PDA

View Full Version : Những cuộc phiêu lưu của Sherlock Holmes


seta
20-10-2003, 23:33
[center:7247d27516]Tất cả các bài viết này được lấy từ diễn đàn xitrum.net[/center:7247d27516]

các bạn nghĩ sao về nhân vật Sherlock Holmes
một nhân vật do Conan Doyle tạo nên một thiên tài phá án
hẳn các bạn nào đã từng xem phim và truyện thì các bạn nghĩ sao về nhân vật này
mình sẽ tìm và dăng vài mẫu truyện lên sau 8-)

seta
20-10-2003, 23:34
Dải băng lốm đốm
Một sáng sớm tháng tư năm 1883, vừa thức giấc, tôi đã thấy Sherlock Holmes, ăn mặc tề chỉnh đứng bên đầu giường mình. Lệ thường, anh hay dậy muộn; mà theo đồng hồ lúc này chỉ mới 7 giờ 15. Tôi ngước nhìn anh, hơi ngạc nhiên. ánh mắt tôi cũng thoáng vẻ bực dọc, vì chính tôi cũng quen dậy muộn.

- Tôi lấy làm tiếc là đã đánh thức anh dậy, Holmes nói

- Có chuyện gì thế? Hoả hoạn à?

- Không, có một thân chủ đang chờ. Một tiểu thư trẻ đang thảng thốt lo âu và khẩn khoản xin gặp tôi. Cô ấy hiện ngồi đợi dưới phòng khách. Khi những tiểu thư trẻ dám băng qua thành phố vào lúc mới rạng sáng như thế này và dám đánh thức những người chưa quen biết dậy, thì chắc hẳn họ phải gặp chuyện gì đó rất đáng lo. Vụ này có lẽ rất thú vị, đáng cho anh ghi chép, nên tôi tin chắc, anh sẽ muốn theo dõi ngay từ đầu. Tôi nghĩ nên đánh thức anh, để anh khỏi bỏ lỡ một dịp may.

- Ồ, anh bạn vàng, tôi không đời nào chịu để lỡ một dịp may, vì bất cứ lý do gì.

Tôi hối hả mặc quần áo, và chỉ vài phút sau đã theo chân bạn tôi xuống phòng khách. Cô tiểu thư mặc bộ quần áo đen, gương mặt khuất sau một tấm mạng nhỏ thó, đang ngồi bên cửa sổ, cô vội đứng ngay dậy khi chúng tôi bước vào.

- Chào tiểu thư, - Holmes niềm nở - tôi là Sherlock Holmes. Còn đây là bạn tôi, bác sĩ Watson. Tiểu thư có thể trò chuyện với anh ấy cởi mở, như với chính tôi. à, rất mừng là bà Hudson đã tinh ý nhóm giúp lò sưởi. Tiểu thư nên ngồi gần thêm chút nữa cạnh lò sưởi và tôi xin phép được mời tiểu thư một tách cà phê nóng, vì tôi thấy tiểu thư đang rét run lên.

- Tôi run không phải vì trời lạnh - cô gái khẽ đáp.

- Vậy thì vì lý do gì?

- Vì sợ, thưa ông. Vì kinh hoàng. - Vừa nói, cô gái vừa nâng tấm mạng che mặt lên, và chúng tôi thấy cô đang thật sự thảng thốt trong nỗi kinh hoàng. Sắc mặt tái mét ánh mắt lộ rõ vẻ khiếp sợ, như ánh mắt con thú săn đang bị bủa vây. Trông bề ngoài, cô chỉ trạc ba mươi, nhưng mái tóc đã điểm bạc đôi chỗ, còn cử chỉ thì lộ rõ vẻ uể oải mỏi mệt. Chỉ bằng khoé mắt từng trải của anh, Sherlock Holmes đã biết về cô đủ mọi điều.

- Cô đừng sợ - anh nói, - chúng tôi sẽ giúp cô sớm giải thoát được mọi ưu phiền. Tôi chẳng chút hồ nghi. Tôi biết rõ cô vừa tới đây bằng chuyến tàu sớm nay.

- Thế ra ông đã biết tôi trước lúc tôi đến đây hay sao?

- Không, nhưng tôi nhìn thấy trên chiếc găng tay bên trái của cô phần còn lại của tấm vé khứ hồi. Cô đã phải dậy rất sớm, rồi còn phải ngồi co ro rất lâu trên một chiếc xe độc mã suốt cả một chặng đường dài lầy lội trước lúc ra tới ga.

Cô gái bối rối, nhìn anh bạn tôi chằm chằm.

- Chẳng có gì huyền bí đâu, thưa tiểu thư, anh mỉm cười nói - trên ống tay áo vét cô đang mặc lấm tấm bùn, ít nhất là ba chỗ. Những vết bẩn ấy còn mới. Không một loại phương tiện giao thông nào, ngoại trừ xe độc mã, lại có thể làm bắn nhiều bùn đất đến thế lên người hành khách; nhất là khi họ ngồi bên trái xà ích.

- Ông hoàn toàn đúng, dù ông dùng cách nào để phán đoán như vậy, cô gái nói. Tôi rời khỏi nhà lúc gần 6 giờ, đến Leatherhead lúc 6 giờ 20 và đáp ngay chuyến tàu đầu tiên đến ga Waterloo.. Thưa ông, tôi không còn chịu đựng được nữa. Tôi sẽ hoá điên mất nếu tình cảnh này cứ kéo dài. Tôi chỉ có một người để nhờ vả, nhưng con người khốn khổ đó e chẳng gíup ích được bao nhiêu. Vì vậy, tôi đành tới cầu cứu ông, thưa ông Sherlock Holmes. Ông có đủ sức giúp không, ít ra là cũng làm sáng tỏ ít nhiều những bí ẩn đáng sợ đang bủa vây tôi bốn bề?

- Xin cô cứ kể hết với chúng tôi tất cả những gì có thể giúp chúng tôi hình dung được tình cảnh đang khiến cô sợ hãi.

Điều khủng khiếp nhất trong tình cảnh của tôi hiện nay là những lo sợ của tôi , những lo sợ đều hết sức mơ hồ, - cô thân chủ đáp. Những ngờ vực của tôi đều bắt nguồn từ những chuyện rất nhỏ nhặt, đến nỗi người khác có thể cho là vớ vẩn. Nhưng tôi nghe đồn chỉ có ông, thưa ông Sherlock Holmes, mới thấu hiểu hết tâm địa hiểm ác của người đời. ông mới có thể khuyên tôi nên xoay xở thế nào trong những hiểm hoạ đang bủa vây quanh tôi.

- Tôi đang lắng nghe cô đây, thưa cô.

- Tôi tên là Helen Stoner. Tôi đang ở với ông bố dượng. Ông ấy là người cuối cùng còn sống của một dòng họ Saxon lâu đời nhất Anh quốc, dòng họ Roylott xứ Stoke Moran, tại cực tây này, giáp ranh với Surrey.

Sherlock Holmes gật đầu

- Tôi đã được nghe nói khá nhiều đến cái tên đó - anh nói.

- Có một thời, họ từng là dòng họ giàu có nhát Anh quốc. Lãnh địa họ, ở mạn bắc, vắt qua cả biên giới, ăn sâu vào tận Berkshire, và ở mạn tây - tận Hampshire. Nhưng vào cuối thế kỷ trước, cả bốn thế hệ liền đã mặc sức phung phí và chẳng buồn làm gì. Trong thập niên 1820, những gì còn sót lại đã bị một gã máu mê cờ bạc nướng hết vào các trò đen đỏ, ngoài trừ một vài mẫu đất và một toà nhà cũ, xây từ hai trăm năm trước. Viên điền chủ cuối cùng của dòng họ đành phải lui về cư ngụ tại ngôi nhà nọ, sống cuộc đời thảm hại của một người quí tộc nghèo. Nhưng cậu con trai độc nhất của ông ta, người hiện là bố dượng tôi, hiểu rằng phải tìm cách thích nghi với tình cảnh mới. Ông ấy cố kiếm được một mảnh bằng bác sĩ, rồi lên đường sang Calcutta. Tại đây, ông ta nhờ có tay nghề và đức kiên nhẫn, nên chẳng bao lâu sau đã được đông đảo khách hàng tín nhiệm. Nhưng rồi nhà ông ta bị mất cắp, khiến ông ta tức điên người, đánh một gia nhân người bản xứ đến chết, và chật vật lắm ông ta mới thoát khỏi bản án xứ giảo. Sau vụ đó, ông ta đã phải chịu cảnh tù tội rất lâu, nên khi được thả ông trở về Anh quốc trong tâm trạng thất vọng và bi quan.

Hồi còn làm bác sĩ ở ấn Độ, Roylott đã kết hôn với mẹ tôi, bà Stoner, một quả phụ trẻ, vốn là vợ của Thiếu tướng Stoner, chỉ huy pháp binh tại Bengal. Tôi và Jlia, chị tôi, là hai chị em sinh đôi. Hồi mẹ tôi đi bước nữa, hai chúng tôi mới 20 tuổi. Mẹ tôi có một khoản tiền khá lớn, mỗi năm được hưởng không dưới một ngàn bảng lợi tức. Bà giao hết khoản tiền đó cho bác sĩ Roylott cai quản, vì hai chị em tôi còn phải sống cùng ông bố dượng, và dặn ông ta phải chia đôi cho hai chúng tôi khi nào chúng tôi đi lấy chồng. Mẹ tôi qua đời chỉ ít lâu sau ngày chúng tôi trở về Anh: bà chết cách đây 8 năm trong một vụ tai nạn hoả xa gần Crewe. Ngay sau ngày đó, bác sĩ Roylott lập tức bỏ ý định ở lại Luân Đôn hành nghề, và đưa hai chị em tôi về Stoke Moran, sống tại ngôi nhà được thừa kế. Khoản tiền mẹ tôi để lại thừa đủ chu cấp cho mọi sở thích của chúng tôi, và tưởng chừng chẳng có gì ngăn trở chúng tôi sống hạnh phúc.

Nhưng đúng vào thời kỳ đó, tính khí bố dượng tôi bỗng thay đổi hẳn. Thay vì kết thân và tới viếng thăm những người hàng xóm, mới đầu rất hồ hởi khi được gặp lại một người thuộc dòng dõi Roylott trở về sống tại quê cũ, ông ta cứ ru rú suốt ngày ở nhà. Ông ta chẳng mấy khi bước ra ngoài, và hễ đi ra đến ngoài thì lần nào cũng gây gổ dữ dội với bất cứ ai chạm trán với ông trên đường đi. Cái tính hay có những cơn giận hung hãn đã thành một tật cố hữu của cánh đàn ông dòng họ Roylott. Và đến đời bố dượng tôi, các tật đó lại càng tăng thêm, có lẽ vì ông ta sống quá lâu ở miền nhiệt đới. Một loạt những vụ ẩu đả tồi tệ đã xảy ra, trong đó có hai vụ đã phải kết thúc ở đồn cảnh sát. Rốt cục, ông ta trở thành nỗi kinh hoàng của cả làng, và dân ở đấy ai cũng vội vã tránh mặt ông ta, vì ông ta có một thế lực phi thường và hoàn tòan không thể tự kiềm chế, khi đã nổi cơn thịnh nộ.

Bạn bè độc nhất của ông ta là những người Digan sống lang thang nay đây mai đó; ông cho họ dựng lều trại trên mảnh đất nhỏ, diện tích chỉ vài hecta của dòng họ để lại. Ông ấy thích lang thang đây đó cùng họ; có lần vắng nhà hàng tuần. Ông ta cũng thích những giống vật ấn Độ, được ngừơi quen gửi tận bên đó về. Hiện ông đang nuôi một con báo bờm, giống Cheetah, và một con khỉ đầu chó, nòi Baboon, suốt ngày đêm thả rông, mặc cho chúng muốn đi đâu thì đi. Dân làng hầu như ai cũng sợ chúng chẳng kém gì chủ chúng.

Qua lời tôi kể, chắc ông dễ dàng hình dung được là cảnh sống của chị Julia đáng thương và tôi chẳng lấy gì làm sung sưóng cho lắm. Không một người giúp việc nào chịu nổi cảnh sống ở nhà chúng tôi, nên từ lâu lắm rồi, hai chị em tôi đã phải tự tay làm lấy mọi việc trong nhà. Chị tôi đã chết hồi chỉ mới ba mươi tuổi, và tóc chị ấy cũng đã điểm bạc như tóc tôi.

- Thế chị ấy đã mất rồi sao?

- Chị ấy qua đời cách nay vừa tròn hai năm. Chính tôi cũng đang định kể với ông về cái chết của chị ấy. Các ông thấy đấy, cảnh sống mà tôi vừa kể khiến chúng tôi không còn thích giao du với bất cứ ai cùng trang lứa và địa vị. Chị em tôi có một bà dì ruột, sống độc thân, tên là Honoria Westphail, bà ở mạn Harrow, nhưng hoạ hoằn lắm chúng tôi mới được phép đến thăm bà vài ngày. Cách đây hai năm, chị Julia có đến đó đón lễ Noel và đã gặp một Thiếu tá Hải quân, rồi đính hôn cùng anh ta. Dượng tôi được biết chuyện đó sau ngày chị Julia trở về và không tỏ ý phản đối cuộc hôn nhân ấy nhưng rồi hai tuần trước ngày họ định tổ chức hôn lễ, chị Julia đã gặp một việc khủng khiép đã cướp mất của tôi người bạn tâm tình độc nhất trên đời.

Sherlock Holmes nãy giờ ngả người vào lưng ghế, mắt lim dim, đầu tựa trên chiếc gối đặt trên tay vịn của chiếc đi văng. Nghe đến đó, anh bỗng hé mắt nhìn thẳng vào mắt cô gái.

- Xin cô kể lại chuyện ấy thật cặn kẽ - anh nói.

- Việc này đối với tôi rất dễ, vì mọi điều xảy ra vào khoảng thời gian kinh hoàng đó đều đã khắc sâu vào ký ức của tôi. Toà nhà chính mà dượng tôi được thừa kế, như tôi vừa kể, rất cũ kỹ, chỉ còn một dãy bên là còn ở được. Sàn của mấy phòng ngủ ở đây toàn là sàn đất nện; mấy phòng khách thì chiếm phần trung tâm toà nhà. Trong ba phòng ngủ kia, thì phòng đầu là bác sĩ Roylott, phòng thứ hai là của chị tôi, còn phòng cuối thì dành cho tôi. Chẳng phòng nào ăn thông với phòng nào; nhưng cả ba đều có cửa mở ra dãy hành lang chung. Tôi kể như vậy, có được rõ không ạ?

- Rất rõ.

- Cửa sổ ba phòng đều hướng ra phía bãi cỏ. Vào cái đêm kinh hoàng đó, bác sĩ Roylott về phòng rất sớm, nhưng chúng tôi biết ông ấy chưa ngủ, vì chị tôi phải khó chịu vì cái mùi xì gà ấn Độ rất nặng mà ông ta quen dùng. Vì vậy, chị ấy rời phòng sang bên tôi, ngồi một lúc, nói chuyện gẫu về cái đám cưới sắp tới. Mười một giờ thì chị ấy đứng dậy, rời phòng tôi, nhưng ra đến cửa bỗng dừng lại, ngoái nhìn sau lưng, rồi lên tiếng hỏi tô :

- Helen,khuya khuya, em có bao giờ nghe tiếng ai đó huýt sáo không?

- Chưa bao giờ - tôi đáp.

- Biết đâu em có thể huýt sáo lúc mơ ngủ?

- Không thể có chuyện đó được. Nhưng tại sao chị hỏi thế?

- Vì mấy đêm gần đây, vào khoảng ba giờ sáng, đêm nào chị cũng nghe có tiếng huýt sáo rất khẽ và rõ. Chị vốn tỉnh ngủ, nên tiếng động đó khiến chị thức giấc. Chị không thể nói rõ nó từ phía nào đưa lại. Có thể là từ phòng bên, mà cũng có thể từ ngoài bãi cỏ vọng vào. Hôm qua, chị đã định hỏi em có nghe thấy không.

- Không, em không nghe. Chắc là đám Di-gan đấy.

- Có lẽ đúng vậy thật. Nhưng nếu quả là từ ngoài bãi cỏ vọng vào thì sao em không nghe thấy? Lạ thật!

- ồ, em ngủ say hơn chị nhiều.

Thôi, toàn chuyện vớ vẩn không đâu - chị ấy mỉm cười, khép cửa phòng tôi, và lát sau tôi nghe thấy tiếng chìa lách cách trong ổ khoá phòng chị.

- Thì ra là vậy, Sherlock Holmes nói. Chị cô và cô bao giờ cũng khoá cửa trước lúc đi ngủ?

- Vâng.

- Sao vậy?

- Hình như tôi đã kể với ông là dượng tôi có nuôi thả rông một con báo bờm và một con khỉ đầu chó. Hai chị em tôi chỉ cảm thấy an toàn khi đã khoá trái cửa sau lưng.

- Tôi hiểu. Xin cô kể tiếp.

- Đêm đó, tôi không thể nào chợp mắt được. Tôi linh cảm mơ hồ một điều bất hạnh sắp xuống giáng xuống đầu mình. Hai chúng tôi, hẳn ông còn nhớ, là hai chị em sinh đôi, và chắc ông cũng biết, anh em hay chị em song sinh vốn gắn bó với nhau mật thiết như thế nào. Đêm đó quả là một đêm ghê rợ. Gió rít từng hồi, còn mưa thì xối xả trút nước vào cửa sổ. Bất thình lình, trong tiếng gió gào thét bỗng dậy lên một tiếng rú man dại của một người phụ nữ đang hốt hoảng. Tôi nhận ra ngay: đó là tiếng chị tôi. Tôi nhảy vội xuống đất, lao ra hành lang. Lúc đang mở cửa, tôi chợt nghe một tiếng huýt sáo kẽ, đúng như chị tôi kể, rồi chỉ một lát sau, tiếng rơi đánh sầm của một vật nặng bằng kim loại. Khi tôi chạy sang, tôi thấy cửa phòng chị tôi không khoá, cánh cửa đang từ từ xoay trên bản lề. Tôi kinh hãi, trố mắt nhìn, không biết cái gì sắp xảy ra đây. Dưới ánh đèn treo ngoài hành lang, tôi thấy chị Julia hiện ra sau cánh cửa, mặt trắng bệch vì khiếp sợ. Chị chới với vươn hai tay ra phía trước, cầu cứu tôi, toàn thân lảo đảo như thể đang say. Tôi chạy vội tới, ôm choàng lấy chị, nhưng đúng vào lúc đó, chân chị bỗng bủn rủn và chị ngã khuỵu xuống đất. Chị quằn quại vì một nỗi đau đớn không thể chịu đựng nổi. Mới đầu, tôi tưởng chị không nhận ra mình; nhưng lúc tôi cúi xuống, chị bỗng hét lên bằng một giọng mà tôi nhớ suốt đời:“ Trời ơi, Helen! Cái dải băng ấy! Dải băng lốm đốm!“. Chị ấy còn cố nói một điều gì đó nữa, tay chỉ chỉ về phía phòng ông bố dượng, nhưng một cơn co giật nữa lại ập tới, không cho chị thốt nên lời. Tôi vừa đứng bật dậy, vừa lớn tiếng gọi ông bố dượng, và thấy ông ta chạy vội ra khỏi phòng. Trên người còn mặc chiếc áo ngủ lụng thụng. Khi ông ta chạy tới thì chị tôi đã bất tỉnh. Ông ta đổ rượu brandy vào miệng chị tôi, cho người đi gọi ông thầy thuốc trong làng nhưng mọi cố gắng cứu chữa chị tôi đều vô hiệu. Chị lả dần, rồi tắt thở, không còn tỉnh lại được nữa. Người chị yêu quí của tôi đã chết một cách khủng khiếp như vậy đó.

- Xin hỏi cô một câu, Sherlock Holmes nói.Cô có tin chắc là đã nghe tiếng huýt sáo và tiếng rơi của một vật nặng bằng kim loại? Cô có dám thề là mình đã không nghe lầm không?

- Tôi cảm thấy mình không lầm chút nào. Nhưng dẫu sao tôi cũng không dám đoán chắc lắm, vì lúc đó gió đang gào thét bên ngoài và căn nhà cũ cũng phát ra đủ mọi thứ âm thânh giữa lúc mưa to gió lớn.

- Chị cô lúc đó đã ăn mặc tề chỉnh?

- Không! Chỉ mỗi chiếc áo ngủ trên người. Bên tay phải đang cầm một que diêm đã đánh lửa, còn bên tay trái - một bao diêm.

- Điều đó chứng tỏ cô ấy đã quẹt diêm lên để xem thử có chuyện gì khiến cô ấy sợ hãi. Chi tiết đó rất quan trọng. Vậy ông dự thẩm kết luận thế nào khi đến điều tra?

- Ông ấy xem xét hết sức cẩn thận nội vụ, vì bác sĩ Roylott từ lâu đã là đối tượng khả nghi. Nhưng ông ấy không tài nào tìm thấy một chứng cứ gì xác đáng về nguyên nhân cái chết. Cửa phòng được khoá chặt từ bên trong. Bên ngoài cửa sổ còn có thêm một lần cửa gỗ được gá trên những thanh sắt to bản để phòng ngừa kẻ gian. Hơn nữa, đêm nào cũng cài then cẩn thận. Tôi cũng đưa ông ấy đi xem tường vách: tất cả đều vẫn còn vững chãi lắm. Sàn nhà cũng được khám xét kỹ, nhưng vẫn chẳng có dấu hiệu khả nghi nào. ống khói lò sưởi tuy rộng, nhưng không thể chui qua. Như vậy, chắc chắn là khi xảy ra cái tai hoạ bi kịch ấy, chị tôi chỉ có một mình trong phòng.

- Thế khả năng bị đầu độc?

- Các bác sĩ cũng đã khám nghiệm tử thi, nhưng chẳng thu được một kết quả nào.

- Vậy, theo cô, lý do gì đã khiến người chị bất hạnh của cô chết thảm khốc như thế?

- Tôi tin rằng chị ấy chỉ vì quá kinh hoàng và chấn động thần kinh, tuy không thể hình dung nổi điều gì đã khiến chị ấy sợ hãi đến mức đó.

- Hôm đó, đám Di-gan có mặt trong địa phận trang trại không?

- Có, họ hầu như lúc nào cũng ở gần trang trại.

- Này, vậy cô nghĩ gì về dải băng, dải băng lốm đốm, mà chị cô có nhắc tới?

- Có lúc tôi nghĩ đó chỉ là những lời vô nghĩa trong cơn mê sảng của chị tôi; nhưng có lúc tôi cho rằng có lẽ chị tôi muốn nói tới một loại băng đảng gì đấy, chắc là tới đám người Di -gan, cũng có thể là thứ khăn trùm sặc sỡ mà dân Di gan hay dùng đã khiến chị ấy thốt ra hai chữ ”lốm đốm“ kỳ dị đó.

Holmes lắc đầu như có ý không chút nào thấy thoả mãn.

- Còn có một cái gì khác nữa kia! - anh nói - Xin cô kể tiếp đi.

- Hai năm trôi qua kể từ ngày đó, và cuộc sống của tôi càng trở nên lẻ loi, cô độc hơn bao giờ hết. Nhưng tháng trước, một anh bạn thân mà tôi quen biết từ nhiều năm, đã ngỏ lời cầu hôn tôi. Anh ấy tên là armitage, Perryarmitage, thứ nam của ông armitage ở vùng Crame Water, gần Reading. Bố dượng tôi không phản đối, và chúng tôi định sang xuân thì tổ chức hôn lễ. Cách đây hai ngày, bác sĩ Roylott gọi thợ tới, cho sửa chữa phần trái nhà ở mạn tây. Họ đập phá vách tường căn phòng ngủ của tôi, nên tôi phải dời sang ở tạm tại căn phòng nơi chị tôi đã qua đời, ngủ trên chính chiếc giừơng chị ấy từng ngủ. Đêm qua, tôi nằm mà chẳng tài nào chợp mắt được, vì nghĩ tới cái chết bi thảm của chị mình. Thế rồi, các ông có hình dung được không nỗi kinh hoàng của tôi. Tôi bỗng nghe thấy trongcảnh vắng lặng của đêm khuya cái tiếng huýt sáo khẽ mà chính chị tôi từng nghe thấy trước lúc chết. Tôi choàng ngay dậy, châm đèn lên, nhưng chẳng thấy gì trong phòng cả. Tôi quá hoảng sợ, nên không thể lên giường ngủ tiếp, đành mặc sẵn quần áo, ngồi chờ. Thấy trời vừa sáng, tôi vội lên đường đến gặp ông ngay, để cầu cứu ông.

- Cô đã xử sự rất khôn ngoan, bạn tôi nói. Nhưng cô đã kể hết chưa?

- Thưa ông, hết rồi.

- Chưa đâu, cô Roylott ạ. Cô đang bao che cho ông bố dượng của cô đấy.

- Sao kia? Ông muốn ám chỉ điều gì?

Thay vì câu trả lời, Holmes kéo cao ống tay áo của cô thân chủ lên. Năm vết đỏ bầm, dấu của năm ngón tay, nổi rõ trên cổ tay trắng muốt của cô gái.

- Cô bị ông ta đối xử tàn tệ quá! Holmes nói.

Cô gái đỏ bừng mặt, kéo vội ống tay áo xuống để che cái cổ tay bị bầm.

- Ông ấy là hạng người cục súc, cô nói, sức lực như hộp háp, và chắc không lường hết được sức mạnh của mình.

Cả ba chúng tôi ngồi im lặng hồi lâu. Holmes tì cằm lên hai tay, nhìn chằm chằm ngọn lửa cháy trong lò.

Mãi sau, anh mới lên tiếng:

- Vụ này thật bí ẩn. Có tới hàng trăm tình tiết tôi đang muốn biết rõ trước lúc quyết định phương hướng hành động. Chúng ta đừng để mất thời giờ. Cô có thể giúp chúng tôi về Stoke Moran ngay hôm nay, để chúng tôi xem kỹ lại mấy căn phòng đó, mà dượng cô không hề hay biết, được không?

- Được ạ. Vì ông ấy có nói là hôm nay phải lên Luân Đôn thu xếp một số công việc gì đó hết sức hệ trọng. Chắc ông ta sẽ vắng nhà suốt ngày, nên không ai cản trở các ôngđâu.

- Tuyệt. Thế thì cả hai chúng tôi sẽ cùng đến. Còn cô, cô có phải thu xếp việc riêng gì nữa không?

- Tôi có vài việc đang định làm gấp nhân lên đây, nhưng tôi sẽ quay về ngay bằng chuyến tàu 12 giờ, nên tôi vẫn có mặt ở nhà để tiếp đón hai ông.

- Vậy cô nên đợi sẵn chúng tôi sau mười hai giờ trưa. Tôi cũng có vài việc vặt cần thu xếp.Cô có vui lòng ở lại dùng điểm tâm với chúng tôi không?

- ồ không, tôi phải đi gấp. Hy vọng sẽ gặp lai các ông vào chiều nay -cô gái buông chiếc mạng đen xuống, rồi rời căn phòng.

- Anh nghĩ sao về vụ này, Watson? - Sherlock Holmes vừa hỏi vừa ngã người vào lưng ghế.

- Tôi cảm thấy đây là một vụ án đầy bí hiểm, có thể chứa đựng một tội ác thâm độc.

- Bí hiểm thật, mà cũng thâm độc thật.

- Cô gái cho biết sàn nhà, tường, vách còn rất chắc; không một ai có thể đột nhập qua cửa ra vào, cửa sổ, và ống khói, thì rõ ràng là người chị chỉ có một mình trong phòng, lúc cái chết bí hiểm kia ập đến.

- Vậy thì tiếng huýt sáo lúc nửa đêm, và những lời kỳ lạ cô ấy thốt ra trước lúc chết phải lý giải thế nào

- Tôi chưa thể nghĩ ra.

- Anh nên ngẫm nghĩ kỹ về tiếng huýt sáo giữa đêm khuya và dải băng của đám Di gan mà lão bác sĩ chứa chấp trong địa phận của lão. Ta cũng có lý do để tin rằng lão ta rất quan tâm tới việc ngăn cản cô con gái của người vợ cũ đi lấy chồng. Hơn nữa, ở đây còn có lời cô chị nhắc tới dải băng và sau cùng, là tình tiết cô Helen Stoner nghe thấy tiếng rơi của một vật nặng bằng kim loại. Âm thanh đó rất có thể là do một thanh sắt gá vào cánh cửa chắn bên ngoài cửa sổ phát ra, khi nó bật mạnh vào vị trí cũ.Tất cả những tình tiết đó, theo tôi, có thể giúp ta lý giải vụ án.

- Nhưng nếu vậy thì đám Di - gan cóliên quan gì?

- Tôi chưa thể hình dung.

- Tôi thấy có quá nhiều điều chống lại cái giả thuyết anh vừa đưa ra.

- Tôi cũng nghĩ vậy. Chính vì lý do đó nên hôm nay chúng ta phải tới tận nơi, tới Stoke Moran. Tôi muốn biết những bằng chứng phản bác có vững hay không, hay ít ra cũng hiểu rõ được sự thể hơn. ồ, lại sắp có chuyện quỉ quái gì nữa đây?

Cửa phòng bật mở, và một người đàn ông cao lớn vạm vỡ xuất hiện. Ông ta cao đến nỗi mũ gần chạm vào thanh ngang trên cùng của khung cửa, và to ngang tới mức choán gần hết cả bề rộng cửa ra vào. Mặt ông ta to bè, nhăn nheo, sạm nắng và hằn sâu những dấu tích của đủ mọi thứ dục vọng quỉ quái. Ông ta đảo mắt lia lịa nhìn hai chúng tôi, và cặp mắt trũng sâu cùng cái mũi khoằm của ông ta khiến ông ta trông như một con ác điểu già hung dữ.

Trong hai anh, ai là Holmes, hả? - lão hỏi

- Tôi đây, thưa ngài - bạn tôi bình thản đáp.

Ta là bác sĩ Grimesby Roylott ở Stoke Moran.

- Rất hân hạnh - Holmes nói - Mời bác sĩ ngồi.

- Ta chẳng thèm ngồi với anh làm gì. Con gái vợ ta vừa ở đây ra. Tađã lần được dấu vết nó. Nó đã hót gì với các anh, hả?

- Trời lạnh thế này quả là trái mùa - Holmes nói.

- Nó đã hót với anh những gì?- lão rít lên, giọng tức giận.

- Nhưng tôi nghe nói hoa vẫn sẽ được mùa - bạn tôi nói tiếp.

à, anh định đánh trống lảng chứ gì? - ông khách vừa nói vừa bước lên trước một bước. Anh thì ta chẳng lạ. Ta nghe danh anh lâu rồi. Anh là Holmes, một gã rất hay can thiệp vào công việc người khác.

Holmes tủm tỉm cười đắc ý.

- Trò chuyện với ông thật thú vị- anh nói. Bao giờ ra khỏi đây, ông làm ơn khép cửa hộ, vì phòng này hay có giò lùa.

Ta chỉ ra khỏi đây chừng nào ta nói hết những điều cần nói với anh. Đừng có liều can thiệp vào công việc của ta. Ta biết con Stonerđã mò tới đây - ta đã lần theo dấu vết của nó! Ta là một người nguy hiểm! Nhìn đây.

Lão bước nhanh về phía lò sưởi, cầm thanh sắt cời than, bẻ cong nó lại bằng đôi tay hộ pháp sạm nắng.

Liệu hồn, chớ có để bị sa vào tay ta - lão gầm lên, vứt thanh cời than vào lò, rồi bỏ di.

- Quả là một con người dễ mến -Holmes vừa nói vừa cười lớn. Giá lão còn ở lại, tôi có thể cho lão thấy tay tôi cũng chẳng yếu hơn tay lão lắm đâu. Nói chưa dứt lời, anh ta cầm thanh sắt cời than lên, rồi lên gân uốn thẳng nó lại như cũ.

- Anh Watsso, bây giờ tôi sẽ bảo dọn điểm tâm; sau đó, tôi đi một lúc, hy vọng sẽ thu thập được một ít tin tức khả dĩ giúp chúng mình trong vụ này.

Khoảng một giờ trưa, Sherlock Holmes trở về. Anh cầm trên tay một tờ giấy màu xanh, chi chít những ghi chép và những hình vẽ, những con số.

- Tôi đã được tận mắt thấy bản di chúc của người vợ quá cố - anh nói - Tổng số lợi tức khoảng bảy trăm năm mươi bảng. Mỗi cô gái có quyền đòi hai trăm năm mươi bảng lợi tức khi nào họ đi lấy chồng. Như vậy, nếu cả hai cô đều lấy chồng, thì lão bác sĩ chỉ còn được hưởng một số tiền chẳng đáng là bao; thậm chí chỉ một cô về nhà chồng thì lão cũng đã bị thua thiệt đáng kể. Công việc của tôi sáng nay vậy là chẳng vô ích, vì nó cho thấy lão ta có đủ lý do rất hệ trọng để tìm mọi cách ngăn cản việc kết hôn của hai cô gái. Và bây giờ, nếu anh đã sẵn sàng rồi thì chúng ta sẽ gọi một chiếc xe để ra ga Waterloo. Tôi sẽ rất biết ơn, nếu anh vui lòng nhét vào túi khẩu súng ngắn của anh. Súng với bàn chải đánh răng nữa, tôi nghĩ chúng ta chỉ cần hai thứ đó.

Đến Waterloo, chúng tôi đáp ngay tàu lên Leatherhead, rồi thuê một cỗ xe ngựa tại một quán trọ gần ga. Chúng tôi lên xe ngựa, băng qua khoảng bốn năm dặm trên những con đường làng ngoạn mục của vùng Surry. Hôm đó thời tiết tuyệt đẹp, ánh nắng chan hoà, bầu trời hơi vẩn mây, không khí sực nức mùi đất ẩm. Tôi cảm thấy có một sự tương phản kỳ lạ giữa những dấu hiệu ngọt ngào hứa hẹn một mùa xuân đẹp với công việc khủng khiếp mà chúng tôi đang theo đuổi. Bạn tôi ngồi đằng trước, đắm mình trong những trầm tư, hai ta khoanh trước ngực, mũ kéo sụp xuống tận mắt, cằm tì sát ngực. Nhưng bỗng anh vỗ vai tôi, chỉ tay về phía nhữngcánh đồng.

- Nhìn kìa! anh nói.

Một khu vườn sum sê cây cối trải dài trên một sườn đồi thoai thoải. Giữa đám cây lá nhô lên cái mái cao của một toà nhà cũ tàn tạ.

- Stoke Moran thì phải? - anh hỏi.

- Vâng, thưa ngài, đó là dinh cơ của bác sĩ Grimesby Roylott - người xà ích đáp - Ngài sẽ đỡ mất thời giờ hơn, nếu đi theo lối đường tắt băng qua đồng. Chỗ có một tiểu thư đang đi kia kìa.

- Theo tôi đó chắc là cô Stoner -Holmes phỏng đoán vậy.

Chúng tôi xuống xe, trả tiền, và chiếc xe ngựa lại lóc cóc quay về Leatherhead.

- Chào cô Stoner - Holmes nói.

Thân chủ chúng tôi chạy vội lại đón chúng tôi, vẻ mặt mừng rỡ.

- Tôi rất mong hai ông - cô reo lên, ân cần xiết tay chúng tôi. Bác sĩ Roylott đã lên Luân Đôn và khó có thể quay về trước tối nay.

- Chúng tôi đã có hân hạnh được gặp bác sĩ rồi - Holmes nói, và anh vắn tắt thuật lại những gì đã diễn ra. Cô Stoner tái mặt khi biết chuyện đó.

- Trời ơi! - cô kêu lên. - Vậy là lão đã theo sát gót tôi.

- Chắc thế.

- Lão quỉ quyệt tới mức tôi không thể biết lúc nào mình được an toàn. Lão có nói khi nào lão quay về không?

- Chắc lão phải cẩn trọng, vì có thể lão hiểu rằng mình đã gặp trên đường đi một người còn tinh khôn hơn chính lão. Đêm nay, cô phải khoá chặt cửa để tránh lão. Nếu lão định làm gì, chúng tôi sẽ gửi cô đến Harrow, ở với bà dì cô. Còn bây giờ, chúng ta phải tận dụng tối đa thời cơ, vì vậy, xin cô đưa ngay chúng tôi đến mấy căn phòng mà chúng tôi phải xem kỹ.
Toà nhà được xây bằng đá xám; phần giữa cao, còn hai chái xây cong. Mấy khung cửa sổ ở một bên chái đã vỡ, nên phải bít lại bằng những thành gỗ. Ngói trên mát sút lở nhiều chỗ. Một cảnh tường đổ nát phơi bày trước mắt chúng tôi. Phần giữa nhà khá hơn ít nhiều ; nhưng hiện đại hơn cả vẫn là khối bên phải. Những tấm rèm trên mấy khung cửa sổ và làn khói bay lên từ mấy cái lò sưởi cho thấy cả gia đình hiện sống tại phần này. Holmes đi đi lại trên bãi cỏ, chăm chú ngắm nhìn phía ngoài mấy khung cửa sổ.

- Tôi đoán cửa sổ này là cửa phòng ngủ trước đây cô sử dụng; cái chính giữa là phòng của chị cô, còn cái kế cận với toà nhà chính là phòng của bác sĩ Roylott, đúng không, thưa cô?

- Vâng, đúng rồi. Nhưng tôi hiện phải ngủ tại căn giữa.

- Chỉ tạm thời trong lúc sửa chữa thôi, nếu tôi không lầm. à luôn tiện cũng xin hỏi: hình như chẳng việc gì phải sửa chữa gấp như vậy thì phải. Vì tôi thấy bức tường ở đầu nhà còn chắc lắm mà.

- Đúng vậy. Tôi tin chắc đó chỉ là cái cớ để bắt tôi phải chuyển phòng thôi.

- À! Có thể đúng thế thật. Này, mặt trong cái chái hẹp này có một dãy hành lang mà cả ba phòng ngủ đều ăn thông ra, phải không? Bên phía đó chắc cũng phải có cửa sổ chứ?

Vâng, nhưng nhỏ lắm. Nhỏ đến nỗi không một ai có thể chui qua được.

- Vậy là từ mặt đó, không một ai có thể lọt vào phòng hai chị em cô, nếu đêm nào các cô cũng khoá chặt cửa. Bây giờ, cô làm ơn vào phòng cô và đóng chặt mấy cánh cửa chắn lại nhé.

Cô Stoner làm theo lời Holmes, và anh cố tìm mọi cách thử mở cánh cửa chắn, nhưng vô hiệu.

- Hừm! - anh nói - Giả thuyết đầu của tôi như vậy là đã bị loại bỏ. Không một ai có thể chiu qua ngả này, nếu cửa chắn đã bị cài chặt. Được rồi, bây giờ thì ta thử vào phía trong, xem có phát hiện được gì mới không.

Một cánh cửa nhỏ bên hông dẫn vào hành lang mà cửa của ba phòng ngủ đều ăn thông ra. chúng tôi vào căn phòng thứ nhì, hiện là phòng ngủ của cô Stoner và cũng là nơi chị cô đã gặp tai hoạ. Đó là một căn phòng nhỏ, đủ tiện nghi, trần thấp và có một lò sưởi lớn. Một cái tủ gỗ nâu đựng quần áo, có ngăn kéo, kê ở một góc phòng; còn góc kia là một cái gường trắng hẹp và một cái bàn con đặt bên trái cửa sổ. Hết thảy những thứ vừa kể cùng hai chiếc ghế dựa là toàn bộ đồ đạc trong phòng, nếu không kể tới tấm thảm trải giữa sàn. Holmes đặt vào góc phòng một chiếc ghế, ngồi xuống im lặng nhìn quanh toàn bộ căn phòng, không bỏ sót một chi tiết nào.

Sợi dây kéo chuông này ăn thông vào đâu?- mãi sau, anh mới lên tiếng, tay chỉ vào một sợi dây giật chuông cỡ lớn buông thõng xuống sát đầu giường.

- Nối với phòng người quản gia.

- Trông có vẻ mới hơn mọi thứ vật dụng trong phòng.

- Vâng. Vì mới được lắp cách đây vài năm.

- Chắc chị cô đòi mắc?

- Không tôi chẳng bao giờ thấy chị tôi giật chuông cả. chúng tôi toàn tự tay làm lấy mọi việc, vì nhà không nuôi người hầu.

- Xin lỗi cô mấy phút nhé, tôi muốn xem kỹ thêm sàn căn phòng một chút.

Anh bò tới bò lui, xem xét cẩn thận từng đường rãnh những tấm ván lát sàn. Cuối cùng, anh đến cạnh giừơng ngủ, nhìn chằm hằm một lúc, rồi lại đưa mắt nhìn bức tường từ trên xuống dưới rồi từ dưới lên trên. Đoạn, anh cầm lấy dây chuông giật mạnh một cái.

- Sao không nghe chuông reo gì cả? Thậm chí nó cũng chẳng được nối vào sợi dây thép kéo chuông. Lạ thật! Cô nhìn kìa, sợi dây thậm chí chỉ buộc vào một cái móc sắt nằm ngay phía trên cửa thông gió.

- Thật vô lý quá! Vậy mà lâu nay tôi chẳng để ý.

- Rất kỳ lạ! Holmes vừa lẩm bẩm, vừa giật sợi dây. Căn phòng này có một vài điểm rất kỳ quặc. Chẳng hạn, gã thợ xây hẳn phải điên rồi lắm mới trổ cửa thông hơi sang phòng bên cạnh; lẽ ra hắn có thể trổ ra ngoài; cũng chỉ mất chừng ấy công thôi.

- Cái này cũng mới làm gần đây - cô tiểu thư nói

- Chắc làm cùng lúc với sợi dây kéo chuông - Holmes nhận xét.

- Vâng dạo đó có một số thay đổi nhỏ trong nhà.

- Cô Stoner, cô vui lòng cho chúng tôi sang phòng ông bác sĩ xem qua một chút.

Phòng bác sĩ Roylott rộng hơn phòng hai cô con riêng của bà vợ trước, nhưng đồ đạc bài trí rất đơn sơ. Chỉ có một cái giừơng, một giá sách nhỏ bằng gỗ, một cái ghế bành kê cạnh giường, một giá sách nhỏ bằng gỗ, một cái ghế bành kê cạnh giường, một cái ghế xếp đặt sát tường, một cái bàn tròn và một tủ sắt lớn. Holmes thong thả đi quanh phòng, xem hết sức kỹ lưỡng từng món đồ đá.

- Tủ này đựng gì? Holmes vừa hỏi gõ vào chiếc tủ sắt.

- Giấy tờ làm ăn của bố dượng tôi.

- Ồ, thế ra cô đã có dịp nhìn vào bên trong?

- Chỉ một lần duy nhất, cách đây vài năm. Tôi nhớ là trong tủ đầy ắp giấy tờ.

- Ông ta có nuôi gì trong đó không? Như mèo chẳng hạn.

- Không, ông hỏi gì lạ thế!

- Thề thì cô nhìn đây! - Anh cầm lên một cái đĩa lót tách nhỏ, đựng sữa, đặt trên nóc tủ.

- Không, chúng tôi không nuôi mèo. Nhưng có một con báo bờm và một con khỉ đầu chó.

- À, vâng. Dĩ nhiên! Báo bờm chẳng qua chỉ là một con mèo lớn xác thôi. Nhưng tôi nghĩ rằng đĩa sữa nhỏ này e khó lòng chu cấp đủ cho con vật đó. Còn một điểm nữa tôi muốn làm sáng tỏ - Anh lấy kính lúp ra soi lên mặt chiếc ghế gỗ, xem xét mặt ghế hết sức kỹ lưỡng.

- Cảm ơn cô. Thế là rõ rồi, anh vừa nói vừa đứng dậy, cất chiếc kính lúp vào túi. Chà! Món này lý thú đây!

Vật khiến anh chú ý là chiếc roi nhỏ, treo trên góc giường. Tuy nhiên, chiếc roi ấy bị uốn cong ở đầu mút, rồi thắt lại thành một vòng tròn.

- Watson, anh nghĩ gì về món này?

- Đó chí là một cái roi cũng bình thường thôi. Có điều tôi không hiểu tại sao lại thắt vòng ở đầu mút.

- Chẳng bình thường lắm đâu, anh không thấy sao? Tôi nghĩ tôi xem xét xong rồi đấy, cô Stoner ạ. Điều hết sức hệ trọng là từ bây giờ, cô nhất nhất phải làm đúng những điều tôi khuyên. Vụ này nghiêm trọng lắm, ta không được chần chừ một phút nào nữa. Tính mạng của cô tuỳ thuộc cô đấy.

- Tôi xin phó thác hết cho ông.

- Trước hết, đêm nay cả hai chúng tôi phải ở lại trong phòng cô.Cả tôi lẫn cô Stoner đều kinh ngạc trố mắt nhìn anh.

- Vâng, phải như thế mới được. Để tôi cắt nghĩa. Chắc ở đằng kia là cái quán trọ của vùng này?

- Vâng, đó là quán trọ Crown Inn.

- Rất tốt. Từ đó nhìn sang có thể thấy được cửa sổ căn phòng cô không?

- Thấy được chứ.

- Khi nào bố dượng cô về, cô không được ra khỏi phòng, lấy cớ là cô bị nhức đầu. Bao giờ nghe thấy lão sửa soạn đi ngủ, thì cô hãy mở ngay cửa sổ, đặt lên bậu một ngọn đèn để báo hiệu cho chúng tôi . Xong xuôi, cô mang hết những gì mình cần sang bên phòng cũ của cô. Tôi tin chắc rằng, tuy đang sửa chữa, cô vẫn có thể nghỉ tạm một đêm bên đó.

- Vâng, chuyện đó chẳng có gì khó.

- Phần còn lại cô cứ để mặc chúng tôi lo liệu.

- Nhưng các ông sẽ làm gì

- chúng tôi sẽ ngồi bên căn phòng mới của cô để tìm cho ra nguyên nhân của những tiếng động đã quấy rầy cô.

- Ông Holmes, tôi tin rằng ông đã đi đến được một kết luận - cô Stoner vừa nói vừa đặt tay lên ống tay áo của bạn tôi.

- Có lẽ cô đúng.

- Vậy xin ông cho tôi biết tại sao chị tôi chết.

- Trước lúc cho cô biết, tôi muốn có những bằng chứng hiển nhiên hơn.

- Ít nhất ông cũng có thể cho tôi biết là tôi đoán định như vậy có đúng không: chị tôi chết vì nỗi hoảng sợ quá đột ngột?

- Ồ không, tôi không cho là vậy. Tôi nghĩ là có một nguyên nhân cụ thể hơn nhiều . Còn bây giờ, chúng ta phải tạm biệt nhau, vì nếu bác sĩ Roylott quay về mà bắt gặp chúng tôi ở đây, thì chuyển đi này coi như uổng công. Tạm biệt cô, cô hãy can đảm lên nhé! Nếu cô làm đúng những gì tôi dặn, cô có thể tin rằng chúng tôi sẽ sớm loại bỏ những hiểm hoạ đang rình rạp cô.

Sherlok Holmes và tôi thuê một phòng ngủ và một phòng khách tại quán trọ Crown Inn. Cả hai đều nằm ở tầng trên cùng, nên chúng tôi có thể nhìn rõ dãy nhà đang được sử dụng trong trang trại Stoke Moran. Vào lúc nhá nhem tối, chúng tôi thấy chiếc xe ngựa chở bác sĩ Grimesby Roylott chạy ngang qua cửa sổ phòng trọ. Vóc người lão trông càng cao lớn bên cạnh cậu xà ích bé nhỏ. Đến cổng, cậu đánh xe loay hoay một lúc mới mở được hai cánh cổng sắt nạng, và chúng tôi nghe được cái giọng khàn của bác sĩ Roylott gầm lên, trong khi lão giận dữ khua hai nắm đấm trước mũi cậu xà ích. Cỗ xe chạy qua cổng và chỉ một lát sau, chúng tôi đã thấy giữa lùm cây loé lên một ánh đèn mới thắp trong một phòng khách tại nhà lão.

- Watson ạ, quả tình tôi chưa dám chắc đêm nay có nên đưa anh đi cùng hay không - Holmes nói khi chúng tôi đang ngồi bên nhau trong bóng tối - Tình hình chắc sẽ nguy hiểm lắm!

- Tôi có thể giúp ích cho anh chút nào không?

- Có anh đi cùng là rất quí.

- Vậy thì tôi nhất định sẽ đi cùng anh.

- Cám ơn, anh tốt quá.

- Anh có nói đến nguy hiểm. Chắc chắn là anh đã phát hiện được nhiều điều trong những căn phòng đó hơn tôi.

- Không, tôi nghĩ rằng tôi chỉ rút ra được nhiều kết luận hơn anh thôi. Tôi cho rằng anh cũng đã trông thấy những gì tôi trông thấy.

- Tôi chẳng phát hiện được gì đáng chú ý, ngoại trừ sợi dây giật chuông. Tôi không hình dung nổi sợi dây đó được dùng làm gì.

- Anh cũng nhìn thấy cả cái lỗ thông gió chứ?

- Có. Nhưng tôi nghĩ rằng chẳng có gì kỳ lạ là có một lối hở nhỏ giữa hai phòng. Nó nhỏ tới mức một con chuột nhắt cũng khó chui quá.

- Tôi biết trước thế nào chúng ta cũng phát hiện được cái lỗ thông gió đó ngay từ khi chưa đến Stoke Moran.

- Thế thì hơi quá đây, anh Holmes thân mến ạ.

- Ồ, đúng thế. Anh không nhớ là cô Stoner cho biết chị cô ấy có lần ngửi thấy mùi khói xì gà của lão bác sĩ Roylott hay sao? Điều đó cho thấy ngay rằng giữa hai căn phòng tất phải có một lối thông sang nhau. Có điều cái lối thông đó phải rất nhỏ, nếu không thì viên dự thẩm đã nhận thấy. Tôi rút ra kết luận: đó chỉ là một cái lỗ thông gió.

- Nhưng cãi lỗ đó thì phỏng có hại gì?

- Ồ, ít ra cũng có sự trùngkhớp đáng lưu ý giữa các sự việc: người ta trổ một cái lỗ cửa thông gió ngay phía trên đầu giường, người ta treo một sợi dây giật chuông lên, thế là cô gái ngủ trên cái giường kia chết. Anh không thấy sự trùng khớp đó là kỳ lạ?

- Tôi vẫn chưa thấy những cái đó có gì dính dáng với nhau.

- Thế anh không thấy có gì kỳ lạ nơi chiếc giường ngủ kia sao?

- Không.

- Chân giường được gắn chặt vào sàn nhà. Đã bao giờ anh thấy một kiểu kê giường như thế chưa?

- Có lẽ chưa bao giờ.

- Cô gái không thể di chuyển được cái giường. Nó luôn được đặt cố định bên dưới lỗ thông gió và sợi dây thừng. Chúng ta có thể gọi đó chỉ là sợi thừng , vì người ta treo nó lên không phải để giật chuông.

- Anh Holmes- tôi reo lên - Bây giờ như tôi đã hiểu được lờ mờ những gì anh muốn nói. Vậy là chúng ta đã có mặt vừa kịp thời để chặn đứng một tội ác khủng khiếp.

- Phải, cũng khá khủng khiếp . Nhưng chúng ta sẽ còn phải nếm đủ mùi khủng khiếp chừng nào đêm nay còn chưa trôi qua. Cho nên, ta hãy bình tâm thưởng thức những tẩu thuốc này và nghĩ tới một cái gì đó vui hơn trong vài tiếng đồng hồ,

Khoảng chín giờ tối, ánh đèn giữa các lùm cây vụt tắt, cả trang trại bỗng chìm vào bóng tối. Hai tiếng đồng hồ nữa chậm chạp trôi qua, rồi thình lình một ánh đèn đơn độc đã loé sáng phía trước.

- Đó là ám hiệu của chúng ta -Holmes nói, rồi đứng bật dậy - ánh đèn phát ra từ cánh cửa sổ ở giữa.

Lát sau, chúng tôi đã xuống đường. Trời tối, gió lạnh quạt vào mặt. ánh đèn vàng ệch đằng trước soi đường cho chúng tôi trong đêm tối. Chúng tôi lách qua giữa những gốc cây, đến chỗ bãi cỏ, rồi băng qua nó. Khi chúng tôi sắp trèo qua cửa sổ, thì từ trong những bụi rậm gần đó bỗng lao tới một quái vật tựa như một đứa bé dị dạng. Nó gieo mình xuống đất, trụ lại trên bốn cẳng chân co quắp, rồi lao qua bãi cỏ, mất hút vàp bóng đêm.

- Trời ơi! - tôi rỉ tai Holmes - Anh có trông thấy gì không?

Trong khoảng một phút đồng hồ Holmes cũng hoảng sợ như tôi. Rồi anh cười khẽ và thì thầm vào tai tôi:

- Một cơ ngơi thật khả ái. Con khỉ đầu chó đó.

Tôi đã quên khuấy mất lũ ”gia súc“ kỳ quặc của lão bác sĩ hiểm độc. Thú thực, tôi cảm thấy nhẹ cả người, khi noi gương Holmes, cởi giày và trèo qua cửa sổ vào phòng. Bạn tôi khẽ đóng cánh cửa chắn lại, đặt ngọn đèn lên bàn, rồi đảo mắt nhìn quanh phòng. Mọi thứ vẫn y nguyên như hồi chiều. Rồi anh rón rén tiến lại gần tôi, rỉ tai tôi, giọng khẽ đến mức khó lòng nghe rõ được từng lời:

- Chỉ một tiếng động nhỏ nhất cũng có thể khiến những dự tính của chúng ta tiêu ma.

Tôi gật đầu để cho Holmes biết là tôi đã nghe thấy.

- Chúng ta phải tắt đèn ngay. Lão có thể phát hiện được ánh sáng qua lỗ cửa thông gió trên kia.

Tôi lại gật.

- Nhớ đừng ngủ gật nhé. Mạng sống của anh đang tuỳ thuộc vào đó. Chuẩn bị khẩu súng để khi cần, ta có thể ra tay. Tôi sẽ ngồi ở mép giừơng; còn anh, hãy ngồi tạm xuống chiếc ghế kia.

Tôi lấy khẩu súng ngắn ra, đặt lên góc bàn.

Holmes có mang theo một cây gậy dài, mảnh. Anh đặt nó lên mặt giừơng, sát bên tầm tay. Cạnh đó, anh đặt một bao diêm và một cây nến; xong xuôi, anh tắt đèn, và chúng tôi ngồi im trong bóng tối.

Chắc chẳng bao giờ tôi quên được cái đêm mất ngủ khủng khiếp đó! Tôi không thể nghe được một âm thanh nào, thậm chí cả tiếng thở. Tôi biết bạn tôi đang ngồi cách mình mấy bước, mắt mở trừng trừng và cũng đang trong trại thái thần kinh cẳng thẳng như tôi. Cánh cửa chắn ngăn hết mọi thứ ánh sáng, chúng tôi ngồi trong bóng tôi dày đặc. Bên ngoài chốc chốc lại vọng vào tiếng chim ăn đêm; và có một lần vang lên một tiếng hú dài tựa tiếng mèo kêu: hẳn là con báo bờm đã được thả. Từ xa vẳng lại tiếng chuông nhà thờ điểm giờ: cứ mười lăm phút lại buông một tiếng trầm trầm. Ôi, những khoảng thời gian mười lăm phút đó sao mà dài thế! Đồng hồ điểm mười hai giờ, một giờ, hai giờ, rồi ba giờ.. ., và chúng tôi vẫn im lặng ngồi đợi xem điều gì sẽ xảy ra.

Bỗng một ánh lửa loé lên từ bên kia lỗ cửa thông gió, rồi vụt biến mất ngay. Sau đó mùi dầu cháy và mùi sắt nung khé tlẹt bay sang. Ai đó ở phòng bên đã châm đèn. Tôi nghe một tiếng di động rất khẽ, rồi tất cả lại chìm vào im lặng, tuy mùi khét mỗi lúc một nồng nặc. Suốt nửa giờ tôi căng tai nghe ngóng. Rồi thình lình tôi nghe một tiếng động khác, rất khẽ, tựa như tiếng luồng hơi nước thoát ra từ một ấm đun nước. Đúng vào lúc tôi nghe thấy âm thanh đó, thì Holmes đứng bật dậy, đánh diêm và giận dữ vụt cây gậy tới tấp vào sợi dây giật chuông.

- Anh có thấy nó không, Watson? - anh rít lên - Anh có thấy nó không?

Nhưng tôi chẳng thấy gì cả. Vào lúc Holmes đánh diêm, tôi nghe thấy có tiếng huýt sáo khẽ, nhưng rõ.Tuy vậy, ánh lửa ở đầu que diêm đột ngột loé sáng đập vào cặp mắt mệt mỏi của tôi, khiến tôi không thể nói đích xác bạn tôi đang đạp tới tấp vào cái gì. Tuy vậy, tôi có thể thấy rõ mặt anh tái nhợt như một xác chết và đầy kinh hãi. Anh ngừng tay, ngước nhìn chằm chằm vào lỗ cửa thông gió, rồi giữa cảnh im ắng của đêm khuya bỗng vang lên một tiếng rú kinh hoàng mà tôi chưa từng nghe thấy bao giờ. Tiếng rú mỗi lúc một to hơn, một tiếng rú khàn khàn, chứa đầy đau đớn, sợ hãi và phẫn nộ. Tôi đứng nhìn trừng trừng vào Holmes, còn anh thì nhìn tôi, cho tới lúc những tiếng vọng cuối cùng của tiếng rú kia chìm vào cảnh im ắng của đêm khuya như ban nãy.

- Thế nghĩa là thế nào? - tôi thở dốc.

- Thế nghĩa là mọi chuyện đã kết thúc, - Holmes đáp - và xét cho cùng, kết thúc như thế là hay hơn cả. Anh cầm súng lên, chúng ta sẽ vào phòng bác sĩ Roylott.

Vẻ mặt trang nghiêm, anh châm đèn lên và bước ra hành lang. Tôi đi ngang anh sáng phòng bên. Anh gõ cửa hai lần, nhưng bên trong không có tiếng đáp. Anh vặn quả đấm, rồi đi vào phòng. Tôi vào theo, súng lăm lăm trong tay.

Một cảnh tường kỳ lạ đập vào mắt chúng tôi. Trên bàn đặt một ngọn đèn, hắt ánh sáng chói gắt lên chiếc tủ sát với cánh cửa đang hé mở. Ngồi trên chiếc ghế gỗ kê cạnh đó là bác sĩ Grimesby Roylott mình choàng chiếc áo chùng màu xám; và vắt ngang trên đùi lão là chiếc roi mà chúng tôi đã để ý tới hồi chiều. Cằm lão ta hếch lên, còn đôi mắt thì nhìn trừng trừng vào một góc trần nhà: một cái nhìn bất động trông rất khủng khiếp. Quanh đầu lão quấn một dải băng màu vàng kỳ dị, điểm những đốm màu nâu sẫm. Khi chúng tôi bước vào, lão vẫn ngồi im lặng và bất động.

- Dải băng! Dải băng lốm đốm! - Holmes khẽ thốt lên.

Tôi bước tới một bước. Ngay trong khoảnh khắc đó, dải băng bắt đầu chuyển động. Từ đám tóc của bác sĩ Roylott ngóc lên một cái đầu có cạnh và cái cổ ngẳng của một con rắn gớm ghiếc.

- Đó là giống rắn độc đầm lầy! - Holmes kêu lên - Độc hơn bất cứ giống nào ở ấn Độ. Lão ta chết mười giây sau khi bị rắn cắn. Anh hãy nhốt ngay con rắc độc kia vào tủ sắt đã, rồi đưa cô Stoner đến một nơi an toàn; xong đi báo cảnh sát địa phương.

Anh vừa nói, vừa rút vội cây roi trên đùi viên bác sĩ. Anh tròng đầu roi vào cổ rắn, thắt lại, rồi nhốt rắn vào tủ, đóng lại.

Đó là sự kiện đích thực về cái chết của bác sĩ Grimesby Roylott ở Stoke Moran. Trên đường về vào sáng hôm sau, Holmes nói thêm cho tôi rõ những việc còn lại mà tôi chưa biết về vụ này.

- Ban đầu, tôi đã kết luận hoàn toàn sai - anh nói. Điều đó cho thấy, Watson thân mến, sẽ nguy hiểm biết chừng nào khi lý giải mà chưa có đủ thông tin. Không còn nghi ngờ gì nữa, chính việc cô gái tội nghiệp nọ đã dùng dải băng đễ diễn tả những gì cô trông thấy nhờ ánh sáng của que diêm và cả sự có mặt của đám Di gan trong trang trại - hai thứ đó đã gợi ra trong đầu tôi một ý nghĩ hoàn toàn sai lầm. Nhưng tôi đã gạt bỏ ngay giả thuyết đó khi hiểu rõ rằng không thể có một hiểm hoạ nào đe doạ cô ấy từ phía cửa sổ và cửa ra vào. ý nghĩ của tôi nhanh chóng đổ dồn vào cái lỗ thông gió và sợi dây giật chuông thõng xuống đầu giường, như tôi đã có lưu ý với anh.Tôi còn phát hiện thêm được rằng sợi dây nọ chỉ là đồ giả và chiếc giường ngủ bị gắn chặt vào gỗ lát sàn. những chi tiết đó khiến tôi nghĩ ngay; sợi dây kia chỉ là một thức cầu nối, giúp cho một vật đi từ lỗ thông gío xuống giường ngủ. Tôi đoán đó phải là một con rắn, vì biết lão bác sĩ có nhận một số giống vật từ ấn Độ gửi sang.Tôi cảm thấy hình như mình đã lần ra đầu mối. Rồi tôi nghĩ tới tiếng huýt sáo. Dĩ nhiên lão phải gọi con rắn kia về trước khi trời sáng, để khỏi bị nạn nhân phát hiện. Lão đã luyện cho nó chắc là bằng đĩa sữa mà chúng ta đã thấy, khi nghe tiếng huýt sáo mà lão gọi. Lão chỉ cho nó leo qua lỗ thông gió vào thời điểm thích hợp, và biết rằng nó sẽ theo sợi dây mà bò xuống đầu giừơng. Con rắn có thể cắn người ngủ trên giừơng, mà cũng có thể không. Đêm đêm, cô gái có thể thoát chết trong vòng một tuần nhưng sớm muộn gì rồi cũng bị nó cắn.

Tôi đã đi đến những kết luận đó trước khi đặt chân vào phòng lão. Khi quan sát mặt ghế, tôi thấy lão hay đứng lên đó. Lão nhất thiết phải làm vậy, vì không thể nào với tay tới lỗ cửa thông gió sát trên trần nhà. Cái tủ sắt, đĩa sữa và ngọn roi đã đủ để xua tan những ngờ vực còn lảng vảng trong trí tôi. Tiếng động mạnh do một vật bằng kim loại phát ra, mà cô Stoner nghe được, rõ ràng do ông bố dượng gây ra: lão cần đóng mạnh cánh cửa sắt để nhốt con vật nuôi đáng sợ đó. Sau khi đã đi đến những kết luận đó, tôi liền tiến hành việc chứng minh, nhưng anh đã thấy đó. Khi nghe được những tiếng động rất khẽ mà tôi nghĩ chính anh cũng nghe rõ, tôi lập tức thắp đèn lên và tấn công con vật“.

- kết quả là anh đã đuổi nó bò trở lại lỗ thông gió.

Và cũng chính bằng cách đó, tôi đã xua nó về lại với ông chủ đang ngồi ở phòng bên. Bị đánh tới tấp, con rắn trúng gậy mấy lần, nó nổi giận và tấn vào kẻ đầu tiên mà nó chạm trán trên đường về. Và chính vì vậy, không còn ngờ vực gì nữa, tôi gián tiếp chịu trách nhiệm về cái chết của bác sĩ Grimesby Roylott. Nhưng chắc là việc đó chẳng đè nặng lên lương tâm tôi lắm đâu.


Conan Doyle

seta
20-10-2003, 23:36
Mạt cưa mướp đắng

Toa hạng nhất chẳng có mấy hành khách. Pierre Joli chọn cho mình một cupe trống. Hắn hy vọng sẽ được ngồi một mình, không ai quấy rầy trong suốt cuộc hành trình. Thế nhưng khi tàu bắt đầu chuyển bánh thì cửa cupe bật mở và một cô gái tóc vàng lịch sự, tay xách chiếc va-li da, bước vào.

Cô ta cố kiễng chân nâng chiếc va-li lên giá để hành lý, tuy nhiên việc đó rõ ràng là quá sức đối với cô. Pierre đứng dậy nhiệt tình giúp cô gái.

- Rất cám ơn! - Cô mỉm cười và trong một thoáng, mắt họ gặp nhau. Ánh mắt của cô gây cho hắn cảm giác rằng cô có ý ve vãn đôi chút. Nhưng nếu quả như vậy thật thì cô đã không gặp may.

Sau một ngày khá nặng nề, hắn đã mệt rã rời và chỉ mong ước một điều duy nhất: Chợp mắt vài tiếng để trước khi tàu đến Lyon có thể lấy lại sức lực và chỉnh đốn tư thế. Hắn hy vọng Virginia sẽ ra tận ga đón. Đã 5 năm trời họ không gặp nhau và trong suốt thời gian đằng đẵng đó, hắn đã buồn nhớ cô biết bao.

Cô gái tóc vàng ngồi xuống, châm thuốc hút và rút từ túi ra một cuốn sách. Hắn thầm nhận xét rằng cô ta có đôi chân thật đẹp và rõ ràng cô ta cũng rất ý thức được điều đó. Lát sau, hắn cố thu xếp chỗ ngủ sao cho thật thoải mái, đoạn tắt đèn nhỏ đầu giường mình và thiếp đi.

Khi hắn tỉnh dậy, cô gái tóc vàng vẫn ngồi và đang tuyệt vọng lục lọi, tìm kiếm chiếc túi xách của mình.

- Ôi thật kinh khủng, - cô thốt lên, - tôi bị mất ví rồi! Biết làm sao đây? Bây giờ tôi không còn một xu nào hết, mà tôi cần phải có 200 phờ-răng để mua vé máy bay.

Cô gái nhìn vào mắt hắn:

- Anh có thể cho tôi vay 200 phờ-răng được không?

Cô hỏi thẳng thừng, ráo hoảnh cứ như đang hỏi xin vài que diêm vậy. Dù thế nào thì tiền nong trong người Pierre giờ đây cũng chẳng có nhiều nhặn gì. Và tất cả những gì hiện có trong ví hắn, hắn đã phải khó nhọc tích cóp trong suốt 5 năm trời.

- Không, đáng tiếc là không có, - vì thế hắn trả lời.

Cô gái nở một nụ cười quyến rũ:

- Đưa tôi 200 phờ-răng, anh sẽ dễ dàng thoát thân.

Hắn nhìn cô không hiểu:

- Tôi sẽ dễ dàng thoát thân? Cô ngụ ý gì vậy?

- À, đơn giản là tôi muốn nói rằng tôi cần phải kiếm được 200 phờ-răng trước khi tàu chúng ta tới Dijon. Nhưng, có lẽ anh không có đủ 200 phờ-răng.

- Ô không, cô nói gì vậy, - Pierre gật đầu - tất nhiên là tôi có. Nhưng tôi hoàn toàn không biết cô là ai! Thậm chí cô cũng chưa tự giới thiệu. Mà đây là cả một việc...

Thoáng vài giây cô gái ngồi im, không nói lời nào. Sau đó cô hơi cúi người về phía trước, cố nắm bắt ánh mắt của hắn.

- Anh hãy thử tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra, nếu như bây giờ tôi bắt đầu gào lên, giật cần hãm “đề phòng sự cố” và kể với trưởng toa rằng anh định cưỡng hiếp tôi. Bởi vì trước đây đã từng có những trường hợp các hành khách đàn ông đi đêm một mình trong cùng cupe với phụ nữ trẻ đã giở những trò như thế. Tất cả những chuyện đó sẽ đưa lại cho anh nhiều điều khó chịu đấy. Nào là cảnh sát đường sắt ư, nào là hỏi cung ư, rồi lại còn các nhà báo đang khao khát những tin giật gân nữa chứ! Để thoát khỏi một vụ bê bối kiểu như thế, tôi nghĩ, anh sẽ không tiếc 200 phờ-răng đâu.

- Tôi nghĩ rằng, với tôi, vở diễn đấy của cô sẽ không thành đâu, cô bạn quý mến ạ, - hắn thờ ơ nói và rít thuốc.

- Anh hãy nghe đây này, - cô gái mỉm cười tự tin, - tôi có cảm tưởng anh chưa tính được rằng tôi hoàn toàn không có ý định đùa đâu nhé. Nếu tôi làm bù đầu tóc lên, xé toạc áo ra, rồi chạy ra hành lang gào ầm lên, thì anh sẽ rất khó thuyết phục những người khác rằng anh không dính dáng gì đến chuyện này cả. Mà như tôi được biết, ở đất nước này, người ta trừng phạt rất nghiêm khắc những ai có những hành vi vô lại đối với phụ nữ!

- Cô quả là đê tiện hết sức...

Cô gái cắt ngang lời hắn:

- Chẳng lẽ không đáng trả 200 phờ-răng để thoát khỏi tất cả những điều khó chịu đó sao! Tôi nhìn thấy anh đeo nhẫn cưới. Vợ anh sẽ nói gì khi cô ấy đọc trên báo rằng chồng cô ấy đã...

- Cô thật là ghê tởm.

Cô gái mỉm cười:

- Ồ không hẳn vậy đâu! Tôi rất hiền lành với anh đấy. Bởi tôi chỉ đòi anh vẻn vẹn có 200 phờ-răng thôi, phải vậy không? Có những trường hợp tôi còn moi được nhiều hơn gấp bội cơ. Chẳng hạn 500, 1.000, đôi khi thậm chí còn xoay được vài nghìn ấy chứ! Các chính trị gia với tiếng tăm không mấy trong sạch thường vui lòng “ứng” cho tôi những khoản tiền không nhỏ để phòng ngừa những vụ xì-căng-đan. Tôi thường bao giờ cũng nhắm trước cho mình con mồi. Tôi đánh giá anh khoảng 200 - 300, thậm chí có thể tới 500 phờ-răng, nhưng tôi chỉ xin anh có 200 thôi.

- Cô thôi đi được rồi đấy! - Pierre đứng dậy chụp lấy va-li của mình và muốn nhanh chóng thoát khỏi cupe.

- Hãy ngồi xuống đấy! - Cô gái ra lệnh và ngay tức khắc quay ra ngáng đường hắn, - hay là để tôi kêu lên bây giờ! Trong chuyện này thì tôi lão luyện lắm. Anh hãy tin rằng tôi rất lành nghề trong công việc của mình!

Pierre quẳng va-li xuống ghế và ngồi phịch xuống. Hắn tin rằng cô ta rất dám thực thi những lời đe dọa đó nếu như hắn mưu toan chống lại cô ta. Liếc nhìn sang, hắn thấy trên cườm tay cô ta những đồ trang sức đắt tiền. Đó là một bằng chứng hùng hồn cho thấy cô ta không hề cường điệu khi nói rằng cô ta rất lão luyện trong nghề.

Cô gái ngó nhìn đồng hồ đeo tay bằng vàng của mình.

- Còn năm phút nữa chúng ta sẽ tới Dijon, mà tôi thì phải xuống bến đó, - cô nói bằng một giọng hết sức lạnh lùng sự vụ, - tôi cho anh đúng một phút nữa để quyết định. Phanh hãm phòng sự cố nằm ngay dưới cửa cupe đây. Tôi chỉ cần vài giây là đủ để xé áo, vò tóc mình, cào mặt anh và kêu cứu. Tôi có thể gào chói tai đến mức...

- Còn tôi thì sẽ lập tức kể với mọi người sự việc trên thực tế ra sao và cô là kẻ lừa bịp thế nào. Cô đừng tưởng rằng...

Cô gái phì cười khinh bỉ:

- Những kẻ cưỡng dâm bao giờ chẳng nặn ra những điều thanh minh ngu xuẩn, nhưng ai mà tin chúng được. Nhất là trong những trường hợp nghiêm trọng như thế này!

Pierre nhổm dậy, dụi đầu thuốc lá vào chiếc gạt tàn và sau vài giây lưỡng lự tiến đến trước mặt cô gái. Cô ta vẫn đứng chắn ngang cửa, một tay nắm lấy cổ chiếc áo sơ mi trắng của mình để sẵn sàng xé toạc nó trong chớp mắt. Những móng tay nhọn hoắt sơn đỏ của cô ta, rõ ràng chỉ cần vài giây là đủ để làm biến dạng khuôn mặt hắn - để “tự vệ” mà.

- Thôi được, - hắn nói, đồng thời nhún vai khuất phục, rút từ ví ra mấy tờ giấy bạc, - nhưng để bù lại khoản này tôi đề nghị phải trả lại tôi lãi suất bằng hiện vật.

- Bằng hiện vật? Thế nghĩa là thế nào?

- Tôi đề nghị cho phép tôi hôn cô, để sau này còn có thể vỗ ngực khoe khoang rằng đã được hôn một nữ quái tống tiền trâng tráo nhất thế giới! Cô sẽ nhận 200 phờ-răng, còn tôi thì được cái hôn. Như vậy theo tôi, có lẽ công bằng hơn. Cô thấy thế nào, hay là cô có ý kiến khác?

Cô gái tóc vàng thoáng chút lưỡng lự. Sau đó cô chụp lấy mấy tờ giấy bạc, còn hắn thì kéo cô về phía mình, ôm hôn say đắm. Đó là một chiếc hôn rất dài.

- Thôi đủ rồi, - cô gái thốt lên rồi quẫy ra. Đúng lúc đó đoàn tàu dừng lại. Cô gái lôi va-li của mình khỏi giá và bước ra. Pierre đứng ở cửa cupe dõi theo bước chân cô dọc hành lang cho đến khi cô bước ra khỏi toa tàu. Đoạn, hắn trở lại, ngồi xuống chỗ của mình, châm một điếu thuốc mới và rút ra một tờ báo. Đã vài phút trôi qua, đoàn tàu lại chuyển mình đi về hướng Lyon.

- Cô nhóc thật ranh ma, quỷ quyệt, - hắn lẩm bẩm không giấu vẻ khâm phục, - nhưng thật không may cho cô ta là đã gặp phải mình.

Nói đoạn hắn đút chiếc đồng hồ và chiếc xuyến vàng của cô ta vào túi áo. Lật qua mấy trang báo, hắn cẩn thận cắt ra một mẩu tin, trong đó có nói rằng ngày hôm nay, sau khi hết hạn 5 năm tù, trùm móc túi Pierre Joli vừa được phóng thích.

seta
20-10-2003, 23:42
Cuộc phiêu lưu của sáu pho tượng Napoleon
Ông Lestrade, thanh tra Scotland yard, buổi tối thỉnh thoảng ghé thăm chúng tôi và Sherlock Holmes rất hoan nghênh những buổi tối ấy, vì nhờ đó mà anh có được mối liên hệ thường xuyên với Tổng nha cảnh sát. Để đền đáp lại cho những tin tức mà Lestrade đem đến, Holmes luôn chăm chú lắng nghe mọi tình tiết về các vụ án mà viên thanh tra này đang phụ trách điều tra. Đôi lúc, như hoàn toàn vô tình, anh biết cách đưa ra những lời khuyên và gợi ý rút từ vốn tri thức và kinh nghiệm phong phú của anh.

Riêng tối hôm đó Lestrade, sau khi nói về thời tiết và tin các báo, không nói thêm gì nữa, chỉ làm thinh. Holmes nhìn xoáy vào ông.

- Ông có vụ nào đáng chú ý không? - Holmes hỏi.

- Ồ không, ông Holmes ạ, chẳng có gì đặc biệt cho lắm.

- Vậy thì ông cứ kể cho tôi nghe đi.

Lestrade cười:

- Khó mà giấu nổi ông điều gì, ông Holmes ạ. Đúng là tôi đang nghĩ đến một chuyện, nhưng nó thật vớ vẩn nên tôi cứ phân vân không biết có nên làm phiền ông không. mặt khác, việc này lại rất đặc biệt, chắc chắn như thế. Tôi biết ông vốn rất thích tất cả những chuyện khác thường. Nhưng theo tôi, chuyện này nên để bác sĩ Watson quan tâm hơn là tôi với ông.

- Bệnh tật gì không? - tôi hỏi.

- Chứng điên. Mà lại là một bệnh điên kỳ quặc nữa Các ông chắc không tưởng tượng được bây giờ mà lại có người căm ghét Napoleon Đệ nhất đến mức hễ thấy bất cứ một hình tượng nào của ông ta là đập vỡ cho bằng được.

Holmes ngả người trên ghế.

- Chuyện này không thuộc lĩnh vực của tôi, - anh nói.

- Đúng thế, thì tôi đã nói mà. Nhưng khi thằng cha đó phạm tội ăn trộm để đập nát những pho tượng không phải của hắn, thì câu chuyện đã chuyển từ tay bác sĩ sang tay cảnh sát rồi.

Holmes lại ngồi thẳng dậy.

- Ăn trộm à! Câu chuyện đã thú vị hơn rồi. Xin ông kể chi tiết cho tôi nghe với.

Lestrade rút cuốn số ghi chép công vụ ra, và lật từng trang để nhớ lại cho rành mạch.

- Vụ thứ nhất chúng tôi được báo là cách đây bốn hôm. Sự việc xảy ra tại cửa hiệu ông Morse Hudson làm nghề bán tranh, tượng ở đường Kennington Road. Người phụ việc vừa rời khỏi cửa hiệu một lát thì nghe có tiếng loảng xoảng. Anh ta vội quay vào và thấy pho tượng bán thân Napoleon vẫn bày trên quầy cùng với các tác phẩm nghệ thuật khác đã vỡ tan tành trên sàn nhà. Anh ta chạy vụt ra đường nhưng không thấy ai, tuy có nhiều người qua đường nói rằng họ trông thấy một người từ trong cửa hiệu chạy ra. Pho tượng thạch cao nọ không đáng giá là bao, và toàn bộ sự việc đó chỉ như một trò trẻ con không đáng phải mở cuộc điều tra.

- Nhưng vụ thứ hai thì nghiêm trọng hơn và cũng kỳ quặc hơn. Chuyện mới xảy ra đêm qua.

- Ở đường Kennington Road, cách cửa hiệu Morse Hudson vài trăm mét là nhà một bác sĩ có tiếng, tên là Barnicot. Tuy nhà ở đường Kennington Road, bác sĩ này có một phòng mổ ở đường Lower Brixton Road, cách đấy ba cây số. Bác sĩ Barnicot là người rất hâm mộ Napoleon. Nhà ông đầy sách và tranh của vị hoàng đế Pháp này. Mới đây ông mua được ở cửa hiệu Morse Hudson hai bức tượng bán thân Napoleon bằng thạch cao do nhà điêu khắc người Pháp Devine tạc. Ông bày một bức trong đại sảnh của căn nhà trên đường Kennington Road, còn bức kia ông đặt trên mặt lò sưởi tại phòng mổ ở Lower Brixton. Sáng nay, từ trên gác bước xuống, bác sĩ Barnicot phải sửng sốt khi phát hiện ra đêm qua nhà ông bị kẻ trộm đột nhập, song trong nhà không mất gì cả, ngoài bức tượng bán thân bằng thạch cao đặt ở đại sảnh. Tên trộm đã mang pho tượng ra khỏi nhà và đập nát vào bức tường ngoài vườn, vì sáng ra người ta thấy mảnh tường vỡ nằm vung vãi dưới chân tường.

Holmes xoa tay nói:

- Chuyện này quả là rất mới lạ.

- Tôi vẫn nghĩ là ông sẽ thích chuyện này mà. Nhưng tôi vẫn chưa kể hết. Bác sĩ Barnicot phải đến phòng mổ lúc mười hai giờ trưa. Đến nơi, ông thấy cửa sổ phòng mổ đã bị phá tung từ đêm qua và khắp sàn vung vãi những mảnh vỡ của pho tượng thứ hai. Pho tượng bị đập vụn ngay tại chỗ. Trong cả hai vụ đều không có manh mối gì về tên tội phạm (hay kẻ điên rồ) đã làm ra vụ này. Đấy sự việc là như vậy đấy, ông Holmes ạ.

- Tôi muốn biết hai pho tượng bị đập vụn của bác sĩ Barnicot có giống hệt với pho tượng bị phá tan tại cửa hiệu ông Morse Hudson không?

- Những pho tượng đó đều đúc từ một khuôn ra mà.

- Điều đó bác bỏ cái giả thuyết cho rằng kẻ đập tượng hành động do căm thù Napoleon: vậy thì việc kẻ đó bắt đầu bằng ba bản sao của cùng một pho tượng bán thân, khó lòng có thể là do một sự trùng hợp ngẫu nhiên.

- Chính tôi cũng nghĩ như ông, - Lestrade nói, - Tuy nhiên, Morse Hudsson là người bán tượng ở khu vực đó của Luân Đôn và suốt mười năm qua cửa hiệu ông ta chỉ có duy nhất ba pho tượng kia. Cho nên tuy ông nói ở Luân Đôn có hàng trăm pho tượng Napoleon, nhưng cũng rất có thể ba pho tượng kia là những pho tượng duy nhất trong vùng đó. Vì vậy, cái người điên sống trong vùng mới khởi sự bằng chính ba pho tượng ấy.

- Tôi chỉ xin nhận xét là hắn hành động tuy rất kỳ lạ nhưng có tuân theo một nguyên tắc nào đấy. Chẳng hạn, ở đại sảnh trong nhà bác sĩ Barnicot, nơi mà tiếng động có thể làm cho chủ nhà thức giấc, hắn đã đem pho tượng ra ngoài rồi mới đập vỡ. Còn ở phòng mổ ít nguy hiểm hơn, hắn đã đập vụn pho tượng ngay tại chỗ. Vụ này có lẽ như nhố nhăng, nhưng một số vụ hay nhất của tôi khi mới khởi đầu cũng không có chút gì hứa hẹn. Vì vậy, tôi sẽ rất biết ơn ông, Lestrade, nếu ông báo cho tôi bất cứ tiến triển mới nào trong vụ này.

Các sự kiện tiếp theo của vụ án mà bạn tôi đang trông chờ xảy ra nhanh và dưới một hình thức bi đát hơn chúng tôi tưởng tượng nhiều . Sáng hôm sau, tôi còn đang mặc quần áo trong phòng ngủ thì Holmes gõ cửa bước vào, tay cầm một bức điện. Anh đọc to lên:

”Đến ngay Kensington, Pitt Street, 131.
Lestrade“.

- Thế là thế nào nhỉ?- Tôi hỏi.

- Không rõ. Cái này có thể hiểu thế nào cũng được. Nhưng tôi nghi đây là câu chuyện về những pho tượng kia. Nhưng trong trường hợp này, có lẽ anh bạn đập phá tượng của chúng ta đã chuyển hoạt động sang một khu khác của Luân Đôn. Cà phê đã pha sẵn cho anh ở trên bàn và xe ngựa đã đợi sẵn ngoài cửa rồi.

Nửa giờ sau chúng tôi đã có mặt ở Pit Street. Lúc chúng tôi đến gần, một đám người hiếu kỳ đã tụ tập trước ngôi nhà. Holmes huýt sáo;

- Thế này thì ít ra cũng là một vụ mưu sát. Nếu không thì dân vô công rồi nghề ở Luân Đôn không tụ tập đông đến thế. ồ, Lestrade đang đứng bên khung cửa sổ trước nhà kia kìa. Chúng ta sẽ biết hết mọi việc ngay thôi.

Lestrade với vẻ mặt trịnh trọng bước ra đón chúng tôi và dẫn vào phòng khách. Chúng tôi thấy một người đàn ông đứng tuổi, mặc áo choàng nội tẩm, đang đi đi lại lại trong phòng. Vẻ băn khoăn lo lắng, Lestrade giới thiệu đó là chủ nhà - ông Horace Harker, một nhà báo.

- Chuyện pho tượng Napoleon lại tiếp diễn, - Lestrade nói - Tối qua ông tỏ ra quan tâm tới chuyện này, ông Holmes, nên tôi nghĩ ông sẽ vui lòng có mặt khi giờ đây vụ việc đã dẫn đến một sự kiện đáng buồn như thế này.

- Sự kiện gì vậy?

- Án mạng. Ông Harker, phiền ông kể lại cho các vị đây nghe đầu đuôi câu chuyện vừa xảy ra. Người đàn ông mặc áo choàng quay về phía chúng tôi.

- Tôi đã nghe tiếng ông, ông Holmes ạ, - ông nói, - và nếu ông làm sáng tỏ được sự việc kỳ lạ này thì tôi cũng thấy mình được đền bù hậu hĩnh cho cái công trình bày tất cả những việc vừa xảy ra.

Mọi việc đều như xoay quanh cái pho tượng bán thân Napoleon tôi mua bốn tháng trước đây. Tôi mua được với giá rẻ tại hiệu Harding Brothers, gần nhà ga High Street. Tôi hay viết bài về đêm và thường ngồi làm việc đến tận sáng sớm. Hôm nay cũng vậy. Tôi ngồi làm việc trong phòng mình ở mặt sau tầng thượng, gần ba giờ sáng bỗng nghe có tiếng động dưới nhà. Tôi lắng tai nghe nhưng chẳng thấy động tĩnh gì nữa, nên tôi nghĩ đó là tiếng động từ ngoài phố đưa vào. Nhưng độ năm phút sau, bỗng có tiếng hét hết sức khủng khiếp - tôi chưa bao giờ nghe thấy một âm thanh nào ghê rợn đến thế ông Holmes ạ. Tiếng hét đó sẽ vang mãi trong tai tôi cho đến suốt đời. Người tê dại đi vì hãi hùng, tôi ngồi bất động vài phút, sau đó tôi cầm lấy cái que sắt thông lò và bước xuống nhà. Vừa bước vào phòng này tôi thấy cửa sổ mở toang và pho tượng đặt trên mặt lò sưởi đã biến mất. Tôi không hiểu tại sao tên trộm lại lấy đi một vật như thế, vì pho tượng thạch cao ấy có đáng giá gì đâu.

Như các ông thấy đấy, bất cứ người nào nhảy một bước dài từ cửa sổ này xuống, đều có thể ra đến bậc lên xuống ở cửa chính. Tên trộm rõ ràng đã ra dùng cách ấy, nên tôi đi vòng ra cửa chính và mở cửa. Tôi bước ra ngoài, và trong bóng tối tôi vấp chân suýt ngã đè lên một xác chết đang nằm đó. Tôi chạy vào nhà đem đèn ra. Cổ họng kẻ bất hạnh bị đâm một vết rộng hoác, quanh xác chết máu loang đầy. Người bị giết nằm ngửa, hai đầu gối co lên, miệng há hốc ra trông rất gớm ghiếc. Từ nay trở đi hắn sẽ hiện lên thường xuyên trong những cơn ác mộng của tôi. Tôi chỉ còn kịp gọi cảnh sát, và sau đó chắc là tôi đã ngất đi, vì tôi không còn hay biết gì nữa cho đến khi tôi tỉnh lại trong đại sảnh. Tôi mở mắt nhìn lên thì thấy một viên cảnh sát đang đứng bên.

- Thế người bị giết là ai? - Holmes hỏi.

- Chẳng có gì cho biết người ấy là ai, - Lestrade nói.- Các ông sẽ được nhìn thấy cái xác, nhưng cho đến nay thì chúng tôi chưa làm gì được.

Đó là một người cao lớn, da rám nắng, khoẻ mạnh, chưa đến ba mươi tuổi. Tuy ăn mặc nghèo khổ, anh ta không có dáng dấp dân lao động. Có một con dao nằm trong vũng máu cạnh xác anh ta. Tôi không rõ đó là con dao mà hung thủ đã dùng để gây án hay là con dao của nạn nhân. Trên quần áo anh ta chẳng thấy có tên tuổi gì, còn trong túi áo cũng chẳng có gì ngoài một quả táo, một sợi dây, một tấm bản đồ Luân Đôn và một bức ảnh. Nó đây này.

Đó là một tấm ảnh chụp nhanh bằng loại máy ảnh cỡ nhỏ. ảnh chụp một người đàn ông linh lợi, nét mặt gãy gọn, có cặp lông mày rậm.

- Thế còn pho tượng thì sao? - Holmes hỏi sau khi xem kỹ bức ảnh.

- Tôi vừa nhận được tin về pho tượng này ngay trước lúc các ông đến. Người ta tìm thấy nó trong vườn, trước một ngôi nhà không có người ở tại đường Campden House Road. Nó đã bị đập vụn ra từng mảnh. Tôi đang định đến đó xem đây. Các ông cùng đi chứ?

- Tất nhiên. Tôi phải đến đấy xem qua một lượt. - Holmes xem xét tấm thảm và cái cửa sổ.

Chỗ tìm thấy những mảnh vỡ của pho tượng cách ngôi nhà chỉ vài trăm mét. Pho tượng của Napoleon bị đập vụn, nằm trên bãi cỏ. Holmes nhặt lên vài mảnh vụn và xem xét kỹ lưỡng. Qua nét mặt chăm chú của anh, tôi tin là rốt cục anh cũng lần ra được manh mối.

- Ông nghĩ sao? - Lestrade hỏi.

Holmes nhún vai.

- Chúng ta còn phải hết hơi với vụ này - anh nói.

- Nhưng dù sao thì ... chúng ta cũng đã có được vài đầu mối để tìm tiếp. Dưới mắt tên tội phạm kỳ quặc kia thì pho tượng bán thân rẻ tiền này còn đáng giá hơn cả mạng người. Đó là điểm thứ nhất. Điểm thứ hai cũng thật kỳ lạ. Nếu mục đích duy nhất của hắn là đập vỡ pho tượng, tại sao hắn không đập ngay trong nhà hay ngay sau khi ra khỏi nhà?

- Hắn hoảng hốt khi chạm trán với người khác, đến nỗi giết người đó. Hắn hầu như không ý thức được hắn đang làm gì nữa.

- Ừ, ông nói có lý. Song tôi muốn các ông đặc biệt lưu ý đến vị trí căn nhà này, nơi mà pho tượng đã bị đập nát trong vườn.

Lestrade đưa mắt nhìn quanh.

- Đây là ngôi nhà không có người ở nên hắn biết sẽ không bị ai bắt gặp trong vườn.

- Phải. Nhưng từ đầu phố đến đây còn có một ngôi nhà bỏ không nữa mà, hắn phải đi qua để đến đây. Tại sao hắn không đập pho tượng ở đó? Hắn thừa hiểu rằng đi xa thêm mỗi mét là tăng thêm nguy cơ bị phát hiện cơ mà?

- Tôi xin chịu thôi. - Lestrade nói.

Holmes chỉ lên ngọn đèn đường phía trên đầu chúng tôi.

- Ở đây hắn mới nhìn thấy rõ, còn ở đằng kia thì không. Đó chính là lý do hắn phải đến tận đây.

Viên thanh tra thốt lên:

- Bây giờ tôi mới nhớ lại pho tượng của bác sĩ Barnicot bị đập vỡ cách chỗ ngọn đèn đỏ nhà ông không bao xa. Chúng phải xử lý thế nào với sự việc này, ông Holmes?

- Ghi nhớ nó. Sau này chúng ta có thể gặp phải một tình tiết buộc ta trở lại với nó đấy. Giờ ông định tiến hành những bước gì nữa, ông Lestrade?

- Theo tôi, thiết thực hơn cả là xác minh xem người bị giết là ai. Việc này thì không khó. Khi đã biết được anh ta là ai rồi, chúng ta có thể bắt tay vào điều tra xem đêm qua anh ta làm gì ở đường Pitt, kẻ nào đã gặp và giết anh ta trên bậc thang trước cửa nhà ông Horace Harker. Ông thấy như vậy có được không?

- Được lắm. Nhưng tôi thì tôi sẽ tiếp cận vụ này một cách khác.

- Vậy ông sẽ làm thế nào?

- Ồ, ông không nên để tôi ảnh hưởng đến ông một chút nào. Tôi đề nghị là ông cứ theo cách của ông, còn tôi sẽ theo cách của tôi. Sau đó sẽ đối chiếu những điều đã ghi nhận được với nhau.

- Tốt lắm. - Lestrade nói.

- Này anh Watsson, tôi nghĩ trước mắt chúng ta sẽ là một ngày bận rộn đấy. Tôi sẽ rất vui, ông Lestrade ạ, nếu sáu giờ chiều này ông có thể thu xếp đến thăm chúng tôi ở Baker Street. Còn bức ảnh tìm thấy trong túi áo nạn nhân tôi xin được giữ cho đến lúc đó. Tối nay có lẽ tôi phải nhờ ông giúp một tay nếu những suy luận của tôi cho thấy là tôi đúng. Từ giờ đến lúc đấy xin tạm biệt và chúc ông may mắn.

Tôi và Holmes cùng đi bộ đến High Street và rẽ vào hiệu Harding Brothers, nơi đã bán pho tượng nọ. Một người phụ việc trẻ trong hiệu cho chúng tôi hay là ông Harding mãi đến chiều mới về, còn anh ta thì không thể giúp chúng tôi biết được điều gì. Mặc Holmes đầy vẻ thất vọng và buồn bực.

- Chúng ta đành phải quay lại đây chiều nay thôi. Watson ạ, vì đến lúc đó ông Harding mới có mặt ở đây, cuối cùng anh nói. - Tất nhiên anh đã đoán ra là tôi đang cố lần theo dấu vết mấy pho tượng kia cho đến tận đầu mối, để xem tại sao gã điên nọ lại quan tâm đến chúng như vậy. Bây giờ chúng ta đến phố Kennington gặp ông Morse Hudson, thử xem ông ta có biết điều gì có thể làm sáng tỏ vụ này chăng.

Chúng tôi đi xe ngựa mất một giờ thì đến được cửa hiệu bán tranh của Morse Hudson. Ông là một người thấp bé, mập mạp, mặt đỏ, phong thái có vẻ nóng nảy.

- Vâng, thưa ngài. Hắn đập vỡ ngay tại quầy của tôi, thưa ngài, - ông nói. chúng tôi đóng thuế để được gì, nếu bạ ai cũng có thể vào nhà phá phách đồ đạc. Vâng, thưa ngài, chính tôi đã bán cho bác sĩ Barnicot hai pho tượng. Tôi mua của ai những pho tượng ấy ư? Tôi không hiểu chuyện đó có can hệ gì đến sự việc. Thôi được, ngài đã muốn biết thì tôi xin nói. Tôi mua tại hãng Gelder và Cty trên đường Church Street, Stepney. Tôi có mấy pho tượng ư? Ba pho - hai cộng một là ba - hai pho tôi bán cho bác sĩ Barnocot, còn một pho nữa bị đập nát ngay giữa ban ngày ban mặt tại quầy hàng của tôi. Tôi có biết người trong ảnh này không ư? Không, tôi không biết. à có, tôi có biết. Hắn là Beppo, người ý. Hắn làm được một vài việc cho cửa hiệu tôi. Hắn biết chạm khắc đôi chút, và làm vài việc sai vặt trong hiệu. Hắn đi khỏi hiệu tuần trước và từ đó tôi chẳng nghe thấy tăm hơi gì về hắn nữa. Không, tôi không biết hắn ta từ đâu đến. Hắn rời hiệu tôi đi đâu tôi cũng chẳng hay. Tôi chẳng có gì xung khắc với hắn khi hắn làm việc ở đây. Hắn đi khỏi đây hai ngày trước khi pho tượng bị đập vỡ.

- Ồ, những điều Morse Hudson cho chúng tôi biết thật đáng giá, chúng ta không thể mong muốn gì hơn thế, - Holmes nói khi chúng tôi rời cửa hiệu. - Chúng ta đã biết được tay Beppo này dính dáng đến cả hai vụ: cả ở Kennington lẫn ở Kensington, thật đáng công đi mười dặm đường đến đây. Anh Watson, bây giờ chúng ta đi đến hãng Gelder và Cty, khu Stepney, đến tận xuất xứ của mấy pho tượng. Tôi tin là ở đấy chúng ta sẽ biết được một điều gì đó giúp chúng ta điều tra vụ này.

Chúng tôi tìm ra cái xưởng tạc tượng ấy trên một con đường rộng chạy dọc bờ sông. Bên ngoài xưởng là một khoảng sân rộng ngổn ngang những sản phẩm bằng đá đủ loại, bên trong có một căn phòng lớn với năm mươi công nhân đang tạc tượng và đúc tượng theo khuôn. Chủ xưởng, một người Đức cao lớn, tiếp chúng tôi rất lịch sự và trả lời rõ ràng mọi câu hỏi của Holmes. Sổ sách cho thấy: xưởng ông đã sản xuất hàng trăm pho tượng bán thân Napoleon bằng thạch cao; tất cả đều được đúc ra từ một khuôn, dùng pho tượng cẩm thạch của nhà điêu khắc Devine làm mẫu. Ba sản phẩm trong một lô hàng riêng gồm sáu pho tượng đã đem giao cho ông Morse Hudsson khoảng một năm trước; số còn lại thì bán cho hiệu Harding Brothers, ở Kensington. Sáu pho tượng trong lô hàng đó chẳng có gì khác với những pho tượng còn lại. Ông không hình dung nổi vì lẽ gì lại có kẻ chỉ muốn đập vỡ những pho tượng ấy.

Trong thâm tâm ông thấy ý định đó quả thật nực cười. Mỗi pho tượng đều được đúc từ hai khuôn, khuôn này đúc nửa mặt bên phải, khuôn kia - nửa bên trái; sau đó ghép hai nửa lại với nhau, thế là được một pho tượng hoàn chỉnh. Công việc này thường do mấy tay thợ người ý đảm nhiệm, ngay tại phòng chúng tôi đang đứng. Làm xong họ đặt những sản phẩm đó lên cái bàn kê ngoài lối đi cho khô, sau đó cất vào kho. Đấy là tất cả những gì ông có thể cho chúng tôi biết.

Nhưng tấm ảnh đã gây cho ông chủ xưởng một ấn tượng mạnh mẽ. Ông đỏ mặt giận dữ.

- Vâng, thật sự tôi biết hắn rất rõ, - ông hét to lên.- Từ trước đến giờ chỉ có một lần duy nhất cảnh sát đến xưởng tôi chính là vì thằng này đây. Chuyện đó xảy ra hơn một năm nay rồi: hắn dùng dao đâm một tay người ý khác ở ngoài phố rồi chạy bổ vào xưởng tôi để trốn cảnh sát đang đuổi bắt phía sau. Hắn bị tóm cổ ngay tại đây. Tên hắn là Beppo. Tôi không hề biết họ của hắn. Tuy thế hắn là một tay thợ khá - một trong những tay giỏi nhất đấy.

- Hắn bị kết án gì?

- Người bị hắn đâm không chết, cho nên người ta chỉ xử hắn một năm tù ngồi. Tin tin rằng giờ hắn đã được tự do, nhưng hắn chẳng dám thò mặt về đây. Người em họ của hắn đang làm việc ở chỗ tôi. Hy vọng anh ta có thể mách cho ông biết Beppo hiện ở đâu.

- Không, không, - Holmeskêu lên, - ông đừng nói gì với em họ của hắn cả, tôi xin ông đừng nói gì! Việc này rất hệ trọng. Càng đi sâu vào tôi càng thấy nghiêm trọng. Trong cuốn sổ của ông tôi thấy ghi là những pho tượng đó được bán ngày ba tháng sáu năm ngoái. Ông có thể cho chúng tôi biết ngày Beppo bị bắt được không?

- Tôi có thể tính gần đúng dựa theo bản danh sách tính tiền công, chủ xưởng đáp lại. - Đúng, - ông lại lên tiếng sau một hồi lật tìm trong mớ giấy tờ, - hắn được trả tiền công lần cuối vào ngày hai mươi tháng năm.

- Cảm ơn ông, Holmes nói. - Tôi nghĩ không nên làm mất thì giờ và lạm dụng lòng kiên nhẫn của ông nữa. Còn bây giờ, anh Watson,chúng ta quay về Kensington xem ông chủ hiệu Harding Brothers kể được những gì cho chúng ta về vụ này.

Ông Harding là một người nhỏ bé, nhanh nhẹn, tỉnh trí và nhanh miệng.

- Vâng, thưa ngài, tôi đã đọc được chuyện này trên các báo buổi chiều. Ông Horace Harker là một trong những khách hàng của chúng tôi. chúng tôi bán cho ông ấy pho tượng nọ cách đây mấy tháng. Ba pho tượng loại này chúng tôi đã đặt mua tại hãng Gelder và Cty, ở Stepney và đã bán hết. Bán cho ai ư? Để tôi xem sổ sách bán hàng và trả lời ngài ngay thôi. Đúng, trong này có ghi đầy đủ. Một pho bán cho ông Harker, ông thấy đấy, một pho nữa bán cho ông Josiah Brown ở Laburnum Lodge, Laburnam Vale,Chiswick và pho thứ ba bán cho ông Sandeford ở Lower Grove Road, Reading. Không, tôi chưa bao giờ thấy người đàn ông trong bức ảnh ngài đưa tôi xem. Trong hiệu tôi có nhân viên nào người ý không ư? Thưa ngài, có, có mấy người tôi thuê làm công và quét dọn. Bọn họ có thể liếc nhìn quyển sổ bán hàng này nếu thích. Chẳng có lý do gì đặc biệt để giữ bí mật cả. Chà, vụ này quả là kỳ lạ. Tôi hy vọng ông sẽ cho tôi biết những gì ông phát hiện được.

Holmes ghi chép vài điểm. Tôi thấy anh đắc ý ra mặt. Nhưng anh chẳng giải thích gì, chỉ giục tôi nhanh chân kẻo trễ hẹn với Lestrade. Quả nhiên, khi chúng tôi về đến Baker Street, viên thanh tra đã đợi sẵn ở đấy và đang đi đi lại lại, vẻ sốt ruột.

- Công việc thế nào rồi, ông Holmes? - ông ta lên tiếng hỏi.

- Chúng tôi đã bận rộn suốt ngày và thật là không uổng công chút nào - bạn tôi giải thích - Giờ tôi có thể lần theo dấu vết của từng pho tượng từ lúc mới được đúc trong khuôn ra.

- Các pho tượng à! - Lestrade thốt lên. - Thôi được, thôi được, ông Holmes, ông có phương pháp của riêng ông, song tôi cho là ngày vừa qua tôi khám phá được nhiều điều hơn ông. Tôi đã xác minh được người bị giết là ai và tìm ra nguyên nhân gây án.

- Tuyệt vời.

- Ngài thanh tra Hill, người chuyên theo dõi kiều dân ý sống tại khu phố ý Đại Lợi, vừa trông thấy đã nhận ngay ra hắn. Hắn tên là Pietro Venucci, quê ở Napoli, là một trong những tay đâm thuê chém mướn sừng sỏ nhất Luân Đôn. Hắn có liên hệ với bọn Mafia, như ông biết đấy, một tổ chức chính trị bí mật . Giờ ông thấy đấy, vụ này bắt đầu sáng tỏ. Kẻ giết hắn có lẽ cũng người ý và là thành viên Mafia. Tay này chắc đã vi phạm luật lệ như thế nào đó. Pietro rình tìm hắn. Tấm ảnh ta tìm thấy trong túi áo hắn có lẽ là của chính tay này, hắn mang theo để không giết nhầm người khác. Hắn theo dõi địch thủ, khi thấy tên này lẻn vào nhà, hắn đừng ngoài đợi tên này trở ra và trong cuộc ẩu đả với địch thủ hắn đã bị tử thương. Ông nghĩ thế nào về điều này, ông Holmes?
Holmes vỗ tay tán đồng.

- Tuyệt, ông Lestrade, thật là tuyệt! - anh thốt lên. - Nhưng tôi chưa rõ ông lý giải như thế nào việc mấy pho tượng bị đập nát.

- Lại mấy pho tượng! Ông không gạt bỏ được mấy pho tượng ấy ra khỏi đầu sao. Rốt cục, đấy chỉ là chuyện vó vẩn. Chính vụ án mạng mới là cái chúng ta thật sự quan tâm, và tôi có thể nói với ông là tôi đã nắm được mọi đầu mối

- Thế bước tiếp theo ông định làm gì?

- Hết sức đơn giản. Tôi cùng ngài Hill đến khu phố ý Đại Lợi, tìm cho ra tên trong ảnh nọ và bắt hắn vì tội giết người. Ông cùng đi với chúng tôi chứ?

- Có lẽ không đâu. Tôi có cách đơn giản hơn nhiều. Tôi rất mong đêm nay ông cùng đi với chúng tôi, tôi có thể sẽ giúp ông bắt được hắn.

- Ở khu phố ý Đại Lợi ư?

- Không. Theo tôi, tìm bắt hắn ở Chiswick là chắc hơn cả.

Ông Lestrade, nếu đêm nay ông đi cùng tôi đến Chiswick thì tôi hứa ngày mai sẽ đi với ông đến khu phố ý Đại Lợi. Hoãn lại một tí đâu có hại gì. Anh Watson, trong lúc chờ đợi, anh làm ơn bấm chuông gọi giúp người đưa thư vì tôi muốn gửi gâp một bức thư rất hệ trọng.

Tối hôm đó Holmes lục tìm các chồng nhật báo cũ chất đầy ắp cả một phòng trong nếp nhà hai chúng tôi đang ở. Cuối cùng rồi anh cũng ra với chúng tôi, mặt rạng rỡ vẻ đắc thắng, nhưng anh chẳng hé răng nói gì với cả tôi lẫn viên thanh tra về những kết quả vừa khám phá. Tôi đã theo sát anh từng bước chân trong suốt tiến trình điều tra vụ này. Vì vậy, tuy chưa thể biết rõ mục tiêu cuối cùng chúng tôi đang theo đuổi, tôi vẫn hiểu mười mươi rằng Holmes hy vọng sẽ tóm được tên tội phạm đang cố tìm mọi cách đoạt hai pho tượng còn lại, mà một, theo tôi nhớ, hiện đang nằm tại Chiswick. Không còn ngờ vực gì nữa, mục đích chuyến đi của chúng tôi đêm nay là bắt quả tang hắn ta. Tôi chẳng ngạc nhiên khi Holmes nhắc tôi nên mang theo cả khẩu súng ngắn ưa thích của tôi.

Mười một giờ, một chiếc xe ngựa đã đậu trước cổng nhà. Chúng tôi lên xe, đến một nơi nằm bên kia cầu Hammer Smith. Sau một quãng đi bộ, chúng tôi đã đến một con đường yên tĩnh với những toà nhà đẹp mắt, xây trên từng khoảng đất riêng, cách biệt nhau. Nhờ ánh đèn đường, tôi đọc được hai chữ Laburnum Lodge trên cổng hậu một tòa nhà. Chủ nhân chắc chắn đã đi nghỉ, vì toàn bộ ngôi nhà đang chìm trong bóng tối, ngoại trừ một khung cửa sổ ngay bên trên cửa chính dẫn vào tiền sảnh, hắt một quầng sáng lẻ loi xuống một lối đi trong vườn. Một dãy rào gỗ ngăn khu vườn với đường phố, hắt một dải bóng tối dày dặc vào phía trong. Chúng tôi chọn đó làm nơi ẩn nấp.

- Tôi e là anh sẽ phải đợi lâu đây, - Holmes ri tai tôi.

- Nhưng tôi dám đánh cược hai ăn một là chúng ta sẽ được đền bù xứng đang cho những nỗi vất vả mà chúng ta đã trải qua.

Nhưng hoá ra chúng tôi chẳng phải đợi lâu như Holmes đã nghĩ, và kết cục thật bất ngờ và kỳ lạ. Thình lình, không có một tiếng động nào báo trước, cảnh cổng vườn bật mở, và một bóng đen nhanh nhẹn, khéo léo chạy vụt vào theo lối mòn trong vườn. chúng tôi thấy cái bóng đó lướt qua cái quầng sáng trên cửa sổ hắt xuống cửa chính, và biến mất vào bóng toà nhà. Bốn bề im ắng khá lâu. chúng tôi nín thở chờ đợi, rồi một tiếng động khẽ vọng tới: cánh cửa sổ mở ra. Tiếp đó, không còn nghe một tiếng động nào nữa, và tất cả lại lặng ngắt một hồi lâu. Bóng đen nọ lẻn vào nhà. Bỗng chúng tôi thấy một ánh đèn loé sáng trong phòng. Cái hắn tìm chắc không có ở đó, vì chúng tôi lại thấy ánh đèn loé sáng tại một chỗ khác, rồi một chỗ khác nữa.

- Nào, chúng ta hãy tới cửa sổ để ngỏ. Chúng ta sẽ tóm hắn lúc hắn leo ra, - Lestrade khẽ nói.

Nhưng chúng tôi chưa kịp tới nơi dự tính thì gã nọ đã xuất hiện. Khi hắn ra đến quầng sáng, chúng tôi thấy hắn đang cắp trong nách một vật màu trắng. Hắn đưa mắt nhìn quanh. Quay lưng về phía chúng tôi, hắn đặt vật đang cắp dưới nách xuống, và ngay sau đó, bỗng vang lên một tiếng đập mạch, rồi tiếp theo là những tiếng lại xạo. Hắn mải miết với việc đang làm đến mức không nghe thấy tiếng bước chân chúng tôi lướt trên mặt cỏ. Holmes nhảy chồm lên lưng hắn như một con hổ, và chỉ một chớp mắt sau, Lestrade và tôi đã tóm lấy cổ tay hắn. Khi chúng tôi lật ngửa hắn lại, tôi thấy hắn đang nhìn chúng tôi một cách hằn học. Và tôi nhận ra kẻ bị bắt chẳng phải ai khác, mà chính là người đàn ông trong ảnh.

Nhưng Holmes chẳng hề quan tâm đến kẻ bị bắt. Anh chỉ chăm chú xem pho tượng Napoleon mà gã nọ vừa lấy trộm trong nhà ra. Pho này cũng giống như pho mà chúng tôi thấy sáng nay, và cũng đã bị đập vụn từng mảnh. Thận trọng, Holmes đưa từng mảnh vỡ ra chỗ sáng xem xét, nhưng những mảnh thạch cao đó xem ra chẳng khác gì nhau. Anh vừa xem xong thì ánh đèn trong tiền sảnh bỗng sáng rực. Cửa mở, và từ trong nhà bước ra một người đàn ông vui vẻ, ăn mặc tề chỉnh, tự giới thiệu mình là chủ nhà.

- Ông chắc hẳn là Mi.Josiah Brown? - Holmes nói.

- Vâng, thưa ngài. Còn ngài chắc hẳn là ngài Holmes? Tôi đã nhận được thư ngài do người đưa thư chuyển tới, và tôi đã làm đúng như lời ngài dặn trong thư. Chúng tôi đã khoá chặt các cửa phòng và đợi mọi diễn biến. Tôi rất mừng là ngài đã tóm được hắn. Tôi hy vọng các ngài sẽ quá bộ vào nhà nghỉ một lát trước lúc ra về.

Nhưng Lestrade sốt ruột, chỉ muốn đưa gấp tên trộm về đồn cho chắc ăn, nên chỉ vài phút sau, ba chúng tôi và tên trộm đã yên vị trên xe về lại Luân Đôn. Tên trộm không hề hé răng thốt ra một lời nào, mà chỉ hằn học nhìn chúng tôi từ sau mái tóc rũ xuống trán. Có một lần, khi tay tôi nằm trong tầm với, hắn vụt cúi xuống định ngoạm. Chúng tôi lưu lại đồn cảnh sát khá lâu để chờ kết quả khám xét người hắn, nhưng chảng tìm thêm đựoc gì ngoài một vài đồng xu trong túi và một con dao dài, trên cần còn nguyên vết máu chưa kịp xỉn lại.

- Thôi ổn rồi, - Lestrade nói khi chia tay chúng tôi. - Ngài Hill biết mặt tất cả các kiều dân khu này, nên sẽ cho chúng ta biết họ tên hắn. Ông sẽ thấy giả thuyết của tôi về bọn Mafia là chính xác một trăm phần trăm. Dù sao tôi cũng biết ơn ông đã mách giúp tôi cách tóm cổ hắn. Có điều,tôi vẫn chưa hiểu hết làm thế nào mà ông biết nơi hắn sẽ xuất đầu lộ diện

- Tôi e rằng muốn giải thích phải đợi dịp khác, vì bây giờ đã khuya quá rồi, - Holmes nói. - Hơn nữa, vẫn còn một vài tình tiết tôi chưa khám phá ra, và đây là một trong những vụ đáng để chúng ta thực hiện đến nơi đến chốn. Nếu ngày mai, ông chịu khó ghé lại nhà tôi vào lúc sáu giờ, tôi nghĩ tôi có thể cho ông thấy: cho tới lúc này ông vẫn chưa hiểu hết điểm mấu chốt của vụ này. Đó mới chính là những điểm khiến vụ này là vụ án độc đáo nhất lịch sử tội phạm.

Tối hôm sau, khi gặp lại nhau, Lestrade đã cho chúng tôi biết hàng loạt thông tin về kẻ bị bắt. Hoá ra tên hắn là Beppo, còn họ thì không rõ. Có thời, hắn từng là thợ đúc tượng giỏi, làm ăn lương thiện. Nhưng về sau hắn đã gây nên những vụ phạm pháp. Hắn từng hai lần ngồi tù, một lần vì ăn cắp vặt, lần sau thì như các ông đã biết, vì tội đâm trọng thương một đồng bào của hắn. Hắn rất thạo tiếng Anh. Nhưng lý do nào khiến hắn đập nát những pho tượng thì chưa rõ: hắn không chịu trả lời bất cứ câu hỏi nào về chuyện này. Cảnh sát đã phát hiện được rằng những pho tượng mà hắn đập nát có thể đều do chính tay hắn làm ra, vì hắn từng làm loại công việc này tại hãng Gelder và Cty. Tất cả những thông tin này, phần nhiều chúng tôi đều biết cả rồi, nhưng Holmes vẫn lịch duyệt lắng nghe; có điều tôi vốn biết rõ anh, nên tôi hiểu rằng ý nghĩ anh đang đổ dồn vào một chuyện khác. Bỗng anh đứng bật dậy, mắt sáng rực khi nghe vang lên tiếng chuông gọi cửa dưới nhà. Một phút sau, có tiếng chân bước lên cầu thang, rồi một người đàn ông đứng tuổi, mặt đỏ gay, bước vào, tay phải xách theo một cái túi. Ông ta đặt cái túi lên bàn, rồi lên tiếng:

- Đây có phải là nhà ngài Holmes không?

Bạn tôi mỉm cười cúi chào.

- Nếu tôi không nhầm, ông là Sandeford ở Reading? - anh lên tiếng.

- Vâng, thưa ngài, có lẽ tôi đến hơi muộn, nhưng không có chuyến tàu nào thuận tiện hơn. Trong thư ông có yêu cầu tôi nhượng lại pho tượng bán thân mà tôi đang sở hữu.

- Quả đúng như vậy.

- Tôi có đem theo thư ông đây. Ông viết:“ Tôi muốn có một bản sao pho tượng bán thân Napoleon do Devine tạc và tôi sẵn sàng trả mười bảng để mua lại pho tượng ông hiệu sở hữu. Có đúng vậy không ạ?

- Chính thế.

- Tôi rất ngạc nhiên khi đọc thư ông, vì tôi không thể hình dung được nhờ đâu mà ông biết được tôi có pho tượng như thế.

- Ông ngạc nhiên là phải thôi, nhưng chuyện này có thể giải thích hết sức đơn giản. Ông Harding, chủ hiệu Harding Brothers nói là đã bán phúc bản cuối cùng của pho tượng cho ông, và có cho tôi biết địa chỉ của ông.

- Thì ra là vậy. Thế thì tôi có mang theo pho tượng như ông đã yêu cầu. Nó đây này! - Ông ta đã mở túi xách và mãi lúc này chúng tôi mới được thấy trên bàn chúng tôi một pho tượng nguyên vẹn, chứ từ trước đến giờ chúng tôi chỉ toàn thấy những mảnh vụn.

Holmes rút trong túi ra một tờ giấy và đặt lên bàn tờ giấy bạc mười bảng.

Ông Sandeford, ông làm ơn ký vào tờ giấy này trước sự chứng kiến của các vị đây. Trong giấy xác nhận rằng ông chuyển nhượng cho tôi mọi quyền lợi có thể có đối với pho tượng. Cám ơn ông Sandeford. Đây, xin ông nhận lấy tiền và chúc ông một buổi tối tốt lành.

Khi vị khách đã đi khuất, Holmes liền lôi trong ngăn kéo ra một tấm vải trắng tinh và trải lên bàn. Rồi anh đặt pho tượng vừa mua vào chính giữa tấm vải. Xong xuôi, anh giờ cao gậy, giáng một cái thật mạnh vào đỉnh đầu Napoleon. Pho tượng vỡ vụn ra từng mảnh. Holmes háo hức cúi xuống xem xét các mảnh vỡ. Lát sau, anh reo lên đắc thắng và giơ cao một mẩu thạch cao bọc bên ngoài một vật tròn tròn sẫm màu.

- Thưa các vị, anh reo lên - xin được giới thiệu với các vị viên ngọc đen nổi tiếng của dòng họ Borgia.

Lestrade và tôi ngồi lặng người đi một lúc, rồi cả hai cùng vỗ tay hệt như vừa xem xong một vở kịch. Má Holmes vốn tái nhợt giờ vụt ửng hồng. Anh cúi chào chúng tôi như một diễn viên bậc thầy đáp lại lòng ngưỡng mộ của khán giả. Chỉ trong những khoảnh khắc đó Holmes mới tỏ ra là một nhân viên rất người, rất thích được ngưỡng mộ và thán phục, chữ không phải là một cái máy giỏi suy luận.

- Vâng, thưa các ngài, - anh nói- đây chính là viên ngọc lừng danh Thế giới. Tôi đã có cái may mắn được theo dõi hành trình của viên ngọc quí từ phòng ngủ của Quận công xứ Lolonna trong khách sạn Darce Hotel, nơi nó bị mất, cho tới khi nó chui vào pho tường cuối cùng trong số sau pho Napoleon do hãng Gelder và Cty tại Stepney đúc ra. Ông Lestrade, chắc ông còn nhớ vụ xì căng đan nổ ra sau ngày viên ngọc quí này mất tích, và những nỗ lực tìm kiếm vô vọng của cảnh sát Luân Đôn. Chính tôi cũng được mời đến làm cố vấn cho họ trong vụ này, nhưng tôi đã không làm sáng tỏ được gì. Người ta nghi cho cô hầu gái của Quận chúa. Cô này người ý, và người ta cũng phát hiện ra rằng cô ta có một người anh ở Luân đôn, nhưng chúng tôi không tìm ra dược bất cứ một mối liên hệ nào giữa hai người. Cô ta tên là Lucretia Venucci, và tôi tin chắc rằng chính gã Pietro bị giết cách đây hai hôm là anh cô ta. Tôi dò tìm ngày tháng trong đống báo cũ và thấy rằng viên ngọc bị mất đúng hai ngày trước hôm Beppo bị bắt vì tội mưu sát. Hắn bị bắt ngay tại xưởng Gelder và Cty đúng vào thời điểm những pho tượng kia đúc ra. Beppo đang giữ viên ngọc. Có thể hắn đánh cắp của Pietro, hoặc hắn là tòng phạm của Pietro, hoặc hắn làm trung gian giữa Pietro và em gái hắn ta. Thực ra khả năng nào là đúng, đối với chúng ta không hệ trọng.

- Cái chính là hắn có viên ngọc và đang giữ viên ngọc trong người lúc bị cảnh sát truy đuổi. Hắn đến cái xưởng làm tượng mà hắn đang làm việc, và hắn biết mình chỉ còn vài phút để giấu cái báu vật vô giá ấy, nếu không cảnh sát sẽ tìm thấy nó khi khám xét người hắn. Lúc sáu pho tượng Napoleon bằng thạch cao đang hong ở lối đi, trong đó có một pho còn mềm. Vốn là một tay thợ giỏi, trong chớp mắt Beppo đã tạo được một cái hốc nhỏ, ấn viên ngọc vào đó, rồi với vài động tác hắn đã có thể trám ngay được cái hốc kia. Quả không còn một nơi cất giấu nào tốt hơn. Không một ai có thể tìm ra viên ngọc được nữa. Nhưng Beppo bị kết án một năm tù, và trong thời gian đó sáu pho tượng kia được bán đi khắp Luân đôn. Ra tù, hắn không thể biết báu vật nọ hiện nằm trong pho tượng nào. Bây giờ chỉ còn cách đập vỡ từng pho một mới biết được vì dù có lắc mạnh viên ngọc cũng không gây được tiếng động nào: khi thạch cao còn ướt, viên ngọc có thể bị dính chặt ở bên trong, và sự thực quả đúng như vậy. Nhưng Beppo không nản lòng. Hắn thực hiện một cuộc tìm kiếm thật tài tình. Qua người em họ làm cho Gelder, hắn biết được những pho tượng ấy đã được bán cho hãng nào. Hắn cố xin một chân ở hiệu Morse Hudsson và nhờ đó đã lần ra được dấu tích của ba pho. Tiếc thay trong cả ba pho ấy đều không thấy có viên ngọc. Sau đó, nhờ một nhân viên người ý, hắn đã dò ra được ba pho còn lại hiện ở đâu. Pho thứ nhất ở nhà ông Harker. Tại đây Beppo bị Pietro theo dõi. Tên này vốn coi hắn như kẻ chịu trách nhiệm về vụ mất viên ngọc, Beppo đã hạ sát tên này trong trận ẩu đả sau đó.

- Nếu chúng đồng loã với nhau thì tại sao Pietro lại phải mang theo tấm ảnh?- tôi hỏi.

- Đó là một phương tiện để hỏi dò người khác xem họ có nhận ra người trong ảnh không. Lý do chỉ có vậy. Sau khi gây án mạng, tôi đoán chắc Beppo nhất định phải hành động khẩn trương hơn, chứ không thể chần chứ. Hắn sợ cảnh sát khám phá được điều bí mật của hắn, nên hắn phải làm gấp trước khi bị cảnh sát biết. Tất nhiên ở thời điểm đó, tôi chưa thể nói rằng hắn không tìm thấy viên ngọc. Tôi cũng chưa thể kết luận đích xác rằng hắn đang tìm viên ngọc. Nhưng tôi biết chắc rằng hắn đang tìm một vật gì đó, vì hắn phải mang pho tượng qua mấy nhà liền để tìm một chỗ nào đó có ánh đèn. Bấy giờ chỉ còn hai pho, nên dĩ nhiên hắn phải tìm pho ở Luân Đôn trước tiên. Vì thế tôi phải báo trước với chủ nhà để tránh một thảm kịch thứ hai. Và ở đó chúng ta đã thu được kết quả mỹ mãn nhát. Lúc này, dĩ nhiên, tôi đã biết chắc cái mà chúng ta đang theo đuổi chính là viên ngọc Baorgia. Tên kẻ bị giết đã giúp tôi tìm ra mối liên hệ giữa các sự việc với nhau. Cuối cùng chỉ còn một pho tượng độc nhất - pho ở Reading - và chắc chắn viên ngọc phải nằm ở đó. Tôi đã mua nó từ tay chủ nhân trước sự chứng kiến của các vị, và viên ngọc giờ này đã ở đây.

Chúng tôi ngồi im lặng một lúc.

- Ấy đấy - Lestrade lên tiếng - tôi đã từng được chứng kiến ông xử lý nhiều vụ án, ông Holmes ạ, nhưng từ lúc hành nghề tới giờ, tôi chưa hề được thấy một vụ được xử lý một cách tài tình như vụ này. Nếu ngày mai ông có nhã ý quá bộ đến Scotland yard thì tôi tin rằng không một ai, kể từ ông thanh tra già nhất đến anh nhân viên trẻ nhất, không lấy làm sung sướng được bắt tay ông.

- Cám ơn ông! - Holmes nói. - Cám ơn ông! - Và khi anh quay đi tôi có cảm giác xúc động hơn bất cứ lúc nào mà tôi từng được chứng kiến. Lát sau, anh đã lại trở thành con người có cách suy nghĩ lạnh lành và thực dụng như cũ.

- Watson, cất giúp viên ngọc vào chỗ an toàn - anh nói. Tạm biệt ông Lestrade. Nếu sau này ông có gặp một vấn đề nhỏ nhặt nào, tôi sẽ lấy làm sung sướng được góp với ông một vài ý nhỏ để giúp ông tìm giải pháp.


Conan Doyle

seta
20-10-2003, 23:45
Hội tóc hung

Một hôm, tôi bước vào phòng khách thì thấy Sherlock Holmes đang say sưa trò chuyện với một người đàn ông vóc người to béo, sắc mặt hồng hào, mái tóc màu hung đỏ rực như lửa. Tôi xin lỗi vì sự đường đột và đang định quay ra, thì Sherlock Holmes đã kéo tôi vào, rồi đóng cửa lại.

- Watson thân mến, anh đến thật đúng lúc - anh nói.

- Tôi sợ anh đang bận.

- Đúng, rất bận là đằng khác.

- Vậy để tôi sang phòng bên đợi anh.

- Không sao đâu. Thưa ông Wilson, bác sĩ Watson đây là một cộng sự và là một trợ thủ của tôi trong nhiều vụ án thành công nhất. Tôi tin chắc trong vụ này ấy cũng sẽ rất hữu ích.

Người đàn ông to béo hơi nhổm dậy, gật đầu chào, liếc cặp mắt nhỏ nhìn tôi, vẻ dò xét.

-Watson thân mến - Sherlock Holmes nói - tôi biết anh từng chia sẻ cùng tôi lòng say mê tất cả những gì bí ẩn, và trái với lẽ thường. Đây, ông Jabezz Wilson có chuyện kỳ lạ nhất mà tôi từng nghe thấy trong mấy tháng nay. Ông Wilson, theo tôi, ông nên vui lòng kể lại từ đầu. Tôi yêu cầu như vạy không phải chỉ vì bác sĩ Watson, bạn tôi, chưa được nghe phần đầu, mà còn vì câu chuyện kỳ lạ này khiến tôi háo hức múon nghe kỹ lại mọi tình tiết. Thông thường, chỉ cần nghe qua vài tình tiết là tôi đã liên tưởng đến hàng ngàn vụ tương tự mà mình còn nhớ. Nhưng với vụ này, tôi phải buộc lòng thừa nhận rằng nhiều điểm quả là có một không hai.

Ông khách hàng lôi từ túi trong chiếc áo choàng đang mặc ra một tờ báo ố bẩn, nhàu nát. Cúi người xuống, ông đưa mắt nhìn vào mục quảng cáo đăng trên tờ báo trải trên đùi.”Đây rồi”, ông vừa nói vừa giơ ngón tay mập tròn, hồng hào, chỉ vào đoạn dưới nằm giữa cột quảng cáo.

- Toàn bộ câu chuyện mở đầu từ chính cái mẩu này đây. Xin ông tự đọc lấy thì hơn.

Tôi đón lấy tờ báo, rồi nhẩm đọc:

“Hội những người tóc hung”. Thể theo ý nguyện mà ông ezekiah Hopkins ở Lebanon, Pennsylvania, U.S.S di chúc lại thì giờ đây, Hội cần tuyển một hội viên làm một công việc nhàn nhã với mức lương 4 bảng/tuần, trích từ các khoản tài sản của ông. Mọi người có mái tóc hung đỏ và có thể lực, trí lực tốt, trên 21 tuổi, đều có thể dự tuyển. Đơn từ xin gửi về cho ông Duncan Ross, vào sáng thứ Hai, lúc 11 giờ, tại văn phòng Hội, số 7 Pope’s Court, đường Fleet Street, Luân Đôn”.

- Chuyện quái quỉ gì thế này? - tôi kêu lên sau khi đọc đi đọc lại hai lần mẩu quảng cáo kỳ quặc đó .

Sherlock Holmes mỉm cười:

- Chuyện khá kỳ quặc, đúng không? - anh nói. Bây giờ, ông Wilson, xin ông kể về chính ông, gia cảnh ông và ấn tượng mà mẩu quảng cáo này gây nên cho ông.

- À, thì cũng như tôi vừa kể với ông đấy, ông Sherlock Holmes - Jabez Wilson nói. Tôi có một cửa hiệu cầm đồ nhỏ, tại Coburg Square, gần khu City. Công việc làm ăn của tôi chẳng bề thế gì cho lắm, và gần đây lời lãi chỉ tạm đủ sống. Trước tôi có thể thuê hai nhân viên giúp việc, nhưng giờ thì chỉ còn dám thuê có một và cũng khó trả nổi tiền lương cho người ta, trừ phi người ấy vui lòng hưởng phần nửa mức lương thông thường, coi như để có dịp làm quen với công việc ở đây.

- Thế anh chàng sốt sắng ấy tên là gì? - Sherlock Holmes hỏi.

- Tên hắn là Vincent Spaulding. Hắn không còn trẻ nữa. Tuổi tác hắn thật khó đoán. Hắn là một nhân viên nhanh nhẹn, ông Sherlock Holmes ạ, và tôi thừa biết hắn dễ dàng kiếm được một công việc khá hơn thế này nhiều, lương bổng cao gấp đôi so với đồng lương mà tôi trả hiện nay. Nhưng rốt cục, hắn vẫn nhận, và nếu hắn thấy bằng lòng, thì việc gì tôi lại gợi ý cho hắn rằng hắn đã chịu thiệt kia chứ?

- Đúng, chẳng ích gì thật. Xem ra ông quả tốt số khi kiếm được một tay phụ việc như hắn. Chắc hắn cũng đang chú ý chính mẩu quảng cáo này.

- Ồ, hắn cũng có nhược điểm đấy - ông Wilson nói. Tôi chưa từng găp một ai mê ảnh như gã này. Hễ cao hứng là bấm máy lia lịa, rồi nhanh như một con thỏ chui tọt xuống hầm rượu in in tráng tráng những pô ảnh vừa chụp xong. Đó là nhược điểm chính của hắn; còn nhìn chung thì hắn rất được việc. Tôi thấy chẳng có gì đáng phàn nàn.

- Tôi đoán: chắc hiện giờ hắn vẫn còn làm cho ông?

- Vâng, thưa ông. Hắn với một cô bé mười bốn tuổi chỉ lo việc bếp núc và dọn dẹp. Ngoài ra nhà tôi chẳng còn ai, vì tôi không vợ không con. Ba chúng tôi sống rất bình lặng, thưa ông, cho tới lúc .. .

Mọi chuyện bắt đầu bị đảo lộn kể từ ngày tôi đọc được mẩu quảng cáo này. Một hôm, chuyện đó xảy ra cách đây hơn tám tuần, Spaulding bước vào cửa hiệu với tờ báo này trên tay, và nói “ước gì tôi cũng được trời phú cho một mái tóc hung đỏ, ông Wilsong ạ”.

- Sao vậy? - Tôi hỏi.

- Sao ư? - hắn nói. Ông cứ đọc mẩu thông báo tuyển người của Hội Tóc Đỏ đây khắc rõ. Ai may mắn chắc sẽ kiếm được một gia tài nhỏ chứ chẳng phải đùa. Tôi chắc họ còn khuyết nhiều hội viên so với số người xin vào hội. Chỉ cần mái tóc tôi đổi màu là tôi sẽ sẵn sàng xin nhập hội ngay, vì đây là một công việc tôi thấy thật nhàn nhã.

- Sao, vậy nghĩa là thế nào? - tôi hỏi hắn. Ông Sherlock Holmes, ông thấy đó, vì công việc của tôi không bắt tôi phải chạy ngược chạy xuôi tìm khách hàng, nên có khi suốt mấy tuần lễ, tôi chẳng bước chân ra khỏi nhà. Vì vậy, tôi chẳng biết gì nhiều về những chuyện diễn ra xung quanh, nên bao giờ tôi cũng háo hức nghe kể những chuyện mới lạ.

- Thế đã bao giờ ông nghe nói tới Hội Tóc Đỏ chưa? - hắn hỏi tôi.

- Chưa bao giờ.

- Ồ, ông chính là người có thể chiếm được một trong những chỗ khuyết ấy đấy.

Thế họ có thể kiếm được bao nhiêu? - tôi hỏi.

- À, mỗi năm chỉ vài trăm bảng thôi, nhưng được cái là công việc rất nhàn nhã, vả lại không ảnh hưởng gì nhiều tới những chuyện họ đang làm.

Vâng, điều hắn kẻ khiến tôi phải dỏng tai lên nghe. Mấy nămnay, công việc làm ăn của tôi khôngkhấm khá lắm, nên cơ may kiếm thêm được vài tramưbảng quả hết sức hấp dẫn.

- Này, hãy kể hết tôi nghe những gì anh biết về cái Hội nọ, tôi bảo hắn.

- Vâng hắn đáp và chìa cho tôi xem mẩu quảng cáo nọ - như chính ông thấy đó, Hội đang khuyết một chỗ. Họ có đăng đại chỉ rõ ràng; ông có thể đến đó hỏi thêm. Theo tôi được biết, Hội này do Eekiah Hopkins, một triệu phú Mỹ tính nết hết sức khác người, lập ra. Tóc ông ấy đỏ rực, nên ông ấy rất thiện cảm với hết thảy những ai có mái tóc cùng màu. Bởi vậy, sau ngày mất, ông ấy đã để lại một tài khoản kếch xù để tạo công ăn việc làm nhàn nhã cho những ai cùng màu tóc với ông ta. Tôi nghe nhiều người đồn là công xá khá hậu mà công việc lại chẳng vất vả gì lắm.

- Nhưng - tôi nói - số người tóc hung nộp đơn khéo lên đến cả hàng triệu.

- Không nhiều như ông tưởng đâu - hắn đáp. Như ông thấy đó, Hội chỉ nhận những ai người Luân Đôn. Ông triệu phú này vốn sinh ở Luân đôn, và sống tại đây thời trai trẻ, nên muốn làm những việc tốt đẹp cho thành phố nơi mình sinh trưởng. Hơn nữa, tôi còn nghe nói, Hội không dành chỗ khuyết đó cho những ai tóc màu hung nhạt, hung sẫm, hoặc bất kỳ sắc hung nào, mà chỉ dành cho người có một mái tóc thật, màu hung đỏ, đỏ rực như lửa. Ông Wilson, nếu muốn nhập đơn, ông nên đến ngay đi. Nhưng xem ra chắc ông chẳng thèm mất công chỉ để kiếm được có vài trăm bảng.

Nhưng chắc quí ông thấy đó, tóc tôi quả thực màu hung đỏ với đủ mọi sắc thái mà chính mẩu quảng cáo kia đòi hỏi. Tôi tự cảm thấy nếu phải dự tuyển, tôi sẽ có nhiều cơ may hơn bất cứ ai tôi từng gặp từ trước tới giờ. Vincent Spaulding xem ra biết rõ chuyện này nhiều hơn những gì tôi có thể trông đợi ở hắn, nên tôi lập tức ra lệnh cho hắn đóng cửa hiệu, rồi chúng tôi liền lên đường, tìm đến cái địa chỉ đã ghi trong mẩu quảng cáo kia.

Ông Holmes ạ, tôi hy vọng đừng bao giờ sẽ phải chứng kiến thêm một lần nữa cảnh tượng như thế. Từ bốn phương đông, tây, nam, bắc, tất cả những ai có mái tóc hung với đủ mọi sắc độ đều lũ lượt kéo đến City để tranh nhau cái chỗ khuyết đăng trên mẩu quảng cáo kia. Tôi không thể hình dung nổi rằng trên đất nước Anh lại có đến ngần ấy người háo hức đổ về đây chỉ vì mẩu quảng cáo vớ vẩn kia. Màu tóc họ thôi thì đủ mọi sắc độ, nhưng như Spaulding nói số người có mái tóc thật màu đỏ rực như lửa, quả không nhiều . Khi thấy có ngần ấy người đứng đợi, tôi toan bỏ cuộc. Nhưng Spaulding không chịu nghe. Hắn chen vai thích cánh mãi cho tới lúc lách được qua đám đông, và chúng tôi đặt được chân lên những bậc tam cấp dẫn lên văn phòng.

Trong văn phòng tôi chẳng thấy bày biện gì nhiều , ngoài mấy chiếc ghế gỗ và một cái bàn. Ngồi tại đó là mọt người bé loắt choắt, màu tóc còn đỏ hơn cả tóc tôi. Hắn nói vắn tắt vài câu với từng người dự tuyển, rồi với ai cũng cố tìm một vài khiếm khuyết này nọ để từ chói. Chiếm được chỗ khuyết đó xem ra chẳng dễ. Nhưng khi đến lượt tôi, anh chàng loắt choắt nọ tỏ ra hài lòng hơn bất cứ ai khác. Hắn đóng chặt cửa lại ngay sau lúc chúng tôi bước vào, để có thể trò chuyện riêng với hai chúng tôi.

- Đây là ông Jabez Wilsong - Spaulding nói - ông ấy đến để dự tranh chỗ khuyết mà Hội đang tuyển.

- Ông ấy rất xứng đáng - gã nọ đáp. Lâu lắm rồi, tôi chưa từng thấy một mái tóc nào tuyệt như thế này. Hắn lùi lại một bước, nghiêng đầu ngắm nghía mái tóc tôi. Rồi thình lình chồm tới nắm chặt tay tôi, chức mừng tôi trúng tuyển.

- Không còn gì để phân vân nữa - hắn nói. Nhưng để biết chắc, xin ông thứ lỗi, tôi phải thật thận trọng để đề phòng. Nó chưa dứt lời, hắn đã dùng cả hai tay tóm chặt tóc tôi giật lấy giật để cho tới lúc tôi rơm rớm nước mắt. “ông ứa nước mắt kìa - hắn vừa nói vừa buông tay ra. Tôi thấy mọi cái đều ổn. Nhưng chúng tôi phải thận trọng, vì chúng tôi đã hai lần bị lừa, một lần thì tóc giả, một lần thì tóc nhuộm.” - Hắn đến bên cửa sổ và lớn tiếng báo cho đám đông rằng đã tìm được ứng viên thích hợp. Tiếng suýt xoa và kêu la vì thất vọng từ dưới đường vọng lên, và mọi người lục tục bỏ đi, tản ra nhiều ngả, cho tới lúc chẳng còn thấy mái tóc hung nào, ngoại trừ mái tóc hung của tôi và của gã lo việc tuyển chọn các ứng viên.

- Tên tọi là Duncan Ross - hắn nói. Bao giờ thì ông có thể bắt tay vào công việc?

- À, có một điều hơi bất lợi là tôi đang bận chuyện làm ăn ở nhà - tôi đáp.

- Ồ, ông Wilson, ông đừng lo! Vincent Spaulding nói. Tôi có thể thay ông trông coi.

- Tôi phải làm việc vào những giờ nào? - tôi hỏi.

- Từ mười giờ sáng đến hai giờ chiều.

Hiện giờ, ông Holmes ạ, cửa tiệm cầm đồ của tôi chủ yếu chỉ làm việc vào buổi chiều và buổi tối, vì vậy, tôi thấy không có gì bất tiện cho lắm, nếu kiếm thêm được chút đỉnh vào các buổi sáng. Ngoài ra, tôi biết tay giúp việc của tôi là người đáng tin cậy, và hắn ta có thể thay thế tôi xoay xở mọi việc khi cần.

- Vậy thì rất thuận tiện cho tôi - tôi nói, - Còn thù lao?

- Bốn bảng mỗi tuần.

- Thế công việc?

- Nhàn nhã lắm.

- Ông muốn ngụ ý gì khi gọi là nhàn nhã?

- À, ông phải có mặt hàng ngày tại văn phòng, hay ít ra cũng tại toà nhà này, trong suốt thời gian đó. Nếu bỏ ra ngoài, ông sẽ mất việc. Bản di chúc có ghi rõ điểm này.

- Mỗi ngày chỉ có mặt bốn tiếng thì chuyện không ra khỏi văn phòng chắc chắn tôi sẽ thực hiện được thôi - tôi nói.

- Chúng tôi không bao giờ dung thứ vì bất cứ lý do nào - ông Duncan Ross nói - cả ốm đau lẫn bận công việc, hoặc bất cứ cớ gì khác. Ông hoặc phải ở lại, hoặc sẽ bị mất việc.

- Thế tôi phải làm gì?

- Chép lại bộ Encyclopedia Britannica, Bách khoa toàn thư Anh Quốc. Đây là tập I. Bắt đầu từ mai trở đi, ông sẵn sàng chưa?

- Dĩ nhiên - tôi đáp.

- Vậy thì tạm biệt ông, ông Jabez Wilson. Một lần nữa xin chúc mừng ông.

Tôi cùng gã giúp việc trở về, chẳng biết nói gì hay làm gì thêm: tôi rất mừng rỡ vì tìm được một công việc béo bở.

Vâng, chuyện đó khiến tôi khấp khởi mừng thầm suốt ngày, nhưng đến chiều, tôi lại thấy lo. Tôi tự thuyết phục mình rằng toàn bộ chuyện này đúng là một trò đùa, mặc dù thực chất nó là gì, tôi không sao hình dung nổi. Thật khó tin được rằng trên đời lại có kẻ để lại một bản di chúc kỳ cục như thế, và chịu bỏ ra một đống tiền như thế chỉ để thuê làm một dịch vụ giản dị là chép toàn bộ Bách khoa toàn thư Anh Quốc. Tuy vậy, sáng hôm sau tôi vẫn quyết định đến xem tận mắt sự thể thế nào, nên tôi lên đường đến Pope’s Court.

Tôi sửng sốt và lấy làm thích thú vì mọi chuyện diễn ra hết sức tốt đẹp, ngoài sức tưởng. Họ kê sẵn cho tôi một cái bàn, và Duncan Ross ngồi đó xem tôi bắt tay vào việc ra sao. Gã bảo tôi chép từ vần A, rồi lát sau bỏ đi, để mặt tôi ngồi chép. Nhưng chốc chốc lại tạt vào xem tôi làm việc ra sao. Đúng hai giờ gã khen tôi đã chép được nhiều, rồi tạm biệt tôi, tiễn tôi ra khỏi cửa, xong khoá cửa văn phòng ngay khi tôi vừa đi khỏi.

Ông Holmes ạ, việc đó cứ tiếp diễn hết ngày này sang ngày khác, và đến thứ bảy gã bước vào, trao cho tôi bốn đồng sovereign vàng để trả cho công việc tôi làm tuần qua. Tuần sau mọi chuyện lại diễn ra như tuần đầu rồi tuần tiếp theo nữa cũng thế. Sáng nào tôi cũng có mặt ở đúng lúc mười giờ và ra về lúc hai giờ. Càng về sau, Duncan Ross càng đến thưa dần, chỉ một lần vào buổi sáng, rồi ít lâu sau, không thấy đến nữa. Tuy vậy, dĩ nhiên, tôi vẫn không bao giờ dám rời khỏi phòng dù chỉ một phút. Tôi làm thế nào biết chắc được lúc nào thì gã xuất hiện, hơn nữa, công việc lại nhàn nhã, hợp với sở thích tôi, nên tôi không muốn có nguy cơ bị thải hồi.

Tám tuần liền đã trôi qua như vậy và số giấy tôi chép được đã chất đầy phân nửa cái giá sách trong phòng. Nhưng rồi toàn bộ công việc bỗng nhiên kết thúc.

- Kết thúc?

- Vâng, thưa ông. Mà chỉ mới sáng nay thôi. Tôi đến nơi làm việc như thường lệ vào lúc mười giờ, nhưng thấy cửa khoá và chính giữa có đính một mẩu thông báo nhỏ, hình vuông, viết trên bìa cứng. Mẩu thông báo ấy đây, ông có thể tự đọc.

Rồi ông thân chủ chìa ra một mẩu bìa trắng, cỡ bằng một trang sổ tay, viết chỉ vỏn vẹn mấy chữ:

“Hội những người tóc hung đỏ giải thể ngày 9 tháng 10 năm 1890”

Holmes và tôi ngắm nghía mẩu thông báo và gương mặt rầu rĩ thấp thoáng sau mảnh bìa nọ cho tới lúc khía cạnh khôi hài của vụ này khiến cả hai cùng cười phá lên.

- Tôi chẳng thấy có gì đáng buồn cười trong chuyện này - ông thân chủ của chúng tôi kêu lên, mặt đỏ ửng lên tận mái tóc hung đỏ rực. Nếu quí ông không thể làm gì khác ngoài việc nhạo báng tôi, thì tôi đi nhờ người khác ngay đây.

- Ồ, không, không - Holmes kêu lên. Tôi thực tình không muốn bỏ qua vụ này, dù phải chịu mất bất cứ thứ gì. Nhưng, nói ông bỏ qua cho, trong chuyện này quả có điểm gì đó rất hài hước, Thế ông làm gì khi thấy mẩu bìa này đính trên cửa?

- Tôi chưa biết phải làm gì. Tôi tới dò hỏi các văn phòng kế cận của toà nhà, nhưng chảng ai biết gì về cái Hội kia. Rốt cục, tôi đành tìm gặp ông chủ nhà ỏ dưới tần trệt, hỏi xem ông ta có thể nói cho tôi điều gì đã xảy ra với cái Hội Tóc đỏ kia không. Ông ấy đáp rằng chưa bao giờ nghe nói đến nó. Rồi tôi hỏi ông Duncan Ross là ai. Ông ấy nói: cái tên đó ông mới nghe thấy lần đầu.

- Vâng - tôi nói - đó chính là cái ông thuê căn phòng số 4.

- À, cái gã tóc màu hung đỏ chứ gì?

- Đúng thế.

- Ồ, - ông ta tiếp - tên gã ấy là William Moris kia. hắn chỉ thuê tạm căn phòng tôi ít lâu trong lúc chờ tìm được chỗ mới để đặt văn phòng của hắn. Hắn vừa dọn đi hôm qua.

- Thế có thể tìm hắn ở đâu?

- À, tại văn phòng mới của hắn. Hắn có cho tôi biêt địa chỉ đấy. Vâng, đây rồi, số 17, đường King Edward Street, cạnh giáo đường Saint Paul.

- Tôi đến ngay nơi đó, ông Holmes ạ, tìm được căn nhà theo địa chỉ, nhưng chẳng ai nghe nói tới cái tên William Morris lẫn cái tên Duncan Ross.

- Rồi ông còn làm gì nữa? - Holmes hỏi.

- Tôi quay về Coburg Square, hỏi gã giúp việc nên tính sao, nhưng gã chẳng nghĩ được cách gì khả dĩ giúp tôi cả. Chỉ bảo tôi là nên chịu khó chờ thư từ qua đường bưu điện. Nhưng như thế tôi thấy chưa yên tâm, ông Holmes ạ. Tôi không muốn bị mất việc, mà chẳng hề làm gì, chỉ khoanh tay ngồi chờ. Tôi nghe nói ông rất tốt bụng, sẵn lòng giúp những ai khốn khổ đến cầu cứu mình, nên đã tìm đến ông ngay.

- Ông ứng phó như vậy là khôn ngoan, Holmes nói. Vụ của ông rất đáng chú ý, và tôi rất lấy làm sung sướng được mời đứng ra giải quyết. Từ những gì ông vừa kể, tôi nghĩ đây chắc chắn là một vụ nghiêm trọng hơn so với mức mà người ta có thể tưởng khi mới nhìn qua.

- Đúng là nghiêm trọng thật! - ông Jabez Wilson. - Không dưng tôi bị mất bốn bảng mỗi tuần.

- Riêng về phần ông - Holmes nhận xét - tôi thấy ông không có gì để oán trách cái hiệp hội kỳ quặc kia cả. Trái lại, theo như tôi hiểu, ông kiếm thêm được khoảng ba mươi bảng và thu thêm được ít nhiều tri thức sâu sắc về tất cả các mục được viết trong vần A. Ông chẳng mất gì cả.

- Ồ, không, thưa ông. Nhưng tôi còn muốn dò ra tung tích bọn chúng xem chúng là ai và chúng chơi trò này với tôi nhằm mục đích gì, nếu đó quả là một trò đùa. Một trò đùa khá tốn kém với bọn chúng, vì chúng phải trả những ba mươi hai bảng.

- Chúng tôi sẽ cố làm sáng tỏ những điểm ông vừa nhắc. Nhưng trước hết, tôi muốn hỏi ông vài câu, ông Wilson. Anh chàng giúp việc của ông, người đầu tiên lưu ý ông về mẩu quảng cáo kia, làm việc cho ông đã bao lâu rồi?

- Trước đó khoảng một tháng.

- Hắn đến với ông như thế nào?

- Theo lời quảng cáo tôi cho đăng trên báo.

- Chỉ một mình hắn đến hay còn có thêm ai khác?

- Không, có khoảng một tá đến dự tuyển.

- Tại sao ông chọn hắn?

- Vì hắn năng nổ và không đòi hỏi nhiều.

- Thực sự, chỉ đòi phân nửa số lương phải không?

- Vâng.

- Tướng mạo hắn thế nào, cái gã Vincent Spaulding ấy?

- Thấp, mập, rất nhanh nhẹn, không có râu, tuy tuổi khoảng ba mươi. Trên trán có một vết sẹo trắng.

Holmes ngồi bật dậy, vẻ rất kích động.

- Tôi cũng đoán vậy. - anh nói - trên dái tai hắn ông có thấy hai lỗ đeo hoa tai không?

- Có, thưa ông. Hắn bảo tôi một bà di gan đã xỏ cho hắn khi hắn còn trẻ.

- Thôi được rồi, ông Wilson. Vài ngày nữa, tôi sẽ rất sung sướng, báo cho ông biết kết quả vụ này. Hôm nay là thứ Bảy, tôi hy vọng đến thứ Hai chúng tôi sẽ có kết luận.

Khi ông thân chủ đã ra về, Holmes liền thu người lại trong ghế bành, hai đầu gối khẳng khiu gần chạm mũi. Anh ngồi ở tư thế đó hồi lâu, mắt lim dim, chiếc tẩu bằng đấu nung màu đen nhô ra phía trước, trông tựa cái mỏ của một giống chim kỳ lạ. Tôi đã tưởng anh ngủ thiếp đi thì thình lình anh chồm dậy, dáng điệu như thể một người vừa nảy ra một quyết định, và đặt chiếc tẩu lên mặt lò.

Chiều nay có một buổi hoà nhạc tại St James’s Hall. - anh thốt lên. Anh nghĩ sao, Watson? Bệnh nhân của anh có thể vui lòng buông tha anh trong vài giờ được không?

- Hôm nay tôi chẳng có gì phải làm. Công việc của tôi không bao giờ khiến tôi phải miệt mài cả ngày trong phòng khám.

- Vậy thì anh đội mũ vào, rồi ta đi thôi. Trước tiên, tôi phải đến khu City. Rồi sau đó, trên đường về, ta có thể ghé vào một cửa hiệu nào đó ăn chiều. Nào, ta lên đường thôi!

Chúng tôi đáp tàu điện ngầm đến tận Aldersgate, rồi đi bộ một quãng tới Coburg Square, nơi diễn ra câu chuyện kỳ dị mà chúng tôi vừa được nghe kể ban sáng. Một tấm biển hiệu màu nâu, kẻ hai chữ “JABEZ WILSON” bằng sơn trắng, treo ở góc nhà cho biết đó là cơ ngơi hành nghề của ông thân chủ tóc hung đỏ của chúng tôi. Holmes dừng lại ngay trước cửa hiệu, nghiêng đầu ngắm nghía mọi thứ, mắt sáng quắc. Rồi anh thong thả đi đi lại lại trên đường, sau đó vòng xuống tận góc phố, mắt vẫn chăm chú quan sát từng ngôi nhà. Cuối cùng, anh quay lại trước cửa hiệu. Anh dùng đầu gậy nện mạnh hai ba lần xuống vỉa hè, rồi tiến thẳng tới trước cửa hiệu gõ cửa. Cánh cửa mở toang ngay và trong khung cửa hiện ra một chàng trai mặt mũi sáng sủa lên tiếng mời mọc.

- Cảm ơn - Holmes nói. Tôi chỉ muốn nhờ anh chỉ giúp đường đến Strand.

- Đến ngã tư thứ ba rẽ phải, đến ngã tư thứ tư thì rẽ trái, gã giúp việc của ông Wilson vừa đáp, vừa đóng chặt cửa lại.

- Quả là một gã ranh mãnh, Holmes nhận xét khi chúng tôi quay ra. Theo tôi xét đoán, hắn là tay ranh mãnh đứng hàng thứ tư ở Luân Đôn này, và có lẽ đứng hàng thứ ba về mặt liều lĩnh. Tôi đã biết ít nhiều về hắn!

- Rõ ràng là gã giúp việc của ông Wilson đã đóng một vai trò đáng kể trong vụ làm ăn bí ẩn của Hội Tóc Hung - tôi nói, - Tôi tin chắc việc anh hỏi đường chỉ là cái cớ để nhìn mặt hắn.

- Không phải đâu.

- Vậy anh muốn xem gì?

- Ống quần hắn, nơi hai đầu gối.

- Thế anh thấy được những gì?

- Thấy cái mà tôi mong đợi nơi hắn ta.

- Vậy tại sao anh gõ gõ đầu gậy xuống vỉa hè?

- Bác sĩ thân mến ơi, đây là lúc để quan sát, chứ không phải để trò chuyện. Ta đã biết được ít nhiều về Coburg Square. Giờ ta phải tìm kiếm những ngõ ngách nằm sau lưng nó.

Con đường mà chúng tôi vừa đặt chân tới sau khi đi vòng qua góc quảng trường Coburg Square là một trong những trục giao thông huyết mạch nối liền khu City với hai phần thuộc mạn phía Bắc và Tây của kinh thành. Khó mà hình dung nổi những dãy cửa hiệu và văn phòng hoa lệ mà chúng tôi đang nhìn thấy trước mắt lại chính là mặt sau của cái quảng cáo ảm đạm mà chúng tôi vừa mới ghé qua.

- Để tôi ngắm một chút nhé - Holmes nói khi dừng lại góc đường và đưa mắt nhìn dọc con đường. Tôi muốn ghi nhớ thứ tự các toà nhà ở đây. Tìm hiểu tường tận Luân dôn là một thú vui của tôi. Đầu tiên là cửa hiệu thuốc lá Mortimer, kế đến là một sạp báo nhỏ, rồi chi nhánh Coburg của ngân hàng thành phố và các Vùng phụ cận. Chỗ này ăn thẳng sang lô nhà phía bên kia. Anh Watson, thế là chúng ta đã xong việc. Bây giờ chúng ta được quyền thư giãn đầu óc trong chốc lát. Một khoanh sandwich, một tách cà phê, rồi sau đó ta đến dự buổi hoà nhạc, nơi mà chẳng một thân chủ tóc hung nào có thể quấy rầy chúng ta bằng những vụ rắc rối điên đầu.

Bạn tôi say mê âm nhạc, vì anh vốn là người chơi nhạc và cũng là một nhạc sĩ có tài. Suốt buổi chiều hôm đó, anh ngồi trong phòng hoà nhạc, tận hưởng một niềm hạnh phúc tột đỉnh và khẽ đánh nhịp bằng mấy ngón tay dài khẳng khiu theo các tiết tấu được nghe.

- Chắc anh đang muốn về ngay, phải không bác sĩ? - Holmes nói khi chúng tôi vừa rời khỏi phòng hoà nhạc.

- Vâng, tôi muốn về.

- Còn tôi, tôi phải làm nốt một số việc, mất khoảng vài tiếng nữa. Vụ Coburg Square quả là một vụ nghiêm trọng.

- Thật vậy sao?

- Đây là một vụ phạm tội qui mô có mưu tính trước. Tôi có đủ lý do để tin chắc chúng ta còn kịp ngăn chận. Tôi mong anh vui lòng giúp tôi tối nay.

- Vào lúc mấy giờ?

- Từ mười giờ tối là vừa. Watson ạ, vụ này e nguy hiểm, nên xin anh bỏ túi khẩu súng nhà binh của anh. - Holmes vẫy tay tạm biệt, rồi quay đi và mất hút ngay trong đám đông.

Tôi luôn bị ám ảnh bởi ý nghĩ là mình thật khù khờ mỗi lần cộng tác với Sherlock Holmes. Tôi cũng nghe rõ những gì anh nghe thấy và cũng nhìn rõ những gì anh nhìn thấy. Nhưng qua lời anh tôi hiểu rằng anh không chỉ thấy được những gì đã xảy ra, mà còn tiên đoán được những gì sắp tới, trong khi dưới mắt tôi toàn bộ nội vụ vẫn chỉ là một mớ bòng bong.

Tối hôm đó, vừa đặt chân vào phòng Holmes, tôi thấy anh đang sôi nổi trò chuyện với hai người, mà một thì tôi nhận ra ngay - đó là Peter Jones, một thám tử của sở cảnh sát. Còn người kia thì cao gầy, nét mặt buồn bã, đầu đội một chiếc mũ bóng loáng.

- Ra, vậy là đủ mặt cả rồi - Holmes vừa nói vừa cài khuy chiếc áo vét, rồi với tay lên giá lấy chiếc gậy nặng trịch xuống - Anh Watson, tôi nghĩ chắc anh đã biết ông Jones, đằng Scotland yard? Vậy chỉ xin giới thiệu với anh: đây là ông Merryweather, một cộng sự của chúng ta trong cuộc phiêu lưu tối nay. Với ông, ông Meryweatherr, món tiền đặt cọc cho cuộc chơi tối nay là ba mươi ngàn bảng. Còn với ông, ông Jones, đó sẽ là gã phạm mà từ lâu ông vẫn ước ao tóm cổ.

- Vâng, đó là John Clay, một tên giết người kiêm trộm cắp. Gã còn trẻ, ông Merryweatherr ạ, nhưng là tay rất sừng sỏ trong nghề. Tôi muốn bắt gã hơn bất cứ tên tội phạm nào ở Luân Đôn. Một nhân viên rất đáng chú ý, cái gã John Clay trai trẻ ấy. Đầu óc hắn cũng tinh quái như đôi bàn tay hắn vậy, nên tuy chúng tôi đã phát hiện được dấu tích hắn để lại khắp nơi, chúng tôi vẫn không biết tìm hắn ở đâu. Tôi đã theo dõi hắn nhiều năm rồi, nhưng chưa bao giờ đựơc nhìn thấy hắn tận mắt.

- Hy vọng rằng tối nay tôi sẽ có thể có hân hạnh đựoc giới thiệu hắn với ông. Tôi cũng đã một vai lần được nhìn thấy chiến công của cái gã John Clay này, và tôi hoàn toàn đồng ý với ông rằng hắn quả là một tay cao thủ trong nghề. Nhưng kìa, đã hơn mười giờ rồi, ta phải lên đường thôi. Nếu hai ông lên chiếc xe đầu, thì Watson và tôi sẽ theo sau trên chiếc xe thứ hai.

Trên đoạn đường dài, Holmes rất ít nói. Xe chúng tôi lăn bánh trên những dãy phố dài bất tận cho tới lúc đổ ra đường Farringdon Street.

- Sắp đến nơi rồi - bạn tôi nói. Tay Merryweather kia là một Giám đốc nhà băng và có liên quan trực tiếp dến vụ này. Tôi nghĩ Jones cũng rất cần cho chúng ta. Ta xuống đây thôi, họ đang chờ chúng ta kia kìa.

Chúng tôi đặt chân xuống chính khúc đường vốn tập nập mà chúng tôi vừa tới hồi sáng. Theo chân Merryweather, ba chúng tôi băng qua một con hẻm hẹp, rồi theo một cánh cửa hông đã mở sẵn để đón chúng tôi, đi vào nhà. Bên ngoài cánh cửa là một dải hành lang ngắn, dẫn thẳng tới một cái cổng sắt đồ sộ. Cánh cổng cũng đã mở sẵn, và chúng tôi lần bước trên những bậc cầu thang xoắn bằng đá, dẫn xuống một cái cổng đồ sộ nữa. Ông Merryweather dừng lại, châm đèn, xong dẫn chúng tôi xuống một lối đi tối om, sực mùi đất ẩm, rồi ông mở tiếp cánh cửa thứ ba, đưa chúng tôi xuống một căn nhà hầm rất rộng. Xung quanh, chúng tôi thấy chất đống hàng dãy thùng gỗ và hòm lớn.

- Từ phía trên ông rất an toàn - Holmes vừa nhận xét, vừa giơ cao ngọn đèn lồng, đưa mắt nhìn quanh.

- Cả từ phía dưới cũng thế - ông Merrywether vừa nói vừa gõ gõ đầu gậy xuống mặt sàn bằng đá. - Trời ơi, sao nghe như trống rỗng thế này! - ông ngước mắt, kinh ngạc thốt lên.

- Tôi buộc phải yêu cầu ông nói nhỏ hơn một chút, Holmes nghiêm nghị nói. - Nếu không chúng ta sẽ có nguy cơ chẳng gặt hái được gì trong chuyến phiêu lưu này. Xin qúi ông làm ơn ngồi xuống mấy cái thùng kia và đừng can thiệp vào công việc của tôi.

Ông Merryweather liền ngồi ngay xuống một cái thùng gỗ, vẻ mặt rất phật ý. Holmes quì xuống dười sàn và dùng chiếc đèn lồng bắt đầu xem xét cẩn thận từng kẽ đá. Chỉ vài phút sau anh đã mãn nguyện ngay vì tôi thấy anh đã đứng bật dậy.

- Chúng ta phải chờ ít nhất một tiếng nữa - anh nói - Vì bọn chúng khó có thể làm gì trước khi ông chủ hiệu cầm đồ ngủ yên. Bấy giờ, chúng sẽ không bỏ lỡ lấy một phút, vì công việc càng xong sớm, chúng sẽ càng có nhiều thì giờ để chạy trốn. Anh Watson, chắc anh đã đoán được hiện nay, chúng ta đang ở dưới tầng hầm Chi nhánh City của một trong những nhà ngân hàng chủ chốt ở Luân Đôn. Ông Merryweather đây là chủ tịch ban Giám đốc. Ông ấy sẽ giải thích cho anh rõ rằng lúc này bọn tội phạm táo tợn nhất của thành Luân Đôn có những lý do để quan tâm nhiều đến căn nhà hầm này.

- Chúng tôi hiện cất giữ tại đây toàn bộ số vàng Pháp mà ngân hàng đã vay được- ông Giám đốc khẽ nói.

- Vàng Pháp của các ông?

- Vâng. Cách đây vài tháng chúng tôi có vay của Ngân hàng pháp Quốc một số vàng trị giá ba mươi ngàn bảng. Ai cũng biết là chúng tôi chưa bao giờ khui số vàng ấy ra, và cho tới bây giờ mấy thùng vàng đó vẫn còn nằm nguyên ở đây, tại căn hầm này. Cái thùng tôi đang ngồi này đựng một số vàng trị giá tới hai ngàn bảng Anh. Nghĩa là nhiều hơn rất nhiều so với mức bình thừơng tại một văn phòng của một chi nhánh nhỏ, và các viên Giám đốc đều đã có những mối nghi ngờ về chuyện này.

- Họ nghi ngờ là rất phải - Holmes nhận xét - và bây giờ đã đến lúc chúng ta phải trù liệu những gì cần làm để hoàn tất cái kế hoạch nhỏ của ta. Tôi hy vọng trong khoảng một giờ nữa, mọi chuyện sẽ kết thúc. Trong thời gian đó, ông Meryweather ạ, chúng ta phải che tạm ngọn đèn lại.

- Vậy là phải ngồi trong bóng tối?

- Tôi e rằng đành phải thế thôi. Tôi thấy đối thủ của chúng ta đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng, nên ta không thể liều lĩnh để cho chúng thấy dưới này có ánh sáng.

Và trước nhất, chúng ta phải chọn cho mỗi người một vị trí thuận lợi để ra tay. Bọn này rất táo tợn, nên chúng ta có lợi thế hơn, chúng vẫn có thể gây tổn hại cho chúng ta, nếu ta không cẩn thận. Tôi sẽ đứng nép sau cái thùng này; còn các ông hãy nấp sau mấy cái kia. Khi nào tôi chiếu đèn vào bọn chúng, các ông hãy mau lẹ bắt lấy chúng. Nếu chúng nổ súng thì Watson, anh hãy bắn hạ chúng.

- Bọn chúng chỉ còn một lối thoát - Holmes nói khẽ - Đó là lui về căn nhà trên Coburg Square. Ông Jones, tôi hy vọng chắc ông dã làm đúng những gì tôi yêu cầu?

- Tôi đã cho một viên thanh tra và hai cảnh sát mai phục ở cửa trước hiệu cầm đồ.

- Vậy là chúng ta đã chặn hết tất cả các lối ra và giờ, chỉ còn phải ngồi im đợi chúng nữa thôi.

Thời gian như thể ngừng trôi! Lúc này mới có một giờ mười lăm phút, thế mà tôi có cảm giác như đêm đã sắp tàn và trời đang rạng sáng. Từ chỗ nấp, tôi có thể nhìn bao quát cả sàn hầm. Bỗng mắt tôi nhìn thấy một ánh đèn.

Mới đầu, đó chỉ là một tia sáng nhỏ trên mặt đá. Về sau, tia sáng cứ dài dần cho tới lúc trở thành một vệt vàng, rồi bất thần, không hề gây tiếng động, khe hở trên mặt sàn như mở rộng ra thành một lỗ hổng. Một bàn tay hiện ra, trắng trẻo như tay phụ nữ, sờ soạng ở phía giữa quầng sáng nhỏ. Rồi một trong những phiến đá rộng, màu trắng, bị lật sang bên, phát ra một tiếng động ngắn, và một lỗ hổng trắng hoác hình vuông xuất hiện, khiến một dòng ánh sáng từ một ngòn đèn lồng tuôn vào căn hầm. Qua cái lỗ hổng đó, một gương mặt rất trẻ con từ từ nhô lên, đưa cặp mắt dò xét nhòm quanh. Sau đó gã nọ vươn dần người lên cho tới lúc tỳ được gối vào mép lỗ. Chỉ một khoảnh khắc sau, hắn đã đứng bên mép lỗ, và đưa bàn tay ra, kéo tên đồng bọn lên theo, một gã cũng thấp như hắn, mặt mũi xanh xao mái tóc hung đỏ rực như lửa.

- Ổn rồi - hắn thì thầm. Mày có mang theo mấy cái bao không? Thế là đại thắng! Nhảy đi, archie, nhảy đi!

Holmes lao ra, tóm chặt cổ áo gã mới đột nhập đó. Gã kia tụt vội xuống cái lỗ hổng nọ, và tôi nghe thấy tiếng vải rách soạt khi Jones túm lấy chiếc áo khoác của hắn. ánh đèn rọi thẳng vào khẩu súng ngắn hắn cầm, nhưng chiếc gậy của Holmes đã giáng mạnh vào cổ tay hắn, khiến khẩu súng rời xuống mặt sàn đá.

- Vô ích thôi, John Clay - Holmes nói. Anh chẳng còn một cơ may nào nữa đâu.

- Ta biết - gã đáp, giọng ráo hoảnh - Nhưng ta tin bạn ta đã thoát, tuy ta thấy anh đã vớ được chiếc áo choàng của cậu ta.

- Có ba người đợi hắn ngoài cửa đấy - Holmes nói.

- À, ra thế. Xem ra anh đã tính đâu vào đấy rồi nhỉ. Khá khen cho anh.

- Cả cho anh nữa. - Holmes đáp - Ý đồ lập Hội Tóc Đỏ của anh quả rất tân kỳ và hữu hiệu.

John Clay nghiêng mình chào một vòng cả ba chúng tôi, rồi lặng lẽ theo sau viên thám tử đi.

- Watson, anh thấy không? Holmes giảng giải khi chúng tôi ngồi bên cốc whisky tại Baker Street. - Ngay từ đầu, tôi đã thấy rõ ràng mục đích duy nhất của cái Hội nọ là điệu ông chủ hiệu cầm đồ ra khỏi nhà mình hàng ngày trong nhiều giờ. Cái biện pháp chọn quả có kỳ quặc thật, nhưng quả tình cũng khó tìm được một cách nào tốt hơn. Ngón này rõ ràng là do cái trí tuệ của Clay nghĩ ra nhờ mái tóc đỏ rực của tên đồng bọn gợi ý. Bốn bảng mỗi tuần là một miếng mồi hết sức cám dỗ đối với ông chủ hiệu, nhưng có đáng là bao khi bọn chúng tính chuyện vớ được hàng ngàn? Chúng cho đăng quảng cáo, rồi một gã lừa đảo đã thuê tạm một văn phòng; còn gã kia khuyến khích ông chủ mình nộp đơn, và cả hai cùng nhau tìm cách làm sao cho ông ta chắc chắn vắng nhà tất cả các buổi sáng trong nhiều tuần lễ. Chỉ cần thoáng nghe câu chuyện là hắn chỉ xin giúp việc với phân nửa số lương, tôi đã hiểu ngay: hắn phải có một động cơ mạnh mẽ nào đó thôi thúc hắn chịu làm với đồng lương như thế!

- Nhưng bằng cách nào mà anh đoán được động cơ của bọn chúng?

- Công việc làm ăn của ông thân chủ chúng ta chẳng lời lãi bao nhiêu, nên trong nhà ông ta chẳng có món gì đang giá để chúng phải trù tính việc này, việc kia và chi tiêu tốn kém như vậy cả. Vì thế, rõ ràng là cái mà chúng đi tìm phải ở chỗ khác kia. Nhưng đó là cái gì? Tôi nghĩ tới cái thói hay chụp ảnh của gã giúp việc cho ông ấy và cái thói quen chui xuống căn hầm của gã. Tầng hầm! Chìa hoá của mọi chuyện đây rồi. Tôi liền dò tìm lai lịch gã giúp việc bí ẩn nọ, và phát hiện ra rằng mình đang đối mặt với một trong những tên tội phạm nhẫn tâm nhất và táo tợn nhất thành Luân đôn. Hắn đang làm gì đó dưới tầng hầm - một công việc phải mất nhiều giờ mỗi ngày và phải làm mấy tháng mới xong. Việc gì nhỉ? Tôi nghĩ: đó chỉ có thể là việc đào một đường hầm để đột nhập vào một toà nhà.

- Đó là những điều mà tôi đã suy ra được khi dến thăm hiện trường. Tôi đã làm anh ngạc nhiên khi gõ gõ đầu gậy xuống vỉa hè. Tôi muốn biết tầng hầm đó dẫn ra phía trước hay phía sau. Không phải phía trước. Thế là tôi giật chuông gọi cửa, và gã giúp việc nọ đã ra mở ngay, đúng như tôi hy vọng. Tôi hầu như không nhìn vào mặt hắn, hai đầu gối hắn mới đang nhìn. Chắc anh cũng đã nhìn thấy tận mắt: cả hai ống quần hắn đều sờn nhàu và nhèm nhuốc nơi hai đầu gói. Đó là vết tích của bấy nhiêu giờ đào bới. Bấy giờ chỉ còn một điểm chưa rõ: con đường đó dẫn đến đâu? Tôi vòng ra góc quảng trường thì thấy ngân hàng City và Ngoài thành với cửa hiệu cầm đồ kia đấu lưng vào nhau. Tôi cảm thấy mình đã gửi xong bài toán. Khi anh ra về sau buổi hoà nhạc, tôi ghé đến Scotland yard, rồi đi gặp ông chủ tịch ban Giám đốc của ngân hàng nọ, và tôi đã gặt hái được kết quả như chính anh đã thấy đấy.

- Nhưng anh làm cách nào mà đoán được rằng đêm nay chúng sẽ hành động? - tôi hỏi.

- Ấy, khi chúng đóng cửa văn phòng của Hội thì cũng chính là lúc chúng không còn lo nghĩ gì nữa tới chuyện ông Jabez Wilson đi vắng hay ở nhà. Nói cách khác, chúng đã đào xong con đường hầm kia. Nhưng cái chính là chúng phải sử dụng sớm thành quả đó, vì chúng sợ có thể bị phát hiện hoặc ngân hàng sẽ chuyển chỗ vàng kia đi nơi khác. Thứ bảy là dịp thuận tiện cho chúng hơn bất kỳ ngày nào khác, vì chúng sẽ có tới hai ngày để tẩu thoát. Vì tất cả những lý do đó, tôi dự kiến chúng sẽ hành động ngay đêm nay.

- Cách suy lụân của anh thật tài tình, - tôi thán phục reo lên.

- Nó chỉ cứu tôi ra khỏi cảnh buồn chán thôi - anh vừa đáp, vừa ngáp dài.


Conan Doyle

seta
20-10-2003, 23:47
Kẻ dị dạng
Một buổi tối, tôi ngủ gà ngủ gật trên một cuốn tiểu thuyết. Nhà tôi đã lên trên lầu. Tiếng then cài cánh cửa ra vào báo cho tôi biết là những người giúp việc đã lui về. Tôi còn chờ thêm chút nữa rồi mới đứng lên khỏi ghế. Đúng vào lúc đó, tiếng chuông vang lên.

Tôi nhìn đồng hồ: 11giờ 45. Muộn thế này thì chỉ có thể là khách, một ca bệnh sẽ làm tôi phải thức thâu đêm. Hơi cáu kỉnh, tôi ra phòng ngoài để mở cửa: Sherlock Holmes

- A Watson! - Anh reo lên - Tôi đến thăm quá muộn.

- Có gì đâu. Vào đi chứ!

- Anh tỏ vẻ ngạc nhiên... Anh có thể cho tôi ngủ nhờ đêm nay không?

- Sẵn sàng. Anh ăn tối?

- Không, xin cảm ơn, tôi đã dùng rồi, ở ga Waterrloo.

Tôi đưa cái túi đựng thuốc cho anh. Anh im lặng hút. Tôi biết rõ là chỉ có một vụ quan trọng mới có thể đưa anh tới dây vào một giờ muộn như vậy. Vậy là tôi kiên nhẫn chờ anh vào chuyện.

- Ngày mai anh tới Aldershot được không?

- Tôi nhờ một bác sĩ bạn thay tôi chăm sóc các bệnh nhân.

- Tốt lắm! Tôi muốn đáp chuyến tàu mười một giờ mười ở ga Waterloo.

- Rất thuận tiện cho tôi.

- Vậy thì, nếu anh chưa buồn ngủ, tôi xin tóm tắt những sự việc và những gì cần làm.

- Trước khi anh tới, tôi đã ngủ gà ngủ gật nhưng bây giờ thì hoàn toàn tỉnh táo.

- Đó là vụ ám sát đại tá Bát-cơ thuộc sư đoàn Royal Mallows ở Aldershot. Sự việc xảy ra cách đây hai ngày.

”Royal Mallows là một trong những trung đoàn ái Nhĩ Lan nổi tiếng trong quân đội Anh. Tối thứ hai vừa qua, trung đoàn đặt dưới quyền chỉ huy của đại tác Giêm Bát-cơ, một lính già can đảm đã được lên lon nhờ vào lòng dũng cảm. Bát-cơ lấy vợ khi ông còn là trung sĩ. Ông kết hôn với cô Nancy, con gái trung - sĩ. Ông kết hôn với cô Nancy, con gái trung - sĩ trưởng - đội trong cùng đơn vị. Vợ chồng Bát-cơ đã thích nghi mau chóng với địa vị mới của họ. Bà vợ sống ăn ý với các bà vợ sĩ quan cũng như chồng bà đối với các bạn đồng đội. Tôi xin thêm bà là một phụ nữ rất đẹp và cho mãi đến bây giờ, sau ba chục năm lập gia đình, sự xuất hiện của bà còn gây ấn tượng mạnh."

”Thoạt nhìn, cặp vợ chồng này đã được hưởng một hạnh phúc hiền hoà. Tôi đã đến hỏi ông thiếu tá Mã-phi, thì ông này đoán chắc với tôi là ông chẳng bao giờ thấy có sự bất hoà trong gia đình đó. Tôi hỏi ông cặn kẽ hơn. Thiếu tá nói rằng sự gắn bó của ông Bát-cơ đối với vợ thì lớn mạnh hơn là sự gắn bó của bà Bát-cơ đối với chồng. Nếu phải xa vợ trong một ngày, ông rất buồn phiền; nhưng bà vợ thì không chứng tỏ một sự mãnh liệt đến thế. Dẫu sao, trong trung đoàn, họ vẫn được coi như là một cặp vợ chồng lý tưởng."

”Dường như là đại tác Bát-cơ có một tính khí khác thường. Bình thường, ông là một quân nhân già, vui tính, hăng hái. Nhưng đôi khi ông cũng hung bạo và thù hằn. Tuy vậy, bà vợ không bao giờ chịu đựng những tật xấu đó. Có một điều khác là: theo định kỳ, một tâm trạng gì đó như trầm uất lại giáng xuống ông. Viên thiếu tá mà tôi hỏi chuyện đã ghi nhận điều đó và họ đã lấy làm ngạc nhiên. Nó theo ông thiếu tá thì nụ cười biến mất trên mặt ông Bát-cơ tựa hồ như có một bàn tay vô hình đã xua đuổi nó. Và các hiện tượng đó xảy ra trong những buổi họp mặt xã giao cũng như tại bàn ăn của sĩ quan ở đơn vị. Có khi trong nhiều ngày liên tục, ông như bị giày vò bởi sự ưu sầu đen tối nhất."

"Sư đoàn Royal Mallows hạ trại tại Andershot từ vài năm qua. Các sĩ quan lập gia đình thì ngủ ngoài doanh trại. Ông đại tá đã chọn một biệt thự, cách trại bắc chưa tới bốn trăm mét, nhưng mặt nhà phía tây cách đường cái hai mươi lăm mét. Gia nhân gồm có bác xà ích và hai người hầu gái. Vợ chồng Bát-cơ không con, rất ít khi tiếp khách trong nhà. Tóm lại, có năm người sống trong biệt thự đó."

”Bà Bát-cơ là một tín đồ Thiên Chúa Giáo. Bà rất bận rộn với CLB Thánh Georges và hết lòng với việc lo cấp quần áo cho những người nghèo trong vùng. Tối hôm đó, một buổi họp được khai mạc vào lúc 8 giờ. Bà vội vàng ăn bữa tối để kịp đi họp. Khi rời khỏi nhà, bà báo cho chồng biết là bà sẽ không vắng mặt lâu. Theo lời chứng của người xà ích, bà đón một cô láng giềng còn trẻ Ma-ri, rồi cả hai cùng đi. Buổi họp kéo dài bốn mươi phút. Tới chín giờ mười lăm phút, bà cho ngừng xe để cô gái xuống trước cửa và về nhà cô."

”Ngôi biệt thự của đại tá có một căn phòng được dùng làm phòng khách nhỏ, có cửa hướng ra ngoài đường. Từ bên ngoài, muốn vào phòng đó phải băng qua một bãi cỏ tròn, đường kính ba mươi mét. Nó được ngăn cách với con đường băng một bức tường thấp, phía trên có gắn lưới sắt, bà đại tá đã vào nhà qua ngả đó. Bà thắp đèn và gọi chuông rồi sai cô hầu phòng đem tới một tách trà: đó là điều trái ngược với những thói quen của bà. Ông đại tá ở lại trong phòng ăn; biết vợ mình đã về nhà, ông đi sang phòng khách nhỏ để gặp bà. Bác xà ích trông thấy ông đi ngang qua gian tiền sảnh rồi vào trong đó."

"Mười phút sau khi được lệnh, cô hầu phòng đem trà lên cho bà chủ, cô ngạc nhiên nghe ông chủ và bà chủ cãi nhau kịch liệt. Cô gõ cửa, không có tiếng trả lời. Cô muốn mở cửa nhưng cánh cửa đã bị khoá từ bên trong. Cô hối hả chạy xuống bếp, báo động với bà bếp. Thế rồi hai người đàn bà cùng bác đánh xe vào trong gian tiền sảnh, gióng tai lên mà nghe cuộc cãi lộn. Cả ba người đều nhất trí rằng họ chỉ nghe thấy có hai giọng nói: giọng của ông đại tá và của bà vợ. Những câu của ông Bát-cơ thì thô bạo, nói với giọng thất thanh, khiến người nghe không hiểu được. Còn những câu nói của bà Bát cơ thì lại còn ác liệt hơn nữa. Ba người giúp việc nghe rõ ràng: “Anh là một thằng hèn!“ Bà không ngớt lặp đi lặp lại câu đó. Và bà còn nói: "Biết làm sao bây giờ? Hãy trả lại cho tôi được tự do! Không bao giờ ta còn có thể thở chung một bầu không khí với mi! Đồ hèn!“ Bất chợt người đàn ông hét lên một tiếng khủng khiếp rồi tiếp đó là tiếng đổ ngã, tiếng thét xé tai của bà chủ. Bác đánh xe lao mình vào cánh cửa, cố sức bật nó ra. Bên trong những tiếng thét nối tiếp nhau. Người đánh xe không phá được cánh cửa và hai người tớ gái lại quá lo sợ nên chẳng giúp được gì. Một ý kiến chợt loé lên trong trí bác. Bác bỏ ra ngoài, đi vòng ngôi nhà, ngang qua bãi cỏ trên đó có mở ra cánh cửa sổ sát đất. Cửa mở rộng, bác vào trong phòng khách nhỏ. Bà chủ đã ngưng kêu gào. Bà nằm im trên đi-văng; ông đại tá thì hai chân vắt ngang trên cái tay dựa của ghế bành, đầu gục xuống đất; ông chết trong một vũng máu."

”Người đánh xe định mở cửa ra. Nhưng chìa khoá không có trong ổ khoá và cũng không thấy để ở đâu trong căn phòng. Vậy là bác lại nhảy qua cửa sổ sát đất, đi mời một cảnh sát và một y sĩ, rồi trở lại. Bà Bát-cơ được chuyển sang phòng riêng của bà, vẫn còn hôn mê. Thi hài ông đại tá được đặt nằm dài trên ghế trường kỷ. Và người ta tiến hành cuộc điều tra."

”Vết thương trên người nạn nhân là một vết đứt dài bảy centimét ở phía sau đầu, được gây ra bởi một loại hung khí có mũi nhọn. Trên sàn nhà, gần bên xác chết, người ta tìm thấy một thứ như cây gậy ngắn bằng gỗ rắn, có một cái cán bằng xương: Ông đại tá có một bộ sưu tập lớn những khí giới mà ông đã đem về từ nhiều Quốc gia khác nhau, tại những nơi mà ông đã tham chiến. Cảnh sát cho rằng cây gậy đó là một trong những vũ khí sưu tập của ông. Nhưng các gia nhân thì nói là trước đó, họ chưa từng trông thấy nó. Cảnh sát không khám phá ra được điều gì khác. Và đây là việc quái lạ mà chưa ai có thể giải thích được: trên người bà Bác-cơ, trên người nạn nhân, cũng như ở bấc cứ chỗ nào trong phòng khách nhỏ, người ta không thể tìm thấy cái chìa khoá. Cần phải gọi một người thợ khoá từ Aldershot tới để mở cánh cửa ra."

"Trong tình hình bế tắc như vậy, thiếu tá Mã-phi mời tôi xuống Aldershot để phụ giúp cảnh sát."

”Trước khi quan sát căn phòng, tôi thẩm vấn nhiều gia nhân, nhưng không thâu đạt được gì hơn là những điều mà tôi vừa trình bày với anh. Tuy nhiên, cô hầu phòng có cung cấp cho tôi một chi tiết đáng chú ý: số là khi nghe tiếng cãi cọ, cô ta xuống bếp và đi lên cùng với hai người đầy tớ khác. Nhưng cô nói rằng lúc đầu, khi chỉ có mình cô, những giọng nói của ông bà chủ bị nghẹt đến mức cô gần như chẳng thể nào hiểu được điều gì và rằng chính là do những ngữ điệu nhiều hơn là những tiếng nói mà cô hiểu ra rằng hai người đang cãi nhau. Tôi dồn dập đặt nhiều câu hỏi. Sau chót cô nhớ rằng có hai lần cô đã nghe thấy bà chủ thốt lên cái tên ”David“. Điểm đó có tầm quan trọng cao để soi sáng cho chúng ta về những nguyên cớ gây ra cãi vã."

”Một điều gây ra cảm tưởng sâu đậm cho mọi người là: những nét nhăn nhó của ông đại tá. Theo lời chứng của họ, vẻ mặt ông có một nét biểu lộ sự khiếp sợ và sự kinh hoàng chưa từng thấy. Rõ ràng là ông biết mình sắp chết và rằng sự trông thấy cái chết đã làm cho ông kinh hoàng. Điều đó, phù hợp với lý thuyết của cảnh sát: ông đại tá hẳn đã thấy vợ mình chuẩn bị giết mình. Và cái việc cú đánh đã được giáng xuống từ đằng sau cũng không mẫu thuẫn với lý thuyết đó, bởi vì ông đại tá rất có thể quay mình để né tránh cú đánh. Về phía bà Bát-cơ, người ta không có một tin tức nào cả. Bà bị một cơn cấp phát sốt thuộc não và tạm thời bị mất lý trí."

”Cảnh sát đã cho biết là cô Ma-ri (người đã cùng đi với bà Bát-cơ vào buổi tối hôm đó), quả quyết là cô không biết chút gì về nguyên cớ đã gây ra cơn tức giận của bạn mình. Anh Watson, khi tập hợp những dữ kiện đó, tôi đã chú ý đến việc mất cái chìa khoá. Căn phòng đó đã được lục soát hết sức kỹ lưỡng mà chỉ uổng công. Do đó cái chìa khoá đã bị lấy. Nhưng cả ông đại tác lẫn bà vợ đều không lấy. Vậy thì một người thứ ba hẳn đã vào trong phòng và cái người thứ ba đó đã chỉ có thể vào được qua ngả cửa sổ sát đất."

”Ngay tức khắc tôi đã tin rằng một cuộc quan sát kỹ căn phòng khách nhỏ và bãi cỏ có thể phát hiện ra một dấu vết nào đó của nhân vật bí mật kia. Tôi không bỏ sót một dấu vết nào. Và sau chót tôi đã tìm ra nhiều dấu vết. Đã có một người ở trong căn phòng khách nhỏ. Người đó đã đi qua bãi cỏ từ ngoài đường vào. Tôi phát hiện 5 dấu chân rất rõ: một trên đường, ở nơi mà người đó đã leo lên đường, hai trên bãi cỏ, và hai trên ván sàn gần khuôn cửa sổ mà qua đó người lạ đã vào trong phòng. Chắc chắn là người đó đã chạy băng qua bãi cỏ, bởi vì dấu những ngón chân thì sâu hơn dấu những gót chân. Nhưng không phải người đó đã làm cho tôi ngạc nhiên đến bối rối. Chính là cái đi kèm với người đó."

- Cái đi kèm?

Holmes rút từ túi áo ra một tờ giấy lụa lớn và mở ra một cách thận trọng trên đầu gối anh.

- Anh nghĩ sao về cái này?

Tờ giấy phủ đầy những tranh vẽ phỏng sao lại những dấu chân một con vật nhỏ. Có năm ngón chân, có móng dài. Mỗi dấu lớn bằng một cái muỗng dùng để ăn món tráng miệng.

- Đây là một con chó. - Tôi nói.

- Con chó làm sao leo lên được những tấm ri-đô? Tôi đã phát hiện ra những dấu vết này trên một tấm ri-đô.

- Thế thì một con khỉ?

- Không phải.

- Thế thì là cái gì?

- Đây không là con chó, không là con mèo, cũng chẳng là con khỉ, cũng chẳng là con vật nào mà ta biết. Tôi đã thử hình dung ra con vật đó theo các kích thước của dấu chân nó. Đây là bốn dấu chân ở một nơi mà con vật đứng bất động. Giữa chân trước và chân sau cách nhau vào khoảng 50cm. Anh hãy thêm vào đó chiều dài của cái cổ và của cái đầu thì anh sẽ có một con vật mà chiều dài thân mình chưa tới sáu mươi phân, và nó có thể còn ngắn hơn thế nữa, hoặc dài hơn nếu nó có một cái đuôi. Nhưng khi con vật di chuyển, ta có chiều dài của bước chân nó. Dấu bước chân là mười centimét. Vậy là con vật này có cái thân mình dài với những chân rất ngắn. Tóm lại, đó là một thú leo được lên tấm riđô và là con thú ăn thịt.

- Làm sao mà anh suy diễn ra được điều đó?

- Bởi vì đã leo lên những tấm ri-đô. Ở khuôn cửa sổ có treo một lồng chim hoàng yến. Dường như mục tiêu của nó khi leo lên ri-đô là để bắt con chim.

- Thế thì con vật đó là gì?

- Đó là một loại chồn hạt dẻ, mõm nhọn, lớn hơn những con chồn mà tôi đã từng thấy.

- Nhưng nó dính dáng gì đến tội ác?

- Điều đó cũng lại tối tăm. Nhưng chúng ta biết là có một người đứng trên đường và rình mò cuộc cãi vã của hai vợ chồng, bởi vì những mành sáo còn chưa buông xuống và ngọn đèn còn được thắp sáng. Chúng ta cũng còn biết là người đó dã chạy băng ngang bãi cỏ, đã vào trong phòng khách nhỏ, có đem theo một con thú bí mật, và y đã đánh ông đại tá (nếu không, thì vừa lúc trông thấy y, ông đại tá đã té bật ngửa xuống thanh gác cửa và bị tét đầu).

Sau chót y bỏ đi với chiếc chìa khoá cửa.

- Những khám phá của anh làm cho nội vụ tối tăm hơn, thay vì làm cho nó được sáng tỏ!

- Anh có lý! Nhưng tôi đã làm cho anh thức quá khuya! Vậy ngày mai, trên đường đi Aldershot, tôi sẽ kể tiếp.

- Cảm ơn! Anh cứ kể tiếp.

- Khi ra khỏi nhà vào hồi bảy giờ rưỡi, bà Bát-cơ không giận hờn gì chồng; người đánh xe đã nghe bà nói chuyện với ông đại tá theo lối thân tình. Mặt khác, ngay sau khi về nhà, bà đã vào trong căn phòng và kêu người hầu pha trà; bất cứ người phụ nữ nào bị bồn chồn cũng đều làm như vậy, và ngay sau khi ông Đại tá hiện ra là bùng nổ. Thế mà cô Ma-ri đã không rời khỏi bà trong suốt khoảng thời gian đó, cho nên mặc dù cô ta có chối cãi, nhưng chắc chắn cô có biết một cái gì đó."

”Ý nghĩ đầu tiên của tôi là có sự dan díu giữa cô Ma-ri và ông lính già, và cô này hẳn đã ít nhiều thổ lộ với người vợ. Điều đó giải thích rõ về cơn tức giận khi trở về nhà cũng như những lời chối bỏ của cô gái trong cuộc. Và điều đó cũng không mâu thuẫn lắm với những từ mà 3 người giúp việc nghe được. Nhưng lại có một người tên là David, lại có sự trìu mến của ông đại tá đối với vợ, và sau chót còn có sự lẻn vào của một người đàn ông khác. Thật khó mà chọn ra đường để tiến hành điều tra. Dù sao đi nữa, tôi không thiên về việc cô Ma-ri có ”tình ý“ với ông đại tá, nhưng tôi lại vững tin rằng chính cô ấy là người biết rõ sự bí mật vì sao bà Bát-cơ thình lình thay đổi tính khí. Vậy là tôi tìm tới nhà cô Ma-ri, giải thích rằng tôi tin chắc là cô biết rõ những sự việc, và tôi đã báo cho cô biết là bà Bát-cơ sẽ bị đặt vào ghế của bị cáo về tội ám sát chồng, nếu nội vụ được làm sáng tỏ."

Ma-ri là một cô gái bé nhỏ, thanh khiết, có cặp mắt e lệ và mái tóc vàng hoe. Sau khi nghe chuyện, cô ngồi suy tư trong một lúc, rồi quay sang phía tôi và với dáng vẻ của người đã có một quyết định dứt khoát:

- Tôi đã hứa với bạn tôi rằng tôi sẽ không nói ra bất cứ điều gì. Nhưng nay bà ấy lâm trọng bệnh và đang trên bờ của sự tù tội, vậy thì tôi không thể làm thinh. Thưa ông, tối thứ hai đó chúng tôi từ Hội quán trở về. Lúc ấy vào khoảng chín giờ kém mười lăm. Khi băng ngang qua đường Hudsson - một con đường rất lớn và rất yên tĩnh- tôi thấy một người đàn ông tiến lại phía chúng tôi: lưng rất còng và đeo một cái hộp chéo qua vai, đầu cúi thấp và bước đi với hai đầu gối co gấp lại. Ông ta ngước mắt lên đúng vào lúc chúng tôi bước vào trong cái vòng ánh sáng của ngọn đèn đường. Ngay tức khắc, ông ta đứng lại và kêu lên bằng một giọng khủng khiếp: “Lạy Chúa tôi, đây đúng là Nancy!“. Bà Bát-cơ bỗng tái mét. Bà hẳn đã sụp xuống nếu con quái vật đó không đỡ lấy bà. Tôi định kêu cứu, nhưng bà lại dịu dàng nói với người đàn ông.

- Ha-ri, em cứ tin rằng anh đã chết từ ba chục năm qua.

- Tôi đã từng bị chết! - người kia trả lời.

Thật là kinh khủng khi nghe cái ngữ điệu trong tiếng nói của ông ta. Ông có một bộ mặt rám nắng, đáng lo ngại, với một ánh chói trong tia mắt. Tóc, râu má đã lấm tấm những sợi xám. Những nếp nhăn, những vết nhăn hằn trên mặt ông.

- ”Hãy đi tiếp một quãng, em gái“! Bà Bát-cơ bảo tôi. ”Chị muốn nói chuyện với ông đây. Không có gì phải lo sợ cả“. Bà nói với vẻ quả quyết, nhưng bà vẫn còn tái xanh.

Tôi đi trước một quãng để cho hai người tự do nói chuyện trong vài phút. Sau đó bà đi xuống phố. Cặp mắt bà long lanh. Tôi thấy người đàn ông khốn khổ đứng lại bên ngọn đèn đường và vung nắm đấm lên không khí, tựa hồ như ông ta bị điên vì tức giận. Bà không nói một lời nào cho tới khi chúng tôi về đến cửa nhà tôi. Lúc đó bà mới nắm lấy bàn tay tôi, yêu cầu tôi đừng nói gì với bất cứ ai về cuộc gặp gỡ này.

- Đó là một người quen cũ của chị, nay lại hiện ra.

Tôi hứa, bà hôm hôn tôi. Giờ đây vì lợi ích của bà, tất cả chuyện đó phải được biết đến.

”Anh Watson, những lời khai của Ma-ri như là ánh sáng trong đêm. Tất cả những gì trước đây không lợi ích liên lạc với nhau thì nay lại ràng buộc nhau trong một trật tự bình thưòng. Tôi chỉ còn việc tìm gặp cái người dị dạng đó. Nếu anh ta còn ở Aldershot thì việc đó sẽ dễ dàng. Ban ngày tôi dò hỏi và buổi tối hôm đó, tôi đã biết địa chỉ. Đó là Henry Wood ở trọ trong cùng một đường phố và bà Bát-cơ đã gặp ông ta. Ông ta chỉ mới tới đó có năm ngày. Tôi đến gặp bà chủ nhà trọ và tự xưng là nhân viên mới đến thu những phiếu thuộc cảnh sát và bà ta đã bép xép: “Cái ông Henry Wood là nhà ảo thuật và nghệ sĩ diễn rong. Ông ta đi diễn quanh các trại lính và các quán cà phê buổi chiều“. Trong cái hộp, có một con vật đã làm cho bà chủ nhà trọ phải nhiều phen sợ bở vía: đó là con thú mà ông đem ra trình diễn. Bà ấy còn cho biết đôi lúc ông nói một thứ tiếng lạ hoắc và hai đêm vừa qua ông ta cứ rên rỉ và khóc lóc ở trong phòng. Về tiền bạc, ông sòng phẳng, nhưng dẫu sao trong số tiền ứng trước thì ông đã trả cho bà một đồng florin giả. Bà đưa cho tôi xem; đó là một đồng rupi Ấn Độ."

”Giờ đây, thật hoàn toàn sáng tỏ rằng: hai người đàn bà chia tay nhau, người dị dạng đã đi theo họ trong khoảng cách xa, ông ta chứng kiến cảnh cãi cọ giữa hai vợ chồng, ông ta vội vã chạy vào trong phòng khách nhỏ và con thú mà ông ta mang theo đã trốn ra khỏi hộp. Nhưng ông ta là người duy nhất có thể cho chúng ta biết những gì đã xảy ra."

- Và anh có ý định hỏi ông ta?

- Tất nhiên! Nhưng hỏi trước mặt một người chứng.

- Người chứng sẽ là tôi.

- Phải, điều đó làm sáng tỏ vấn đề. Nhưng nếu ông ta từ chối, chúng ta buộc lòng đưa nội vụ cho cảnh sát.

- Liệu ông ta còn ở đó không?

- Một trong những chú nhóc của tôi đã lảng vảng trước nhà trọ và nếu ông ta bỏ đi thì chú bé sẽ bám sát ông ta như một con đỉa. Ngày mai chúng ta sẽ gặp lại chú bé. Nhưng trong lúc chờ đợi, chính tôi là kẻ gây ra tội ác nếu tôi còn bắt anh thức lâu hơn nữa.

Chúng tôi tới nơi xảy ra tấm thảm trạng vào hồi giữa trưa rồi tới đường Hudsson ngay lập tức.

- Đây là đường Hudson. A! Kìa, chú nhỏ tới báo cáo.

- Ông ta vẫn còn ở đó, thưa ông! - Một cậu bé vừa chạy tới vừa kêu lên với chúng tôi.

- Tốt! - Holmes nói khi vuốt ve má chú bé - Lại đây, Watson. Chúng ta tới nơi rồi.

Holmes đưa vào tấm thiếp trên đó chỉ vài lời ngỏ ý muốn được gặp ông Hennry Wood về một việc quan trọng. Ngay sau đó chúng tôi được mời vào nhà. Mặc dù đang mùa nóng nực, ông ta vẫn thu mình bên ngọn lửa và căn phòng đúng là một cái lò. Henry Wood hoàn toàn dị hình và co rúm trên một cái ghế dựa. Nhưng khuôn mặt ông hướng về chúng tôi, thuở trước hẳn là rất điển trai.

Ông nhìn chúng tôi với vẻ nghi hoặc. Không nói mà cũng chẳng đứng lên, ông chỉ cho chúng tôi hai cái ghế dựa.

- Ông từ bên ấn Độ về, tôi nghĩ thế? - Holmes hỏi với một giọng nhã nhặn - Tôi tới về cái vụ nho nhỏ mà ông đã biết: cái chết của đại tá Bát-cơ.

- Vụ đó thì can hệ gì tới tôi?

- Tôi cũng mong muốn sự việc như thế. Bởi vì nếu nội vụ không được làm sáng tỏ thì bà Bát-cơ - vốn là một người bạn cũ của ông - sẽ bị gán cho tội giết người.

Người đó giật nẩy mình, kêu lên:

- Tôi không biết ông là ai, cũng chẳng hiểu vì sao ông lại biết được điều đó.

- Người ta chỉ còn chờ đợi bà tỉnh lại để bắt giam bà.

- Lạy Chúa! Ông là cảnh sát hả?

- Không.

- Thế thì sao ông lại can thiệp vô?

- Tôi can thiệp là để cho công lý được thể hiện.

- Ông có thể tin nơi tôi, bà ấy vô tội.

- Thế thì chính ông là phạm tội.

- Không. Tôi không gây ra tội ác.

- Vậy, ai giết đại tá Giêm Bát-cơ?

- Chúa giết ông ta. Nhưng ông hãy nhớ lấy điều này: nếu như tôi có đập vỡ óc y ra thì cũng rất đáng với cái tội của y. Ông muốn tôi khai à? Được, tôi chẳng có gì phải hổ thẹn cả. Đây, hiện giờ trên lưng tôi có một cái bướu lạc đà và những xương sườn xiêu vẹo. Nhưng đã có một thời, hạ sĩ Henr Wood này là người đẹp trai nhất trong trung đoàn bộ binh 117. Thuở đó, chúng tôi ở bên ấn Độ, tại vùng Bhurtee. Bát-cơ là trung sĩ trong cùng một đại đội với tôi. Còn người đẹp của trung đoàn... đúng thế! Là Nancy Devoy; thân phụ cô là trung sĩ trưởng đội. Hai chàng trai cùng yêu cô và chỉ có một được cô yêu thương: Tôi. Tôi đã chiếm được trái tim cô, nhưng cha cô lại ưa Bát-cơ hơn. Tôi là một người mạo hiểm, một tay phiêu lưu, còn Bát-cơ là người có học và người ta đã dự đoán trước là anh sẽ thành sĩ quan. Nhưng Nancy lại tha thiết yêu tôi và tôi tin là tôi sẽ lấy được nàng. Than ôi, cuộc nổi loạn của tính bản địa Cipayes bùng nổ và khắp xứ ngập chìm trong máu lửa!

”Toàn thể trung đoàn, thêm phân nửa đội pháp binh, một đại đội lính người Sikhs và nhiều người thường dân cùng đàn bà, trẻ con bị bao vây trong miền Bhurtee. Tới tuần thứ hai thì nước bắt đầu khan hiếm. Cần phải liên lạc với đoàn quân của tướng Neill đang ngược lên xứ đó. Đó là cơ may duy nhất. Tôi tự ý tình nguyện lẻn ra khỏi vòng vây và báo cho tướng Neill biết về tình trạng nguy ngập của chúng tôi. Đề nghị của tôi được chấp thuận. Tôi bàn bạc với trung sĩ Bát-cơ, là người biết rõ thực địa hơn bất cứ ai. Ông ta đã vẽ cho tôi một bản đồ để ra khỏi vòng vây. Tới 10 giờ tối tôi lên đường. Có cả ngàn sinh mạng cần được cứu sống, nhưng thật tâm tôi chỉ nghĩ đến có một người: Nàng."

”Con đường men theo một dòng nước cạn: tôi hy vọng là đi như thế sẽ thoát được sự canh chừng của bên địch. Nhưng trong lúc đang bò, tôi rơi vào tay sáu tên lính gác đang chờ đợi tôi. Trong hai giây, tôi bị choáng váng vì một cú đánh rồi bị trói. Cú đánh đó làm cho tôi đau đớn trong lòng người hơn là ở trên đầu, bởi vì tôi nghe quân Cipayes nói với nhau rằng chính Bát-cơ đã cho một đầy tớ địa phương đến báo tin cho họ, nhờ vậy họ mới bắt được tôi."

"Ngày hôm sau, vùng Bhurtee được quân của tướng Neill giải cứu, nhưng quân nổi loạn đem tôi chúng trong cuộc rút lui. Tôi bị tra tấn. Tôi đào thoát. Tôi bị bắt lại và bị hành hạ thành người tàn phế. Một phần quân phiến loạn bỏ trốn qua Népal; tôi phải theo đoàn đó. Chúng tôi còn đi xa hơn, đi tới tận Darjeeling. Ở đó dân sơn cước giết quân phiến loạn và tôi trở thành nô lệ của họ. Tôi lại bỏ trốn nữa. Nhưng thay vì đi về hướng nam, tôi lại ngược lên hướng bắc, đến xứ người Afghans. Tôi lang thang ở đó trong mười năm, rồi trở xuống Punjab là nơi tôi đã sống với dân địa phương, kiếm ăn bằng cách làm trò ảo thuật. Tôi làm sao dám trở về nước Anh. Thà cứ để cho Nancy và các bạn cũ cứ giữ mãi cái hồi ức về một gã Henry Wood đã chết với một cái lưng thẳng, hơn là thấy tôi trong một cái hình thể của một kẻ dị dạng gớm ghiếc như vậy. Họ tin chắc là tôi đã chết. Như thế lại càng hay! Tôi nghe nói Bát-cơ đã cưới Nancy và đã được thăng cấp trong trung đoàn."

”Nhưng khi về già, người ta tha thiết nhớ cố hương. Trong những năm dài, rồi những năm dài, tôi đã đeo đuổi theo hình ảnh bao đồng cỏ xanh và các hàng rào bên nước Anh. Sau cùng tôi muốn nhìn lại chúng một lần chót trước khi lìa đời."

- Câu chuyên của ông thật là cảm động - Sherlock Holmes nói - Tôi đã biết có cuộc gặp mặt giữa ông và bà Bát-cơ. Ông đã đi theo bà ấy về nhà, nhìn qua cánh cửa sổ, ông thấy họ cãi nhau, chắc hẳn là người vợ trách móc ông chồng về câu chuyện ngày xưa. Những tình cảm cá nhân của ông lúc đó đã thắng, ông liền chạy băng qua bãi cỏ và vào trong phòng.

- Đúng. Thưa. Và khi thấy tôi, y té gục đầu xuống thanh gác cửa. Nhưng y đã chết trước khi gục xuống: tôi trông thấy cái chết trên mặt y, cũng rõ ràng như tôi đọc sách này. Việc nhìn thấy tôi tựa như viên đạn súng lục bắn thẳng vào trái tim tội lỗi của y.

- Rồi sau đó?

- Nancy ngất đi. Tôi rút trong bàn tay nàng cái chìa khoá, định mở cửa đi tìm người cấp cứu. Nhưng tôi nảy ra cái ý định nên để nàng lại đó, còn mình thì bỏ trốn. Tôi nhét cái chìa khoá vào túi và đánh rơi cây gậy trong lúc đuổi theo Teddy đang leo lên tấm ri-đô. Khi tôi nhốt được nó vào trong cái hộp, tôi chạy đi với tốc độ nhanh nhất.

- Teddy là ai? - Holmes hỏi.

Henry cúi xuống và lôi ra một con vật bé nhỏ xinh đẹp màu đỏ lạt, mảnh mai và mềm mại, một cái mũi dài màu hồng và cặp mắt đỏ tuyệt đẹp.

- Một con chồn đen.

- Vâng, người ta gọi như thế, hoặc còn gọi nó là cầy ăn rắn. Tôi gọi nó là con bắt rắn. Tôi có nuôi một con rắn hổ đã bẻ hết răng nanh, và mỗi tối Teddy lại bắt rắn để mua vui cho những người trong xứ. Còn có chuyện gì ông muốn biết nữa không, thưa ông?

- Rất có thể là chúng tôi sẽ cần đến ông, nếu bà Bát-cơ bị gặp khó khăn.

- Trong trường hợp đó, xin ông hãy tuyệt đối tin cậy nơi tôi!

- Giờ đây, ông đã vừa ý khi biết rằng trong ba mươi năm qua, lương tâm ông đại tá đã không ngừng cắn rứt về cái hành vi phản bội của mình. A, ông thiếu tá Mã-phi đang đi bên kia đường. Xin chào, ông Wood.

Chúng tôi đuổi kịp ông thiếu tá.

- A, Holmes - thiếu tá reo lên - ông đã biết tin gì chưa.

- Chuyện gì vậy?

- Cuộc điều tra đã kết thúc. Y sĩ chứng nhận rằng nạn nhân chết vì chứng ngập máu. Tóm lại đây chỉ là một vụ thật tầm thường.

- Ồ rất tầm thường! - Holmes cười và trả lời - Mình đi thôi, anh Watson! Người ta chẳng còn cần đến chúng ta nữa.

Trong lúc đi ra nhà ga, tôi nói với Holmes:

- Có một điều tôi vẫn chưa rõ: người chồng tên là Giêm và người kia là Henry, tại sao bà ấy lại nói đến tên David?

- Đó là một từ ngữ dùng để oán trách.

- Để oán trách?

- Trong kinh Thánh, nhân vật David thỉnh thoảng lại sa đọa, hắn đã hành động y hệt như trung sĩ Giêm Bát-cơ vậy.


Conan Doyle

seta
20-10-2003, 23:49
Câu chuyện tỉnh lẻ
Lúc tôi xuống tàu ở thị trấn Nashville thuộc bang Tennessee thì trời đang mưa, một màn mưa màu xám kéo dài lê thê. Vì mệt nên tôi đi thẳng về khách sạn. Trong hành lang khách sạn, một người đàn ông to lớn nặng nề cứ đi đi lại lại. Có một cái gì đó trong cách đi của con người này làm tôi nghĩ đến con chó đói đang đánh hơi tìm khúc xương. Hắn có bộ mặt phì nộn, đỏ gay với cặp mắt thiếu ngủ. Hắn tự giới thiệu là Wendwood Caswell, thiếu tá Wendwood Caswell, xuất thân từ một gia đình danh giá ở miền Nam. Caswell kéo tôi vào phòng khách lớn của khách sạn, la lối gọi người bồi bàn. Hắn gọi rượu cho cả hắn và tôi. Vừa uống hắn vừa không ngớt lời giới thiệu về hắn, về gia đình hắn và về gia đình vợ. Hắn nói vợ hắn giàu lắm. Hắn thọc tay vào túi áo khoác lấy một nắm những đồng tiền ra khoe với tôi. Đến lúc ấy thì tôi đã chán hắn đến tận cổ. Tôi chào hắn rồi về phòng.

Từ cửa sổ khách sạn nhìn ra ngoài tôi thấy đường phố chìm trong im lặng, mặc dù lúc ấy mới là 10 giờ. "Thật là một nơi yên tĩnh". Tôi tự nói với mình khi đã chuẩn bị lên giường nằm. "Đúng là một thị trấn buồn tẻ tầm thường của miền Nam".

Tôi cũng là người miền Nam nhưng bây giờ tôi ở miền Bắc, làm phóng viên cho một tạp chí lớn. Ông chủ bút phái tôi đi Nashiville vì tạp chí có nhận được mấy tập truyện và thơ của một tác giả ở Nashiville tên là Asilea Adea. Người biên tập rất thích những tác phẩm của bà nên người ta yêu cầu tôi ký với bà một hợp đồng, theo đó bà sẽ chỉ viết riêng cho tạp chí của chúng tôi thôi.

Sáng hôm sau đúng 9 giờ sáng, tôi ra khỏi khách sạn để đi tìm bà Adea. Lúc đó trời vẫn còn mưa. Tôi vừa bước chân ra ngoài thì đã gặp ngay bác đánh xe Seezer. Bác là một người đàn ông da đen đã có tuổi, thân hình to lớn, mái tóc màu xám kiểu cách. Bác Seezer khoác một chiếc áo kỳ quái, tôi chưa từng thấy bao giờ. Chiếc áo này rất dài, lúc còn mới hẳn phải là màu xám và trước đây chắc phải là áo của một viên sĩ quan. Bây giờ thì mưa, nắng và thời gian đã làm cho nó mang đủ các thứ màu vẫn thấy trên cầu vồng. Chiếc áo chỉ còn có mỗi một khuy. Cái khuy màu vàng và to vừa bằng đồng 50 xu. Bác Seezer đứng cạnh cỗ xe ngựa, bác mở cửa xe và nói rất nhã nhặn:

- Mời Ngài lên xe, tôi sẽ đưa Ngài đến bất cứ đâu trong thị trấn này.

- Tôi muốn đến nhà số 8 - 61 phố Hoa Nhài.

Tôi nói và định bước lên xe.

Người đánh xe giữ tôi lại:

- Sao Ngài lại đến chỗ ấy?

- Đến chỗ ấy thì việc gì tới anh?

Tôi bực mình nói.

Bác Seezer đấu dịu, mỉm cười:

- Thưa không. Nhưng chỗ ấy là một nơi hẻo lánh của thị trấn này. Tôi chỉ đưa Ngài đến đó rồi xin đi ngay thôi.

Số 8 - 61 phố Hoa Nhài đã từng là một ngôi nhà đẹp. Còn bây giờ thì nó trở thành cổ lỗ và đang chết dần chết mòn. Tôi xuống xe.

- Xin Ngài cho 2 đô-la.

Bác Seezer nói.

Tôi trả bác hai tờ giấy bạc 1 đô-la. Lúc đưa tiền cho bác, tôi để ý thấy một tờ bị rách ở giữa và được dán lại bằng miếng giấy màu xanh. Tờ bạc còn bị mất một góc ở phía trên, bên phải.

Asilea tự mở cửa cho tôi. Bà trạc 50 tuổi. Mái tóc trắng chải ngược ra phía sau làm nổi rõ khuôn mặt nhẹ nhàng nhưng mệt mỏi. Bà mặc một bộ đồ màu vàng nhạt. Bộ đồ đã cũ nhưng rất sạch. Asilea dẫn tôi vào phòng khách. Ở giữa phòng kê một chiếc bàn đã mọt, ba cái ghế tựa và một chiếc tủ sôpha cũ màu đỏ. Bà mời tôi ngồi vào bàn và chúng tôi bắt đầu câu chuyện. Tôi nói với bà về đề nghị của tạp chí, còn bà tự giới thiệu mình. Bà xuất thân từ một gia đình danh giá ở miền Nam, cha bà làm nghề hội thẩm. Asilea Adea kể với tôi rằng bà chưa bao giờ cắp sách đến trường. Các cụ thân sinh đã thuê thầy tư về dạy cho bà học tại nhà.

Kết thúc câu chuyện, tôi hẹn hôm sau sẽ mang hợp đồng đến ký rồi đứng dậy cáo từ. Đúng lúc ấy có tiếng gõ nhẹ vào cánh cửa phía sau. A silea Adea khẽ xin lỗi rồi đi vào mở cửa. Chỉ một lát sau bà đã quay ra. Trông bà trẻ lại tới 10 tuổi, đôi mắt long lanh, hai gò má ửng hồng.

- Anh phải uống với tôi một chén trà rồi hãy đi.

Bà nói rồi cầm chiếc chuông nhỏ để trên bàn khẽ lắc. Một bé gái da đen chừng 12 tuổi chạy ra. Asilea Adea mở chiếc vĩ nhỏ và cũ lấy ra một tờ giấy bạc 1 đô-la. Tờ giấy bạc được dán lại bằng một miếng giấy xanh và bị mất góc trên bên phải. Đó chính là tờ giấy bạc tôi đã trả cho bác Seezer.

- Intes, sang cửa hàng ông Baker mua cho bác 25 xu chè và 10 xu đường, nhanh lên nhé.

Đứa bé gái chạy ra khỏi phòng theo lối cửa sau. Chúng tôi nghe thấy tiếng cánh cửa khép lại. Tiếp theo đó là tiếng kêu của đứa bé. Tiếng nói của nó chìm trong sự giận dữ của một người đàn ông. Asilea đứng dậy. Bà đi ra ngoài, mặt không hề đổi sắc. Tôi nghe thấy tiếng đàn ông cục cằn lẫn với tiếng nói nhỏ nhẹ của bà . Rồi tiếng cánh cửa đạp mạnh và bà quay trở lại:

- Xin anh thứ lỗi, cuối cùng thì ngay cả đến chén trà tôi cũng không mời anh được. Bà nói. Hình như ông Baker cũng hết chè bán rồi. Chắc nó sẽ mua được chè cho cuộc gặp ngày mai.

Chúng tôi chào nhau rồi tôi quay về khách sạn.

Trước bữa ăn cơm chiều, thiếu tá Wendwood Caswell tìm tôi. Tôi không làm sao tránh được hắn. Hắn cứ nài tôi uống rượu bằng được. Hắn móc ở trong túi ra hai tờ giấy bạc 1 đô la. Lại một lần nữa tôi nhìn thấy tờ giấy bạc 1 đô la rách được dán một miếng giấy màu xanh và bị mất một góc. Đó cũng chính là tờ giấy bạc tôi đã trả cho bác Seezer. Thằng cha này lạ thật ! Tôi cứ phân vân mãi không hiểu bằng cách nào mà Caswell lại có được tờ giấy bạc này.

Sáng hôm sau, bác Seezer đợi sẵn tôi ở bên ngoài khách sạn. Bác đưa tôi đến nhà bà Adea và đống ý chờ cho đến khi chúng tôi làm việc xong. Bà Adea trông không được khỏe. Tôi giải thích cho bà nghe về bản hợp đồng rồi bà ký ngay. Lúc định đứng dậy, nét mặt bà bỗng biến sắc, bà xỉu đi rồi ngã vật xuống sàn nhà. Tôi vội đỡ bà dậy rồi dìu bà lên nằm trên chiếc ghế sôpha cũ màu đỏ. Tôi chạy ra cổng gọi bác Seezer vào giúp. Bác chạy vội xuống phố và 5 phút sau quay lại cùng với bác sỹ. Ông bác sỹ khám cho bà Adea rồi quay sang nói với bác đánh xe người da đen.

- Bác Seezer, ông nói, bác chạy sang bảo nhà tôi đưa cho một ít sữa và mấy quả trứng nhanh lên.

Rồi ông quay sang tôi:

- Bà ấy thiếu ăn, ông nói, bà ấy còn nhiều bạn bè và họ đều muốn giúp đỡ bà ấy. Nhưng bà Caswell rất giữ ý và chỉ chịu nhờ vả có mỗi mình ông già da đen đó thôi. Ông ấy từng là nô lệ của gia đình bà.

- Bà Caswell? Tôi nói giọng đầy ngạc nhiên. Tôi tưởng bà ấy là Asilea Adea chứ?

- Trước khi lấy Wendwood Caswell, ông bác sỹ nói. Cách đây 20 năm bà ấy đã từng là Asilea Adea. Chồng bà ấy là một con sâu rượu hoàn toàn vô dụng. Lão ta cướp của vợ đến đồng xu mà bác Seezer san sẻ cho bà.

Lúc ông bác sỹ đi rồi , tôi lại nghe thấy tiếng của bác Seezer ở phòng bên cạnh:

- Hắn lại cướp tất cả số tiền hôm qua con đưa cho bà rồi à?

- Ừ, tôi nghe thấy tiếng của Asilea trả lời rất khẽ, lão lấy cả hai tờ.

Tôi liền đi vào đưa cho Asilea Adea 50 đô la. Tôi nói đó là tiền của tạp chí gửi. Rồi bác Seezer đưa tôi trở lại khách sạn.

Khoảng vài giờ đồng hồ sau, trước bữa cơm chiều, tôi ra ngoài đi tản bộ một lúc. Đến trước một cửa hàng, tôi thấy có đám đông đang bàn tán chuyện gì đó rất ồn ào. Tôi bèn rẽ vào cửa hàng. Thiếu tá Caswell đang nằm sóng sượt trên sàn. Hắn đã chết. Người ta tìm thấy hắn nằm bất tỉnh ở ngoài phố. Hắn bị giết trong một cuộc ẩu đả. Đúng là tay hắn vẫn còn nắm rất chặt. Khi tôi bước lại gần cái xác thì bàn tay phải của Caswell bỗng duỗi ra. Có cái gì đó rơi xuống và lăn đến cạnh chân tôi. Tôi giẫm một bàn chân lên. Sau đó, tôi cúi xuống nhặt cái vật ấy bỏ vào túi áo.

Người ta nói một tên ăn cắp đã giết Caswell. Họ bảo Caswell khoe với mọi người là hắn có 50 đô-la. Nhưng khi tìm thấy cái xác thì trên người hắn chẳng còn xu nào.

Sáng hôm sau, tôi rời Nashville. Lúc tàu chạy ngang qua sông, tôi lấy trong túi áo ra cái vật hôm qua rơi khỏi bàn tay đã chết của Caswell. Tôi ném nó xuống dòng sông đang chảy lững lờ phía dưới. Đó là một chiếc khuy áo. Chiếc khuy màu vàng. Chiếc khuy cuối cùng trên áo khoác của bác Seezer.


O. Henry

seta
20-10-2003, 23:53
Vương Khản
Vương Khản là con thứ ba một gia đình nông dân sống ở ẩn trong núi. Một hôm Khản đang dấy cỏ ngoài đồng, bỗng một cơn gió lớn đùng đùng nổi dậy, làm cát bay đá chạy trời đất tối sầm. Khản đang tính tìm chỗ ẩn nấp, chợt thấy một người con gái, áo quần hoa lệ, nhưng đầu tóc rối bù, chân không hài vớ, từ đằng xa hộc tốc chạy tới phía chàng. Nàng vừa chạy vừa kêu gọi Khản:

- Tam lang , cứu thiếp với!

Trong lúc vội vàng hoảng hốt, Khản chẳng kịp tìm hiểu cho rõ lý do tại sao, buột miệng bèn hỏi:

- Cứu nàng bằng cách nào?

Người con gái đáp:

- Xin cho thiếp núp nhờ ở dưới chuồng cỏ , lát nữa có cơn lốc kéo đến, chính là kẻ đuổi bắt thiếp đấy. Nhờ chàng nói dối dùm thiếp đã chạy về hướng Tây rồi nhé! Nói xong liền lẩn vào trong chuồng cỏ.

Lát sau, quả nhiên có một cơn lốc xoáy từ Ðông Bắc thổi đến, cao lớn lừng lững như một cái tháp Phật, cuồng bạo và mãnh liệt như ngựa lồng, vây chung quanh thửa ruộng của Khản mấy vòng, làm cho lá rơi cây rụng tơi tả.

Khản y lời người con gái dặn, lấy tay chỉ về hướng Tây, để đánh lừa cơn lốc .

Lập tức có một tràng sấm nổ vang trời, và cơn lốc như hiểu ý người , ào ào chuyển hướng thổi về phía Tây, khiến cho Khản vô cùng ngạc nhiên và kinh dị.

Chừng đến lúc hết cơn lốc, Khản mở cửa chuồng cỏ, đã thấy người con gái ngồi núp trong đó, đang xé quần để lấy vải quấn chân.

Nàng thấy Khản đến, thì nhoẻn miệng cười duyên, lấy tay vấn lại mái tóc. Trên trán hãy còn lấm lấm mồ hôi, hơi thở chưa được đều đặn bình thường.

Khản để ý nhìn kỹ nàng, thấy mày ngài, khõe mạnh, diễm lệ ít có vừa mừng vừa ngạc nhiên, bèn lấy giọng ôn tồn an ủi nàng rằng.

- Kẻ đuổi bắt nàng đã đi xa rồi, nàng không việc gì phải sợ hãi nữa . Nhưng ta không tin, như thế mà được coi là đã thi ân cho nàng rồi sao ?

Người con gái đứng dậy vái chàng, cảm tạ rằng:

- Ân sâu đức rộng, thiếp xin ghi nhớ suốt đời.

Khản nói:

- Như vậy, nàng định lấy gì để trả ơn cho ta?

Ðáp :

- Lụa là gấm vóc châu báu ngọc ngà, thiếp xin để chàng chọn lựa?

Khản cười. nói:

- Ta đâu có cần đến những thứ đó. Ðiều ta muốn, thì nó to lớn vô cùng !

Vậy có thể cho thiếp biết được không ?

Khản chỉ cười. không chịu nói ra Người con gái hơi lộ sắc hờn giận nhìn Khản , nhưng lại tươi cười ngay, nói đùa:

- Chàng thật là đại bất lương, thiếp không thể nào không trở thành kẻ phụ ơn được.

Nói xong muốn bỏ đi , Khản dang tay chặn nàng lại, nhưng nàng đã lẹ làng và nhanh như hơi gió, luôn qua nách của Khản, khiến cho chàng không sao bắt kịp. Rồi thoắt biến mất, không thấy hình tích gì nữa. Khản ta vỡ niềm hy vọng, vừa buồn vừa hận , rầu rầu vác cày trở về nhà.

Lúc đi gần đến đầu chiếc câu gỗ, đã thấy người con gái ngồi ở trên một phiến đá phía bên kia bờ suối.

Nàng thấy Khản đến, tươi cười nói:

- Hẳn chàng đã cho thiếp là kẻ vong ân bội nghĩa rồi phải không ?

Khản thình lình gặp lại nàng, đổi buồn làm vui, sắc mặt vui vẻ hòa dịu hẳn lên, hỏi:

- Nàng đã thoát khỏi tai nạn, chẳng tìm chỗ an nhàn mà đến, sao còn lưu luyến chốn này làm gì ?

Người con gái vội vã chạy đến nắm lấy tay Khản, đáp:

- Ðùa với chàng một chút , nỡ nào lại giận nhau vậy. Nếu chàng cho thiếp là kẻ vong ân phụ nghĩa, ấy là chàng chỉ mới biết đá, mà chẳng biết vàng . Xin chàng cứ cho thiếp theo về , đừng coi thiếp là thứ rau hoang cỏ dại mà bỏ nhau nhé.

Khản nghe nàng nói vậy, thì mừng cuống bèn dắt nàng về nhà mình.

Năm Khản vừa đúng hai mươi mốt tuổi thì cha mẹ đã qua đời, chỉ còn mỗi người em gái. Mọi điều trong nhà đều do em chàng lo liệu. Người em thấy Khản dẫn một người con gái vừa trẻ vừa đẹp về nhà thì lấy làm ngạc nhiên , hỏi dò lai lịch.

Khản cũng đem hết câu chuyện thuật lại cho em nghe.

Em chàng nhìn kỹ người con gái một lúc rồi tươi cười bảo chàng:

- Ðẹp như chị ấy thế này, em còn thương nữa là anh!

- Không có gì phải lo lắng lắm. Ngại nhất à cái mụ Tám Chung, hàng xóm nhà mình, thường nhật vẫn ngôi lê đôi mách, đặt điều bịa chuyện khắp làng, thì nay mụ ta đã bõ đi mất tích không về nữa. Em thấy chị ấy có vẻ ngoài tú lệ, nhẹ nhàng, tất cũng là người thông minh, khéo léo có thể dựa dẫm vào nhau chung sống qua ngày được, chỉ sợ anh phận mỏng phúc bạc, không có duyên với chị ấy mà thôi .

Người con gái đứng dậy, sửa lại nếp áo, rồi nghiêng mình thi lễ , cảm tạ người em của Khản:

- Tôi mang ơn lớn của Tam Lang, nên nguyện đem thân về hầu hạ chàng cho phải nghĩa. Chỉ sợ cô nương không có bụng dung nạp chứa chấp mà thôi. Nếu như cô nương đã có lòng thương tưởng, thì mọi việc xin để tôi gánh vác, tất sẽ được tốt đẹp, vững vàng còn lời người đàm tiếu chớ nên để ý làm gì vội.

Em Khản được người con gái khen ngợi tâng bốc như vậy lại càng hoan hĩ hơn , đi giết ngay gà, làm cơm để cho hai người làm lễ hợp cẩn .

Từ đấy vợ chồng ăn ở với nhau rất là hòa mục đầm ấm . Em chồng chị dâu mà chẳng hề có chút hiềm khích nào .

Khản hỏi về gia tộc , thân thế thì nàng đáp:

- Thiếp là gái làng Lương, họ Bạch , năm nay vừa mười chín tuổi. Thiếp mồ côi cha mẹ từ hồi còn nhỏ, một thân một mình không chỗ nhờ cậy. Hôm qua, ngẫu dạo du Xuân, chẳng ngờ gặp phải con Tịnh gió nó bức bách, may được chàng cứu, bằng không đã về chầu Diêm Chúa rồi.

Khản lại hỏi:

- Vậy, trước kia nàng chỉ có một mình thì sống ở đâu ?

- Thiếp chẳng có nhà cửa chi cả. Ngày ngày phiêu bạc lưu lãng như cánh bèo trôi. May là táp vào những nơi yên ổn, nên không bị những kẻ cường bạo khinh khi hà hiếp.

- Như thế thì sinh sống bằng cách nào?

- May vá đôi chút mà thôi.

Người em gái của Khản nói xen vào:

- Miễn sao tâm hồn trong sạch thì dù có lưu lãng vô gia cư đáng kể gì . Từ nay, anh lo cầy cấy, chị lo bếp nước, còn em lo việc cơm ra đồng cho anh, thì ta lo gì không tạo một gia đình đầm ấm êm đẹp . Trước hết, ngày mai anh nên mua một sắp vải bố, để may quần áo cho chị ấy . Con nhà nông lẽ nào lại ăn mặc sặc sỡ thế này .

Khản nói:

- Loại vải bố lúc này hiếm. sợ không mua được .

Bạch nữ nói:

- Chuyện đó không khó khăn gì cả. Thiếp có cất dấu được mười sấp vải loại đó, để ở bên dưới bệ thờ trong miếu thổ địa cạnh bờ suối. Nhờ chàng chịu khó ra lấy mang về .

Lúc đầu, Khản không tin. Sau bi vợ thôi thúc , đành phải đi vậy. Quả nhiên lấy được mười sấp vải bố mang về đưa cho người em gái.

Em chàng hỏi:

- Cổ miếu hoang lương, chị dấu vải ở đấy từ bao giờ ?

Bạch nữ tính tình cực kỳ thông tuệ. Nữ công, gia chánh chẳng việc gì nàng không biết, không rành.

Người em gái của Khản so với nàng không bằng, nên càng tỏ kính nể người chi dâu hơn.

Gặp năm bị hoàng trùng, mấy chục mẫu ruộng của gia đình Khản số thâu chỉ còn lại có hai ba phần. Hai anh em Khản ngày đêm âu sầu lo lắng. Ðói, rét còn có thể chịu đựng được , chứ tiền thuế thì không có không xong.

Duy chỉ mình Bạch nữ thì vẫn vui vẻ , không lấy đó làm lo .

Khản bàn với em đến vay tiền của lão phú hộ họ Ngưu, nhưng Bạch nữ cản lại nói:

- Chàng và tiểu cô tính vậy là sai, theo thiếp nghĩ, lão bá hộ họ Ngưu chỉ là một tên nô lệ của tiền bạc, chẳng phải là con người tử tế đâu. Nếu chẳng có uy thế để mà làm cho lão ta nể vì thì dầu là thân tộc, bằng hữu chí thiết đến nhờ vả, lão ta cũng lờ đi. Huống hồ, chàng chỉ là một kẽ xa với lão , lại ít tuổi, chưa có uy tín gì, đến vay lãi chỉ xấu hổ thêm thôi. Không đời nào lão cho vay đâu.

Chi bằng cứ thuận thiên mệnh, việc đến lúc nguy sẽ có cách giải . Xin chàng và tiểu cô hãy yên lòng chờ đợi.

Khản không nghe. cứ áo quần tề chỉnh đến nhà lão Ngưu để mượn tiền. Quả nhiên đúng như lời tiên liệu của Bạch nữ . Khản bị lão Ngưu phũ phàng từ chối. Chàng ôm hận lủi thủi trở về nhà, thì lại gặp viên nã thuế đứng chờ ở cửa. Y trông thấy Khản thì lập tức lớn giọng hạch sách , núm chặt lấy chàng, không chịu thả ra.

Khản hết lời biện giải, phân trần rồi mời y vào ngồi trong nhà.

Sau đó, chàng vào trong phòng cùng vợ và em bàn cách đối phó. Bạch nữ hỏi:

- Thuế đòi bao nhiêu ?

Khản đáp:

- Cả số thuế thiếu năm trước là hơn ba lạng.

- Thiếp lại cứ tưởng nợ ngàn , nợ vạn, chỉ ngần ấy có gì mà không trả nổi . Làm thiếp tốn mất mấy ngày phân vân tính toán. Ở dưới viên gạch. nằm về góc phía Bắc của miếu thổ địa, thiếp có dấu một chum bạc, chàng hãy đến đó đào lên mà lấy trả tiền thuế, vẫn còn dư nhiều để làm kế sinh nhai.

Bất ngờ được nghe Bạch nữ nói như thế, Khản hết sức mừng rỡ, nhưng rồi lại ngờ cho đó chỉ là những lời nói bông lơn của vợ. Em chàng phải thúc dục:

- Chuyện mười xấp vải lúc trước đã đúng , thì lần này chắc cũng không phải sai đâu. Anh nên đi ngay đi. đừng chậm trễ do dự nữa.

Khản bèn leo qua bức tường sau nhà , vội vàng đến thẳng miếu thổ địa , đào chỗ viên gạch mà vợ chàng đã chỉ, thì quả nhiên đào được một cái chum bằng đất nung đen. Mở nắp ra coi, thấy đầy ấp trắng xóa những thỏi bạc. Khản mừng cuống lên như học trò nghèo đi thi trúng tuyển, vội vã trụt bỏ hết áo quần ra gói bạc lại , rồi vác lên vai , tông ngồng trở về nhà , trả đủ số cho viên lại dịch đến nã thuế, còn đãi y một bữa no say.

Số bạc còn lại. Khản đem đổi được trăm lượng vàng bèn tậu ruộng , cất nhà, mỗi ngày một giàu. Việc buôn bán nhất nhất đều nghe lời vợ . Trong vòng có hai năm, lãi bồi lãi Khản trở thành người giầu có nhất làng.

Bạch nữ thấy Khản thường nghĩ ngợi về chuyện không có con kế tự, thì lấy làm không vui, bảo Khản rằng:

- Chàng vừa mới được no cơm ấm áo là đã nghĩ ngay đến chuyện lấy vợ bé. Người đâu sao bạc bẽo thế!

Khản đáp:

- Chẳng phải là ta phụ tình nàng đâu, chỉ vì sợ đời ta hết rồi, sẽ không có người lo lắng hương hỏa cho tổ tiên mà thôi.

- Nếu muốn vậy, xin chàng đừng lo nghĩ chi nhiều nữa, để thiếp sinh cho chàng một đứa con vậy.

Khản cười cho là nàng đùa.

Tối hôm ấy, hai vợ chồng ngồi ở trong phòng, Bạch nữ dặn Khản là đừng đi ngủ trước, rồi nàng lên giường, buông mùng một mình ở trong đó, miệng lảm nhảm một hồi. Chừng ăn vừa xong một bữa cơm, thình lình Khản nghe có tiếng trẻ con oe oe khóc, rồi Bạch nữ đi ra thay quần áo. bảo chàng:

- Chàng vào mà thăm con!

Khản vô cùng sợ hãi, mở màn ra coi, thấy một đứa con trai, quấn gọn trong chiếc tã, nằm ở trên giường, mặt mũi xinh đẹp như một bức tranh.

Khản vừa mừng vừa lo. vội vàng báo cho người em gái biết. Em chàng cũng lấy làm hoan hỷ, bèn đặt tiệc ngay ở trong phòng để ăn mừng. Bạch nữ sau khi sinh nở vẫn ăn uống cười nói như lúc thường chẳng kiêng cữ gì.

Anh em Khản đều thầm cho lạ lùng, bèn đặt tên cho đứa bé là Dị Sinh .

Cùng ấp với Khản, có một người phú hộ họ Lưu, gia tư cực vạn. Ông ta có người con tên là Tuyền , là học trò Quốc Học ở kinh sư. đã hai mươi tuổi mà chưa có vợ, nghe đồn em Khản là người vừa dẹp vừa hiền thục , bèn nhờ mai mối đến hỏi.

Khản định nhận lời, nhưng Bạch nữ hết sức ngăn cản, cho là không nên.

Khản nói:

- Người ta là gia đình hào phú, lại trọng lễ nghĩa. Tuyền cũng là người thiếu niên anh tuấn thực thà, tiểu cô về làm dâu nhà ấy cũng là xứng đáng, sao khanh lại cản trở?

Rồi không nghe, cứ tự ý gả em cho nhà họ Lưu. Bạch nữ đành thở dài, bảo Khản:

- Vợ chồng là duyên số trời định. Cưỡng lại, chỉ chuốc lấy những điều không may mà thôi. Họ Lưu với thiếp trước từng có hiềm khích với nhau. Nay dù là thân tộc, thiếp cũng tránh vậy, nếu Tuyền đến chơi, đừng để cho Tuyền gặp mặt thiếp, bằng cố ép. Ắt sẽ sinh ra tai họa. Xin chàng nhớ kỹ, đừng quên .

Chừng đến khi em Khẩn lấy Tuyền rồi. thì vợ chồng hòa mục, rất là êm ấm.

Tuyền vẫn nghe đồn Bạch nữ là người nhan sắc diễm kiều, lòng muốn đến gặp. Tuyền đã nhiều lần xin với Khản, đều không được Khản đồng ý, bèn mưu tính với vợ đặt tiệc rượu mời Khản đến ăn, rồi thừa cơ đi tiểu, một mình lén đến nhà Khản.

Khi tuyền đến nơi. gặp đúng lúc Bạch nữ đang cho con bú ở sân.

Tuyền đường đột tìm đến chắp tay vái chào, khiến cho Bạch nữ bị bất ngờ không kịp né tránh, vội vã đưa tay áo lên che mặt, đứng sững sờ bất động.

Tuyền nhìn kỹ nàng một hồi lâu, bỗng tỏ ra kinh hoàng sợ hãi: hoảng hốt ba chân bốn cẳng chạy một mạch về nhà. Về đến nhà, sắc mặt hãy còn tái xám như tro. Hai anh em Khản đều ngạc nhiên, gạn hỏi duyên cớ, Tuyền phải trấn tĩnh một lúc thật lâu, mới lấy lại tinh thần, quay ra hỏi lại Khản rằng:

- Tẩu tẩu là con gái nhà ai? Huynh đệ và tẩu tẩu lấy nhau được mấy năm rồi. Trong chuyện này có nhiều điều quái dị, xin huynh cho đệ biết cặn kẽ, đừng dấu diềm chi cả . Mới đầu Khản còn chống chế, che đậy, không muốn nói thực. Tuyền thấy vậy, mới nghiêm sắc mặt, trịnh trọng bảo với Khản rằng:

- Anh em trong nhà, là tình chí thân cốt nhục, huynh đừng dấu diếm . Sỡ dĩ đệ nằng nặc mà cật vấn huynh như vậy là có thâm ý cả. Sao huynh lại coi đệ là người xa lạ đến thế .

Em Khản đã lâu, vốn cũng có bụng nghi ngờ, nay nghe chồng nói thế , thấy cũng hữu lý, bèn hùa thêm vào.

Khản bất đắc dĩ đành phải thú thực. Tuyền nói:

- Như thế là huynh gặp hồ ly rồi đấy.

- Làm sao mà hiền đệ biết ?

Tuyền bèn kể :

- Chẳng dấu gì huyng cả. Ðã lâu đệ vốn có hâm mộ tẩu tẫu là người hiền thục , trong bụng vẫn áy náy là không được kiến diện bao giờ. Lúc nãy mời huynh đến ăn, chỉ cột để giữ huynh lại đây, rối đệ một mình thừa cơ đến bái phỏng tẩu tẩu. Chừng đến nhà huynh, thì lại gặp tẩu tẩu ở ngoài sân. Ðệ không ngờ tẩu tẩu lại xinh đẹp đến thế, nên cố ý nhìn kỹ, té ra, chẳng phải ai xa lạ, tẩu tẩu chính là kẻ đã từng gieo tai họa cho đệ.

Nguyên trước đây ba năm, một hôm đi ra đồng thăm mộ, giữa đường gặp mọt người con gái rất đẹp, bụng có ý yêu thầm. Chẳng ngờ, lúc về đến nhà đã thấy cô ta ở trong phòng. Nàng tự giới thiệu là họ Bạch, cùng đệ vốn có mối duyên tiền kiếp. Lúc đó, đệ sướng đến tê người, chẳng cố kỵ chi cả , bèn cùng nàng gần gũi giao hoan.

Ðược gần hai tháng , người đệ cứ mỗi ngày một hao mòn gầy guộc. Cha mẹ đệ biết là bị chồn ám, tìm trăm phương nghìn kế chữa trị mà chẳng khỏi. Sau phải đem lễ vật đến cầu phép của đạo sĩ họ Phương ở Sơn Ðông. Ðược đạo sĩ trao cho hai lá bùa, trên viết chữ đỏ, dặn về nhà thì đốt một là ở giữa trung đường, còn một lá thì lên cất giữ cẩn thận, vài năm sau sẽ có cơ hội dùng Cha mẹ đệ ngay ngày hôm ấy làm theo lời dạy của đạo sĩ. Ðệ thấy một ông thần, to lớn như những ông tượng bằng đất ở trong các miếu, xông vào trong phòng lùng bắt người con gái. Nàng sợ hãi hoảng hốt, tóc tai rối bời, độn theo gió đào tẩu, bị vị thần đuổi theo truy nã. Về sau không trở lại nữa. Hôm đó chính là ngày huynh gặp tẩu tẩu. Ðệ biết, trong việc gối chăn, huynh rất yêu thương mê đắm tẩu tẩu , tất sẽ không tin lời nói của đệ. Dù lá bùa kia vẫn còn không đủ làm bằng cớ. Tuy nhiên giả như tẩu tẩu là hồ ly thì người thường phát ra một mùi dị hương nồng nàn kỳ lạ, và hay kín đáo đưa tay nắn đốt xương cùng ở đít, không để cho ai sờ tới. Nếu quả đúng như thế, thì tẩu tẩu là hồ ly không sai.

Khản nghe lời Tuyền kể chỉ há hốc mồm, trợn mắt ngạc nhiên, muốn nói mà không nói được.

Em Khản nói:

- Việc tẩu tẩu có thường sờ đốt xương cùng hay không thì em không được biết. Duy mùi dị hương thì có thật . Xin anh tính kế sớm đi, đừng để chuyện xẩy ra, sau hối không kịp.

Khản ngẩng mặt lên trời thở dài:

- Cứ như lời em nói, thì vợ ta là hồ ly không còn nghi ngờ gì nữa. Nhưng từ ngày lấy nhau, gia đình ta nhờ nàng mà giàu có ấm no. Con ta nhờ nàng mà có người nuôi nấng, em cũng nhờ nàng mà lấy được tấm chồng tử tế. Ơn của nàng đối với họ Vương ta thật là to lớn. Người ta bảo rằng "Lấy đức báo oán, chứ không lấy oán báo đức" . Huống hồ, nàng lại là người yêu hiền thục, chẳng có gì độc hại.

Dù rằng có khác loài đi nữa, nỡ nào mà bỏ nàng cho đành. Thôi ! Thôi ! anh xin hai em đừng nói những lời bất nhẫn như vậy nữa. Anh không nghe đâu.

Tuyền cố khuyên:

- Con ong nó còn có nọc độc, huống hồ ly là loài yêu mị . Huynh như chẳng nghe lời chúng em, thì huynh chỉ có một con đường duy nhất là tử lộ mà thôi.

Sau khi Khản ra về , người em gái trong lòng không yên, lén đem lá bùa của chồng đem đốt ở trước cửa buồng nhà Khản. Khoảng khắc, nổi lên mặt trận cuồng phong dữ tới, rồi Bạch nữ từ trong chạy ra , được vài bước thì té xuống đất, hóa thành một con chồn đen chạy lung ra cỗng đào tẩu, đằng sau có một cơn lốc xoáy đuổi gấp theo, nhanh như điện chớp, phút chốc không còn thấy hình tích gì nữa.

Khản được tin, tinh thần chấn động, khóc rống lên thảm thiết.

Mấy ngày sau chẳng ăn uống gì, cứ tưởng niệm đến Bạch nữ rồi bi phẫn mà chết.

Còn lại một mình Dị Sinh mà thôi.

seta
20-10-2003, 23:55
Cái rương Ấn Độ

Người bán đồ cổ vừa xoa xoa hai lòng bàn tay vào nhau vừa nói:

- Thưa ông, chính cái rương này từ Ấn Ðộ gửi qua. Ðây là loại gỗ quý, gỗ này thật đặc biệt hiếm.

Maax nói với giọng hơi ngập ngừng:

- Ðược rồi! Tôi sẽ mua vật này mà!

Chính lúc bước chân vào tiệm, Maax đã để ý đến cái cái rương này, cái rương làm toàn bằng gỗ một màu đen nhánh, lại có những đường gân trắng nổi lên, rất đặc biệt. Mặt rương nổi lên màu sắc địa phương của nó. Hơn nữa, kích thước của nó rất vừa ý Maax. Rương rộng lối sáu tấc, dài mười tám tấc, cao lối chín tấc. Khi Maax đoán biết chủ tiệm sẵn sàng bán rương với giá mười hai đô la thì ý muốn của chàng là xỉa tiền mua ngay vật quý này.

Tuy nhiên, Maax lại lưỡng lự, vì theo ý của chàng giá bán sao quá rẻ, hơn nữa, khi giá cả đã ngã ngũ, trông mặt mày chủ tiệm có vẻ thoải mái thấy rõ.

Phải chăng loại gỗ đóng rương không phải là gỗ quý?

Hay là cái rương này có điểm nào tệ đây? Nhưng rồi...việc mua bán đã xong xuôi, tiền đã giao, qua ngày mai dù Maax có đổi ý thì sự việc cũng quá trễ rồi.

Trông mặt gỗ rất bóng, không một đường rạn nứt nào cả. Nhìn chung, cái rương trông rất đẹp.

Nắp rương đậy kín. Cái chìa khoá lớn dùng để mở trông rất gọn và lúc mở cũng không nghe tiếng động lớn.

Maax tỏ ý vừa lòng. Mỗi ngày chàng để ý lau chùi bụi bậm bám trên mặt rương. Ðem về nhà, chàng đặt rương vào góc phòng. Maax nghĩ thầm khi phải dọn nhà, đồ vật này đối với chàng rất là tiện lợi. Vả lại trong lúc này, chính cái rương quý này làm cho căn phòng của Maax giá trị thêm lên.

Nhiều tuần lễ trôi qua. Thỉnh thoảng Maax lại đưa mắt ngắm cái rương quý. Nhưng về sau, lâu ngày Maax ít để ý đến.

Một tối nọ, một sự việc bất ngờ khác lạ xảy đến làm cho Maax suy nghĩ rất nhiều.

Trong lúc ngồi vào chiếc ghế bành, im lặng đọc sách, không vì lẽ gì, Maax đưa mắt ra khỏi trang sách nhìn về phía góc phòng, nơi đặt rương.

Một ngón tay dài, xanh xao thò ra khỏi nắp rương.

Maax ngồi lặng thing trong chiếc ghế bành, tâm trí như bị tê liệt vì quá sợ hãi, trong thời gian lâu từ hai đến ba phút, cặp mắt không rời khỏi mặt rương. Rõ ràng là một ngón tay dài, xanh xao, lóng tay không được suôn sẻ, đầu ngón tay là cái móng bầm đen.

Qua những phút sợ hãi, lúc này đến phút giận dữ. Ngón tay đó vẫn đứng yên. Hiện tượng ấy thật kỳ quái. Buổi tối yên lặng của chàng bỗng nhiên bị phá tan bởi sự xuất hiện của ngón tay dị kỳ đó.

Maax lên tiếng chửi thề và cầm cuốn sách vất mạnh về phía chiếc rương.

Ngón tay biến mất. Maax không còn trông thấy gì nữa. Chàng đưa cao ngọn đèn dọi ánh sáng về phía góc phòng rồi bước mau về phía cái rương, đột ngột mở nắp rương.

Bên trong không có gì cả!

Chàng đậy nắp rương lại, lượm cuôn sách cầm tay, trở về chỗ cũ, ngồi vào ghế.

Phải chẳng trong mấy ngày qua chàng đọc sách quá nhiều nên bị hoa mắt?

Chàng giả vờ tiếp tục đọc sách nhưng chốc chốc chàng lại đưa mắt về phía góc phòng cho đến khi không nhận thấy có gì kỳ lạ xảy ra, lúc đó chàng mới lên giường đi ngủ.

Nhưng suốt ba, bốn ngày sau đó, hiện tượng kỳ quái kia cứ ám ảnh mãi trí óc Maax. Chàng không dám về khuya và cũng bắt đầu ít đọc sách lại. Trong tuần lễ đâu, chàng đinh ninh là mắt chàng bị quá mệt nên làm cho chàng nhìn ra hiện tượng kỳ lạ đó.

Bắt đầu tuần lễ thứ hai, nghĩ rằng thị giác đã được nghỉ ngơi vừa sức, chàng mua về nhà nhiều tạp chí và bắt đầu mải mê đọc. Ðọc được vài trang, Maax ngước mắt về phía chiếc rương nhưng cũng không thấy gì lạ xảy ra. Ngồi vững vàng vào chiếc ghế bành, Maax chăm chú đọc suốt cả tiếng đồng hồ. Ðọc hết một cuốn định đọc qua cuốn khác, chàng đưa mắt về phía chiếc rương... Cái ngón tay dài xuất hiện, bất động, lóng tay không được suôn sẻ, móng tay màu bầm đen.

Maax cố ý cưỡng lại ý muốn chạy sang phòng bên cạnh, đưa tay về hướng chiếc bàn đặt gần chiếc ghế bành, sờ soạng tìm lấy cái gạt tàn thuốc, nhưng cặp mắt chàng vẫn không rời khỏi chiếc rương.

Bàn tay chàng đã nắm được cái gạt tàn thuốc, lúc này, chàng từ từ đứng dậy nhẹ nhàng đi tới góc phòng.

Lúc chàng bước tới cái rương với khoảng cách chừng một thước thì ngón tay kia cũng biến mất.

Maax mở nắp rương ra.

Bên trong rương, vẫn không có gì cả!

Trí óc Maax đảo lộn. Chàng trở về chỗ cũ, ngồi vào ghế. Tuy lúc này cái ngón tay quái dị kia không xuất hiện nữa nhưng chàng cũng không xua đuổi khỏi trí óc được hình ảnh ghê rợn lúc này.

Trước khi lên giường ngủ, một ý nghĩ mới đến trong óc chàng: sẽ tìm cách thủ tiêu cái rương này.

Maax vẫn khoẻ mạnh. Thật ra hiện tượng kỳ quái đó không phải xuất phát từ thị giác của Maax mà chính là ở cái rương kỳ dị kia.

Chàng nhớ lại những chuyện đã qua. Trước hết là cái rương đã bán với giá quá rẻ. Thứ hai là chủ tiệm đã tỏ ra vui mừng khi bán được món hàng mà hắn ta khoe là rất hiếm, rất quý.

Nhưng Maax vẫn tin mình. Chàng tự hỏi không hiểu chàng có bị rối loạn thần kinh không?

Sáng hôm sau, trước khi đi làm việc, chàng nhờ chủ nhà cho người chở nó đi, vất nó vào nơi chứa đồ phế thải, thủ tiêu bằng cách hoả thiêu nó.

Nhưng buổi chiều hôm ấy, khi trở lại phòng trọ, vật đầu tiên trong căn phòng đập vào mắt chàng lại là cái rương ma quái đó. Vừa sợ hãi vừa tức giận, Maax vội vàng tìm chủ nhà tra hỏi lý do nào mà bà ta không chịu nghe lời chàng. Bà chủ nhà ôn tồn giải thích cho chàng nghe là cái rương còn tốt quá, lại bằng gỗ quý, đem rương bỏ vào chỗ chứa đồ phế thải, uổng phí quá. Hơn nữa không có một bác phu rác nào mất trí đến nỗi đang tay châm lửa đốt một chiếc rương trông đẹp như vậy được. Nghe lời giải thích đó, Maax xin lỗi bà chủ nhà, trở về phòng. Chàng ngồi vào chiếc ghế bành và bắt đầu nhìn không chớp mắt vào chiếc rương. Chàng thầm nghĩ là nếu không còn có một việc gì xảy ra nữa thì chàng vẫn giữ lại chiếc rương, còn trái lại, lần này Maax sẽ cương quyết tìm cách thủ tiêu nó.

Tối hôm đó, Maax định dự một buổi hoà nhạc nhưng một trận mưa giằng giai giữ chân chàng ở lại trong căn phòng của chàng.

Trước khi ngồi vào ghế đọc sách, Maax bước lại góc phòng lấy chìa khóa trong túi áo, khoá rương lại.

Cuộc thí nghiệm lần này sẽ quyết định dứt khoát cho ý định của chàng.

Trong lúc đọc sách, chốc chốc chàng lại liếc mắt về góc phòng, nhìn lên cái rương. Nhưng không có gì xảy ra trước mười một giờ đêm cả.

Ðến lúc chàng đặt sách xuống, chàng liếc mắt về góc phòng, nhìn lên cái rương: Ngón tay kỳ lạ kia lại xuất hiện.

Vẫn ngón tay dài, xanh xao, thay vì bất động lần này dường như ngón tay đó đang cử động. Ngón tay run run tuồng như đang cào vào mặt gỗ với cái móng đen bầm của nó.

Maax tập trung tất cả can đảm cầm cái gạt tàn và bước lại góc phòng. Ngón tay ma quái bỗng biết mất đúng vừa lúc chàng đưa tay định ném thật mạnh cái gạt tàn thuốc vào rương. Tim chàng đập thình thịch. Chàng mở nắp rương. Bên trong vẫn trống không. Lúc này chàng nghĩ đến cái chìa khoá chàng để ở túi áo. Một cảm giác ghê rợn đến dựng tóc gáy. Cái chìa khoá để trong túi áo đã biến mất nhưng lại thấy nằm ở ổ khoá. Chàng lẩm bẩm nghĩ có lẽ chàng đã mất trí.

Maax lại khoá chặt rương lần nữa trở lại ngồi vào ghế, nhìn chằm chằm vào chiếc rương ma quái cho mãi đến hai giờ sáng.

Cuối cùng, vì quá mệt mỏi, trí óc bị đảo lộn, Maax lên giường ngủ.

Trước khi tắt đèn chàng để ý là nắp rương đã được đậy kín và được khoá kỹ.

Khi chàng đã thiu thiu ngủ, bỗng một cơn ác mộng chợt đến.

Trong giấc ngủ chàng nghe như có tiếng cào gỗ làm cho chàng thức dậy. Thắp một cây nến, chàng đưa mắt về phía chiếc rương. Cái ngón tay dài lại hiện lên ở mặt rương và đang cựa quậy mạnh. Ngón tay đó lúc lắc thật mạnh, cào lên mặt rương, với chiếc móng bầm đen. Nhưng dường như nó thấy sự xuất hiện của chàng nên bỗng nhiên nó dừng lại. Và... từ từ, ngón tay đó ra hiệu cho Maax lại gần. Quá sợ hãi, Maax không thể không vâng lời được. Chàng đặt cây nến xuống bàn và chân bắt đầu bước giống hệt như một người máy. Ngón tay kỳ dị đó như kéo chàng lại gần, chàng giống như một thỏi nam châm hút. Ðúng vừa lúc Maax bước lại gần chiếc rương thì ngón tay kỳ dị đó rút vào, và nắp rương tự nhiên mở lên. Maax lúc này như bị một sự sợ hãi quá sức thôi miên, chàng bước vào lòng rương, ngồi khom mình, đầu gối chống cằm rồi ngả cả thân mình xuống lòng rương. Nắp rương tự nhiên đóng sập mạnh và...chiếc chìa khoá tự động quay một vòng trong ổ khoá...

Maax hoảng hốt thức dậy thét lên một tiếng ghê rợn. Chàng ngồi thẳng người trên giường, mồ hôi chảy dầm dề trên trán. Maax sợ quá vội trùm cả chăn lên đầu rồi nằm như vậy cho đến sáng.

Trời sáng tỏ, lấy lại bình tĩnh, Maax rời khỏi căn phòng đi pha cà phê uống. Hôm ấy, chàng không đến sở mà lại tìm đến nhà một phu đổ rác mà lâu nay chàng từng nhờ cậy người này giúp trong nhiều công việc. Chàng dặn dò bác phu thật kỹ về những điều chàng muốn thực hiện. Chàng trao cho bác phu số tiền mười đô la và còn hứa sẽ trao số tiền tương xứng khi công việc đã xong xuôi. Ðoạn, chàng đi ăn cơm trưa, đến sở làm việc, tâm trí lúc này ít nhiều được thảnh thơi hơn trước.

Buổi chiều hôm ấy, Maax trở lại căn phòng riêng của chàng, lòng rất tự tin, nhưng vừa bước vào căn phòng, chàng cảm thấy quả tim mình thoát ra khỏi lồng ngực.

Trái với lời dặn của chàng, bác phu đổ rác vẫn chưa chịu khiêng cái rương đi vứt bỏ.

Lần này, Maax tỏ ra vô cùng thất vọng hơn là nổi cơn giận lôi đình. Chàng bước ra ngoài gọi điện thoại liên tục cho bác phu đổ rác. Ông này lựa lời xin lỗi, lấy cớ là chiếc xe của ông bị hỏng máy đúng vào lúc ông chuẩn bị đi làm phận sự. Ông đã phải bỏ cả ngày để sửa chữa xe và xin hứa qua ngày hôm sau sẽ đến sớm để lo tròn công việc.

Maax không biết làm gì hơn, buông thõng hai tiếng "Cám ơn" và đặt ống nói xuống. Chàng không muốn trở lại căn phòng riêng của mình mà tạt vào một quán trong khu phố ăn trưa rồi đi xem chiếu bóng luôn. Ở rạp chiếu bóng ra, Maax lại tạt vào một quán cà phê, ngồi cà kê mãi cho đến nửa đêm mới về căn phòng của chàng.

Cơn ác mộng đêm hôm trước vẫn còn ám ảnh trí óc nên dù đêm qua ngủ rất ít nhưng đêm nay chàng vẫn chưa nhắm mắt được, vì thế, chàng cảm thấy rất mệt mỏi.

Sau khi xem xét kỹ là nắp rương được đóng kín, Maax cẩn thận đặt chìa khoá ở dưới gối nằm và nhắm mắt ngủ.

Vài giờ sau đó, Maax bỗng thức dậy, ngồi lên một cách tỉnh táo. Tim chàng đập mạnh hơn lúc nào hết. Trong một phút định thần, chàng tự hỏi vì sao chàng lại ngồi dậy như thế này.

Có tiếng cào lên mặt gỗ nghe rõ mồn một ở phía góc phòng.

Tay chân của chàng run rẩy, chàng nhảy xuống giường, đưa tay ấn nút mở sáng chiếc đèn làm việc ban đêm, đặt trên bàn. Không có ánh sáng toả ra. Bóng đèn bị cháy hay dòng điện bị cắt đứt?

Chàng mở hộc bàn đưa tay quờ quạng tìm cây nến.

Trong lúc chàng sờ soạng tìm nến và diêm thì tiếng động tăng lên gấp đôi, gấp ba đến nỗi nghe tưởng chừng như vang dội hết cả căn phòng.

Toàn thân Maax run rẩy, mỗi sợi lông trên thân mình như đứng lên nhưng chàng cũng lấy hết can đảm, tay cầm đèn cầy và nhẹ nhàng bước tới phía chiếc rương.

Ngón tay kỳ lạ đó càng dài ra và gõ liên hồi trên nắp rương. Với nhịp điệu dồn dập, tiếng gõ vang ra hết cả mặt rương, có khi cái móng tay bầm tím đó lại cào mạnh lên mặt gỗ.

Khi Maax bước lại gần, ngón tay kỳ lạ đó bỗng đứng yên rồi nằm dài theo mép rương. Maax kinh hoàng khi nghĩ rằng ngón tay ma quái đã trông thấy chàng nên mới ngừng hoạt động và ngón tay đó đang nhìn chằm chằm vào chàng.

Và khi Maax đã đứng giữa căn phòng, lạ lùng thay, ngón tay đó giơ lên và hình như đang ra dấu hiệu cho chàng lại gần hơn. Maax quá kinh sợ khi nhớ lại cơn ác mộng chàng vừa trải qua. Lúc này chính chàng không chịu đựng nổi sự sợ hãi đó nữa.

Chàng vẫn bước tới trước, cử chỉ, hành động giống như một người mắc bệnh mộng du.

Sáng sớm hôm sau, hai người phu đổ rác bước theo chủ nhà của Maax vào phòng chàng. Maax đã rời khỏi phòng từ lúc nào, có lẽ chàng đi làm việc, nhưng hai người phu đổ rác đã biết rõ công việc của họ sẽ phải làm.

Chiếc rương được khoá kỹ vẫn nằm ở góc phòng, không có chìa khoá nằm trong ổ khoá.

Bên cạnh rương người ta thấy dấu vết một cây đèn cầy đã cháy rụi.

Người chủ nhà tỏ ý không hài lòng. Bà ta lên giọng tỏ ra bực bội:

- Ðấy, hành động đó chỉ nhằm đốt nhà người ta. Tôi sẽ nói cho ông Maax biết về sự sơ xuất đó. Quả thật đáng trách.

Hai người phu đổ rác hì hục khiêng chiếc rương không để ý đến lời nói của bà chủ nhà.

Một người than:

- Bộ cái rương này bằng chì hay sao? Từ trước tới nay tôi chưa bao giờ khiêng một cái rương nặng như thế này.

Bà chủ nhà nói dặn thêm:

- Ấy, cái rương này được làm bằng một loại gỗ rất chắc...

Khi chiếc xe chạy tới ven đê, đúng nơi vứt bỏ những đồ phế thải, một người phu nói:

- Tôi không hiểu vì sao cái thằng cha này lại đem bỏ đi một cái rương đẹp như thế này?

Bạn của anh ta trả lời:

- Tôi thì biết rõ đầu đuôi sự việc. Chẳng là anh chàng mua cái rương này của Jason Kinkle mà Kinkle thì lại chẳng bao giờ kể rõ lai lịch cái rương cho chàng ta biết... Vì lẽ đó, mà chàng ta không muốn giữ cái rương này trong căn phòng của mình nữa.

- Nhưng lai lịch cái rương đó ra sao? Anh có biết không?

Anh phu đổ rác tự cho mình biết rõ câu chuyện không thèm trả lời cho bạn ngay lúc đó, nhưng khi cái rương đã được đẩy xuống đất chàng mới chậm rãi:

- Cái rương này được đem bán ở tiệm bán đồ cũ. Người chỉ của nó trước tiên là Stubberton...

Vừa nói đến đây, người phu đổ rác thứ hai cướp lời:

- Stubberton! Có phải anh chàng bị giết bằng cách bỏ...

- Phải rồi! Bằng cách bị đem nhốt vào rương. Ðúng vậy, chính cái rương mà chúng ta vừa mới chở trên xe đó.

Cả hai im lặng một hồi lâu. Họ lại tiếp tục tìm cách xê dịch cái rương lại gần một cái giếng không còn dùng nữa, thành giếng đã bể nát, đáy giếng chứa đầy một thứ nước bẩn.

Người phu đổ rác đưa tay lau mồ hôi đổ giọt trên trán, đoạn nói tiếp:

- Lúc người ta cậy cái rương ra thì xác nạn nhân trông đen, xám xịt lại. Người ta thấy một ngón tay mắc kẹt ở nắp rương, gần nơi ổ khoá - nhưng ngón tay ấy cũng không cứu được mạng sống của nạn nhân.

Nghe bạn kể câu chuyện ma quái đó, người phu đổ rác thứ hai tỏ ra sợ hãi, nói lớn:

- Thôi, phải thủ tiêu nó gấp, cái thứ này chỉ có mang xui xẻo đến cho chúng ta mà thôi!

Người kia đáp nhanh:

- Ðồng ý! Giúp tôi một tay mau lên!

Hai người lấy hết sức lực đẩy rương xuống đáy giếng. Cái rương trong phút chốc rớt xuống mặt nước đen sì làm tung một ngọn nước lên cao gần miệng giếng...

Một người lên tiếng:

- Thế là yên chuyện! Chúng ta lại được thêm mười đô la!

Nhưng rồi... một sự việc lạ lùng xảy ra. Hai người phu đổ rác không bao giờ hy vọng nhận thêm số tiền mười đô la đó nữa vì kể từ ngày hôm đó Maax bỗng biệt tích, không ai gặp chàng mà cũng không có ai nhắc đến tên chàng nữa.


Josephpayne Brennan

seta
20-10-2003, 23:57
Ðảo Tiên
Vương Miễn tên chữ là Mẫn Trai, người Linh Sơn có văn tài, nhiều lần đứng đầu trường văn, tâm khá kiêu, hay trách mắng, nhiều người bị nhục. Một hôm tình cờ gặp một đạo sĩ, nhìn Vương:

- Tướng ông cực quý nhưng bị nghiệp khinh bạc chiết trừ gần hết rồi. Trí tuệ như ông, nếu biết sửa mình mà tu đạo thì còn có thể được vào sổ tiên.

Vương cười nhạt:

- Chuyện phúc trạch thực tình còn chưa biết, trên đời này há lại có tiên sao?

Ðạo sĩ nói:

- Sao ông nhìn thấp thế? Chẳng cần tìm đâu xa, tôi chính là tiên đây!

Vương càng cười nhạo lời khoác lác ấy. Ðạo sĩ liền bảo:

- Tôi chẳng đáng nói gì. Nếu đi theo tôi thì vài mươi vị chân tiên, thấy ngay tức khắc.

Vương nói:

- Ở đâu?

Ðạo sĩ nói:

- Chỉ gang tấc!

Nói rồi kẹp gậy vào khoảng giữa hai đùi, đưa một đầu cho Vương bảo cưỡi như mình, dặn Vương nhắm mắt, xong quát lên một tiếng:

- Bay!

Vương cảm thấy gậy to ra như chiếc túi đựng năm đấu gạo, bay vụt lên không. Ngầm sờ vào gậy xem thì thấy vẩy cứng, xắp từng lớp, sợ quá không dám cựa quậy. Lát sau lại nghe quát:

- Ðỗ lại!

Tức thì rút gậy ra, hạ xuống một khu nhà lớn, lầu gác trùng điệp tiếp nối, như cung điện bậc đế vương. Có một đài cao hơn một trượng, trên đài có mười toà điện rộng rãi, đẹp đẽ không gì bằng.

Ðạo sĩ kéo khách lên, sai tiểu đồng bày tiệc mời khách . Trên điện đặt mấy chục bàn tiệc, bầy biện hoa mắt. Ðạo sĩ thay quần áo tề chỉnh đứng chờ.

Không bao lâu, khách từ không trung tới. Vật cưỡi hoặc là rồng, hoặc là hổ, hay chim loan, chim phượng, không một loại nào nhất định. Mỗi người đều có mang theo nhạc cụ.

Khách có con gái, có đàn ông, có người đi chân đất. Trong số đó chỉ có một cô gái đẹp cưỡi chim phượng sặc sỡ, ăn mặc kiểu cung cầm, có đứa hầu nhỏ ôm theo nhạc cụ, dài năm thước trở lại, không ra đàn cầm, cũng không ra đàn sắt, chẳng biết tên gọi là gì. Tiệc rượu bắt đầu, thức ăn quý bày xen nhau, bỏ vào miệng thơm ngon, toàn là những món khác thường.

Vương lặng lẽ ngồi im, duy chỉ chăm chăm nhìn người đẹp; đã yêu người lại muốn nghe nhạc, chỉ sợ nàng không đàn lần nào. Rượu tàn, một ông già khởi xướng :

- Ðược Thôi chân nhân nhã gọi tới, hôm nay có thể nói là ngày hội lớn, mọi người nên hết lòng vui. Xin mời những ai mang nhạc cụ giống nhau vào cùng một đội để hoà.

Thế là ai vào đội nấy, tiếng đàn tiếng sáo vọng tận sông Ngân. Riêng cô gái cưỡi phượng, tài đàn không có ai cùng sánh. Khi mọi âm thanh trên điện đã dứt, đứa hầu nhỏ mới mở túi gấm đặt ngang cây đàn trên kỷ, cô gái duỗi tay ngọc như chơi đàn tranh, âm lượng của nó vang gấp mấy lần đàn cầm; khi mãnh liệt khiến người nghe mở lòng mở dạ, khi êm đềm khiến hồn phách phiêu diêu. Ðàn khoảng chừng nấu chưa chín nồi cơm, cả điện lặng phắc, không một tiếng ho. Hết khúc, một tiếng trong vắt vang lên như gõ vào khánh đá. Cử toạ đều trầm trồ.

- Tài đàn của Vân Hoà phu nhân tuyệt diệu thay!

Mọi người đều đứng dậy cáo biệt; hạc kêu, rồng gầm, chỉ một lát đã tản đi hết. Ðạo sĩ đặt giường ngà chăn gấm chuẩn bị chỗ cho Vương ngủ. Còn Vương vừa thấy người đẹp lòng đã xao xuyến, sau lúc nghe đàn, càng mệt vấn vương. Vốn nghĩ tài mình, áo tía, đai xanh dễ như lượm cỏ; khi phú quý rồi muốn gì chẳng được. Chốc lát, trăm mối nghĩ suy rối như cỏ bồng. Ðạo sĩ dường như đoán biết, bảo Vương :

- Ông kiếp trước là bạn học với tôi, sau nhân vì chí không bền nên sa lưới tục. Tôi vốn không coi ông là người ngoài, thực lòng muốn đưa ông ra khỏi chốn vẩn đục. Không ngờ mê muội đã sâu, mơ màng không thể giác ngộ được. Nay sẽ đưa ông về, chưa hẳn không có ngày gặp lại; song muốn làm tiên trên trời thì phải đến kiếp sau .

Ðạo sĩ bàn chỉ phiến đá dài dưới chân bảo Vương nhắm mắt ngồi lên, lại dặn kỹ không được nhìn, sau đó lấy roi quất vào hòn đá. Ðá bay lên, tiếng gió rót ào ào bên tai, chẳng biết đã đi được bao nhiêu dặm.

Chợt nghĩ cảnh vật bên dưới chưa biết thế nào, Vương bèn trộm hé hai mí nhỏ như kẻ chỉ, thấy biển lớn bao la mênh mông tuyệt không bờ bến. Sợ quá nhắm mắt lại nhưng cả người đã theo đá rơi tõm xuống nước, chìm nghỉm như chim âu lặn. May trước kia Vương ở gần biển nên biết bơi bì bõm chút ít.

Chợt nghe tiếng người vỗ tay reo:

- Ngã nhào đẹp quá!

Ðang lúc nguy cấp, một cô gái cứu Vương lên thuyền, và nói:

- May thật, may thật! Tú tài 'trúng cấp' rồi!

Vương nhìn, cô gái khoảng mười sáu, mười bảy, nhan sắc xinh đẹp. Vương lên đến thuyền, rét run, xin đốt lửa sưởi. Cô gái nói:

- Theo tôi về nhà sẽ thu xếp ổn thoả. Nếu vừa , chớ quên sẽ thu nhé!

Vương đáp:

- Sao cô lại nói thế! Tôi là bậc tài tử ở Trung Nguyên, chợt gặp chuyện quẫn bách. Qua được đận này, xin lấy thân đền đáp, chứ đâu có không quên mà thôi!

Cô gái cầm sào đẩy thuyền đi nhanh như mưa bay gió cuốn, chỉ một loáng đã đến bờ. Cô gái mang từ trong khoang ra một bó sen mới hái, dẫn Vương đi cùng.

Chừng nửa dặm, vào thôn, thấy ngôi nhà cửa son mở về hướng Nam. Qua mấy lần cổng cô gái đi nhanh vào trước. Lát sau, một người đàn ông khoảng ngoài bốn mươi tuổi bước ra vái chào, mời Vương lên thềm, sai người hầu lấy mũ áo giầy tất cho Vương thay, sau đó hỏi đến nhà cửa quê quán. Vương đáp:

- Chẳng dám nói khoe, tài danh của tôi, chắc ông có nghe qua. Tôi từng được Thôi chân nhân quyến luyến rất mực, đã vời lên cõi trời. Song tự nghĩ công danh dễ như trở bàn tay, vì thế không muốn ẩn dật.

Người đàn ông kính cẩn nói:

- Nơi đây gọi là Ðảo tiên, cách xa hẳn cõi người. Tôi tên Văn Nhược, họ Hoàn, trải mấy đời sống nơi hẻo lánh, may mắn làm sao lại được gặp bậc danh tài.

Thế rồi ân cần mời rượu, lại thung dung nói:

- Tôi có hai đứa con gái. Ðứa lớn tên là Phương Vân, mười sáu tuổi, đến nay chưa gặp người xứng đôi, muốn cho cháu hầu hạ bậc cao nhân, được chăng?

Vương đoán hẳn là cô gái hái sen nên đứng dậy rời khỏi bàn tiệc cảm tạ. Ông Hoàn cho mời vài ba vị tuổi cao đức cả trong làng đến, nhìn quanh một lượt rồi sai gọi con gái.

Chốc lát, hương lạ nức thơm, hơn mười cô gái đẹp đỡ Phương Vân ra, rực rỡ dễ thương như bông sen tắm trong nắng sớm. Nàng vái chào rồi ngồi xuống, các cô gái xếp hàng đứng hầu, cô gái hái sen cũng trong số đó. Rượu vài tuần, một cô bé bỏ tóc xoã từ trong buồng chạy ra, mới chừng hơn mười tuổi mà dáng vẻ đã xinh đẹp, tươi cười dựa vào khuỷu tay chị, sóng mắt long lanh. Hoàn nói:

- Con gái không ở trong phòng, ra đây làm gì?

Rồi ngoảnh sang khách nói:

- Ðây là Lục Vân, con gái nhỏ của tôi. Cháu khá thông mình, nhớ được sách vở điển phần.

Nhân đó bảo ngâm thơ cho khách nghe. Cô bé bèn đọc ba chương Trúc Chi từ, giọng đọc êm ái dễ nghe.

Ông Hoàn cho phép Lục Vân ngồi cạnh chị, rồi nói:

- Anh Vương là bậc thiên tài, thơ làm trước đây hẳn rất nhiều, có thể cho kẻ hèn này nghe mà học hỏi chăng?

Vương hăng hái đọc một bài cận thể rồi kiêu hãnh nhìn mọi người. Trong bài thơ ấy có hai câu:

Một thân còn chút mày râu đó,

Cạn chén cho tan khối bất bình.

Ông già ngồi cạnh đọc đi đọc lại hai ba lần. Phương Vân bèn mách khẽ:

- Câu trên là Tôn Hành Giả rời động Hoả Vân, câu dưới là Trư Bát Giới qua sông Tử Mẫu.

Cử toạ đều vỗ tay. Ông Hoàn mời Vương đọc thêm bài khác, chàng bèn đọc bài thơ Chim Nước:

Ðầu dầm kêu kíu kít

Bỗng nhiên quên mất câu tiếp theo. Còn đang trầm ngâm thì Phương Vân ghé tai em thầm thì rồi che miệng cười.

Lục Vân thưa với cha:

- Chị ấy làm hộ anh rẽ câu tiếp theo đấy ạ. Câu thế này:

Mông chó vãi bùm bùm

Mọi người trong tiệc lại cười ồ. Vương cả thẹn, ông Hoàn lừ mắt nhìn Phương Vân.

Khi sắc mặt Vương đã bình tĩnh lại, ông mời Vương nói tài nghệ văn chương của mình.

Vương cho rằng người ngoài cõi trần hẳn không biết nghề văn 'bát cổ' bèn khoe tài văn chàng đã chiếm giải quán quân; đầu đề là hai câu 'Hiếu thay Mẫn Tử Khiên'; phá đề là 'Thánh nhân khen lòng hiếu đức của bậc đại

Lục Vân quay sang nhìn cha nói:

- Thánh nhân không gọi học trò mình bằng tên tự. Câu 'Hiếu thay...' ắt là lời của nhân gian.

Vương nghe được mất cả hứng. Ông Hoàn cười:

- Trẻ con biết gì! Không nói về điều ấy, chỉ bàn văn thôi.

Vương lại đọc tiếp. Cứ được vài câu hai chị em lại thì thầm với nhau, dường như bình phẩm về người, nhưng các cô nói lúng búng không nghe rõ.

Vương đọc đến đoạn hay, thuật lại cả lời bình, có nói rằng: 'Từng chữ, từng chữ đều thống thiết'.

Lục Vân thưa với cha:

- Chị con bảo nên bỏ chữ 'Thiết' đi.

Cử toạ đều không hiểu. Ông Hoàn sợ con nói năng khinh mạn không dám gạn hỏi.

Vương đọc xong, lại thuật lời tổng bình, trong có câu: 'Trống yết đánh một tiếng, muôn hoa đều nở'.

Phương Vân lại che miệng nói vào tai em, hai chị em cười đến nỗi không ngẩng lên được.

Lục Vân lại nói với cha:

- Chị bảo trống yết phải đánh bốn tiếng.

Mọi người vẫn không hiểu. Lục Vân mở miệng định nói tiếp, Phương Vân nín cười quát:

- Con ranh mà nói, tao đánh chết!

Cử toạ càng nghi ngờ, bàn đoán riêng với nhau. Lục Vân không nhịn được lại nói:

- Bỏ chữ 'thiết' đi, nói 'thống' tức là 'bất thông'. Ðánh bốn tiếng trống thì tiếng vang là 'Bất thông lại bất thông' vậy.

Mọi người cười phá lên, ông Hoàn nổi giận quát con, nhân đó đứng dậy rót rượu, tạ lỗi mãi.

Vương ban đầu tự khoe là bậc tài danh, dưới mắt mình thực chẳng coi ai ra gì; đến lúc này thần khí tiêu tan sạch, mồ hôi đầm đìa.

Ông Hoàn bàn an ủi lấy lòng:

- Vừa nghĩ được một câu xin các vị trong tiệc cùng đối: 'Vương tử thân biên vô hữu nhất điểm bất tự ngọc'.

Chưa ai kịp nghĩ thì Lục Vân đã đọc ngay. 'Mẫn ông đầu thượng tái trước bán tịch tức thành quy' .

Phương Vân cười sặc lên véo vào sườn em ba bốn cái, Lục Vân giẫy ra bỏ chạy, quay lại bảo:

- Việc gì đến chị? Chị mắng anh ấy bao nhiêu thì không cho là trái; người ta nói hộ một câu không được phép à?

Ông Hoàn quát lên, cô bé mới cười rồi đi.

Các ông già láng giềng cũng cáo từ.

Ðám thị nữ dẫn đôi vợ chồng vào phòng ngủ, trong đó đèn nến giường màn đã sắp đặt tinh khôi, đầy đủ.

Vương nhìn phòng tân hôn, thấy sách đầy giá, không thiếu một loại nào, hỏi qua những chỗ khó, Phương Vân đều trả lời được trôi chảy, tường tận. Bấy giờ Vương mới thấy hết nỗi xấu hổ của kẻ đứng trước biển khơi.

Vợ chàng gọi 'Minh Ðang!' thì cô gái hái sen ban chiều chạy đến, nhờ vậy Vương mới biết tên nàng.

Sau nhiều lần bị chế giễu nhục nhã, Vương sợ chốn khuê phòng cũng không được coi trọng. May sao Phương Vân tuy nói năng xấc xược nhưng trong chốn phòng the, tình vợ chồng rất đằm thắm.

Vương ở yên vô sự, bàn ngâm nga.

Vợ bảo:

- Thiếp có lời hay muốn nói, chẳng biết chàng có chịu lắng tai không?

Hỏi điều gì, thì bảo:

- Từ nay chàng đừng làm thơ nữa! Ðó cũng là một cách để che giấu cái vụng của mình vậy.

Vương lấy làm thẹn, bỏ hẳn chuyện bút mực. Lâu dần càng quấn quít với Minh Ðang, bèn nói với Phương Vân.

- Minh Ðang đối với tiểu sinh, có cái ơn cứu mạng, mong ít khi phải cau mặt, nặng lời với nàng.

Phương Vân bằng lòng. Thường mỗi khi vợ chồng vui chơi trong phòng, cũng cho nàng cùng dự.

Hai bên vì thế càng say nhau, thường liếc mắt, đưa tay thay lời.

Phương Vân thoáng biết, trách móc nhiều lần, Vương chỉ liến láu cãi ngượng cho qua chuyện.

Một đêm hai vợ chồng đối ẩm, Vương kêu vắng vẻ, khuyên vợ gọi Minh Ðang.

Phương Vân không nghe, Vương bảo vợ:

- Sách gì nàng cũng đọc, sao chẳng nhớ mấy chữ 'độc lạc nhạc' nhỉ?

Phương Vân nói:

- Thiếp nói chàng bất thông, nay càng nghiệm. Cách chấm câu còn chưa biết hay sao? 'Riêng mình thì lấy người làm lạc thú, nhưng nói đến lạc thú, hỏi có ai không, lại đáp rằng không'.

Chàng bật cười đành bỏ ý đšịnh .

Gặp buổi hai chị em Phương Vân y hẹn sang chơi nhà cô bạn hàng xóm. Vương được dịp liền dẫn ngay Minh Ðang vào, ái ân hết mực.

Ðến tối chàng thấy đau ở bụng dưới, hết đau thì dương vật sưng lên. Vương sợ quá nói với vợ.

Vân cười đáp:

- Chắc hẳn đã báo cái ơn của Minh Ðang rồi?

Vương không dám dấu, cung khai hết. Phương Vân bảo:

- Tự gây ra hoạ, thực không còn cách nào. Nếu không đau đớn, ngứa ngáy thì kệ thế cũng được.

Mấy ngày sau không khỏi, Vương lo lắng kém vui. Phương Vân biết nhưng không hỏi han gì, chỉ đăm đăm nhìn chồng, đôi mắt như hồ thu đầy đặn, sáng tựa sao mai. Vương nói :

- Nàng có thể gọi là người 'trong lòng ngay thẳng nên tròng mắt sáng'.

Phương Vân cười:

- Còn chàng, có thể gọi là người 'trong lòng không ngay thẳng nên tròng mất sáng'.

Bởi hai chữ 'mất', dân gian cũng đọc gần như chữ 'Mắt' nên nàng đem chữ đó ra để đùa chồng.

Vương bật cười, van nài xin chữa cho. Nàng nói:

- Chàng không nghe lời nói phải, trước đây vị tất không nghĩ là em ghen, đâu biết rằng con hầu đó vốn không thể gần gũi được. Lúc trước thực rất yêu chàng, nhưng chàng chỉ như gió xuân thổi qua tai ngựa nên em ghét mà bỏ mặc. Nếu không đã chữa cho rồi. Nhưng thầy lang phải xem kỹ chỗ đau đã!

Bàn sờ tay vào trong áo rồi đọc chú rằng:

- Chim vàng, chim vàng, chớ đậu cành gai.

Vương bất giác cười rộ, cười xong thì bệnh khỏi.

Mấy tháng sau Vương vì cớ cha già con dại thường nhớ nhà không nguôi. Chàng đem tâm sự nói với vợ. Nàng nói:

- Về nhà thì không khó, chỉ không có ngày sum họp nữa thôi.

Vương nước mắt lã chã, xin nàng về cùng. Phương Vân nghĩ ngợi hồi lâu mới bằng lòng.

Ông Hoàn bày tiệc tiễn đưa, Lục Vân xách làn vào nói:

- Chị sắp ra đi, chẳng có gì tặng chị. Chỉ sợ khi đến Hải Nam không có nhà mà ở nên đêm qua đã làm hộ chị lầu gác, xin đừng chê bai là sơ sài.

Phương Vân cảm ơn em rồi nhận lấy. Ðến gần xem thì thấy dùng loại cỏ nhỏ kết thành lầu gác, toà lớn thì như quả thanh yên, toà nhỏ thì như quả quất, tất cả chừng hơn hai chục toà. Trong mỗi toà kèo cột rui mà đều phân minh đầy đủ; lại có giường phản ràm tường, mỗi thứ chỉ to bằng hạt vừng.

Vương xem như đồ chơi con trẻ, lòng thầm khen cô em vợ khéo tay.

Phương Vân nói:

- Nói thật với chàng, bọn em là tiên dưới đất, vì có túc duyên nên được theo bên chàng. Em vốn không muốn đặt chân tới cõi trần, nhưng chỉ vì chàng còn cha già, không nỡ trái lời. Ðợi khi cha đủ tuổi trời, chúng ta nên trở lại đây.

Phương xin vâng, ông Hoàn hỏi:

- Muốn đi thuyền hay đi xe?

Phương sợ sóng gió nguy hiểm xin đi đường bộ. Ra đến cửa thì ngựa xe đã chờ sẵn, vợ chồng từ biệt lên đường. Ngựa phi nhanh vun vút, chỉ thoáng chốc đã đến bờ biển, Vương trong lòng lo không có đường đi.

Phương Vân đem ra một tấm lụa trắng ném về phương Nam, lập tức hoá thành con đê dài, mặt đê rộng vừa một trượng, trong nháy mắt xe ruổi qua, đê cũng thu lại dần. Ðến một nơi, nước triều tràn qua, bốn phía mênh mông, Phương Vân bảo dừng lại. Nàng xuống xe lấy những đồ bằng cỏ ra, rồi cùng với bọn Minh Ðang mấy người sắp xắp bày đặt đúng theo phép tắc, chỉ trong nháy mắt đã hoá thành ngôi nhà lớn.

Vợ chồng cùng vào, cởi bỏ hành lý, thì toà nhà không khác chút nào với nơi đã sống trên đảo, giường ghế đều y nguyên như phòng tân hôn lúc trước.

Trời đã xẩm tối, nhân nghỉ lại qua đêm. Sáng hôm sau, Phương Vân bảo Vương còn về đón cha mẹ. Vương sai đóng ngựa ruổi về làng cũ.

Ðến nơi thì nhà cửa đã thuộc về nhà họ khác. Hỏi người làng mới biết mẹ và vợ đã chết, chỉ còn cha già. Con trai đam mê cờ bạc, ruộng vườn gia sản hết sạch, ông cháu không thể có chỗ trú chân, hiện nay tạm ở căn nhà thuê bên thôn Ðoài .

Vương lúc mới trở về, nghĩ về công danh vẫn còn vương vấn, kịp khi nghe tin nhà như vậy, âu sầu buồn bã, tự nghĩ giàu sang nếu có được thì so với những ảo ảnh trong khi hoa mắt nào có khác gì.

Chàng quất ngựa sang thôn Ðoài, thấy cha quần áo rách rưới, già sọm, thật đáng thương. Cha con gặp nhau khóc lạc cả tiếng; hỏi đến đứa con bất hiếu, còn đi đánh bạc chưa về.

Vương bèn chở cha quay về. Phương Vân lạy chào xong, nấu nước mời bố chồng tắm, đưa quần áo gấm cho ông thay, để ông nghỉ ngơi trong ngôi nhà thơm ngát. Sau đó nàng sai mời các ông bạn già cũ tới cùng cha trò chuyện, phụng dưỡng hơn cả các nhà thế tộc.

Một hôm con trai Vương tìm đến, chàng dứt tình không cho gặp, chỉ cho hai chục đồng vàng và sai người dặn: "cầm lấy mà mua vợ, rồi lo làm ăn. Nếu còn đến nữa sẽ đánh chết tươi". Con trai khóc mà đi .

Vương từ khi trở về không hay tiếp khách, nhưng nếu bạn bà cũ tình cờ đến thăm thì đón tiếp lưu luyến, khiêm nhường, khác hẳn thuở trước. Riêng có Hoàng Tử Giới bạn đồng môn thuở trước cũng là một bậc anh tài lận đận, được Vương lưu lại rất lâu, thường kể cho nghe nhiều chuyện kín và biếu tặng rất hậu.

Ðược ba bốn năm Vương ông mất, Vương bỏ vạn bạc chọn đất chôn, làm ma theo đúng lễ.

Bấy giờ con trai Vương đã lấy vợ; con dâu quản chồng rất nghiêm, nhờ thế con cũng đỡ cờ bạc.

Ngày vào đám, nàng dâu mới đến chào bố mẹ chồng.

Phương Vân thoạt gặp con dâu đã thấy người giỏi việc nhà, bèn cho vợ chồng ba trăm đồng vàng để mua sắm điền sản.

Hôm sau chàng Hoàng cùng con Vương đến thăm thì lâu đài nhà cửa đã không thấy nữa, chẳng biết ở đâu.

seta
20-10-2003, 23:59
Gần như hoàn hảo

- Bà Karen Loomis phải không ạ? Tôi là trung sĩ McKinley đây. Tôi vào nhà được chứ?

Tôi để ông ta vào nhà và bắt đầu chịu đựng một cuộc phỏng vấn bất đắc dĩ. Vâng, Stanley Loomis là chồng của tôi. Đúng, đó là địa chỉ của ông ta ở Melbourne. Không, tôi chẳng thân cận chút nào với chồng tôi; chúng tôi đã ly thân gần một năm nay. Không, tôi chẳng gặp ông ta kể từ đó. Không, ông ta không có một gia đình nào khác.

- Tôi mang tin dữ đến cho bà đây, bà Loomis. Tin xấu nhất có liên quan đến chồng bà.

- Có chuyện gì vậy?

- Người ta vừa phát hiện ra ông Stanley Loomis chết tại nhà vào trưa nay. Nguyên nhân cái chết của ông ta chẳng bình thường chút nào.

- Tự tử à?

Viên cảnh sát khẽ nhíu mắt lại:

- Sao bà lại cho rằng chồng bà tự tử?

- Ông ta khá là đào hoa trong đời sống tình cảm. Đó là lý do tôi rời bỏ căn nhà đó mà đi. Sống làm sao được với con người như vậy! Tự tử chứ còn gì nữa!

- Chắc là không đâu, trừ khi ông ta có khả năng dùng búa bổ vào đầu từ phía sau, lúc đang ngủ như chết tại một chiếc ghế bành vì say rượu. Chuyện đó xảy ra cách đây mấy ngày.

Tôi biết chắc là mấy tay cảnh sát này sẽ mời tôi đến nhận diện xác chết và giúp họ trong công tác điều tra. Liệu tôi có cần dàn xếp một chuyến du lịch để tránh chuyện này hay không?

Sáng hôm sau, tôi ra khỏi nhà sớm và lái xe về hướng Nam. Thanh tra Simon đang đợi tôi ở đó, một người đàn ông cao kều, đen thui và xấu xí.

- Xin cảm ơn sự cộng tác của bà, bà Loomis. Chúng tôi cần sự nhận diện chính thức xác chết của bà. Trước đây, bà làm việc này bao giờ chưa?

- Chưa, thưa ông.

- Chúng tôi sẽ cố tạo điều kiện thoải mái cho bà. Đừng quá hồi hộp nhé!

Căn phòng lớn dưới tầng hầm phả hơi lạnh buốt. Một hộc tủ bằng thép được kéo ra, tôi nhận ra khuôn mặt của chồng mình.

- Đây đúng là Stan.

- Bà khẳng định người chết là Stanley Loomis?

- Đúng vậy.

Tấm vải được kéo lên, ngăn chứa xác chết đóng lại kêu loảng xoảng. Thanh tra SImon khẽ cầm tay tôi. "Chúng ta hãy ra ngoài dùng một tách cà phê nhé, bà Loomis".

Phòng làm việc của thanh tra Simon gợi lên một bầu không khí ấm cúng lạ thường. Trên bàn làm việc là các bức ảnh chụp vợ và con ông. Ông còn treo trên tường một số tranh thiếu nhi loè loẹt. Dùng cà phê xong, chúng tôi cùng đến ngôi nhà ở vùng ngoại ô. Simon đã hỏi chặn tôi trước cổng vào, khi chúng tôi vừa đậu xe xong:

- Lần cuối cùng bà ở đây là vào lúc nào, bà Loomis?

- Cách đây 11 tháng.

- Bà không hề quay trở lại sao?

- Chẳng cần thiết. Tôi không thăm viếng, chẳng thư từ và cũng chưa khi nào gọi điện thoại. Đơn giản là vì tôi không muốn ông ta biết hoặc quan tâm tôi đi đâu thôi.

- Vì sao ông bà lại chia tay nhau?

- Stan có một cuộc sống bên ngoài hoàn toàn khác với cuộc sống trong nhà. Ông ta mặc những bộ trang phục đắt tiền, nhưng đồ lót thì lại dơ bẩn. Ông ta tiêu tốn nhiều tiền vào các bữa ăn sang trọng tại Câu lạc bộ Golf, nhưng chẳng bao giờ đưa đủ tiền chợ cho tôi. Stan là một kẻ hai mặt. Ông ta lấy tôi nhưng vẫn quan hệ với một phụ nữ khác. Rất có thể với nhiều phụ nữ khác, biết đâu chừng.

- Gay quá nhỉ!

Tôi nhún vai.

- Thực ra tôi cũng biết chuyện này từ lúc đầu. Tôi đã tha thứ và chịu đựng Stan suốt 6 năm; rồi tôi lại nghĩ xem mình có đáng bị trừng phạt trong một địa ngục trần gian như vậy không. Sau đó tôi lìa bỏ ông ta.

- Và bà đã không hề về thăm nhà từ lúc ra đi?

- Ồ không, tại sao tôi phải làm thế nhỉ? Tôi đã phạm sai lầm và đã rút ra bài học từ sai lầm đó. Tôi hiện rất hạnh phúc với cuộc sống mới.

- Bà cho rằng chồng mình đã tự tử, thưa bà Loomis?

"Rõ ràng người đàn ông này đã nói chuyện với McKinley" tôi nghĩ.

- Tính khí Stan rất thất thường. Ông ta thường xuyên có những cơn suy sụp tinh thần: lúc giận dữ, lúc tư lự, có khi lại phấn khích quá độ. Có lúc ông ta thật hào phóng, nhưng có lúc lại nhỏ nhen, ti tiện. Ông ta uống rất nhiều rượu và thường xuyên bỏ rơi tôi.

- Thế chồng bà có kẻ thù không?

- Tôi cho rằng có.

- Bà có nhớ tên một người nào không?

- Không. Stan là một con người bí hiểm. Ông ta chẳng khi nào nói với tôi về công việc cũng như cách thức ông ta kiếm tiền.

- Công việc của ông ấy hiện rất phát đạt - Viên cảnh sát nói tiếp - tôi chắc rằng bà sẽ là người thừa kế duy nhất phần gia sản của ông nhà thôi. Hãy vào trong này đi, bà Loomis. Chúng tôi cần bà nói rõ cho chúng tôi biết đồ đạc trong nhà này có bị thất lạc, dời chỗ, hay có điều gì đó bất thường không.

"Hầu như mọi vật chẳng thay đổi gì từ lúc tôi rời khỏi ngôi nhà này", tôi nói khi cùng viên cảnh sát đi dạo một vòng quanh căn nhà, "chỉ có điều là dường như chồng tôi chẳng lau dọn gì cả. Đồ đạc không có cái nào là không bám bụi và như tôi nói trước với ông, lối sống của chồng tôi là rực rỡ bên người nhưng bẩn thỉu bên trong. Ngoài ra, tôi không thấy có đồ đạc nào bị thất lạc cả".

Thanh tra thám tử Simon thở dài.

- Được rồi. Xin cảm ơn bà.

- Ông không nghi ngờ ai sao?

- Không ai cả. Chẳng một kẻ tình nghi nào bị bắt gặp gần ngôi nhà trong tuần qua. Chúng tôi cũng còn chưa dám chắc chuyện này xảy ra lúc nào. Ngay cả cái búa gây án cũng không có một dấu vân tay. Chẳng có gì để khả nghi cả.

Chúng tôi ra khỏi căn nhà. Tôi mở cửa xe.

- Tôi có thể giúp gì thêm cho ông không, ông thanh tra?

- Không, cảm ơn bà. Tôi sẽ để bà về.

- Đây chính là điều mà nãy giờ tôi trông đợi - tôi nói và chỉ tay về phía chiếc xe đang đỗ bên kia đường - Ngôi nhà thì nhếch nhác như vậy, nhưng ông ta lại vừa mua một chiếc Lexus bóng lộn. Ông ta muốn gây ấn tượng với người ngoài nhưng lại xử tệ với tôi.

- Bà quả là người mẫn cảm, thưa bà Loomis.

- Ông quá khen. Tôi quá rành ông ta mà.

- Tôi không muốn nói đến điều đó. Ý tôi là bà làm thế nào mà nhận ra được chiếc xe của chồng bà khi nó đậu cùng với những chiếc xe khác trên đường?

- Ông nói sao?

- Khi chúng tôi đến thì xe của chồng bà đang đậu trong sân. Chúng tôi phải kéo nó đi nơi khác để các nhân viên làm việc. Vậy làm sao bà biết được đó là chiếc xe của chồng bà mới mua? Trừ khi và có lẽ là bà đã đến ngôi nhà này gần đây... sao mặt bà lại tái nhợt vậy bà Loomis?


Carey Fletcher

seta
21-10-2003, 00:02
Trăn và thỏ
Gần như là sự ngạo mạn bỉ ổi, ấy thế mà gã Sở Khanh già trong truyện ngắn này lại có thể làm đau trái tim người tử tế. Nhưng đó là cuộc sống, sự tàn nhẫn trong đời thường... hình như Anton Tsekhov đã cười buồn buồn nói như vậy.

Pyotr Semyonych, một tay chơi đã đến thời kỳ mệt mỏi, đầu bị hói, mặc chiếc áo ngủ bằng nhung có núm tua màu đỏ sẫm, tay đang mân mê những sợi tóc mai mềm mại, tiếp tục nói:

- Này mon cher (bạn thân mến), nếu bạn thích đây là một phương pháp khác - một phương pháp tinh vi nhất, khôn khéo nhất, độc địa nhất và cũng là một phương pháp nguy hiểm nhất cho các ông chồng. Chỉ có các nhà tâm lý học và các tay sành sỏi tâm lý phụ nữ mới có thể đem ra áp dụng. Trong khi sử dụng phương pháp này, the conditio sine qua non (điều kiện không thể thiếu) là phải kiên trì hết mực. Phương pháp không thích hợp với những ai không biết cách chờ đợi và kiên nhẫn. Theo đó, nếu bạn đang tìm cách chài mồi vợ của người đàn ông nào đó, thì bạn phải giữ một khoảng cách xa nàng chừng nào tốt chừng đấy. Vừa khi bạn thấy nàng quá đỗi quyến rũ thì hãy chấm dứt ngay việc thăm viếng, càng ít gặp càng hay và chính lúc ấy buộc lòng bạn phải từ bỏ thú vui được chuyện trò với nàng. Bạn gây ảnh hưởng với nàng từ đằng xa. Chẳng qua toàn bộ vấn đề là một cách thôi miên vậy thôi. Hẳn nhiên là nàng không nhìn thấy bạn nhưng nàng vẫn chịu ảnh hưởng của bạn, cũng giống như con thỏ cảm nhận được tia nhìn chăm chăm của con trăn. Bạn thôi miên nàng không phải bằng đôi mắt nhưng bằng cái lưỡi khôn khéo của bạn. Và con đường tốt nhất không gì bằng, là thông qua người chồng của nàng.

Chẳng hạn tôi say đắm yêu N.N và tôi muốn chiếm đoạt nàng. Đâu đấy, ở câu lạc bộ hoặc ở nhà hát, tình cờ tôi gặp chồng nàng.

- Vợ anh thế nào? - Tôi làm như vô tình hỏi anh ta - Này, chị ấy là một phụ nữ thật duyên dáng. Tôi vô cùng ngưỡng mộ chị, anh ạ.

- Ở... nàng có gì mà mê hoặc cậu đến vậy hả? - người chồng hả hê đó buột miệng hỏi.

- Chị ấy đẹp nhất, thanh tú nhất. Chị có thể làm cho đá cũng phải động lòng yêu chị. Các anh là những ông chồng u mê đến lạ. Chỉ trong thời gian hưởng tuần trăng mật các anh mới nhận ra được giá trị của các bà vợ. Anh không thấy vợ anh là một phụ nữ lý tưởng sao? Này này, hãy mở mắt ra mà nhìn, mà tận hưởng số phận đã dâng tặng cho anh một người vợ như thế. Chỉ có những người đàn bà loại ấy mới thật sự cần thiết cho thời buổi này, thế hệ này.

- Ở nàng có gì mà anh cho là khác thường chứ? - người chồng gạn hỏi.

- Chị kiều diễm, chị duyên dáng, tràn đầy sức sống, chân thật, ngây thơ, thẳng thắn, đồng thời cũng rất chi là khó hiểu.

Và chuyện như thế còn đẩy xa hơn nữa. Ngay đêm đó, người chồng trước khi ngủ, chắc chắn sẽ thủ thỉ với vợ:

- Này em, anh mới gặp Pyotr. Hắn ca tụng em hết mực. Hắn mê mẩn vì em. Theo lời hắn thì em là một người đàn bà tuyệt đẹp, vô cùng yểu điệu và lại khó hiểu nữa. Rằng em có thể yêu một cách lạ lùng. Tất nhiên hắn nói rất nhiều về em... ha ha...

Sau đấy, vẫn không gặp nàng nhưng tôi vẫn nhắm tìm chồng nàng.

- Tiện thể, anh bạn già này... - tôi nói với anh - hôm qua một họa sĩ tôi quen đã đến tìm gặp tôi. Một ông hoàng nào đấy đã ra lệnh hắn phải vẽ chân dung có vẻ đẹp đặc biệt Nga. Vẽ như vậy hắn sẽ được thưởng hai ngàn. Hắn nhờ tôi tìm giùm một người mẫu. Tôi có ý định giới thiệu vợ anh với hắn nhưng bản thân tôi không thể làm được. Tuy nhiên chị ấy chính là mẫu người hắn đang cần. Khuôn mặt chị thật đáng yêu. Một người mẫu tuyệt vời như vậy mà thoát khỏi đôi mắt của nhà nghệ sĩ thì thật là tủi hổ. Quá là tủi hổ!

Ông chồng nào cũng đều nịnh vợ nên nhất định là sẽ lặp lại những lời ấy cho vợ mình nghe. Buổi sáng, người vợ sẽ ngồi rất lâu trước gương, săm soi nhan sắc của mình và thầm nghĩ: Do đâu anh ấy lại cho rằng khuôn mặt mình tiêu biểu người Nga nhỉ?

Vậy mà mỗi lần soi gương là nàng lại nghĩ đến tôi. Trong thời gian ấy, tôi vẫn làm như vô tình gặp gỡ chồng nàng. Sau mỗi lần gặp mặt ấy, người chồng khi trở về nhà cứ trân trân nhìn mặt vợ.

- Tại sao anh nhìn em như thế?

- Cái thằng cha Pyotr lại phát hiện là con mắt này của em thì đen hơn con mắt kia. Cả đời anh, anh có thấy gì đâu.

Người vợ lại ngồi trước gương, săm soi nhìn mình hồi lâu, suy nghĩ: Ừ, mắt trái hình như hơi đen hơn mắt phải... Không, mắt phải đen hơn mắt trái... Nhưng có lẽ với anh ấy thì như thế.

Sau lần gặp thứ tám hoặc thứ chín, người chồng nói với vợ:

- Anh gặp Pyotr tại nhà hát. Hắn xin lỗi đã không đến thăm em, lý do là không có thì giờ. Hắn nói hắn bận bù đầu. Hình như anh thấy khoảng bốn tháng nay hắn không đến thăm hai vợ chồng mình. Anh trách hắn chuyện này nhưng hắn rối rít xin lỗi, hẹn xong việc sẽ đến thăm.

- Nhưng đến khi nào công việc mới xong?

- Theo hắn nói, ít nhất phải một hoặc hai năm. Chẳng hiểu hắn làm cái quái quỷ gì. Ôi thằng cha thật lạ lùng! Hắn quấy rầy anh hoài như một tên khùng, lải nhải đủ điều: "Này, tại sao vợ anh lại không lên sân khấu nhỉ? Với một ngoại hình hấp dẫn như thế, với sự thông minh và đa cảm như thế mà ru rú làm người đàn bà nội trợ thì là một cái tội đối với chị. Chị ấy phải rũ bỏ mọi thứ. Hãy đi đến nơi nào mà tiếng nói bên trong thôi thúc. Những đòi hỏi tầm thường không thể dành cho những người đàn bà như thế bao giờ. Những phẩm chất như chị ấy thì không thể bị trói buộc trong thời gian và không gian".

Tất nhiên người vợ chỉ có ý tưởng mơ hồ về những gì câu chuyện thổi phồng kia muốn nói đến, tuy nhiên nàng mền nhũn cả người vì nỗi ngất ngây đến nghẹt thở ấy.

- Thật vô lý! - Nàng thốt lên, làm ra vẻ hững hờ - anh ta còn nói gì nữa không?

- Hắn nói là nếu hắn không bận rộn thì hắn bứng em ra khỏi anh ngay. Anh trả lời với hắn là, thích bứng thì cứ bứng đi, anh không vì em mà đọ kiếm với hắn đâu. Hắn liền la lên: "Ồ, anh không hiểu chị ấy. Điều quan trọng là phải hiểu chị ấy. Chị ấy là một người khác thường, dữ dội, sẽ tìm lối thoát cho xem. Thật đáng tiếc tôi không phải là Turgenev, bằng không tôi sẽ đưa chị ấy vào tiểu thuyết ngay". Anh không sao cười được. Em à, hắn mê mệt vì em đấy. Anh mới nghĩ thầm: Ờ giá như người anh em sống với nàng hai, ba năm thì người anh em sẽ ca cẩm một giọng khác thôi. Một thằng cha quái gở!

Người vợ khốn khổ ấy kết thúc bằng một nỗi giày vò khao khát mong được gặp mặt tôi. Tôi là người duy nhất hiểu được nàng, chỉ với tôi nàng mới thổ lộ hết tâm can. Song lẽ tôi vẫn bướng bỉnh không đến thăm nàng. Đã lâu rồi nàng không gặp tôi. Người chồng vừa ngáp vừa truyền đạt những lời nhận xét của tôi và dường như nàng nghe được chính giọng nói của tôi, nhìn thấy rõ đôi mắt long lanh của tôi.

Thời gian tâm lý đã điểm. Một buổi tối, người chồng về nhà, mở miệng nói:

- Anh mới gặp Pyotr Semyonych. Hắn trông đờ đẫn, ủ rũ, chán chường.

- Sao thế? Anh ta có chuyện gì à?

- Anh không rõ. Hắn than là chán quá. Hắn nói: "Tôi cô độc. Không bà con thân thích. Không bạn bè. Không một ai hiểu tôi. Không một ai để tâm tình. Không ai hiểu tôi cả. Tôi chỉ mong có mỗi một điều: chết quách cho xong!".

- Đồ điên rồ! - người vợ bật thốt lên, nhưng trong thâm tâm thì nàng nghĩ: Đáng thương thật! Mình hoàn toàn hiểu anh ấy! Mình cũng cô độc. Cũng không có ai để hiểu mình trừ anh ấy ra. Còn ai ngoài mình để thấu hiểu tâm trạng của anh ấy?

- Đúng là một thằng cha quái gở! - người chồng tiếp tục - Hắn còn nói thế này: "Quá chán chường tôi không sao ở nhà được. Suốt đêm tôi đi thơ thẩn trong công viên".

Người vợ sốt vó cả lên. Nàng ngắc ngoải muốn chạy vụt đến công viên để thấy - dù chỉ bằng một mắt thôi - người đàn ông hiểu được nàng mà giờ đây đang mang tâm trạng thất vọng đến thế. Ai biết được chứ? Nếu mình nói chuyện với anh ấy, nếu mình nói một vài lời để an ủi anh ấy thì may ra anh ấy khoẻ khoắn hơn. Nếu mình nói rằng anh đã có một người bạn hiểu anh, đánh giá được anh thì có có lẽ anh sẽ tỉnh người lại. Nhưng mà điều này không thể... Phi lý quá. Thậm chí mình không được có ý nghĩ như thế nữa kia. Nếu mình không lưu ý, mình sẽ yêu anh ấy mất, mà như vậy quả là xuẩn ngốc và buồn cười biết bao.

Khi chồng nàng ngủ say, nàng liền ngẩng cao đầu, nó nóng như lửa đốt ấy, ngón tay ép chặt lên môi, suy nghĩ: Chuyện gì sẽ xảy ra nếu bây giờ mình liều lĩnh ra khỏi nhà. Rồi sau đó, mình sẽ bịa ra chuyện đến quầy thuốc, đến nha sĩ. Mình phải đi thôi. Nàng quyết định.

Kế hoạch của nàng đã sắp sẵn: Mình đi theo cửa phía sau ra khỏi nhà, đáp taxi đến công viên; một khi đến đấy, mình sẽ đi bộ ngang qua anh ấy, liếc mắt nhìn anh rồi quay về nhà. Như thế nàng sẽ không làm tổn thương nàng và cho cả người chồng của nàng.

Nàng mặc quần áo, vội vã rời khỏi nhà, lao vút đến công viên. Công viên tối đen, vắng vẻ. Những thân cây trơ trụi yên giấc. Không thấy một bóng người. Nhưng nàng chợt thấy có bóng người. Chắc chắn là người đó rồi. Toàn thân nàng run rẩy, chầm chậm nàng tiến về phía tôi... và tôi tiến về phía nàng. Trong giây lát cả hai chúng tôi đều đứng bất động, nhìn sâu vào mắt nhau. Một khoảnh khắc khác lại trôi qua lặng lẽ và... con thỏ bất lực chui vào mõm con trăn.


Anton Tsekhov

seta
21-10-2003, 00:04
Đời là một rạp xiếc ba vũ đài

Khoảng hơn chục năm trước đây, lần đầu tiên tôi kiếm được công ăn việc làm: gõ trống khua chiêng cho một gánh xiếc Đức – Ý. Tôi tập tọng viết cho hai, ba tờ báo lá cải tỉnh lẻ, rồi cuối cùng cũng ăn được chân phóng viên thực thụ cỡ bự cho một tờ báo cứng hơn ở đô thành. Tôi ngây ngất trong hào quang của cuộc đời ký giả. Tôi mua một cái mũ có thể đội hất sau gáy. Người ta theo tôi suốt mấy dãy nhà chờ xem cái mũ có rơi xuống đất không.

Tôi cũng tập ngậm xì gà lệch một bên mép, nhưng không làm sao tập nổi cách nói bằng mép bên kia. Có tập đến mấy thì giọng của tôi vẫn cứ lạc hẳn đi, vì trời phú cho tôi một giọng nói the thé. Tôi bắt đầu viết những tin chó chết, nhưng cạnh đó cũng đưa tin màn bạc, chủ yếu là phỏng vấn các minh tinh hạng ba, những ngôi sao thực ra cũng ngờ nghệch chẳng kém gì tôi.

Chính những tin xi-nê-ma vặt ấy đã xô tôi vào con đường viết quảng cáo. Một hôm, ông trùm quảng cáo, với cả một đàn minh tinh mà hầu hết tôi đã phỏng vấn, mời tôi đi xơi cơm trưa. Tôi tưởng chẳng qua là ăn với nhau một bửa để chia tay đấy thôi, ngờ đâu lão ta định mở mang kinh doanh. Ông ấy đang nhập khẩu một gánh xiếc Âu. Và ông thiết tha mời tôi, chính tôi, làm công việc quảng cáo. Tôi thưa với ông rằng tôi chẳng biết chuyện quảng cáo đầu cua tai nheo ra làm sao cả. Nhưng, theo ông, viết được tức thị tôi cũng gõ trống khua chiêng được thôi.

Ông ta đặt giá. Hồi ấy, nghe giá ông đặt mà tôi tưởng được thừa hưởng cả một gia tài. Nhưng lòng tôi còn trong sạch. “Tôi còn phải xin ý kiến ông chủ bút của tôi, xem thử công việc này có lương thiện không!” Tôi trả lời thế.

Ông chủ bút của tôi, một cây rượu sướt mướt, phải ôm lấy tôi mà khóc. Tôi tưởng lão khóc thương cho tấm lòng trong trắng đã mất của lão. Nhưng lão nói thẳng vào mặt tôi: tin tức chính thống chấm dứt ở đâu, thì tuyên truyền bịp bợm bắt đầu từ đấy. Nếu như tôi có khả năng leo dây mà không ngã, thì ông ấy cũng chẳng hiểu tại sao tôi lại không chịu nhận công việc quảng cáo. Như tôi đã thưa với bạn, lòng tôi thì trong trắng, còn sức khỏe của tôi thì bằng sức khỏe mười người cộng lại. Tôi đầy đủ khả năng để đi nhón chân trên sợi dây hiểm nghèo chăng ra giữa một ký giả và một nhà quảng cáo. Tôi không hề mảy may nghi ngờ điều đó.

Làm nghề tay trái, thoạt tiên, kể cũng ngấy. Ông trùm chất một đống tài liệu quảng cáo lên đầu tôi, bảo tôi rút từ đó ra một vài bài. Công việc tôi làm chủ yếu là viết lại. Chỉ việc thay các tính từ, và đổi các động từ ra thì tương lai. Nhưng kết quả việc tôi làm hẳn là tốt, bởi lẽ hầu hết các báo nhận được bài vở của tôi đều đăng cả.

Ông trùm quảng cáo chưa thỏa mãn. Ông cần thêm những tường thuật đặc biệt, nhất là về các minh tinh đang biểu diễn. Anh hề số một hẳn phải là một tay hề trứ danh chứ gì. Ông ta muốn tôi viết một bài thực căng về anh hề ấy. Tôi sàng lọc các tài liệu quảng cáo, nhưng ít nhiều cũng đã biết phải viết gì về vai này rồi. Các bạn đừng quên rằng hồi đó tôi còn trẻ lắm, còn ôm một công thức có sẵn về các anh hề: đấy là những con người rất mực u sầu, thậm chí đầy thảm kịch, khi họ ra khỏi ánh đèn vũ đài.

Tôi đã xem bao nhiêu là phim kể chuyện những anh hề cất tiếng cười giữa lúc cõi lòng tan tác. Thế là tôi viết một bài tường thuật với đầu đề “Miệng cười toe toét chỉ là lớp sơn phủ ngoài”. Một chùy đến là bật nước mắt người đọc. Ai nấy xực tất. Tên tôi và tên anh hề được nhắc đầu cửa miệng mọi người. Lần đầu tiên tôi nếm được chút ít mùi danh vọng.

Gánh xiếc đến. Tôi gặp anh hề bằng xương bằng thịt. Tôi muốn chết vì xấu hổ. Đây là lần đầu tiên tôi học được khoảng cách giữa văn chương và cuộc đời, giữa khuôn sáo và thực tiễn. Anh hề không thuộc loại tôi từng gặp trong sách, từng thấy trong phim. Trong bộ quần áo hàng ngày, lão ta chỉ là một con người bình thường, rất thư thái, dễ dãi, dung dị, và cũng khá lười biếng. Chỉ cần vài phút ngồi với lão là đủ thấy lão ta không thuộc hạng người ủ dột, cũng không phải là loại hay hờn dỗi. Quả là một anh hề cỡ lớn, dự buổi tập thì rõ, nhưng, những gì lão làm, lão chẳng coi là nghệ thuật. Đấy chỉ là công việc của lão, một ngón kỹ xảo do cha lão, ông nội lão truyền lại. Giả thử các cụ xưa kia làm nghề thợ mộc, thì lão cũng vui vẻ làm nghề thợ mộc chứ sao.

Tên lão ta là Goóc-ghi-ô. Lão chẳng xưng họ bao giờ. Lão là người vùng Bắc Ý, nhưng gia đình lão đã di cư từ một xóm ảm đạm nào đó đến một khu ngoại ô tưng bừng của thành phố Mi-lan, hai chiếc ô tô thuộc quyền sở hữu của lão và gia đình lão.

Vợ lão là một mụ nhà quê béo hú, nhưng, theo lời lão, mụ ta lại com-măng quần áo tận Rôm kia. Cả năm đứa con của lão đều theo học những trường danh tiếng ở Thụy Sĩ. Mùa đông, lão đưa gia đình đi nghỉ ở miền Tây Ban Nha. Hồi bấy giờ, lão ta suýt soát năm mươi, và đã nghĩ đến chuyện hưu trí. Lão khoe là đã dành được đủ tiền để về hưu một cách sang trọng. Mi-lan đẹp nhưng lạnh quá. Lão định mua nhà ở Ca-pri. Từ bao đời rồi, gia đình lão làm cái nghề xiếc này, nhưng, đến các con lão, thì thôi đấy, không xiếc không xủng gì nữa hết. Truyền thống chấm dứt với đời lão. Đến các con trai lão thì thôi đấy, không có bôi son trát phấn gì nữa đâu. Chúng nó sẽ chuyển nghiệp, có thể là những nhà kinh doanh, những công dân vững vàng.

Nghe Goóc-ghi-ô kể, tôi cứ xỉu dần. Đâu phải tôi chỉ lúng túng vì đã vẽ một bức tranh hoàn toàn sai khi tường thuật về lão ta, mà bài tường thuật ấy lại tung tóe ra đến mức còn phải viết tiếp. Còn một vấn đề nữa: làm thế nào mà viết câu chuyện ngang bằng sổ thẳng đã cũ rích kia cho hay được.

Một lần nữa, xin các bạn nhớ cho, hồi đó tôi còn trẻ. Tôi không sao nghĩ ra được rằng thực tiễn có thể còn hay gấp vạn lần, so với cái khuôn sáo đã mòn mỏi. Trong đầu tôi, không hề lóe ra cái ý kiến rạng rỡ là đập tan một mê tín, là ném ra một bài báo với nội dung sau đây: Này, các vị đã hiểu lầm các anh hề cả rồi. Đây, anh chàng này cười vì hắn ta sung sướng, chứ đâu phải vì cõi lòng hắn đang tan tác. Tôi đã gán những định kiến của tôi cho cuộc đời mất rồi. Mọi thứ đều khuôn theo mô hình cả. Ký giả thì bề ngoài phải bướng bỉnh, gái điếm tất cả một trái tim vàng, ngôi sao màn bạc thì té ra lại sống trong cảnh rách mướp, còn làm báo là một nghề quyến rũ. Hề xiếc cũng thế thôi, cũng phải khuôn theo mô hình lập sẵn cho họ.

Tôi hỏi Goóc-ghi-ô xem lão có đọc những gì tôi đã viết về lão không. Lão ta bảo rằng lão chẳng bao giờ đọc quảng cáo về lão cả. Không phải lão ta cố tình làm cho tôi phật ý, lão chỉ nói sự thực. Lão giỏi tiếng Anh, nhưng có đọc thì lão chỉ đọc tiếng Ý. Tôi cho lão ta hay rằng tôi đã vẽ lão hệt một anh hề Hăm-lét.

Lão nhăn mặt cười, rồi nhún vai. Mà thế thật, đã bao nhiêu người tưng viết như vậy về lão: u buồn, sầu muộn, ủ ê. Thế gian đã sẵn một hình ảnh nhất định về các anh hề, nhưng đâu có biết rằng nó hoàn toàn giả tạo. Chính vì thế mà lão không bao giờ phản đối những bài tường thuật thuộc loại đó về bản thân lão. Thế thì tôi chẳng phải thắc mắc mà làm gì. Lão đâu có phản đối tôi. Lão ta chịu chơi lắm chứ, nếu cái trò quảng cáo này thu hút đông đảo khán giả đến xem lão làm trò. Muốn viết cái gì, tôi cứ viết.

Với một gã cung cách ra làm vậy, thì cũng đành thôi, chứ sao!

Goóc-ghi-ô giữ lời hứa.

Trong buổi họp báo đầu tiên, lão bận đồ đen, ăn nói nhát gừng, cau có với các phó nhòm, nổi xung lên, rồi bỗng xì hơi, xin quý vị khán giả tha lỗi cho lão, vì đầu óc lão đang rối bời, nào những rắm rối trong tình cảm nào những câu chuyện lòng...

Trong bài viết kế tiếp, tôi lôi ra bất cứ những gì còn bỏ ngỏ. Tôi nói bóng nói gió đến cả một loạt những cuộc tình bi đát. Giờ đây, khi đã đứng tuổi, lão lại đắm say một cô gái trẻ, mà con bé này thì chỉ lấy lão làm trò đùa thôi. Mỗi lần lão nhảy ra vũ đài trong vai hề, thì, thực ra, lão chỉ tự trừng phạt mình vì nỗi đã làm trò hề ngay trong đời thực, vì cái nỗi cho một con đĩ bất nhân tha hồ mà đấm, mà đá, mà thoi, mà dày xéo. Cả thành Ma-ni-la đổ xô đến rạp xiếc để xem anh hề quá ư đáng thương. Tôi thì tôi đi uống rượu.

Quả là một tiếng sét, cả Goóc-ghi-ô lẫn gánh xiếc. Họ ký hợp đồng biểu diễn có một tháng thôi, nhưng lại kéo dài thêm hai tuần, rồi ký tiếp hợp đồng biểu diễn ở Xê-bu và Đa-vao. Khoảng hai, ba hôm trước khi gánh xiếc đi Nam, ông trùm quảng cáo trả công cho tôi - khoản đã ngã giá cộng với một món tiền thưởng. Theo ông, tôi đã làm nổi một công việc khủng khiếp. Lần sau, khi ông nhập một chương trình biểu diễn khác, thì thế nào ông cũng mời tôi gióng trống khua chiêng lượt nữa. Tôi bảo ông cứ giao việc cho người khác: đây là cố gắng đầu tiên mà cũng là cố gắng cuối cùng của tôi trong nghề quảng cáo.

Tôi cứ phải cưỡng lại để khỏi trao món tiền kiếm được cho quỹ từ thiện. Hồi đó, tôi còn lý tưởng lắm kia: tôi cảm thấy mình đã “giả dối với công chúng của mình!”

Chắc chắn ông trùm quảng cáo đã đem cảm nghĩ của tôi nói với Goóc-ghi-ô, cho nên, trước hôm gánh xiếc rời đi, Goóc-ghi-ô mời tôi ăn cơm tối. Chúng tôi đến cái khách sạn Âu ở trên đại lộ Ai-giắc Pi-sơn. Goóc-ghi-ô tỏ ra hết sức từng trải: lão đặt một bữa ăn hiếm thấy - cứ mỗi lượt bưng thức ăn ra là thay rượu khác. Chỉ có hai chúng tôi với nhau, nên tôi khá bối rối, vì cứ phải chú ý đến tách cà phê, đến ly rượu mạnh mà Goóc-ghi-ô mời tôi.

Lão bảo tôi rằng rất thông cảm với nỗi khổ tâm của tôi vì lẽ tôi đã “bịa” ra cr một tích chuyện. Nhưng mà, đã làm ăn trong cái ngành quảng cáo này, thì ai cũng thế cả thôi. Với thời gian, tôi sẽ tập vượt qua nỗi khổ tâm ấy. Rồi ra tôi sẽ không đến nỗi quá chấp nhặt như vậy nữa.

Lão nói: “Anh phải tập tách đời sống nghề nghiệp khỏi các cuộc đời khác của anh, bằng không, anh không làm sao mà sống nổi đâu. Anh sẽ sống trong một thế giới cực kỳ chật hẹp”.

“Nhìn tôi đây này.” Lão nói tiếp, “cuộc đời của tôi là một rạp xiếc ba vũ đài. Trên vũ đài thứ nhất, tôi là anh hề Goóc-ghi-ô nổi tiếng. Trên vũ đài khác, tôi là người cha của một gia đình được rất mực kính trọng, với một biệt thự xinh xắn ở Mi-lan. Còn trên vũ đài thứ ba thì tôi chính là tôi, bằng xương bằng thịt. Con người này chính là thằng tôi, một thằng tôi thích ăn ngon, thích uống rượu, thích gái đẹp, thích hết ý. Cái thằng tôi ấy có thể rất rừng, nhưng hắn chỉ rừng đúng lúc của hắn thôi. Hắn không được phép đảo lộn tùng phèo công việc của anh hề Goóc-ghi-ô, hoặc làm tổn hại đến thanh danh của người cha khả kính của một gia đình ở Mi-lan. Cho nên, tôi sống ba cuộc đời khác nhau, ít nhiều độc lập với nhau. Và chính vì tôi giữ được ba cuộc đời ấy tách biệt khỏi nhau, mỗi cuộc đời có vũ đài riêng của nó, cho nên tôi hưởng được một thế giới rộng lớn hơn nhiều, so với con người hoàn toàn bị hút vào cuộc sống của một minh tinh xiếc, hay của một ông chủ gia đình”.

“Cậu cũng phải tập làm như thế. Giờ đây, cậu chỉ đơn thuần là một ký giả. Cậu chịu để cho nghề nghiệp choán hết cuộc sống của cậu. Thế là không hay đâu. Trong nghề nghiệp của tôi, thì chúng tôi xếp cậu vào loại gánh xiếc chỉ có một vũ đài. Những minh tinh lớn phải ở trong các gánh xiếc có ba vũ đài. Đấy, cậu phải hướng tới đó! Nghiêm chỉnh đi theo thiên hướng nghề nghiệp? Tốt thôi. Nhưng chẳng làm cái gì khác ngoài công việc mình làm? Dở lắm! Cậu phải tức khắc dựng thêm hai vũ đài nữa cho gánh xiếc của đời cậu”.

Những gì Goóc-ghi-ô bảo ban tôi trong đêm đó, nhớ được chừng nào tôi đã ghi lại trên đây chừng ấy, mà tôi nhớ kỹ lắm kia, bởi vì lời lẽ lão nói đã đập mạnh vào tâm trí tôi. Trong đời từng con người, bao giờ cũng có một giây phút đặc biệt, giây phút những lời khuyên phải lẽ bắn vừa trúng đích. Đêm đó chính là giây phút định hướng cho đời tôi.

Ngay hôm sau, tôi bảo ông chủ bút rằng tôi đã chán ngấy cái công việc viết những tin chó chết rồi. Và tôi có ý định viết một loạt bài về cuộc sống ở các tỉnh lẻ. Liệu ông ta có dám nhân cơ hội này mà cử tôi đi làm phóng viên lưu động khắp đất nước trong vòng hai, ba tháng không? Lời ăn tiếng nói của tôi có sức thuyết phục lớn lắm thì phải: không bao lâu sau, ban biên tập họp và quyết định rằng, nếu báo đăng một loạt bài về đời sống tỉnh lẻ, thì cũng hay đấy. Tôi được rút ra để đi viết loạt bài ấy. Loạt bài đó, thực ra, đâu phải là cái đích tôi theo đuổi. Tôi chỉ mong có dịp mở rộng chân trời của mình thôi. Tôi theo lời khuyên của Goóc-ghi-ô. Tôi dựng một vũ đài thứ hai cho gánh xiếc của đời tôi. Tôi tìm cơ hội thể nghiệm.

Sau đấy một tuần, tôi đi Ba-ta-nét. Tại đây, qua một tờ báo ra ngày hôm trước, tôi hay tin Goóc-ghi-ô đã bị tai nạn ở Đa-vao. Trong chương trình biểu diễn của lão có tiết mục nhại người đi dây. Kể như sợi dây đứt tung ra, khiến lão rơi tõm xuống sàn. Ở Đa-vao đêm ấy, sợi dây đứt tung như thường lệ, nhưng Goóc-ghi-ô rơi xuống một thanh sắt mà tay lực sĩ nhỡ bỏ quên trên vũ đài. Goóc-ghi-ô đập lưng vào thanh sắt. Lão đứng dậy ngay, tiếp tục biểu diễn, nhưng từ hôm sau thì không xuất hiện trên vũ đài nữa.

Khoảng hai tháng sau, khi tôi trở lại Ma-ni-la, tôi đếp gặp ông trùm quảng cáo hỏi tin Goóc-ghi-ô. Gánh xiếc đã rời khỏi đất này từ lâu, và, như chỗ ông trùm quảng cáo biết, thì Goóc-ghi-ô đã ổn rồi. Trong chuyến đi các tỉnh, lão chỉ vắng mặt có một hôm thôi. Trở lại Ma-ni-la, lão nom cũng khỏe mạnh. Tôi báo ngay cho ông trùm quảng cáo hay rằng tôi đã thay đổi ý kiến: nhỡ ra ông ta có nhập khẩu một gánh khác, thì tôi sẵn sàng làm người gõ trống khua chiêng. Ông ta tức khắc giao việc cho tôi: một đoàn ca vũ trên băng sắp đến đây.

Câu chuyện kể trên đã xảy ra từ mười năm trước đây. Đầu năm nay, một công ty vô danh tiểu tốt nào đó tiếp xúc với tôi, nhờ tôi quảng cáo cho một gánh xiếc. Gặp tôi, họ cảm thấy sượng sùng: gánh xiếc họ nhập khẩu là một gánh xiếc chỉ một vũ đài nhỏ. Nhưng đấy chính là lý do họ cần đến tôi.

Biết đâu tôi lại chẳng làm nên phép lạ, với một chương trình biểu diễn hạng ba, hạng tư như thế.

Tôi đang tíu tít với trăm công nghìn việc làm ăn lớn, nhưng rồi vì lẽ nào đó tôi lại quan tâm đến cái đề nghị còm cõi này. Tôi tự nhủ: dù sao thì trước đây mình cũng từng bước chân vào nghề quảng cáo bằng cách gõ trống khua chiêng cho một gánh xiếc. Thế là tôi bảo mấy tay cầm đầu công ty quảng cáo: Cứ gửi tài liệu cho tôi, tôi sẽ liệu xem có thể làm gì được chăng.

Trong đống tài liệu quảng cáo họ gửi đến, cũng có bản tường thuật muôn thuở về anh hề số một, một tay nào đó tên gọi Pép-pô. Đọc về hắn ta, tôi cứ nhăn cả mặt lại. Theo bản tường thuật, hắn là một anh chàng u sầu, với một cuộc đời đầy bi kịch, vân vân, vân vân – nghĩa là tất cả những khuôn sáo cũ rích về một anh hề phải cất tiếng cười giữa lúc cõi lòng tan nát. Giờ thì tôi đã khôn ngoan hơn xưa (dùng chữ yếm thế có lẽ đúng hơn): tôi có thể nhìn xuyên qua cái khuôn sáo.

Thế là tôi viết một bài phá tung tất cả những chuyện nhảm nhí về các anh hề sầu muộn. Dưới ngòi bút của tôi, tay Pép-pô này có rất nhiều khả năng là một gã khỏe mạnh, một người giàu có trong giới trưởng giả ở nước hắn ta, có một biệt thự và hai ô tô. Theo lời tôi viết, hắn rất có thể là ông chủ của một gia đình đáng trọng, con cái thì học tại những trường danh giá nhất, có một bà vợ béo hú mà dung dị. Cái bài tôi viết ra ấy làm náo động cả dư luận. Lối viết có một không hai của tôi đánh đúng vào tâm trạng của công chúng.

Gánh xiếc đến giữa lúc tôi đang ở Hồng Kông. Tôi về đến Ma-ni-la thì vừa hay họ kết thúc đợt biểu diễn. Nghe nói chương trình khá là nhàm. Ừ, gánh xiếc có một vũ đài thôi, thì có thể mong đợi gì hơn? Tôi đi xem vào đêm cuối.

Mấy anh hề ra vai. Trong bọn họn, có một tay tôi xem chừng quen quen. Tôi tự nhủ: không thể. Làm sao tôi có thể từng gặp hắn ta được? Anh hề này quá ư là ủ dột. Tôi cảm thấy hắn ta đã già rồi – son phấn trát trên mặt thế kia thì ai mà biết được! Tôi còn cảm thấy một điều khác nữa: hắn đang đau đớn, còn hai tay cùng diễn với hắn thì cố tình làm cho hắn đau. Cứ xem cái cung cách hai đứa ngáng chân cho hắn ngã, đánh hắn, nhảy lên người hắn, đá vào đít hắn thì rõ là chúng cố tình và thích thú. Có hai người cùng diễn với hắn, cả hai rõ ràng còn trẻ, một nam, một nữ. Thế là tôi bắt đầu run, trước cách xử sự của chúng đối với lão hề già đáng thương kia. Tôi cảm thấy được là hắn đã già – nhưng son phấn trát lên mặt thế kia thì ai mà biết được! – tôi cứ cảm thấy, thế thôi.

Gần cuối trò, tay thanh niên và đứa con gái xách một tấm bảng đen, choảng cho lão Pép-pô đáng thương một cú, khiến lão ngã chỏng gọng trên mùn cưa. Khán giả reo hò như sấm, khi lão cố vục dậy mà không được - cứ mỗi lần cố vục dậy là một lần dập mặt xuống sàn. Tôi nhoai người ra trên ghế. Trong cặp mắt lão hề, có phải là những giọt nước mắt thực?

Tôi cảm thấy lão ta phát khóc lên vì đau đớn. Đích thị. Khán giả cười rộ lên khi thằng thanh niên và đứa con gái nhảy lên lưng lão, rồi túm vai lão mà xốc lên, lôi lão ra khỏi vũ đài.

Tôi đứng phắt dậy, vội vã đi ra sau hậu trường. Tôi hỏi thăm lối đến buồng hóa trang của Pép-pô. Tôi bước vào. Trong buồng chỉ có mỗi mình lão đang nằm trên chiếc giường con. Tôi tự giới thiệu. Cặp mắt tưởng như đã tắt dưới cơn đau bỗng chớp chớp một hồi. Lão cố ngồi dậy, ngả người về phía tôi.

Lão nói: “Chúng ta đã gặp nhau rồi thì phải”.

Tôi hỏi lão là ai. Lão đứng dậy, lấy chiếc khăn mặt lau sạch son phấn. Rồi lão bỏ bộ tóc giả ra, quay lại cho tôi nhìn mặt.

Đấy là Goóc-ghi-ô, một Goóc-ghi-ô đã già khụ.

Rồi lão kể cho tôi nghe những gì đã xảy đến trong đời lão. Sau lần bị nạn ở Đa-vao, lão bắt đầu đau lưng. Lưng đau đến mức lão phải rời gánh xiếc cũ, phải đi mổ. Sau lần mổ đầu tiên ấy, nhiều lần mổ khác liên tiếp vét sạch dần số tiền lão dành dụm được. Lão phải bán cái biệt thự ở Mi-lan đi. Con cái lão phải di cư sang Mỹ. Vợ lão qua đời. Lão phải lạy lục để xin việc ở các gánh xiếc. Nhưng giờ thì các chủ gánh xiếc làm khó dễ ghê lắm kia. Lão đâu còn có thể vận động nhanh nhẹn như xưa, cử động một cái là cứ đau nhói lên.

Tôi bàng hoàng. Tôi nói cho lão hay tôi đã choáng cả người trước cảnh bọn đồng diễn tra tấn lão trên vũ đài. Mỗi lần cử động là mỗi lần lão đau nhói lên, thế thì việc gì lại để cho cái thằng thanh niên và đứa con gái kia đối xử thô bạo với lão đến thế?

“Đứa con gái ấy là vợ tôi đấy”.

Tôi còn biết nhìn đi đâu nữa.

Lão nói tiếp, giọng rầu rĩ: “Còn cái thằng thanh niên kia là người tình của nó. Tôi biết chứ, tôi biết cái con bé ấy chẳng trung thành gì với tôi. Tôi biết chúng nó thích hành hạ tôi. Nhưng tôi làm gì được. Bây giờ, nó là cả cuộc đời tôi, cả thế giới của tôi”.

Tôi nhắc lại những lời lão nói với tôi ngày xửa ngày xưa. Cuộc đời phải là một gánh xiếc ba vũ đài. Đừng chịu để cho bất cứ cái gì chỉ một mình nó mà thâu tóm hết cuộc đời mình.

Mặt lão nhăn lại đến là gớm ghiếc.

“Ấy, ấy, đâu phải tôi, người khác nói đấy. Giờ thì tôi chỉ mong được một gánh xiếc độc một vũ đài, bé nhỏ đến đâu cũng được, rẻ tiền đến đâu cũng được. Mà giờ thì thế cũng đã khó lắm rồi”.

Bỗng lão òa lên khóc. Tôi lúng túng quá. Tôi đứng dậy đi ra. Tôi muốn để cho lão yên thân với nỗi khổ nhục của lão. Đã hai lần rồi, tôi hiểu nhầm con người này. Tôi mở cửa. Bên ngoài, một phóng viên nhiếp ảnh tôi quen. Tôi cố tình chặn y lại, không muốn cho tay phó nhòm trông thấy lão đang ngồi khóc trên giường.

Nhưng Goóc-ghi-ô đã nghe tiếng. Lão cất tiếng hỏi.

Tôi vẫn chắn ngang cửa, vừa ngoái đầu lại vừa đáp: “Có người muốn chụp ảnh ông đấy”.

“Để người ta vào”.

Anh chàng nhiếp ảnh bước vào, còn tôi thì ra đi.

Đã bước ra ngoài, tôi còn nghe tiếng anh chàng nhiếp ảnh: “Ông mỉm cười cho”. Tôi liếc trở lại. Lão hề đang cười.


Giô-xơ A. Ki-ri-nô