm sau (1988) tôi trở lại Úc, chúng tôi ra soạn thành tài liệu.
Nay nhân Đại hội Y-khoa Châu-Âu của ARMA, do yêu cầu của anh em, một lần nữa tôi sửa đổi, thêm kinh nghiệm, đem ra giảng dạy. Tôi tin rằng anh chị em sẽ hội lĩnh được hết. Trước là luyện cho thể kiện, tâm an, thần tĩnh. Sau là dạy cho thân chủ, giúp họ trị bệnh.
2. NỘI DUNG
Bản Dịch Cân kinh mà các Đại-học Y-khoa Trung-Quốc dùng là cổ bản từ cuối đời Minh, đầu đời Thanh, lưu truyền tới nay. Nội dung Dịch Cân kinh chia ra làm 12 thức. Mỗi thức gồm nhiều câu Khẩu-quyết, theo thể văn vần để dễ nhớ. Tôi không phiên âm, cũng như dịch nguyên văn, vì tối vô ích. Tôi chỉ giảng nghĩa, phân tích các câu quyết đó rất chi tiết. Tuy nhiên sau mỗi thức tôi cũng chép nguyên bản bằng chữ Hán, cũng như hình vẽ trong cổ bản để độc giả tham chước. Về tên mỗi thức, tôi không theo cổ bản mà theo bản của các Đại-học Y khoa Trung-Quốc.
Cũng như tất cả thư tịch Trung-Quốc, trải qua một thời gian dài, các câu Khẩu-quyết này bị nạn tam sao thất bản. Khi san định, phân tích để đem làm tài liệu, ban tu thư các Đại-học đã vứt bớt đi hầu hết các bản, chỉ nghiên cứu 27 bản mà thôi. Phần tôi trình bầy đây là theo bản của Đại-học Y-khoa Thượng-Hải và tham chước bản của các Đại-học Thành-Đô, Giang-Tô, Bắc-Kinh, Vân-Nam.
Mỗi thức gồm có:
- Động tác và tư thế, để chỉ thế đứng khởi đầu, rồi các động tác biến hóa, thở hít.
- Hiệu năng (actions), để chỉ tổng quát của kết quả đạt được nếu luyện đúng.
- Chủ trị (Indications). Tôi dùng chữ Chủ-trị sát nghĩa hơn là chữ Chỉ-định.
- Vị trí, huyệt vị. Mỗi khi định vị trí trên cơ thể, tôi diễn tả rất chi tiết, để đọc giả có thể luyện một mình. Tuy nhiên tôi lại mở ngoặc định rõ chỗ ấy thuộc kinh nào, huyệt nào, để các vị Bác-sĩ, Châm-cứu gia, Võ-sư, dễ nhận hơn. Độc giả chẳng nên thắc mắc làm gì.
------------------------------------------
Trên đây là phần đầu tiên, tại hạ sẽ post từ từ để các huynh đệ đỡ nghẹn.
Hiệp Khách giang hồ
Tình yêu cuộc sống
Mong muốn học hỏi các huynh đệ!:D

tuyết_sơn_phi_hồ
06-04-2006, 10:44
He.Bà con thấy thế nào chứ tôi thì thấy quá dài.Nhưng phải được cái là vị huynh đệ này chăm chỉ,đã post một bài dài vậy lại còn luyện tập chứ.Đáng khâm phục.phù, mệt quá, nói dài nên mệt.

Tây Môn Kiếm Khách
07-04-2006, 08:05
Tại hạ post dài thế mà chăng được gì cả, phí công viết quá.:khoc: Lại còn cả mấy bài ở Thảo luận &luyện tập viết về DCK nữa chứ.:(

Mắt Đêm
07-04-2006, 12:00
Thế muốn được gì ? nếu post không chỉ vì mục đích đóng góp mà còn vì cái khác thì thôi, đừng post nữa!

Tây Môn Kiếm Khách
08-04-2006, 08:35
Ê!Đừng khích bác vậy chứ. Tất nhiên post để đóng góp nhwng post mà không ai đọc thì không chán sao????