PDA

View Full Version : Danh Nhân Thế Giới


LSB-RongLuaBacCuc
11-02-2003, 08:53
[center:312c10dc19]Danh Nhân Thế Giới[/center:312c10dc19]
Mục Lục
1. Lep Tonstoy
2. Cac - Mac
3. Ăng - Ghen
4. Napoleon
5. Albert Einstein
6. Luwig Van Beethoven
7. John Fitzgerald Kennedy
8. Nostradamus
9. Joan of Arc
10. Picasso
11. Gagarin
12. Gabrielle Chanel
13. Frederich Chopin
14. Victor Hugo
15. Giuseppe Verdi
16. Khổng Tử
17. Lý Bạch
18. Vladimir Putin

LSB-DoUy-DaiTrieu
09-03-2003, 16:35
[center:8de01949dc]1. Lep Tonstoy[/center:8de01949dc]
Có một giai thoại kể rằng một đêm tuyết rét bão bùng, Tôn Stôi, đang ngồi trước lò sưởi thì một bé gái hàng xóm đến xin một ít than hồn về nhóm lửa. Ông hỏi cô bé:

- Cháu có đem cái gì để đựng than không?

- Dạ không có.

Nhà văn bèn bảo cô bé xòe hai bàn tay sát vào nhau như một cái tô rồi lấy một nhúm tro nguội để vào đó . Xong ông ta gắp mấy cục than đỏ rực bỏ vào bụm tay có lót tro . Cô bé quay lưng đi về không nói tiếng nào, vừa tới cửa, đại văn hào gọi lại hỏi:

- Cháu vừa nói gì thế?

- Cháu đâu có nói gì đâu ạ.

Tác giả Chiến Tranh Và Hòa Bình thở dài lắc đầu:

- Thôi cháu về đi, vậy mà bác tưởng cháu nói cám ơn chứ.
Lép Tôn Stôi???? có phải là dại văn hào người Nga, người mà dã từng nói câu nói bất hữu để đời cho nhân loại sau này: "Muốn có hoà bình thì phải chiến tranh" không?
Nếu là vậy thì tiểu đệ quên tên của ông ta spell ra sao rồi. TIểu đệ chỉ nhớ mang máng là Lep Tonstoi gì dó.....Nếu huynh nào biết tên của ông ta spell ra sao thì xin làm ơn post lên trên dây giùm. Cám ơn
http://www.luongsonbac.com/anh/leptolstoy
Tên thật: Lev Nikolayevich Tolstoy
Nổi tiếng dưới tên: Leo Tolstoy
Tác phẩm nổi tiếng nhất: War and Peace

Chút thông tin trên Ngô mỗ vừa sưu tầm được, hy vọng sẽ giúp được chư huynh đệ chút ít.

Trở về lương sơn
08-06-2003, 12:38
[center:293ae90ed9]2. Các - Mác[/center:293ae90ed9]
C. Mác sinh ngày 5 tháng 5 năm 1818 ở thành phố Tởir trong gia đình luật sư Heinrich Marx. Năm mười hai tuổi (1830) C. Mác vào học trường trung học ở Tởir. Sức học của C. Mác thuộc loại giỏi, đặc biệt C. Mác nổi bật ở những lĩnh vực đòi hỏi tính độc lập sáng tạo. C. Mác cũng tỏ ra có năng lực về toán học. Mùa thu 1835, C. Mác tốt nghiệp trường trung học, sau đó không lâu, tháng mười 1835, C. Mác vào trường đại học tổng hợp Bonn để học luật. Hai tháng sau theo lời khuyên của bố C. Mác tiếp tục học ở trường Đại học Tổng hợp Berlin. ở trường Đại học, năm 1836, ngoài luật học, sử học và ngoại ngữ C. Mác bắt đầu đi sâu nghiên cứu triết học. Mùa xuân 1837, C. Mác bắt đầu nghiên cứu kỹ những tác phẩm của Hê-ghen, sang năm 1839 thì vùi đầu vào nghiên cứu triết học, suốt cả năm 1939 và một phần của năm 1840 C. Mác tập trung nghiên cứu những vấn đề lịch sử triết học Cổ đại. Ngày 15 Tháng Tư 1841, khi mới 23 tuổi, C. Mác nhận được bằng Tiến sĩ triết học với luận án Về sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Démocrite, và triết học tự nhiên của épicure tại trường Iêna.

Tháng Năm 1843, C. Mác đến Kroisnak, một thành phố nhỏ vùng Rhein và ông đã chính thức làm lễ thành hôn với Jenny vôn Vestphalen.

Lần đầu tiên, C. Mác gặp Ph. Ăng-ghen vào cuối tháng Mười Một 1842, khi Ph. Ăng-ghen trên đường sang Anh và ghé thăm ban biên tập tờ Rheinische Zeitung (Nhật báo tỉnh Ranh). Mùa hè năm 1844, Ph. ăng-ghen đến thăm C. Mác ở Pa-ri. Hai ông đã trở thành những người bạn cùng chung lý tưởng và quan điểm trong tất cả mọi vấn đề lý luận và thực tiễn. Theo yêu cầu của Chính phủ Vương quốc Phổ, Chính phủ Pháp đã trục xuất C. Mác. Ngày 3 tháng Hai 1845, C. Mác rời Pa-ri đến Brussel, ít lâu sau Ph. Ăng-ghen cũng đến đây và hai ông lại tiếp tục cộng tác chặt chẽ với nhau. Sau khi cách mạng năm 1848, ở Pháp nổ ra Chính phủ Bỉ trục xuất C. Mác. Ông lại đến Pa-ri, Tháng tư 1848, C. Mác cùng với Ph. Ăng-ghen đến Kioln, tại đây Mác trở thành Tổng biên tập tờ Nhật báo tỉnh Ranh, cơ quan của phái dân chủ. Năm 1849 Chính phủ Phổ đóng cửa tờ báo và trục xuất C. Mác. Ông lại đến Pa-ri, nhưng lần này ông chỉ lưu lại ba tháng. Tháng Tám 1849, từ Pa-ri C. Mác đi Luân-đôn và sống đến cuối đời (1883). C. Mác qua đời ngày 14 Tháng Ba 1883 ở Luân-đôn.

Hoạt động cách mạng sôi nổi và con đường tìm ra quy luật lịch sử C. Mác

Công tác thực tiễn ở báo Rheinische Zeitung đã làm thay đổi cơ bản thế giới quan của C. Mác chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật và từ chủ nghĩa dân chủ - cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản. Tháng Hai 1844, trên tờ tạp chí Niên giám Pháp - Đức C. Mác đăng bài Góp phần phê phán triết học pháp luật của Hê- ghen. Từ tháng Tư - tháng Tám 1844, C. Mác viết Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, thực chất là những phôi thai của những tư tưởng hết sức quan trọng mà sau này C. Mác phát triển một cách khoa học trong bộ Tư bản. Tháng hai 1845, cuốn sách Gia đình thần thánh của C. Mác và Ph. Ăng- ghen viết chung ra đời phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm chủ quan của phái Hê-ghen trẻ, thực chất là phê phán toàn bộ chủ nghĩa duy tâm , đồng thời nêu ra vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Thời kỳ hoạt động của C. Mác ở Pa-ri kết thúc (tháng Hai 1845), một thời kỳ mới sau đó mở ra với mục đích rõ ràng mà C. Mác tự đặt ra cho mình: đề xuất một học thuyết cách mạng mới. C. Mác cùng với Ph. Ăng- ghen hợp sức viết Hệ tư tưởng Đức (1845-1846) tiếp tục phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hê-ghen và phái Hê-ghen trẻ đồng thời phê phán chủ nghĩa duy tâm không nhất quán của Ludvich Phoiơbach. Trong cuốn Sự bần cùng của triết học (1847) C. Mác đã chống lại triết học tiểu tư sản của P.J. Pruđông và trình bày những cơ sở của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chính trị kinh tế học vô sản. Năm 1848 được sự uỷ nhiệm của Đại hội II Liên đoàn những người cộng sản C. Mác và Ph. Ăng- ghen viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản- một văn kiện mang tính chất cương lĩnh của chủ nghĩa C. Mác và đảng vô sản. Tháng Sáu năm 1859, công trình thiên tài của C. Mác Góp phần phê phán môn chính trị kinh tế học ra đời viết về tiền tệ và lưu thông tiền tệ; nhưng điều đặc biệt quan trọng là lần đầu tiên tác phẩm đã trình bày học thuyết Mác-xít về giá trị , cơ sở của học thuyết kinh tế của C. Mác.

C. Mác là người tổ chức và là lãnh đạo của Quốc tế cộng sản I thành lập ngày 28 tháng 9 1864, ở Luân- đôn. Năm 1867 bộ Tư bản (tập I)- tác phẩm chủ yếu của C. Mác ra đời. Tập II và III C. Mác không kịp hoàn tất, Ph. Ăng-ghen đảm nhận việc chuẩn bị xuất bản hai tập này. Trong bộ Tư bản C. Mác đã vạch rõ quy luật giá trị thặng dư dưới hình thái giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối; và quy luật giá trị với tư cách là quy luật chung của nền sản xuất hàng hóa được phát triển trong quy luật cung và cầu, trong những quy luật của lưu thông tiền tệ.

Trong tác phẩm những năm cuối đời C. Mác nêu lên hình thức hợp lý nhất của chuyên chính vô sản là kiểu tổ chức chính trị như công xã Pa-ri (Cuộc nội chiến ở Pháp- 1981).

Trong cuốn Phê phán cương lĩnh Gôta (1875) C. Mác đã kịch liệt phê phán những sai lầm cơ hội chủ nghĩa của những người lãnh đạo đảng xã hội dân chủ Đức, đề ra một vấn đề hết sức quan trọng về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản và hai giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản, nghĩa là bản thân xã hội cộng sản phải phát triển qua hai giai đoạn: giai đoạn thấp- chủ nghĩa xã hội, giai đoạn cao- chủ nghĩa cộng sản. Năm 1876 sau khi Quốc tế cộng sản đệ nhất giải tán, C. Mác nêu lên ý kiến thành lập các đảng vô sản ở các nước là nhiệm vụ chính trị hàng đầu trong phong trào công nhân.

Trở về lương sơn
08-06-2003, 12:41
[center:7921d5ca9c]3. Ăng - Ghen[/center:7921d5ca9c]
Ph. Ăng-ghen sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820 tại Barmen, tỉnh Ranh, Vương quốc Phổ trong một gia đình chủ xưởng dệt. Từ nhỏ Ph. Ăng- ghen đã bộc lộ tính cách độc lập. Những lời dạy bảo nghiêm khắc của cha và những sự đe doạ trừng phạt không thể làm cho ông đi đến chỗ phải phục tùng mù quáng. Cho đến năm 14 tuổi, Ph. Ăng- ghen học ở trường tại thành phố Barmen. Ph. Ăng- ghen sớm bộc lộ năng khiếu về ngoại ngữ. Tháng Mười 1834, Ph. Ăng- ghen chuyển sang học ở trường trung học Elberfelder, một trường tốt nhất ở Phổ thời bấy giờ. Năm 1837, theo yêu cầu của bố, Ph. Ăng- ghen buộc phải rời bỏ trường trung học khi chưa tốt nghiệp để bắt đầu công việc buôn bán ở văn phòng của bố ông. Trong thời gian này ông tự học các ngành sử học, triết học, văn học, ngôn ngữ và thơ ca. Tháng 6 năm 1838, Ph. Ăng- ghen đến làm việc tại văn phòng thương mại ở thành phố cảng Barmen. Cuối năm 1839 Ph. Ăng- ghen bắt tay vào nghiên cứu các tác phẩm của Hê- ghen. Tháng 9- 1841, Ph. Ăng- ghen đến Berlin và gia nhập binh đoàn pháo binh ở đây ông được huấn luyện quân sự mà trong những năm sau, ông rất cần đến nó, nhưng ông vẫn lui tới trường Đại học tổng hợp Berlin nghe các bài giảng triết học, tham gia hội thảo về lịch sử tôn giáo. Mùa xuân 1842, Ph. Ăng- ghen bắt đầu cộng tác với tờ Rheinische Zeitung (Nhật báo tỉnh Ranh). Trong những bài báo in năm 1842, trên tờ báo Ph. Ăng- ghen đã lên tiếng phản kháng chế độ kiểm duyệt của Chính phủ Vương quốc Phổ, trật tự phong kiến ở Đức. Ngày 8 tháng 10 năm 1842, Ph. Ăng- ghen mãn hạn phục vụ trong quân đội. Từ Berlin ông trở về Barmen, một tháng sau, Ph. Ăng- ghen sang Anh thực tập buôn bán. Trên đường sang Anh, Ph. Ăng- ghen đã thăm trụ sở tờ báo Rheinische Zeitung ở Kioln và ông đã gặp C. Mác, Tổng biên tập tờ báo. Ông đã ở lại Anh hai năm. Bài báo Tình cảnh của giai cấp công nhân ở Anh (1842) cùng với những bài báo khác của Ph. Ăng- ghen viết ra năm đó đã phân tích rõ sự phân chia xã hội thành ba giai cấp cơ bản: giai cấp quý tộc chiếm hữu ruộng đất, giai cấp tư sản công nghiệp và giai cấp vô sản. Ph. Ăng- ghen tham gia viết bài cho tờ tạp chí Niên giám Pháp - Đức (tháng 21844). Các bài báo này đề cập đến việc áp dụng phương pháp biện chứng vào việc phân tích các quan hệ kinh tế của xã hội tư sản.

Tác phẩm Những phác thảo phê phán môn kinh tế chính trị học của Ph. Ăng-ghen đã chỉ rõ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa là cơ sở của toàn bộ sinh hoạt vật chất và tinh thần của xã hội tư sản. Tháng 2-1845, cuốn sách Gia đình và Thần thánh của C. Mác và Ph. Ăng-ghen ra đời đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và phương pháp của nó, nêu luận điểm về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Hai ông cùng hợp sức viết công trình nổi tiếng Hệ tư tưởng Đức (1845-1846), phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm của Hê- ghen và phái Hê- ghen trẻ đồng thời phê phán chủ nghĩa duy vật không nhất quán của Ludvich Phoiơbach nêu ra những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tiếp đó năm 1848, Đại hội II Liên đoàn những người cộng sản đã uỷ nhiệm C. Mác và Ph. Ăng- ghen cùng viết Tuyên ngôn của Đảng cộng sản.

Trong thời gian sống ở Pa-ri, Ph. Ăng-ghen quan tâm nhiều đến hoạt động của BCH Trung ương Liên đoàn những người cộng sản và trở thành Uỷ viên của Ban lãnh đạo và là một trong những lãnh đạo Câu lạc bộ công nhân Đức (Tháng3-1848) do BCH Trung ương LĐNNCS lập ra.

Tháng 3- 1848, cùng với C. Mác , Ph. Ăng-ghen thảo ra Những yêu sách của Đảng cộng sản Đức được BCH Trung ương LĐNNCS thông qua như là văn kiện có tính chất cương lĩnh cho hành động của giai cấp vô sản Đức. Tháng 4-1848 ông cùng với C. Mác trở về Đức tham gia cuộc cách mạng Đức. Ngày 20 tháng 5/1848 Ph. Ăng-ghen đến cùng với C. Mác chuẩn bị xuất bản tờ Neue Rheinische Zeitung. Ph. Ăng-ghen tham gia viết các bài xã luận, bài điểm tình hình chính trị. Tháng 10/1848 ông đi Bỉ để tránh lệnh truy nã của chính quyền Phổ nhưng ông không được phép cư trú chính trị. Ph. Ăng- ghen lại đến Paris sau đó sang Thuỵ Sĩ tham gia Đại hội các liên đoàn công nhân Đức, ông được bầu vào Uỷ ban trung ương của tổ chức này.

Tháng giêng năm 1849 ông trở về Đức tiếp tục hoạt động cách mạng. Khi cuộc đấu tranh bùng nổ ở Tây và Nam nước Đức (tháng 5/1849) Ph. Ăng-ghen đã vạch ra một kế hoạch hoạt động quân sự, thành lập quân đội cách mạng tiến hành cuộc khởi nghĩa. Ngày 10/5/1849, Ph. Ăng- ghen đến Elberfeld và được sung vào Ban quân sự. Ăng-ghen đưa ra một kế hoạch để triển khai cuộc đấu tranh cách mạng dấy lên thành phong trào toàn nước Đức. Trong thời kỳ này, ông tham gia trực tiếp bốn trận đánh lớn, trong đó có trận Rastatt. Sau này Ph. Ăng- ghen đã viết trước tác Luận văn quân sự nổi tiếng.

Tháng 11/1849, Ph. Ăng- ghen đến Luân đôn và được bổ sung vào BCH Trung ương Liên đoàn Những người cộng sản mà C. Mác đã cải tổ sau khi đến đây. Ph. Ăng-ghen sống ở Luân- đôn một năm, trong thời gian đó ông đã viết các tác phẩm Cách mạng và phản cách mạng ở Đức, Cuộc chiến tranh nông dân ở Đức. Tháng 11-1850, Ph. Ăng-ghen buộc phải chuyển dến Manchester vàn lại bắt đầu làm việc ở Văn phòng thương mại. Điều này tạo điều kiện cho Ăng-ghen có thể giúp đỡ về vật chất cho C. Mác hoạt động cách mạng. Ph. Ăng-ghen đặc biệt chú ý nghiên cứu các môn khoa học tự nhiên, môn quân sự, chính sách quốc tế. Cùng với C. Mác, Ph. Ăng-ghen tham gia lãnh đạo Quốc tế cộng sản I. Tháng 9-1870, Ph. Ăng-ghen đến Luân Đôn và được đưa vào tổng hội đồng của quốc tế cộng sản I. Ph. Ăng- ghen kiên trì đấu tranh chống lại quan điểm cơ hội của phái Bakunin, Proudhon, Lassalle. Năm 1871, Ph. Ăng- ghen tham gia vào việc tổ chức chiến dịch bảo vệ công xã Pari. Trong thời gian này, Ph. Ăng-ghen đã viết một số tác phẩm có giá trị lý luận, đặc biệt là cuốn Chống Đuy-rinh (1818) góp phần to lớn cho việc hoàn thiện lý luận cho chủ nghĩa C. Mác. Sau khi C. Mác qua đời (1883), Ph. Ăng-ghen là người lãnh đạo tổ chức những người theo chủ nghĩa xã hội ở châu Âu, chuẩn bị cho in tập 2 và 3 của bộ Tư bản mà C. Mác chưa kịp hoàn thành. Ph. Ăng-ghen viết nhiều tác phẩm nổi tiếng vào những năm cuối đời : Nguồn gốc gia đình, Chế độ tư hữu và Nhà nước (1884), Lút-vích Phơ-bách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức (1866), Biện chứng tự nhiên, Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức (1894).

lsb_ha son
07-08-2003, 19:56
[center:5e22065f14]4. Napoleon

(1769-1821)[/center:5e22065f14]



Tên thánh của Napoleon (tiếng Ý) là: Napoleone Buonaparte. Ông sanh tại đảo Corsica một năm sau khi đảo này thuộc về Pháp. Lúc còn thơ, Napoleon rất ghét nước Pháp. Tuy nhiên ông vẫn theo học trường quân sự Paris Military Academy, và trở thành Trung Úy ( lieutenant) trong quân đội Pháp vào năm 16 tuổi.

Hoàng Ðế Napoleon:

Napoleon cư ngụ tại Paris trong thời kỳ cách mạng Pháp. Và sau khi nước Pháp trở thành Cộng Hòa Pháp (10 tháng 8 1792) ông được thăng chức Ðại Úy (Captain). Sau khi chiến thắng quân Ý vào năm 1796 và Áo 1797 ông lên đến chức Ðại Tướng. Vào tháng 11-1799 ông lật đổ chánh quyền Pháp và nắm quyền cai trị, phong danh hiệu là Napoleon đệ nhất. Vào năm 1804 (12 năm sau khi chế độ quân chủ bị dẹp bỏ) Napoleon tự phong cho mình chức Hoàng Ðế (Emperor)của nước Pháp.

Ðến năm 1812, Napoleon dẹp sạch những tàn tích của Ðế Quốc La Mã và chinh phục gần hết Âu Châu. Nhưng Napoleon thất trận nặng nề khi xâm chiếm Nga. 18-3-1814 Quân đội Nga cầm đầu liên minh tiến chiếm Paris. Napoleon bị quản thúc ngày 6-4-1814.

Trận Waterloo

Napoleon bị đày trên đảo Elba, một hòn đảo thật nhỏ bé nằm gần bờ biển nước Ý. Tháng 3-1815 trốn thoát và với quân lính cũ trung thành, Napoleon tiến về Paris và trong khoảng "100 ngày" này Napoleon đã trở về với địa vị cũ. Nhưng sau cùng lại thất trận khi đánh lại liên quân Anh và Ðức 18-6-1815 trong trận chiến Waterloo (Bỉ).

St. Helena

15-7-1815 Napoleon lại bị đày đi đảo St. Helena, một đảo nhỏ trơ trọi nằm ở phía nam đường xích đạo. Ðất gần nhất là Ascension Island nằm về hướng bắt, cách đó 1120 Km. Vài vị tướng trung thành đã tự nguyện theo Napoleon sang đảo này. Napoleon sống trong căn nhà trên đảo St. Helena tên Longwood House. Ông tiêu khiển bằng cách đọc cho người viết lại hồi ký và chơi bi da.

Giấy Dán Tường Màu Xanh

Tường nhà Napoleon sống trên đảo St Helena dán giấy nhuộm màu " Xanh Scheele", đặt theo tên của hóa học gia Scheele người Thụy Ðiển, người đã khám phá ra chất nhuộm này. Thuốc nhuộm có chất arsenite.

Vào năm 1893 nhà sinh hóa học người Ý, ông Gosio khám phá ra rằng những tờ giấy dán tường này bị ẩm và vi khuẩn biến chất đồng arsenite dán trên tường thành một loại hơi độc. Napoleon vì hít thở hơi độc này nên bắt đầu bị ung thư bao tử và sau cùng tạ thế vào ngày 5-5-1821.

Napoleon được chôn cất tại St Helena, nhưng sau đó lại được cải táng ven bờ sông Seine. Người ta đã không hỏa táng di thể theo yêu cầu của ông.





Napoleon Bonaparte (15-8-1769 / 5-5-1821)

Napoleon cưới Josephine de Beauharnais, một quả phụ với hai con vào 9-3-1796. Vì không sanh con nên bị Napoleon li dị vào năm 1809. Năm sau Napoleon cưới Marie Louise, 18 tuổi, con hoàng đế Áo Quốc. Trong vòng một năm Marie sanh con trai và được Napoleon phong chức Vua của La Mã.

[/b]

lsb_ha son
07-08-2003, 20:01
[center:9c241c178b]5. Albert Einstein[/center:9c241c178b]
[center:9c241c178b](1879-1955)[/center:9c241c178b]
http://www.giamy.com/danhnhan/tendanhnhan/Einstein_3.jpg



Sinh ngày: 14 tháng 3, 1879 tại Ulm, Württemberg, Ðức
Mất ngày: 18 tháng 4, 1955 tại Princeton, New Jersey, Mỹ



Sang Thế Kỷ 21, Nhiều Phương Tiện Thông Tin Trên Thế Giới Ðã Thử Thăm Dò Dư Luận Ðể Bầu Chọn Những Nhân Vật Kiệt Xuất Của Thế Kỷ 20.

Người Ta Thấy Albert Einstein Ðược Cả Thế Giới Coi Là Một Nhân Vật Vĩ Ðại.

Danh nhân thế giới thế kỷ 20: ALBERT EINSTEIN

Nhân vật vĩ đại cuả thế kỷ 20

Vĩ đại vì khó hiểu chăng?

Ông bà Pauline và Hernman Einstein rất thất vọng khi thấy cậu con trai Albert Einstein của mình đã 3 tuổi (năm 1882) mà không nói năng gì được. Nhưng vì Albert là con một nên họ rất qúi cậu bé.

Albert Einstein năm 4 tuổi (1883) mới bập bẹ nói. Năm đó ông bố cho Albert Einstein một cục nam châm để chơi, Albert cứ loay hoay với cục nam châm ấy, tự hỏi vì sao nó hút được những vật bằng sắt!

Lớn lên, được gửi vào một trường đạo ở Ulm, Ðức thành phố quê hương, Einstein học rất thường, lại hay bỏ học, đến nổi khi ra trường không được cấp một mảnh bằng nào. Vì thế, sau khi đó không một trường đại học nào chịu nhận Einstein vào học. Ông đành phải thi vào Học viện bách khoa Zurich. Chỉ sau một năm theo học tại đây, ông đã viết được tiểu luận vật lý, phác thảo thuyết tương đối nổi tiếng. Năm 21 tuổi (1900), Einstein tốt nghiệp. Ông làm việc rất năng nổ, được cấp một số bằng phát minh kỳ lạ như: tủ lạnh không gây tiếng động, máy giúp người nặng tai nghe rõ… Sau đó, ông cưới cô bạn cũng tài như ông: bà Mileva Maric, một giáo sư vật lý. Hai người làm việc chung rất tương đắc.

Năm 1905, Einstein bắt đầu viết các bài nghiên cứu về vật lý cho một nguyệt sạn lớn ở Ðức. Ông viết về phân tử vật chất, họat động của phân tử vật chất ở thể lỏng và khí bi nung nóng…Ông đựơc Ðại học Zurich cấp bằng tiến sĩ vật lý.

Rồi đi từ cái cực nhỏ sang cái cực lớn, Einstein viết về ánh sáng và năng lượng trong vũ trụ. Ðến đây, thế giới không theo kịp ông nữa. Ông đưa ra công thức lừng danh:E=mc2, trong đó E là năng lượng, m là khói lượng, và c là tốc độ của ánh sáng.

Theo công thức này, một khối lượng nhỏ có thể gây nên một năng lượng khổng lồ!

Lúc đó là năm 1914. Thế giới vẫn chưa hiểu công thức của Einstein, nhưng nhiều người biết Einstein là một người cực kỳ thông tuệ. Người ta không hiểu ông vì ông đi trước thời đại. Người ta chỉ biết gọi ông là ”nhân vật vĩ đại”. Tờ báo The times ở London lúc bấy giờ gọị Enistein là ‘’ một nhà cách mạng vỉ đại’’trong khoa học.

Vĩ đại vì suy nghĩ khác lạ :

Năm 1916, Einstein cho xuất bản tập sách ‘’Nền tảng của lý thuyết tổng quát về tương đối’’(The Foundation of the General Theory of Relativity). Ông lý luận rằng trọng lực (Gravitity) không phải là một lực như các nhà khoa học vẫn nghi ngờ từ thời Isaac Newton (1642-1727), mà là một đường cong (curve) trong không -thời gian (space-time) được tạo ra bởi sự hiện diện của vật chất (gravity was not a force as science had believed since Sir Isaac Newton, but a curve in space-time created by the presence of matter). Một ý tưởng quá mới lạ đối với mọi người lúc bấy giờ !

Mãi đến năm 1919, trong một lần nhật thực tòan phần tại London (Anh quốc), các nhà khoa học thuộc Hội Hàng gia (BRS) đã quan sát và chụp được những tấm ảnh chứng minh lý thuyết của Einstein là đúng. Báo the times của Anh chạy hàng tít lớn: ’’Cách mạng khoa học –lý thuyết mới về vũ trụ-tư tưởng của Newton đã bị lật đổ’’. Giới khoa học Âu châu gọi Einstein la thiên tài vĩ đại nhất trên thế giới.

Ðời tư của Einstein lúc ấy lại khá buồn. Sau khi ông ly dị bà Maric, bà đem hai con trai qua sống ở Thụy sĩ, còn Ông ở lại Berlin một mình. Hàng xóm láng giềng bảo ông thường đánh vợ nên bị vợ bỏ!

Trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) Einstein thấy nhiều cảnh đau thương nên ông bắt đầu rao giảng về chủ nghĩa hòa bình. Ông rất thích tiếp xúc với những người nghèo khổ. Ông ăn mặt lôi thôi, tóc tai bù xù; nhiều người gọi ông là “Ông giáo sư điên”(mad professor). Năm 1921 ông được trao giải Nobel vật lý. Người ta biết rằng bề ngoài của ông lôi thôi lếch thếch nhưng trong đầu ông vẫn luôn luôn có những suy nghĩ khác lạ và vĩ đại. Chính vì vậy mà ngày nay hãng tin học Apple ở Silicon Valley (Mỹ) treo ảnh Einstein ở trước trụ sở chính của họ và ghi câu ”Hãy suy nghĩ khác”(Think different) để nhắc nhở các nhà khoa học của họ.

Từ Chối Làm Tổng Thống Israel :

Năm 1933, Hitle lên nắm chính quyền tại Ðức. Một đêm, bọn phát xít xông vào nhà Einstein lục lọi như muốn tìm những cuốn sách mà chúng tin là có thể giúp chúng chế tạo loại vũ khí “vô địch”. Chúng đe dọa giết ông nên hôm sau ông tìm cách trốn ra khỏi nước Ðức, tìm đường qua Mỹ. Bọn phát xít tức giận treo giải thưởng lớn cho ai bắt hay giết được Einstein. Người Mỹ mời ông vào dạy học ở Ðại học Princeton. Tại đây, ông chuyên tâm nghiên cứu, rất ít giao thiệp. Khi Chiến tranh thế giới lần thứ 2 nổ ra năm 1938, Einstein đã buồn bã nói ”Chỉ có hai thứ vô hạn , đó là vũ trụ và sự ngu ngốc của con người. Nhưng tôi không chắc lắm về sự vô hạn của vũ trụ…”(!)

Lúc bấy giờ, các nhà khoa học trên thế giới phát hiện ra rằng nguyên tử có thể đập vỡ, và dựa trên lý thuyết của Einstein, người đã cho rằng có thể chế tạo một loại vũ khí siêu đẳng: Bom nguyên tử.Einstein kinh hoàng trước viễn ảnh phát xít Ðức chế tạo loại bom này trước phe Ðồng minh, bèn viết thư hối thúc Tổng thống Mỹ Roosevelt xúc tiến việc chế tạo bom nguyên tử.

Thế là “kế hoạch Manhattan” ra đời. Nhưng Cuộc điều tra liên bang Mỹ (FBI) nghi ngờ Einstein nên theo dõi ông gắt gao. Tuy vậy cuối cùng bom nguyên tử cũng ra đời và Mỹ cho ném xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki (Nhật).

Khi hay tin mỹ thả bom xuống nước Nhật, Einstein đã đau đớn kêu lên: ”Ôi! biết thế này thì tôi thà làm một người sửa ống nước còn hơn!’’.

Khi quân Ðồng minh thắng trận, ông nói: ”Thắng trận, sống hòa bình chưa có được!”, Ông cùng các nhà khoa học khác tìm mọi cách để chận đứng việc dùng bom nguyên tử trong tương lai. Họ công khai xin lỗi nước Nhật. Từ đó, bom nguyên chỉ trở thành một vũ khí răn đe để giữ gìn nền hòa bình của thế giới.

Năm 1952, Israel thỉnh cầu Einstein về làm tổng thống nước này vì ông gốc người Do thái, nhưng Einstein đã dứt khoát từ chối. Ông nói: ”Chính trị chỉ là tạm thời. Phương trình khoa học mới là vĩnh cữu!”.

Ông qua đời rất bình yên trong giấc ngủ ở bệnh viện Princeton, ngày 18 tháng 4 năm 1955. Trước đó, ông đã quyết định huyến xác cho khoa học nên sau khi ông qua đời, người ta giải phẩu bộ óc của ông để xem có gì lạ không. Hóa ra bộ óc của ông cũng bình thường như bao bộ óc khác!

Tất cả sự vĩ đại của Einstein là ở những ý tưởng của ông, cách suy nghĩ khác thường của ông!

lsb_ha son
07-08-2003, 20:03
[center:61930c0304]6. Ludwig Van Beethoven[/center:61930c0304]
(Bonn, December 17, 1770 - Vienna, March 26, 1827)
German composer of the Classical period


1.Thân thế và sự nghiệp:

Beethoven là nhạc sĩ vĩ đại nước Ðức, là một người đại diện xuất sắc nhất trường phái cổ điển Vienna, là nhà văn hoá vĩ đại của thế giới, người kết thúc trường phái cổ điển Vienna và người mở ra con đường chủ nghĩa lãng mạn.

- Ông sinh ngày 16/12/1770 tại thành Bonn (Tây Ðức). Bố là nhạc công nhưng gia đình ông rất nghèo vì đông con. Cha ông tên là Giohan Van Beethoven, một nhạc sĩ có tài, biết đàn clavexanh, violon và có giọng nam cao hay đồng thời làm trong dàn nhạc hoàng cung. Mẹ của ông là con gái của một người nấu bếp, bà là người mẹ đôn hậu để lại nhiều ấn tượng cho nhà soạn nhạc sau này. Beethoven là người có năng khiếu âm nhạc rất sớm, tuy còn nhỏ nhưng ông đã viết được 9 biến tấu. Năm 12 tuổi, nhạc sĩ đã thành thạo ngoại ngữ, chơi được nhiều loại đàn như: violon, piano, organ.

Năm 1787 ông đến Vienna tìm Mozart để học hỏi, Mozart nhận lời dạy. Tiếc thay mẹ Beethoven ốm nặng, ông lại trở về nước. Vài ngày sau bà từ trần, gánh nặng gia đình chăm lo các em không cho phép Beethoven ra nước ngoài học tập được nữa. Sau này ông có học hỏi Hayden một thời gian.

Năm 1789 ở Pháp nổ ra cuộc CM Tư sản lúc đó Beethoven đang là sinh viên khoa triết, trường đại học tổng hợp Bonn. Vì hoàn cảnh gia đình và quan điểm không phù hợp, chàng thanh niên 19 tuổi rời bỏ học đường tiếp tục đi theo thiên hướng âm nhạc đã định của mình. Cuộc CM Tư sản Pháp đã ảnh hưởng rất lớn tới âm nhạc của ông, âm nhạc của ông sôi sục tính chiến đấu. Ông thường nói: "Âm nhạc phải làm bùng cháy lên ngọn lửa trong tim con người". Trong khoảng 10 năm từ 1782-1792 ông sáng tác khoảng 50 tác phẩm, trong đó có 3 bản sonata piano, 3 bản tứ tấu đàn dây, 2 bản đại hợp xướng và một số ca khúc

Năm 1792 ông đến Vienna lần II và sống ở đó cho đến cuối đời. Năm 1796 Beethoven thấy có triệu chứng điếc, bệnh tình sau đó càng nặng, đó là nguy cơ đối với nhà soạn nhà. Ông có yêu một tiểu thư bá tước tên là Duyliet Gơvi Chardi, nhưng hạnh phúc không đến với ông. Beethoven lâm vào tình trạng khủng hoảng tư tưởng. Năm 1802 ông đã viết di chúc cho các em với ý định tự vẫn. Nhưng nhạc sĩ đã vượt qua cơn ác mộng đó với nghị lực phi thường.

Từ năm 1813- 1816 Beethoven bị điếc hoàn toàn, ông luôn luôn phải mang theo một cuốn sổ nhỏ để đàm thoại. Sau khi thành lập "liên minh thần thánh" chính quyền ở Vienna đàn áp những người có xu hướng tiến bộ. Beethoven bất mãn với chế độ chính trị lúc đó, ông căm ghét bọn quý tộc và luôn tin tưởng vào tương lai đẹp đẽ của nhân loại.

Beethoven từ trần tại Vienna ngày 26/3/1827. Hàng vạn người dân theo sau đám tang người nhạc sĩ nghèo đưa ông tới nơi an nghỉ cuối cùng.

2.Tác phẩm và những đặc điểm âm nhạc:

Di sản âm nhạc của ông thật đa dạng: 9 bản giao hưởng, 5 bản concertos piano, 1 bản oncertos violon và dàn nhạc. Vở nhạc kịch "Phidelio", nhiều tác phẩm âm nhạc sân khấu như "Ecmông", "Pơro-môtê", "Sự suy đồi của A-ten", nhiều khúc mở màn nổi tiếng "Lêôno", "Côriôlan"...Trong lĩnh vực âm nhạc thính phòng có nhiều tác phẩm ưu tú: 16 bản tứ tấu dàn dây, 32 bản sonata piano, 10 bản sonata violon và piano cùng hàng trăm tác phẩm soạn cho các loại nhạc cụ thanh nhạc.

Tìm đến âm nhạc của Beethoven ta thấy rõ nhất đặc điểm về tính kịch, tính tương phản trong sự vận dụng các phương tiện biểu hiện của âm nhạc như giai điệu, tiết tấu, hoà âm...

Trong khoảng thời gian 1792-1802: Thời kỳ 10 năm đầu sống ở Vienna, ông viết 18 sonata cho piano, trong đó có 1 số bản nổi tiếng:
- Số 8 có tiêu đề : Bi hùng
- SỐ 14 CÓ TIÊU ĐỀ: ÁNH trăng

Một số bản Sonata cho đàn violon và 1 số song tam tứ tấu và cho ra đời 2 tác phẩm giao huởng đầu tiên.

-1802-1812: Ðây là thờ kỳ tài năng nhuần nhuỵ nhất, tác phẩm tiêu biểu gồm:
- Giao hưởng số 3 tiêu đề Anh hùng
- Giao hưởng số 5 tiêu đề Ðịnh mệnh
- Giao hưởng số 6 tiêu đề Ðồng quê

Một số bản sonata cho violon và piano trong đó nổi tiếng là sonata 23 với tiêu đề "Appassionata" ông viết vở opera "Phidelio" và viết nhạc kịch cho bản Ecmong của Gớt.

- Những năm cuối đời có nhiều biến động sâu sắc, Beethoven sinh ra bất mãn với chế độ đương thời, tuy thế âm nhạc của ông vẫn lạc quan tin tưởng vào tương lai, Ông viết tập ca khúc "Gửi người yêu phương xa".
Bản giao hưởng số 9 là một kiệt tác, anh hùng ca thời đại kết thúc sự nghiệp sáng tác của ông.

lsb_ha son
07-08-2003, 20:05
[center:b671232cbb]7. John Fitzgerald Kennedy [/center:b671232cbb]
[center:b671232cbb]http://ptv5.vnt.us/anhdang/nhatky/1.gif[/center:b671232cbb]


Tiểu Sử

John Fitzgerald Kennedy sinh ngày 29 tháng 5 năm 1917 tại Brookline (Massachusetts). Cha của ông, Joseph Kennedy, là một người đầy tham vọng chánh trị, từ con của một chủ quán nhậu trở thành triệu phú. Ông thành hôn với Rose Fitzgerald, con gái của tỉnh trưởng tỉnh Boston. John F Kennedy là người con thứ hai của Joseph và Rose. Người con đầu lòng tử trận trong đệ nhị thế chiến khi chiếc máy bay bị nổ tung khi bay ngang eo biển Anh và Pháp.

John F. Kennedy tốt nghiệp đại học Harvard và gia nhập quân đội phục vụ trong đệ nhị thế chiến. Với chức vị Trung Úy, ông chỉ huy chiếc tàu tuần PT 109. Trong một chuyến đi tuần, chiếc tàu này bị đánh đắm nhưng nhờ sự can đảm phi thường đã cứu sống được sinh mạng của ông và của thủy thủ đoàn.

Vào năm 1952 ông đắc cử chức vụ Thượng Nghị Sĩ của tiểu bang Massachusetts. Năm 1956 ông sém (thua Estes Kefauver của Tennessee) trở thành úng cử viên phó tổng thống chung liên danh với Adlai Stevenson. Tuy nhiên thì liên danh này cũng thua phiếu. Năm 1958 ông tái đắc cử thượng nghị sĩ Massachusetts hơn địch thủ 875.000 phiếu, là con số thắng với tỷ lệ cao nhất trong lịch sữ của tiểu bang này.

Năm 1960 ông chật vật lắm mới đánh bại Richard Nixon để trở thành vị tổng thống trẻ tuổi nhất (43) trong lịch sử nước Mỹ. Và ông cũng là tổng thống đầu tiên người công giáo.

Vào ngày 20 tháng giêng năm 1961, trong bài diễn văn nhậm chức, ông đã nói một câu trở thành bất hủ: "Hỡi các công dân trên thế giới: Đừng hỏi nước Mỹ có thể làm gì cho bạn, hãy hỏi rằng cùng chung sức với nhau, chúng ta có thể làm đuợc gì cho sự tự do của nhân loại"

( "My fellow citizens of the world: ask not what America will do for you, but what together we can do for the freedom of man".)

Cuba
Trong quá trình làm tổng thống, John F Kennedy phải đối phó với hai cuộc khủng hoảng trầm trọng. Cuộc khủng hoảng thứ nhất xảy ra vào tháng tư, 1961 khi quân đội Mỹ đổ bộ vào Vịnh Con Heo (Bay of Pigs) của Cuba nhằm lật đổ Fidel Castro. Đây là kế hoạch được cơ quan tình báo CIA phát họa từ thời tổng thống Eisenhower. Quân đội của Fidel Castro đánh tan quân đổ bộ. Đây là thất bại nặng nề của chánh quyền Kennedy do sự cố vấn sai lầm của Quân đội, của CIA và của một số đãng viên đãng Dân Chủ.

Cuộc khủng hoảng Cuba vào năm 1962 phứt tạp hơn nhiều. Nước Nga đưa hỏa tiển vào Cuba (coi như là sát nách với Mỹ). Khi Kennedy biết được thì hiểm họa chiến tranh nguyên tử trở thành gần như sự thật. Các cố vấn quân sự của Mỹ khuyên Kennedy nên không kích Cuba. Nhưng người em tổng Thống Kennedy là Robert Kennedy, lúc đó đang là bộ trưởng bộ tư pháp không đồng ý. Do đó Kennedy chọn cách dùng hải quân phong tỏa Cuba không cho tàu Nga vào hải phận Cuba và bắt buộc Nga phải tháo gở các hoả tiển đã được dựng lên tại Cuba đem về nước. Sau một tuần căng thẳng, Nga đồng ý rút khỏi Cuba sau khi Kennedy hua se không đổ bộ vào Cuba.

Berlin

Vào năm 1961 Kennedy vượt qua cuộc khủng hoảng Bá Linh (Berlin). Cuộc khủng hoảng Đông và Tây Berlin chưa được giải quyết và lại trở nên trầm trọng khi chánh quyền đông Đức quyết định dựng bức tường Ô Nhục Bá Linh chia đôi thành phố này.

Chiến Tranh Lạnh
Chiến tranh lạnh có lúc trở thành gay cấn dưới thời Kennedy, nhưng cũng có lúc êm dịu trở lại. Một đường dây điện thoại "hotline" được thành lập, nối trực tiếp Diện Cẫm Linh (Kremlin) và toà Bạch Ốc (The White House) để tạo liên lạc trực tiếp khi có khủng hoảng xảy ra.

Cả hai chánh phủ Nga va Mỹ trở nên "hoà bình" hơn. Vào năm 1963 hai quốc gai Nga va Mỹ ký thỏa hiệp cấm thí nghiệm Nguyên tử.

Nhân Quyền
Trong suốt nhiệm kỳ tổng thống, chính sách của Kennedy là bình đẳng cho mọi công dân. Vào thời đó Kennedy phải chịu nhiều sự phản kháng và hầu hết những dự luật do ông đưa ra đều bị quốc hội không chấp nhận. Chương trình cải thiện chính sách xã hội của ông được chấp nhận vào thời kỳ của người thừa kế là Tổng Thống Johnson. Hầu hết những chương trình của Kennedy lúc đó mới được quốc hội chấp nhận.

22 tháng 11, 1963
Ngày 22 tháng 11, 1963 Kennedy và vợ (Jackie) đi tham quan thành phố Dallas. Ông bị ám sát (bị bắn) khi đi qua thành phố trên chiếc limousine mui trần và từ trần sau đó nửa giờ. Theo báo cáo chính thức (Warren Report) thì Lee Harvey Oswald là thủ phạm bắn chết Kennedy.

Tuy nhiên giả thuyết này cũng bị đạt thành nghi vấn vì nhiều nhân chứng bị thủ tiêu (Ngay cả Lee Oswald cũng bị ám sát chết). Và hơn nữa, giả thuyết này không thể nào giải thích được tại sao một viên đạn lạ vừa giết chết Kennedy vừa làm thống đốc Texas bị thương.

Kennedy từ trần, để lại vợ (Jackie) và hai con (John John và Caroline). Huyền thoại Camelot lại xụp đổ thêm lần nữa.

lsb_ha son
07-08-2003, 20:10
[center:4b39335294]8. Nostradamus[/center:4b39335294]
[center:4b39335294](1503-1566)[/center:4b39335294]
[center:4b39335294]http://ptv5.vnt.us/anhdang/nhatky/23.jpg
Nostradamus[/center:4b39335294]

Mỗi khi có thảm họa xảy đến, con người thường phản ứng bằng nhiều cách khác nhau. Một trong những phản ứng đó là tìm cách giải thích những sự kiện này qua những lời tiên đoán của các nhà tiên tri. Những sự giải thích này có tác dụng trấn an con người vì họ cho rằng những gì đã xảy ra là những gì không tránh được (vì đã được tiên đoán).

Trong suốt tiến trình của lịch sử loài người chúng ta nhận thấy đã có hằng trăm nhà tiên tri có thể tin tưởng được. Tuy nhiên trong lịch sử cận đại, tên được nhắc đến thường nhất vẫn là Nostradamus.

http://ptv5.vnt.us/anhdang/nhatky/24.jpg
Trong những lời tiên đoán được xem là đúng, Nostradamus được công nhận đã tiên đoán đúng về chuyện:

Napoleon thống trị Âu Châu

Hai trái bom nguyên tử nổ tại Hiroshima và Nagasaki

Mỹ đáp lên mặt trăng

Tổng Thống Kennedy bị ám sát chết.




Nostradamus đã được công nhận đã tiên đoán trúng về hàng chục những biến cố đã xảy ra trong lịch sử cận đại kể cả việc Hitler nắm quyền và sụp đổ.

Và mới đây nhất là vụ khủng bố phá hoại World Trade Center tại New York. Trên mạng lưới Internet các nhóm tin tưởng vào Nostradamus cũng như các tay đặt điều chọc phá đã tìm mọi cách đễ giải thích về những câu thơ tiên tri của Nostradamus. Có người còn tự đặt ra những câu cho thích hợp rồi cho lên Web.



Tiểu Sử Nostradamus.


Tên Latin của Nostradamus là Michel de Nostredame. Ông là một bác sĩ và là một nhà thiên văn học, sống tại Pháp vào thế kỷ thứ 16. Chi tiết về cuộc đời ông có nhiều điều không được rõ rệt; và thêm vào đó những "tín đồ" của ông cũng như những kẻ đặt điều thêm mắm muối vào khiến cho chi tiết về tiểu sử của ông có nhiều điều không được sáng tỏ và phần lớn thì không đúng sự thật.

Tuy nhiên người ta biết rằng Nostradamus sinh năm 1503 trong một gia đình rất khá giả làm nên nhờ nghề buôn bán thóc lúa. Ông được giáo dục về nhiều môn học như những môn về khoa học thực dụng, toán, ngôn ngữ (tiếng la tinh, hy lạp và do thái) và thiên văn học.

Nostradamus được giáo dục chu đáo về tôn giáo. Cha ông là người Do Thái nhưng lại gia nhập đạo Thiên Chúa (La Mã) vào lúc ông chưa ra đời (hoặc lúc ông còn nhỏ).

Có người cho rằng vì ông là người gốc Do Thái nên ông cững đã nghiên cứu những văn bản Do Thái. Ông cũng nghiên cứu về cuốn Tân Ước. Trong suốt cuộc đời, ông đặt biệt chú trọng về ngày tận thế, được viết trong cuốn thánh kinh.

Theo các nhà nghiên cứu về Nostradamus thì ông rời khỏi gia đình vào năm 1522 để theo học về môn Y Khoa tại Montpellier. Sau khi tốt nghiệp, ông dạy đại học về môn Y Khoa trong một thời gian ngắn trước khi hành nghề Bác Sĩ tại khắp miền Nam nước Pháp.

Ông chữa trị được nhiều bịnh nhân trầm trọng; cổ võ chuyện giữ gìn vệ sinh khi lo chửa bịnh cho những người bị bịnh dịch hạch trong mùa dịch hạch năm 1538. Tuy nhiên con ông và bà vợ đầu tiên cũng đã từ trần vì căn bịnh dịch hạch này.

Cuối năm 1540, Nostradamus lấy vợ lần thứ hai và dọn về Salon, một thành phố của Pháp gần Ðiạ Trung Hải. Trong thế Kỷ sau đó, ông vận dụng hết tâm trí để viết những lời thơ tiên đoán những chuyện tương lai, nhất là về những chiến trận hoặc tai họa thiên nhiên sắp xảy ra.




Những Tiên Ðoán Của Nostradamus

Những lời tiên đoán của Nostradamus còn gọi là "Thế Kỷ" (The Centuries) được phát hành qua nhiều đợt trong suốt nhiều năm. Tập thơ này gồm khoảng 1000 bài thơ tứ tuyệt (4 câu). Tựa đề Thế Kỷ được đặt ra sau khi ông chết. Tựa đề nguyên thủy là: Những lời tiên tri của Michel Nostradamus.

Nostradamus cho rằng ông có thể tiên đoán sự việc tương lai được là nhờ hai yếu tố. Ðó là sự nghiên cứu của ông về thiên văn học và nhờ vào sự cảm nhận cao cả. Ông đã dày công nghiên cứu về sự chuyển vận của các hành tinh và những tương quan của các biến cố xảy ra trên trái đất. Ông còn cho rằng thần linh đã giúp ông hiểu được sự tương quan giữa hai yếu tố này.

Ông tìm ra sự cảm nhận này bằng nhiều cách định tâm, thường thì ông chú trọng về lửa và nước. Và vào những lúc định tâm vào đêm khuya, ông thường thấy và hiểu được những biến cố sẽ xảy ra trong tương lai gần cũng như xa.

Những lời tiên đoán của ông được viết qua thể thơ tứ tuyệt (4 câu) và thường thì rất là lộn xộn và khó hiểu. Những câu thơ này không ghi rõ địa điểm cũng như thời gian theo thứ tự.

Theo lời tựa ông viết rằng: những câu thơ này được ông cố tình viết ra có tính cách huyền bí. Ông lo ngại rằng nếu viết rõ ràng ra ông sẽ bị nhà cầm quyền đương thời khép án và tiêu hủy cuốn sách này nếu họ hiểu rõ. Ông cho rằng cuốn sách chỉ nhắm cho những người nào trong tương lai được giác ngộ mới hiểu được.

Ngày nay nhiều người tin rằng mình đã có khả năng giác ngộ và nếu giải đoán những câu thơ này đúng thì ta sẽ thấy rằng một số những lời tiên đoán này đã trở thành những biến cố đã thật sự xảy ra.



Tiên đoán của Nostradamus có đúng không?

Bắt đầu thời gian hiện đại, những người tin tưởng vào Nostradamus ghi chú hằng trăm sự kiện lịch sử cận đại đã đuợc Nostradamus "tiên đoán". Trong những lời tiên đoán này, có lẽ là lời tiên đoán về Adolf Hitler.


Nhiều người tin tưởng rằng Nostradamus đã tiên đoán đúng về về việc Hitler và Mussolini lên nắm quyền; cũng như sự xụp đổ của hai nhân vật này.


Ðây là bốn câu thơ trong tập "Century 2", đoạn 24:

Beasts ferocious with hunger will cross the rivers,
The greater part of the battlefield will be against Hister.
Into a cage of iron will the great one be drawn,
When the child of Germany observes nothing.

Chữ Hister theo các "tín đồ" của Nostradamus nhằm ám chỉ Hitler.

http://ptv5.vnt.us/anhdang/nhatky/25.jpg

Trong 4 câu thơ khác thì "lãnh tụ" này sanh ra tại miền tây Âu trong một gia đình nghèo (Trường hợp Hitler)...

Vấn đề ở đây là những lời tiên đoán của Nostradamus có tính chất huyền bí, khó hiểu nên sự giải thích cũng dựa theo ý riêng của từng người. Do đó người ta có thể uốn nắn ý nghĩa của chữ theo ý mình.

Ngoài ra những câu thơ tứ tuyệt này viết bằng tiếng Pháp cổ (thế Kỷ 16) nên tự nó đã rất khó hiểu đối với người thời nay.

Do đó những người không tin vào Nostradamus cho rằng sự giải thích nằm trong vấn đề thông dịch và trùng hợp ngẫu nhiên mà thôi.

Lý luận được để ý đến nhiều nhất là trong tập Centuries này, Nostradamus viết tất cả là một ngàn đoạn thơ 4 câu với ý nghĩa mập mờ, bí hiểm nên trong trường hợp có biến cố gì xảy ra cũng có thể có đoạn "hợp tình, hợp cảnh".





Chuyện về vụ September 11, 2001

Sau vụ hai tòa nhà World Trade Center bị bọn khủng bố phá xập, người ta lại moi Nostradamus ra mổ xẻ, phân tách...


http://ptv5.vnt.us/anhdang/nhatky/26.jpg

Dưới đây là bốn câu thơ được truyền đi bằng E-Mail khắp nước Mỹ nói về lời tiên đoán về biến cố này:

In the City of God there will be a great thunder,
Two Brothers torn apart by Chaos,
While the fortress endures, the great leader will succumb.
The third big war will begin when the big city is burning.

Two Brothers là hai tòa nhà Twin Towers

The big City là thành phố New York

Great Leader là Tổng Thống Bush

v.v....



Tuy nhiên khi so sánh lại thì bốn câu thơ này hoàn toàn không có trong tập tiên tri Centuries. Bốn câu thơ này hoàn toàn do một nhân vật nào đó tưởng tượng đặt ra gây "xì xào" cho vui.

Một trong những câu thơ giả mạo cũng được loan truyền rộng rãi như sau:

In the year of the new century and nine months,
From the sky will come a great King of Terror.
The sky will burn at forty-five degrees.
Fire approaches the great new city.


Chúng tôi xin kết thúc bài viết này bằng hai tứ tuyệt của Nostradamus. (Còn diễn dịch như thế nào thì tùy ý đọc giả)



Century 10, tứ tuyệt 72:

The year 1999 seven months
From the sky will come the great King of Terror.
To resuscitate the great king of the Mongols.
Before and after, Mars reigns by good luck.

Century 6, tứ tuyệt 97:

At forty-five degrees the sky will burn,
Fire to approach the great new city:
In an instant a great scattered flame will leap up,
When one will want to demand proof of the Normans.








Trang chủ diễn đàn Tìm kiếm Trợ giúp Ban điều hành & Trợ giúp & Trao đổi ( Có thể tranh luận ) - Cung cấp LINK cho chúng tôi - Các điều luật dành cho Poster - Hướng dẫn giúp đỡ vitsiter - Góp ý & Tranh luận Điểm sáng ( Bạn không được tranh luận ) - Danh nhân thế giới ---- Danh nhân việt nam - Sáng chế - Chiến tranh - Hình thành thế giới - Điều huyền bí - Không gian - Kinh tế - Đại dương - Tin học - Âm nhạc - Địa lý - Sinh học - Điện ảnh - Hàng không - Kỉ lục Guynét - Khảo cổ - Kỳ quan - Toán Học - Khoa Học - Y Học - Lịch sử - Hội Hoạ - Văn Hoá Tình cảm - Love - Truyện ( Một tí ngoài chủ đề to RELAX ) - Câu chuyện tình yêu vĩ đại - FUNNY STORY - Phương cách HACK LOVE - Truyện ngắn tình cảm - Những lá thư tình hay nhất thế giới - Ẩm Thực - Ăn Nhậu Toán Học - Danh nhân toán học - Lịch sử toán học - Các bài toán vượt thời gian

lsb_ha son
07-08-2003, 20:13
[center:e6d80af283]9. Joan of Arc [/center:e6d80af283]
[center:e6d80af283](1412-1431)[/center:e6d80af283]



Còn được gọi là: Maid of Orleans; Jeanne d'Arc; Jean D'arc; Jehanne Darc.

Joan of Arc sanh ngày 6/1/1412 là một trong năm người con của Jacques d'Arc và Isabelle Romee. Vào năm 13 tuổi cô đã được các Thánh sau đây truyền bảo cô phải tìm ra vua thật sự của nước Pháp và giúp ông này lấy lại cơ đồ: Thánh Margaret of Antioch, Thánh Catherine of Alexandria, và Thánh Michael the Archangel.

Vào đầu thế kỷ thứ 15, Anh quốc và dân Burgundy liên kết cai trị vùng đất mà hiện nay là nước Pháp. Vào tháng năm 1428 các vị Thánh xuất hiện truyền cho Joan phải tìm ra người thật sự là vua nước Pháp và giúp ông lấy lại ngai vàng.

Cầm lá cờ thêu chữ "Jesus, Mary", Joan dẫn đầu đoàn quân đánh giặc Anh từ trận này sang trận khác. Những chiến công của cô kéo dài từ 23 tháng hai 1429 cho đến 23 tháng 5 1430 đã giúp cho Charles VII giành lại được ngai vàng.
Sau đó cô bị người Burgundy bắt và bán cho người Anh với giá 10,000 francs. Cô bị người Anh đưa ra phiên tòa xử ép và bị kết án tử hình.

Cô bị đưa lên hỏa thiêu vào ngày 30-5-1431.

Năm 1456 (23 năm sau) vụ án được đưa ra xử lại và lần này cô được xử vô tội.

Ngày 16 tháng 5 năm 1920 Joan of Arc được Ðức Giáo Hoàng Benedict XV phong Thánh.

lsb_ha son
09-08-2003, 11:17
[center:384ebe9e9a]10. Picasso[/center:384ebe9e9a]
[center:384ebe9e9a](1881-1973)[/center:384ebe9e9a]
[center:384ebe9e9a]http://www.baobinhdinh.com.vn/564/2003/4/2946/images/chandungPICASSO.JPG
Danh họa Picasso[/center:384ebe9e9a]

Cách đây tròn 30 năm, ngày 8/4/1973, Đại danh hoạ Pablo Picasso đã qua đời tại Moigins (Pháp). Nhắc đến tên tuổi của Pablo Picsso không riêng giới mỹ thuật, những người yêu hội hoạ mà ngay cả những người dân bình thường trên thế giới cũng đều biết. Bởi vì, Pablo Picasso là một Đại danh hoạ - sứ giả của HOÀ BÌNH và TIẾN BỘ XÃ HỘI. Nhiều nhà nghiên cứu, nhà hoạt động xã hội đã dùng những ngôn từ đẹp nhất, hay nhất để ca ngợi nhà Đại danh hoạ: “Picasso - đứa con phi thường, ghê gớm của thế kỷ XX”, “Picasso - tia mặt trời không bao giờ tắt”, “Picasso - một vĩ nhân”…v.v…

Pablo Picasso sinh ngày 25/10/1881 tại Malaga - một miền đất phía Nam của Tây Ban Nha. Gia đình Picasso thuộc dòng dõi quý tộc. Cha của Picasso là ông Jose Ruiz Blaxco - một giáo sư dạy Mỹ thuật và mẹ là bà Maria Picasso Lopez, một phụ nữ dịu dàng, đảm đang. Theo truyền thống Tây Ban Nha, Picasso mang họ mẹ. Thừa hưởng “zen hội hoạ” của thân phụ, ngay từ niên thiếu, Picasso đã tỏ ra là một “thần đồng mỹ thuật”. Mới 3-4 tuổi Picasso đã biết vẽ và 5 tuổi đã vẽ khá nhiều tranh với một trí tưởng tượng kỳ lạ. Khoảng 7 tuổi Pablo đã được thân phụ dạy học môn hình hoạ. Năm 1895, mới 14 tuổi, Picasso đã thi đậu và Trường Cao đẳng Mỹ thuật Barcelona với kết quả điểm ưu. Thậm chí từng có giai thoại rằng: Thời gian của bài thi là 1 tháng nhưng Picasso chỉ làm trong 1 ngày. Mới học năm thứ nhất, Picasso đã tham gia Triển lãm Mỹ thuật thủ đô Madrid. Tại triển lãm, tác phẩm “ Khoa học và lòng nhân ái” của chàng hoạ sĩ trẻ Picasso đã được trao bằng danh dự. Sau đó, tại Triển lãm Mỹ thuật Malaga, tác phẩm trên đã đoạt Huy chương vàng. “Sự kiện” này đã làm cho Pablo Picasso nổi tiếng khắp Tây Ban Nha. Một năm sau (1897), Picasso trở thành sinh viên Học viện Hoàng gia Fernando. Tuy vậy, lối đào tạo kinh viện của Học viện Hoàng gia không làm hấp dẫn chàng sinh viên Picasso bằng “Âm vang Mỹ thuật” từ Paris (Pháp) - “Kinh đô” của nghệ thuật. Tháng 10/1899, Picasso sang Pháp và năm 1904, ông chính thức sống, sáng tác tại đây. Cũng chính tại Paris, tài năng của Picasso ngày càng phát triển và lan toả khắp thế giới.

http://www.baobinhdinh.com.vn/564/2003/4/2946/images/tranhcuaPICASSO1.JPG
Cô gái và quả cầu - Tranh của Picasso

Các nhà nghiên cứu nghệ thuật đã chia sự nghiệp sáng tác của Picasso làm 3 giai đoạn chính, gồm: Màu Lam (Blue Period), Màu Hồng (Rose Period) và Lập Thể (Cubisme). Giai đoạn Lam của Picasso diễn ra vào khoảng từ năm 1901-1904. Những bức tranh của Picasso giai đoạn này thường là gam “màu lạnh”, trầm buồn với hình ảnh “Những người cùng khổ” như: “Xẩm già khốn khổ”, “Chân dung một phụ nữ trẻ”, “Cuộc gặp gỡ”… Giai đoạn Hồng diễn ra từ khoảng năm 1904-1906, với những bức tranh vẽ về các nghệ sĩ xiếc, nhào lộn, nhất là hình tượng anh hề Arlequin. Giai đoạn Lập Thể bắt đầu từ năm 1907 với tác phẩm “Những cô gái ở Avignion” (Les Demoiselles). Đây là tác phẩm được coi là “quả bom” làm chấn động cả thành Paris và mở đầu cho một trào lưu nghệ thuật mới. Trong tranh, Picasso thể hiện 5 cô gái đứng, ngồi, xoay chuyển. Song, 5 cô gái không còn mềm mại, duyên dáng, lả lướt như tranh cổ điển, mà thay vào đó là những đường kỷ hà xộc xệch, góc cạnh. Toàn bộ những quy tắc về giải phẫu, phép viễn cận, quy luật ánh sáng, hài hoà… của hội hoạ cổ điển đều bị Picasso khước từ, loại bỏ. Kể từ đây, cùng với Braque, Picasso đã đưa Trường phái Lập Thể lên tột đỉnh vinh quang và tạo nên tiếng vang chưa từng có trong lịch sử Mỹ thuật thế giới.

Thực ra, việc phân chia từng giai đoạn sáng tác của Picasso cũng phần nào khiên cưỡng, máy móc. Bởi vì, Picasso là một thiên tài hội hoạ. Ông đã từng nghiên cứu, thử nghiệm khá nhiều phong cách, trường phái, như: Cổ điển, Hiện Thực, Biểu Hiện, Linh Cảm, Siêu Thực… Và, khi đạt đến đỉnh cao ở mỗi trường phái, phong cách, Picasso lại từ bỏ cái cũ để đi tìm “những chân trời mới” của nghệ thuật. Không chỉ là một hoạ sĩ tài hoa, Picasso còn là một nhà điêu khắc, nhà đồ hoạ, thợ đồ gốm… Điều đáng nói, cũng như hội hoạ ngay cả ở những lĩnh vực trên Picasso cũng tỏ ra xuất sắc. Ông chính là người đầu tiên thực hiện tác phẩm điêu khắc bằng phương pháp ghép nối các chất liệu, thay vì chạm, khắc, tạc hay đổ khuôn truyền thống. Thậm chí, ngay cả ở lĩnh vực minh hoạ, hiếm có hoạ sĩ nào như Picasso minh hoạ nhiều sách và để lại dấu ấn thiên tài của mình trong “những tác phẩm nhỏ nhặt”.

Không chỉ là một Đại danh hoạ, Pablo Picasso còn là chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi cho HOÀ BÌNH,TỰ DO và TIẾN BỘ XÃ HỘI. Bằng tài năng và trí tuệ của mình, Picasso luôn đứng về phía nhân dân lao động, những người cùng khổ và đấu tranh chống lại áp bức, bất công, chống lại chủ nghĩa phát xít, đế quốc. Năm 1937, tại Paris diễn ra một Triển lãm Quốc tế. Picasso được đặt vẽ cho gian hàng của Tây Ban Nha. Từ sự kiện phát xít Đức ném bom huỷ diệt thị trấn Guernicacủa xứ Basque quê hương ông ngày 26/4/1937, Picasso vô cùng đau đớn và căm thù. Ông lấy ngay “sự kiện Guernica” làm đề tài để thực hiện một bức tranh hoành tráng rộng tới 30 m2. Bằng ngôn ngữ của nghệ thuật Lập Thể và Biểu Tượng, Picasso đã thể hiện trong tác phẩm này hình tượng của những thiếu phụ bồng con gục ngã, những bàn tay chới với tuyệt vọng, những hình thể quằn quại như gào thét và đối lập lại là những cái đầu bò, thân ngựa quái gở, đang dày xéo, dẫm đạp lên những thân hình quằn quại…

Qua “Guernica”, Picasso tỏ rõ thái độ phỉ nhổ vào chiến tranh và dự báo một thảm cảnh mà bọn phát xít sẽ gây ra cho nhân loại. Sau đó, chính Picasso trở thành một chiến sĩ của lực lượng những người kháng chiến Pháp chống lại phát xít Đức. Năm 1944, Picasso trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Pháp. Ông tuyên bố: “Lý tưởng của những người cộng sản về một thế giới tươi đẹp phù hợp với nghệ thuật của tôi”. Kể từ đó, Picasso trở thành một trong những chiến sĩ - “Sứ giả hoà bình” tiêu biểu của thế giới. Bằng ngôn ngữ hội hoạ, Picasso tố cáo, lên án chiến tranh, ca ngợi hoà bình. Đối với Việt Nam, Đại danh hoạ Pablo Picasso có một tình cảm hết sức đặc biệt. Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc Việt Nam hoàn toàn thắng lợi. Picasso đã xúc động vẽ tặng nhân ta bức tranh “Chúc mừng hoà bình thắng lợi”. Tiếp đó, khi đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam, Picasso đã lên tiếng phản đối cuộc chiến tranh phi nghĩa và dùng ngôn ngữ hội hoạ để biểu thị tình cảm của mình đối với nhân Việt Nam. Đáng lưu ý, năm 1968, tại Hội nghị trí thức toàn Châu Âu, Đại danh hoạ Picasso đã trực tiếp lên diễn đàn cực lực phản đối cuộc xâm lược Việt Nam của Mỹ và kêu gọi: “Tất cả nghệ thuật hiện đại Châu Âu đứng về phía Việt Nam!”. Ngoài ra, Năm 1951, Picasso còn vẽ tác phẩm “Tàn sát ở Triều Tiên” - tố cáo cuộc chiến tranh ở Triều Tiên. Tiếp đó (1952), Picasso cho ra đời tác phẩm liên hoàn “Chiến tranh và Hoà bình”. Nhắc đến 2 tiếng HOÀ BÌNH, chắc hẳn mọi người yêu nghệ thuật trên thế giới đều biết đến loạt tranh vẽ chim hoà bình nổi tiếng của Picasso. Chim bồ câu - biểu tượng của HOÀ BÌNH là đề tài mà Picasso ấp ủ từ thời niên thiếu. Suốt nhiều năm, Picasso đã vẽ đi, vẽ lại hàng trăm bức tranh về chim bồ câu với loại đơn, đôi hoặc nhóm 3 con. Năm 1949, Đại Hội Hoà bình Thế giới tổ chức ở Roma (Italia). Tại Đại hội, tác phẩm “Chim bồ câu” của Picasso được chọn là Biểu tượng Hoà bình Thế giới.

30 năm đã trôi qua kể từ ngày Đại danh hoạ Pablo Picasso qua đời, song tên tuổi, sự nghiệp của ông vẫn sống mãi trong trái tim của hàng triệu người yêu nghệ thuật. Trong cuộc đời trường thọ của mình (92 tuổi), nhà danh hoạ đã để lại cho hậu thế và nền nghệ thuật thế giới một gia tài mỹ thuật khổng lồ với hàng vạn tác phẩm. Trong số này có 1.885 tranh sơn dầu, 15.000 bức đồ họa, 1.228 tác phẩm điêu khắc (100 tượng tròn), 3.222 tác phẩm gốm, 34.000 tranh minh hoạ lớn nhỏ… và một vài tập thơ. Suốt nhiều thập kỷ qua, đã có hàng ngàn tác phẩm nghiên cứu, văn học, điện ảnh… nói về sự nghiệp vĩ đại của Pablo Picasso. Riêng đối với nhân dân Việt Nam, Pablo Picasso không chỉ là một Đại danh hoạ - chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc, mà còn là “sứ giả của ” HOÀ BÌNH và TIẾN BỘ XÃ HỘI, là tia mặt trời không bao giờ tắt.

RanDuoiChuong
04-09-2003, 11:07
[center:432fbc52a7]11. Gagarin[/center:432fbc52a7]
Yuri Gagarin là nhà du hành vũ trụ đầu tiên của thế giới. 30 năm sau cái chết của người anh hùng này, một lý thuyết mới vừa được đưa ra, thách thức cả lý thuyết chính thống và không chính thống về vụ tại nạn

Gagarin nổi tiếng thế giới vào năm 1961 khi là người đầu tiên bay vào quỹ đạo trái đất. Một miệng núi lửa trên mặt trăng cũng mang tên vị anh hùng này. Igor Kuznetsov, cựu Đại tá người Nga, đã bác bỏ lý thuyết chính thức rằng Gagarin , 34 tuổi, chết vào ngày 27/3/1968 khi máy bay của ông va chạm với một khí cầu thời tiết tại vùng Vladimir, đông bắc Moscow.
Vào thời điểm đó, Kuznetsov là kỹ sư bảo dưỡng và sửa chữa vũ khí cho quân đội Nga. Ông cho biết buồng lái của chiếc máy bay Mig-15 ''không được bịt kín hoàn toàn khi Gagarin bắt đầu chuyến bay''. Ông cho biết Gagarin và phụ lái Vladimir Seryoguin ''có lẽ đã phát hiện'' ra cánh cửa chưa được bịt kín trong suốt chuyến bay và đã cố hạ cánh khẩn cấp theo thủ tục bay thời đó.

Khi tốc độ hạ cách của họ lên tới 140m/s, áp lực trong cabin có lẽ đã làm cho hai phi công bị ngất, dẫn tới vụ đâm máy bay. Lời cuối cùng của Gagarin trên chuyến bay định mệnh này là:''Tôi đã hoàn thành nhiệm vụ. Tôi đang trên đường trở về''. Vào năm 1975, Liên bang Xô viết thay đổi các quy tắc, hạn chế tốc độ hạ cách ở 50m/s.

Cái chết của Gagarin - xảy ra 7 năm sau khi ông bay vào quỹ đạo trái đất - đã làm dấy lên nhiều lý thuyết bởi người ta không thể tái hiện lại chi tiết của vụ tai nạn. Một số người cho rằng vị anh hùng này là nạn nhân của KGB trong khi số khác lại phỏng đoán ông bị người ngoài hành tinh bắt cóc.

LSB_Vô tình tiên tử
07-09-2003, 13:48
[center:d0ca82729f]12. Gabrielle Chanel [/center:d0ca82729f]
Đối với công chúng, Chanel là một phụ nữ trung niên, hay đội mũ, gương mặt lạnh, đôi mày cong với khoé miệng nghiêm nghị. ẩn dưới thành công vang dội, mấy ai biết, cả cuộc đời Chanel là sự thay đổi diệu kỳ pha lẫn... khắc nghiệt.

Chính những biến động trong cuộc sống đã tạo nên một Chanel độc đáo, gọt đẽo đời mình thành một biểu tượng thời trang duy nhất. Có nghĩa là, mọi người chỉ giống như bà thôi.

Chanel, người đàn bà thức thời và có khiếu kinh doanh

Cả quãng đời tuổi thơ của Chanel sống trong môi trường khắc nghiệt. 12 tuổi, bà được đưa vào trại trẻ mồ côi của các bà sơ. 18 tuổi, chuyển sang trường nội trú. Từ năm 1905 đến 1908, bà đi hát trong quán rượu ở Moulins, một thành phố lính.

Với thân hình mảnh mai, đôi mắt đen láy và sóng mũi cao thon, bà trở nên nổi bật và vang danh với cái tên Coco. Lúc ấy, Coco 25 tuổi. Tại đây, bà đã gặp người tình đầu tiên, Etienne Balsan, và chuyển đến sống cùng ông tại vùng ngoại ô Paris. Balsan rất mê ngựa. Vì thế, ông đã dẫn dắt Coco hòa nhập vào thế giới thể thao giàu có.

Sau khi mở một cửa hàng ở Paris, Coco có người tình mới là Arthur Capel, người thừa kế một mỏ than lớn. Chính Capel đã hỗ trợ tài chính, đưa bà đến phố Rue Cambon, nơi định hình cho thời trang Chanel sau này. Tại đây, bà bắt đầu thiết kế quần áo cho bản thân và các cô bạn gái. Thế là, con đường đi đến thế giới thời trang ngày càng mở rộng với Coco. Năm 1913, bà mở tiệm thời trang ở Deauville. Hai năm sau, Coco tiếp tục khai trương thêm một tiệm ở Biarritz. Sau chiến tranh, may mặc trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn, phục vụ tầng lớp khá giả. Cửa hàng của Chanel ngày càng phát đạt và là mục tiêu hành đầu của sự cạnh tranh khốc liệt.

Những thăng trầm trong cuộc đời Chanel

* Gabrielle Chanel sinh ngày 19 tháng 8 năm 1883 tại Saumur, Pháp. Mất ngày 10 tháng 1 năm 1971.
* Năm 1921, mở cửa hiệu tại số 31 phố Cambon và tung ra nước hoa đầu tiên của Chanel: Chanel No 5.
* Năm 1939, chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, trong 5 tòa nhà tại phố Cambon, chỉ có một cửa hàng tại số 31 còn mở cửa, tiếp tục kinh doanh phát đạt với các loại nước hoa và phụ trang như: túi xách, trang sức, kẹp tóc...

Với tình yêu và sự ủng hộ tài chính của Capel, cô gái trẻ làm mũ nón vững tâm theo đuổi hoài bão của mình: tiếp tục thiết kế phụ trang như: túi xách, nón, trang sức... Thế nhưng, đường đời thường không bằng phẳng. Năm 1919, Capel chết trong môt tai nạn xe hơi thảm khốc. Coco dồn tất cả nghị lực, cố vượt qua nỗi đau này. Bà dẹp bỏ mọi kỳ vọng vào hạnh phúc và lao vào kinh doanh. Phong cách đơn giản với những đường nét được tiết giảm đến mức thấp nhất đã khiến cho mẫu thiết kế của Chanel trường tồn với thời gian. Vì, theo bà, cái mặc quan trọng hơn món đồ được mặc.

Trải qua vô số mối tình với nhiều nhà quý tộc, nghệ sĩ nổi tiếng, các nhà thơ tài hoa... Cuối cùng, Chanel vẫn rơi vào cô đơn sau cái chết của người tình Paul Irbe, nhà thiết kế đồ gỗ, nữ trang và trang trí nội thất. Giàu có, nổi tiếng và chịu nhiều tổn thương, bà đóng cửa tiệm thời trang vào năm 1939.

Tưởng như mọi chuyện đã có thể chấm dứt nơi đây thì...

Chanel rời Pháp đến Thụy Sĩ, im lặng và chờ đợi, chứng kiến sự thành công của những người đàn ông như Dior, Cristobal, Balenciaga, Pierre Balman... 1953, thời khắc đã đến, dù lúc này bà đã trên 70 tuổi. Bộ sưu tập đầu tiên ở thời kỳ này không chỉ là sự quay trở lại, mà đó chính là sự tái sinh. Chậm rãi và chắc chắn, bộ máy Chanel lại chuyển động. Người sáng lập tạp chí Elle, Helène Lazareff, luôn ủng hộ nhiệt tình cho thời trang Chanel trong các trang báo của mình.

Mọi người nhanh chóng nhận ra hiện tượng Chanel. Họ thích thú và lao vào mua sắm. Không chỉ quần áo, bất cứ thứ gì mang nhãn hiệu Chanel đều được đón nhận cuồng nhiệt. Vào một ngày chủ nhật ảm đạm năm 1971, Chanel mất. Nhà may, xưởng thiết kế, phòng tiếp khách của bà đóng cửa trong gần một thập kỷ để tưởng niệm người sáng lập ra nó. Một lần nữa, thế giới Chanel lại rơi và tính lặng, thu mình chờ đợi thời cơ.

T.H

(Nguồn: VDCMedia)

LSB_Vô tình tiên tử
10-09-2003, 13:00
[center:97fd1fe000]13.Frederich Chopin - linh hồn của piano [/center:97fd1fe000]

Bệnh dịch tả lại hoành hành ở Paris, những người học trò cuối cùng của Chopin lần lượt rời Paris. Chopin đứng trên bờ vực thẳm khốn cùng và thiếu thốn. Chopin tự tay thiêu huỷ rất nhiều bản thảo của mình. Ông còn định đốt cả bản sonate bất hủ viết cho đàn violoncello.

Nǎm 1849, một người bạn của ông, bà bá tước Potocka đến bên giường nhạc sĩ thiên tài đang hấp hối và hát cho ông nghe những bài ca của Mozart. Trong di chúc của mình, nhạc sĩ thiên tài người Ba Lan cầu mong được chôn cất ở nghĩa địa Chalaser, còn trái tim thì đưa về tổ quốc Ba Lan xa xôi của mình. Lời nguyện ước ấy của Frederich Chopin đã được toại nguyện.

Frederich Chopin sinh ở Balan, cha là người Pháp, mẹ là người Ba Lan. Con người Chopin chính là sự hòa trộn giữa tính cách Slavơ và tâm hồn La tinh. Những giai đệu dân ca, những vũ khúc thôn dã thấm vào dòng sữa mẹ nuôi dưỡng cậu bé, nhà soạn nhạc thiên tài tương lai không chỉ của riêng đất nước Ba Lan. Đó là những tố chất làm nên một thiên tài âm nhạc thuần khiết, đôn hậu, mãnh liệt mà da diết.

Khi còn nhỏ, cậu bé Chopin đã tự kê ghế ngồi trước cây đàn piano. Khúc nhạc đầu tiên của cậu là một khúc ứng tác. Lớn lên một chút, Chopin học nhạc dưới sự chỉ dẫn của giáo sư Voisech Gipnew. Nǎm lên 7, sáng tác đầu lên của Chopin là một bản polonaise. Đó là một trong những giai điệu dân ca quen thuộc của người nông dân Ba Lan chân chất và sôi nổi. Giai điệu ấy thấm vào trong máu Chopin từ khi còn bé.

"Các quy tắc sinh ra là để bác bỏ"

Nǎm lên 9 tuổi, Chopin đã nổi tiếng là một nghệ sĩ piano tài nǎng trong các buổi biểu diễn trước những người hâm mộ và có phần sùng bái. Nǎm Chopin 14 tuổi, giáo sư Voisech Gipnew thú nhận rằng ông "không còn gì để dạy cho cậu bé thiên tài". Giáo sư nhận xét: "Đối với một thiên tài lớn, các quy tắc được sinh ra là để bác bỏ". Chopin chính là con người như thế. Sau đó, Chopin được giới thiệu đến học nhạc sĩ sáng tác nổi tiếng Guizep Enxne.

Nǎm 15 tuổi, Frederich Chopin đã rong ruổi trên khắp đất nước Ba Lan. Cậu bé vừa biểu diễn, vừa quan sát, học hỏi và lắng nghe, thu lượm các làn điệu dân ca. Âm nhạc các miền đất, vùng quê thấm dần vào cậu bé. Nǎm 1826, vừa tròn 16 tuổi, Chopin vào học trường cao đẳng âm nhạc. Nǎm 18 tuổi, Chopin đã sáng tác hai bản rondo cho đàn piano. Trong chuyến đến thủ đô Viên biểu diễn lần đầu tiên liền trong hai buổi, cả kinh đô âm nhạc châu Âu nồng nhiệt đón tiếp và ngưỡng mộ tài nǎng của nhạc sĩ trẻ thiên tài trên cây đàn piano với một sức cuốn hút kỳ diệu. Từ Viên, Chopin tiếp tục hành trình lưu diễn ở Dresden (Đức).

Vừa tròn tuổi 20, chàng thanh niên lòng tràn ngập tình yêu quê hương, phải từ giã tổ quốc Ba Lan để ra đi. Đó là nǎm 1830, Chopin mang theo bên mình nắm đất quê hương đựng trong một chiếc cốc bằng bạc. Trước khi rời Tổ quốc, Chopin chơi bản concerto giọng Mi thứ như một lời vĩnh biệt người thân, bạn bè để sang sinh sống ở Pháp, quê hương của cha mình. Ông đến Paris đúng vào thời kỳ rực rỡ nhất của chủ nghĩa lãng mạn. Tại đây ông gặp Liszt, nghệ sĩ chơi piano điêu luyện người Hung và nhà thơ vĩ đại người Đức Hainơ. Ngay lập tức, Chopin trở thành thần tượng trong các phòng nhạc của giới quý tộc và quyền quý. Đây cũng là nơi những tâm hồn nhạy cảm, ngây ngất khi được nghe những bản polonaise bất hủ hoặc những điệu vũ nhạc marzuka của Chopin.

@Nhà thơ trên cây đàn Piano...

Thời đó, người ta gọi Chopin là nhà thơ - nhạc sĩ điêu luyện trên cây đàn piano đầy uy quyền. Hơn thế, ông còn là người luôn tìm tòi, khám phá những tính nǎng tiềm ẩn của nhạc cụ này. Khi biểu diễn piano, ông thường có một người thợ đàn để cân chỉnh kỹ lưỡng từng sợi dây, từng nốt nhạc.

Nǎm 1836, Chopin gặp nữ vǎn sĩ George Sain. Thế là bắt đầu một cuộc tình kéo dài suốt 10 nǎm ròng rã. Hai người trải qua những ngày hè cháy bỏng yêu đương ở Nohan, miền Trung nước Pháp. Giai điệu dào dạt, da diết, tràn đầy tình yêu cuộc sống, thiên nhiên và con người trong bản concerto giọng Si giáng thứ được ông ấp ủ vào mùa hè cháy bỏng tình yêu này. Sau khi từ Malorca trở về, Chopin đã hoàn thành tác phẩm tuyệt vời này. Toàn bộ bản concerto chứa chan nỗi khát khao, lòng nhiệt tình như ngọn lửa rực cháy. Tính chất mạnh bạo khác thường trong kết cấu các chương của bản concerto mà Chopin sử dụng để hợp nhất thành một thể thống nhất gồm 4 phần, dường như tương phản nhau. Bản nhạc khiến những người đương thời quen với thể loại này cũng phải sửng sốt. Mỗi chương có một cuộc sống riêng đầy rạo rực nhưng đều thấm đẫm một thứ tình cảm tràn trề. Đó là cảm giác về một cuộc đấu tranh cǎng thẳng, mãnh liệt. Ngay hợp âm đầu lên đã báo hiệu điều đó. Đồng thời những nét nhạc tương phản dữ dội lại hết sức hợp lý. Những giai điệu chậm rãi lại ch̗



đầy ý nghĩa và tuyệt đối. Chính George Sain, đã nhận xét: "Bản concerto tuyệt đẹp và nghe đau đớn như xé ruột. "Chương 2 với những hồi ức xiết bao sung sướng và xa xôi, khiến cho giai điệu tươi sáng ở đoạn giữa phần schetzo. Chương 3 trở lại giai điệu này và sau đó, gần như ở phần cuối âm nhạc lại ngoái nhìn một lần nữa bức tranh phong cảnh thanh bình thời ấu thơ, niên thiếu. Tuyệt vọng, lo lắng và buồn rầu, những tình cảm đó: Chopin không bao giờ thể hiện trong âm nhạc, mặc dù những nǎm đó. Chopin mắc bệnh lao. Nhạc sĩ người Đức Mendellesson đã từng thốt lên: "Chopin là cả một lò lửa. Ông nung nóng chảy tất cả những gì mà cuộc sống ban cho. Và ông ấy đã rút ra từ đó kho báu hết sức quý giá".

Linh hồn của giai điệu âm nhạc dân gian

Suốt cả mùa đông hai nǎm 1838 - 1839, George Sain đưa ông đến đảo Balearet - vùng Malorca. Nàng hy vọng rằng với sóng gió, nắng biển và bầu trời trong xanh, Chopin sẽ sớm khỏi bệnh, song vô vọng. Thời gian này, Chopin đã sáng tác 25 bản prelude và các bản nhạc marzurka... Nǎm 1843, nhạc sĩ Liszt đến Vacsava, thủ đô Ba Lan biểu diễn. Khi trở về Paris, nghe Chopin biểu diễn khúc phóng túng giọng Fa thứ, Liszt hết sức thán phục và nói: "Khác với Christopher Columb, cậu đã phát hiện ra, không phải một thế giới mà là nhiều thế giới".

Thời gian Chopin mắc bệnh nặng, ông thay đổi nhiều, sức khỏe giảm sút, yếu đi rất nhanh. Nǎm 1844, khi vào tuổi 34, Chopin sáng tác bản polonaise gịong Fa giáng thứ. Đó là bản polonaise ảm đạm nhất trong số các bản polonaise nổi tiếng của ông. Giới phê bình âm nhạc thế giới đặt tên là "Hành khúc tang lễ". Tác phẩm súc tích, toát lên nỗi đau thương vô hạn. Song, âm hưởng của khúc nhạc cũng gọi lên trong lòng người niềm xúc động sâu thẳm, nuôi dưỡng tinh thần và dấn bước đi lên, vượt qua mất mát đau thương. Bản nhạc không có đoạn kết hân hoan. Nhưng các bản nhạc marzuka của Chopin mới thực sự là những tác phẩm có chỗ đứng và giá trị khó sánh được. Thực ra, mỗi bản nhạc trong thể loại này đáng giá bằng một bản concerto hoặc sonate. Thậm chí khi tác phẩm khép lại thì cùng lúc mở ra cả một thế giới âm nhạc đồ sộ. Đôi khi người ta ví nó như những bản giao hưởng tầm cỡ.

Những bản marzuka của Frederich Chopin thực sự là những "bức tranh" xinh xắn, những bức hoa bằng âm thanh mỹ lệ. Mỗi bản nhạc chứa đầy sắc màu rực rỡ, biến đổi lung linh, muôn màu mà giới phê bình âm nhạc đương đại đánh giá là cuốn "Bách khoa toàn thư" âm nhạc về những tình cảm của con người. Đặc biệt, thể loại étude, trước thời của Chopin vốn là những "bài tập" cho người nghệ sĩ luyện kỹ thuật trên cây đàn piano, nhưng đến khi qua bàn tay kỳ diệu của Chopin, hầu hết các bản étude đã trở thành những tác phẩm âm nhac đích thực. Giá trị của chúng có thể sánh ngang bất cứ thể loại âm nhạc nào, trước đó và sau này.

Trái tim nằm trong lòng Đất Mẹ

Những nǎm sống ở Paris cho đến ngày cuối đời, đối với Chopin là những nǎm tháng dài dằng dặc. Nhất là những ngày mùa thu và đông giá lạnh, khi dịch cúm hoành hành dữ dội. Nǎm 1845, khi Chopin 38 tuổi, sau 17 nǎm sống ở Paris, ông quyết định chuyển sang sống ở Luân Đôn. Âm nhạc của ông lập tức được người dân Anh quốc trân trọng đón nhận và yêu thích. Công chúng ở xứ sở sương mù cảm nhận những bản nhạc viết cho đàn piano của nhạc sĩ thiên tài Ba Lan như những dòng suối tuôn trào không bao giờ cạn. Sống giữa thủ đô nước Anh ảm đạm, ẩm ướt và khó chịu, nhưng Chopin vẫn phải vừa dạy đàn piano, vừa biểu diễn để kiếm sống. Quả thật ở đây, ông không làm sao có cảm hứng mà sáng tác nổi một dòng nhạc dù là nhỏ nhất. Trái tim ông vẫn hằng mơ về Paris, về những cánh rừng, những ngày hè chan hòa ánh nắng. Nhất là lòng ông không sao nguôi ngoai nỗi nhớ về chuỗi ngày sống tràn đầy yêu thương với bạn bè và những người thân thiết. Cuối cùng, nỗi mong nhớ Paris đã buộc nhạc sĩ rời bỏ Luân Đôn, vĩnh viễn không bao giờ trở lại đất nước ảm đạm, dầy dặc sương mù, luôn thiếu ánh mặt trời và những nụ cưới.

Trở lại nước Pháp, nhưng Chopin vẫn không sao quên được nỗi lo sợ bị chôn sống luôn ám ảnh tâm tri. Amadeus Mozart mất nǎm 36 tuổi; Franz Schubert chết sớm hơn, vào tuổi 31. Còn Ludwig Van Beethoven cuộc sống kéo dài hơn 50 nǎm, nhưng những nǎm cuối đời đối với nhạc sĩ thiên tài thật nặng nề, khủng khiếp. Ông chiến đấu với bệnh điếc cùng những nỗi bất hạnh triền miên. Còn Johan S.Bach, mặc dù sống đến già nhưng cuộc sống hoàn toàn cách biệt với thế giới bởi mắt hoàn toàn bị mù. Frederich Chopin thường bị ám ảnh trước những số phận tài danh, bạc mệnh ấy. Những ngày cuối đời, ông sống ở Paris hoàn toàn cô đơn, cách biệt. Bản polonaise cuối cùng của nhạc sĩ chính là lời từ biệt cuộc đời. Bản nhạc này toát lên những cảm xúc mỏng manh, nhẹ nhàng, tựa như một hơi thở, một làn gió.

T.H (st)

LSB_Vô tình tiên tử
17-09-2003, 11:18
[center:bcdcb4b359]14. Victor Hugo[/center:bcdcb4b359]
* Nhân dịp kỷ niệm 200 nǎm ngày sinh đại vǎn hào Victor Hugo (1802 - 2002)

[center:bcdcb4b359]http://ezines.vdcmedia.com/sacmauvanhoa/photos/smvh_512.JPG[/center:bcdcb4b359]
Victor Hugo (1802 - 1885), thiên tài thi vǎn Pháp thế kỷ 19. Ông đã để lại cho nền vǎn học Pháp và loài người một ngọn núi sừng sững những tác phẩm thi ca, tiểu thuyết, kịch, lý luận vǎn học, tuyên ngôn chính trị... là những đóng góp kiệt xuất vào nền vǎn hóa nhân loại.

Những tiểu thuyết đầu tay của Hugo là những cách miêu tả đầy tưởng tượng, phi hiện thực, những tình huống phi thường, những kết cấu bất ngờ, huyễn tưởng. Tuy nhiên ý tưởng chủ đạo trong các sáng tác của nhà vǎn luôn luôn là cái thiện phải chiến thắng cái ác.

Vào đêm trước những sự kiện cách mạng dân quyền nǎm 1830, Hugo viết cuốn tiểu thuyết "Ngày cuối cùng của người tử tù" (Dernier jour d'un condamné). Dưới hình thức nhật ký của phạm nhân, tác giả miêu tả một số phận bất hạnh bị kết án tử hình. Tiểu thuyết đã biểu hiện những suy nghĩ và rung cảm bi kịch của người sắp bị hành hình trong suốt những giờ phút cuối cùng của cuộc đời. Người đọc cảm nhận chất trữ tình và cảm xúc bồi hồi từ những trang viết đầy tính nhân vǎn. "Ngày cuối cùng của người tử tù" đã vẽ lên cảnh đời và tâm tư của những người bị xã hội ruồng bỏ, những người đi đày, những người đàn bà làm điếm, những kẻ hành khất, vô gia cư - không phải là những người vô nhân cách, những tội đồ mà là nạn nhân của chế độ xã hội bất công. Dẫn dắt người đọc từ cung điện nhà vua đến cuộc sống những người nghèo khổ, trên quảng trường, chợ búa, nhà tù, bệnh viện, nhà vǎn đã phát hiện nguyên nhân của tội phạm và đói nghèo.

Cuộc cách mạng nǎm 1830 chấm dứt chế độ quân chủ Bourbons ở Pháp. Tiểu thuyết lớn nhất "Nhà thờ Đức Bà Paris" (Notre Dame de Paris) của nhà vǎn giai đoạn này xuất hiện vào nǎm 1831. Nhà vǎn đã miêu tả nền vǎn hóa trung đại nước Pháp với đầy đủ tất cả những phong tục, tập quán, sinh hoạt, tín ngưỡng, nghệ thuật thời ấy, phản ánh ý tưởng thẩm mỹ và triết học của tác phẩm. Nhân vật trung tâm là cô vũ nữ tài hoa, không nhà Esméralda và người gù gác chuông nhà thờ Quasimodo. Nhà vǎn đã miêu tả cơn bão đang dấy lên trong lòng Quasimodo lúc ấy: "... Hắn ta tuyệt vời... cái gã bị bỏ rơi, côi cút đó. Hắn cảm thấy mình thật dũng mãnh, hắn nhìn thẳng vào một cái xã hội đã xua đuổi hắn, hắn nhìn vào tòa án, những con hổ đang nghiến rǎng, những quan tòa, những tên đao phủ cả sức mạnh của vua mà hắn là một người cùng khổ đã đập nát chúng nhờ vào ý Chúa".

Cho đến ngày nay, tác phẩm "Nhà thờ Đức Bà Paris" vẫn còn lan tỏa cái sức mạnh của nghệ thuật và lý tưởng thẩm mỹ của nó trong lòng nhân dân các dân tộc trên thế giới.

Trong lịch sử vǎn học châu Âu, Victor Hugo là nhà vǎn đầu tiên đã đưa nhân vật nghèo khổ, lang thang thành nhân vật trung tâm của tiểu thuyết. Giai đoạn sau cuộc cách mạng 1848, Victor Hugo đã đứng hẳn về phía nhân dân để bảo vệ thành quả cách mạng. Tháng 12/1851, nhà vǎn đã cùng nhân dân đứng lên chống lại cuộc đảo chính của Louis Bonaparte muốn phục hồi thời chuyên chế.

Thời kỳ bị đi đày, Victor Hugo đã sáng tác hàng loạt tác phẩm thơ và tiểu thuyết. Tập vǎn đả kích "Nhãi ranh Napoléon" (Le petit Napoléon) viết ở Bỉ, bí mật phát hành vào nước Pháp. Vào giai đoạn lịch sử đầy bão táp cách mạng và phản cách mạng này, Hugo đã viết bộ ba tác phẩm vǎn xuôi "Những người khốn khổ" (Les misérables), "Những người lao động ở biển" (Les travailleurs de la mer) và "Người cười" (L'homme qui rit).

Tiểu thuyết "Những người khốn khổ" đã được không những người đọc của Pháp, châu Âu thời đó mà suốt cả thế kỷ 20 cho đến ngày nay ngưỡng mộ như là một tác phẩm thể hiện lương tâm của loài người, khơi dậy trong tâm khảm con người những gì là tốt đẹp, cao cả nhất.

Tiểu thuyết "Những người lao động ở biển" viết về một vùng đất trên hòn đảo nhỏ mà chính nhà vǎn đã đến cư trú khi bị đi đày. Hugo đã vẽ lên nhân cách trung thực của người làm nghề đi biển, ngư dân Jiliat với tấm lòng cao thượng và ý chí dũng cảm chống lại thiên tai. Nhà vǎn đã miêu tả cử chỉ hào hiệp của Jiliat khi ông ta cứu con tàu bị đắm của ông già Litieri.

Cuốn tiểu thuyết "Người cười" được ra đời trong những tháng ngày cuối cùng xa tổ quốc (1869) của ông. Cuốn tiểu thuyết bức tranh câu chuyện nước Anh thời xa xưa. Với thủ pháp của chủ nghĩa lãng mạn, Hugo đã vạch trần tội ác bọn quí tộc, vua chúa, vẽ nên cái hố ngǎn cách khủng khiếp giữa giàu và nghèo, giữa những người nắm quyền lực và lớp dân đen.

Sau này vào giai đoạn lịch sử bão tố cách mạng Pháp, với sự kiện Paris công xã (1870) rồi chiến tranh Pháp - Phổ cùng nǎm ấy, khi quân đội Pháp bại trận, đế chế Napoléon đệ tam sụp đổ, Hugo miêu tả lại các sự kiện lịch sử đó trong cuốn "Nǎm khủng khiếp" (L'année terrible) và tiểu thuyết "Chín mươi ba" (Quatre vingt treize). Trong những cuốn truyện này nhà vǎn đã dựng nên bản bi hùng ca cách mạng và con đường đầy máu và nước mắt của những đứa con trung thành với đất nước và cùng một lúc Hugo cũng vẽ lên tương lai tươi đẹp của loài người.

Hai trǎm nǎm đã qua, nhưng với những kiệt tác thấm đẫm tính nhân vǎn cao cả của mình, trái tim nhân hậu của vǎn hào Pháp vĩ đại Victor Hugo vẫn mãi đập cùng loài người tiến bộ trên hành tinh chúng ta.

TD

LSB_Vô tình tiên tử
18-09-2003, 20:04
[center:3c568bb663]15. Giuseppe Verdi [/center:3c568bb663]

Hoạt động sáng tạo của nhà soạn nhạc thiên tài người ý, Giuseppe Verdi bao quát hơn nửa thế kỷ và gắn bó chặt chẽ với đời sống chính trị xã hội và vǎn hóa ý những nǎm 1840 - 1890. Bằng những sáng tác của mình, ông đã tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ý. Suốt nǎm 2001, nước ý, Pháp, Đức, A'o và một số nước châu Âu khác... đã có những chương trình biểu diễn "nhạc Verdi" để kỷ niệm 100 ngày mất của nhạc sĩ thiên tài Verdi, người được coi là chiến sĩ cách mạng, người phục vụ sự nghiệp đấu tranh của nhân dân ý bằng âm nhạc.

Sự nghiệp sáng tác của G.Verdi đánh dấu thời kỳ hưng thịnh nhất của nền ca kịch ý và những tác phẩm của ông chính là những thành tựu xuất sắc nhất của nền nghệ thuật hiện thực thế giới. Những sách báo viết về Verdi tuy nhiều nhưng phần lớn chỉ đề cập đến các tác phẩm trứ danh của ông, vì dường như khi còn sống, Verdi rất kín đáo và cuộc đời có nhiều bí ẩn.

Ông sinh nǎm 1813 ở Roncole, miền Bắc nước ý. Ngay từ nhỏ, ông được gia đình gửi lên Milan để học nhạc, nhưng dù có thiên tư âm nhạc, ông vẫn không được vào học ở Nhạc viện Milan, do kỳ thị giai cấp (gia đình ông buôn bán nhỏ). Sau đó, ông được chủ nhà hát Scala ở Milan thời ấy đỡ đầu, giúp cho học nhạc với các nhạc sĩ tự do ở Milan.

Ông có vợ là Margherita và 2 con, nhưng không may, cả ba đều chết sớm trong một tai nạn, khiến ông đau khổ một thời gian rất dài. Khi "vết thương lòng" đã lành, ông kết hôn với nữ ca sĩ nhạc thính phòng Giuseppina Strepponi rất nổi tiếng thời ấy.

Thời trẻ, ông đi rất nhiều nơi trên thế giới, gặp gỡ các nhạc sĩ ở Milan, Venise, Paris, Vienne..., nhưng về sau lại thích sống ở miền quê tại Sanh Agata để sáng tác. Khi ông mất vào nǎm 1901, ở Milan, người ta kể là có hơn 300.000 người dân Milan và các vùng phụ cận đến đưa tang ông. Còn ngày nay, hỏi bất cứ người dân ý nào về Verdi, họ cũng nói rằng đã thích nghe nhạc ông từ thuở ấu thơ, vì âm nhạc của ông chứa đựng hồn quê nước ý...

Có thể nói, các tác phẩm của Verdi trong những nǎm 1840 tràn ngập nguồn cảm hứng anh hùng cách mạng. Đặc biệt, những khuynh hướng hiện thực bộc lộ rõ nét trong những tác phẩm nhạc kịch của ông. Người ta thường nói, những giai điệu trong ca kịch của ông chính là những bài ca cách mạng. Bộ ba tác phẩm nhạc kịch "Rigoletto - la Traviata - le Trouvère" đã khẳng định những nguyên tắc của chủ nghĩa hiện thực trong nghệ thuật của Verdi. Còn với hai tác phẩm nhạc kịch giao hưởng vĩ đại Aida và Othello thì ông đã đạt đến đỉnh cao của tài nǎng nghệ thuật.

Tính sân khấu rõ ràng, sự sôi động của các màn, các cảnh, sự sắc bén của tính cách nhân vật, sự phong phú, sự dồi dào của giai điệu, tính màu sắc và sự truyền cảm của các bè hát, đó chính là những nét đặc biệt của âm nhạc Verdi, nhà soạn kịch âm nhạc vĩ đại của ý. Bằng việc kết hợp những đặc trưng truyền thống cùng sự dung cảm với cái mới, Verdi đã mở ra một chân trời mới cho trường phái ca kịch dân tộc.

Nhiều ca sĩ nhờ hát các ca nhạc kịch của Verdi mà trở nên nổi tiếng ở ý, như nữ ca sĩ Maria Callas, gốc người Hy Lạp và ngày nay là nữ ca sĩ Leontyne Price. Nữ ca sĩ này đạt đỉnh cao nghề nghiệp nhờ hát nhạc kịch "Aida" của Verdi.

Nǎm 2000 vừa qua, nữ nhạc sĩ vĩ cầm Vanessa Mae của Singapore cũng rất thành công với đĩa CD biểu diễn các tác phẩm của Verdi.

Các nhà làm sân khấu âm nhạc ý gọi nǎm 2001 này là "nǎm Verdi". Nhà hát La Scala ở Milan mùa hát kịch nǎm 2001 đều dành cho tác phẩm của Verdi. Nhân dân ý coi Verdi như một nhạc sĩ huyền thoại, một "anh hùng vǎn hóa" của quê hương họ, vì nhạc của ông, theo họ, gợi lên tình yêu quê hương tha thiết. ở Việt Nam, giới nhạc sĩ Việt Nam luôn tôn kính, khâm phục nhân cách và tài nǎng của ông và xem ông là tấm gương sáng của một nghệ sĩ, một chiến sĩ.


Những tác phẩm chính của Verdi

Các nhà phê bình âm nhạc châu Âu chia tác phẩm âm nhạc của Verdi ra làm 3 thời kỳ:

Thời kỳ đầu là thời kỳ mà chính Verdi gọi là "những nǎm nghèo khổ", với các tác phẩm như "Nhạc kịch Nabucco" (1842) và bộ ba tác phẩm nhạc kịch "Rigoletta - la Traviata - le Trouvère" (1851 - 1853)...

Thời kỳ thứ hai là thời kỳ những ca nhạc kịch đồ sộ như "Một vũ hội mặt nạ" (Un bai Masqué - 1859), "Sức mạnh của định mệnh" (La Force tiu Destin - 1867), "Don Carlos" (1867)...

Thời kỳ thứ ba là thời kỳ những nhạc kịch giao hưởng vĩ đại như "Aida" (1871), "Othello" (1887), "Falstaff" (1893)...

Tác phẩm của ông rất nhiều, chỉ riêng opéra đã có 24 tác phẩm. Ông viết liên tục trong hơn 40 nǎm.

Nǎm 1874, ông thu được thành công lớn với tác phẩm nhạc kinh cầu "Requiem" nổi tiếng.


Chiêu Dương

LSB_Doan cong tu
08-11-2003, 15:24
[center:13f169e2e2]16. Khổng Tử [/center:13f169e2e2]Trong lịch sử nhân loại, đặc biệt là trong lĩnh vực văn hoá - giáo dục xưa nay, có lẽ chưa có một người nào lại chiếm được một vị trí độc tôn, phi phàm như Đức Khổng Tử (551-479 TCN). Mặc dù ông sống cách chúng ta tới 25 thế kỷ, song lớp hậu thế ngàn năm sau ông, nhất là khoảng thời gian từ thế kỷ thứ 7 trở về sau (mở đầu bằng việc ra đời của triều đại nhà Đường ở Trung Quốc (618-907)), Khổng Tử đã được các tầng lớp đế vương và Nho giáo phương Đông như (Trung Quốc; Việt Nam; Triều Tiên...) tôn là "vạn thế sư biểu" (tấm gương sáng về người thầy của muôn đời). Địa vị của ông sánh ngang với Đức Thích ca Mầu ni của đạo Phật và Đức giáo tổ Lý Đam (của đạo Lão). Ngay cả khi thế chân kiềng của tam giáo Nho - Phật - Lão đã bị lung lay thì Nho giáo vẫn còn khá ổn định và vững chắc cho tới tận cuối thế kỷ 19.

Tương truyền Khổng Tử sinh ra ở đất Khúc Phụ, Sơn Đông thuộc nước Lỗ thời Xuân Thu Chiến Quốc (722-480 TCN). Lúc sinh ra có một cái bướu nhỏ trên đầu nên cha mẹ đặt tên là Khâu (Khâu trong tiếng Trung Quốc có nghĩa là gò đống), tên chữ là Trọng Ni. Khổng Tử được ba tuổi thì bố mất. Là người thông tuệ, lại lớn lên trong thời loạn lạc, các nước chư hầu luôn gây họa binh đao, tranh giành quyền bính, chiến tranh liên miên kéo dài đến hàng thế kỷ khiến trăm họ lầm than, điêu đứng. Khổng Tử ôm mộng kinh bang tế thế lập chí giúp nước cứu đời, thực thi những hoài bão của mình. Song tới nǎm 35 tuổi, Đức Khổng vẫn không được vua các nước chư hầu tin dùng, ông bèn trở về quê hương mở trường dạy học theo đúng lẽ xuất xứ của bậc đại quân tử "Tiến vi quan, đạt vi sư". Tài năng xuất chúng và đức độ sáng trong của ông đã có ảnh hưởng to lớn đến các kẻ sĩ đương thời. Học trò từ khắp nơi đều tìm đến ông để theo học. Họ kính cẩn gọi ông là tôn sư, các môn sinh đã có lúc lên tới 3000 người, một con số hiếm thấy trong lịch sử giáo dục thời cổ đại.

Khổng Tử có 4 năm làm quan tại nước Lỗ với các chức vụ: Đại tư khấu, Nhiếp tướng sự (tương đương với chức Thủ tướng). Nhưng vua Lỗ hoang dâm, mê đắm tửu sắc, không màng tới chính sự. Vì vậy, Khổng Tử đã nhìn thấy cái kết cục chẳng có gì tốt đẹp ở nhà vua, ông đã xin từ chức để dốc sức vào sự nghiệp dạy học và toàn tâm nghiên cứu, xác định lại các bộ sách đời trước và viết bộ Xuân Thu nổi tiếng. Hạt nhân tư tưởng của học thuyết do Khổng Tử đề xướng và suốt đời truyền bá trong các lớp môn sinh là NHÂN. Chữ NHÂN theo quan niệm của ông mang một ý rghĩa hết sức rộng lớn gắn bó chặt chẽ với đạo - đạo đức - lòng yêu thương con người, yêu thương vạn vật. Theo Khổng Tử, gốc của NHÂN là hiếu đễ (Hiếu là sự kính trọng của con cái đối với cha mẹ, đễ là lòng thương yêu, tôn kính của em đối với anh). NHÂN bao hàm cả hai mặt yêu và ghét phân minh, là lòng quan tâm, vị tha, xả thân vì người như chính Khổng Tử đã nói: "Theo ta, người có đức nhân là như thế này: Bản thân mình muốn đứng vững trong cuộc sống thì cũng nên giúp người khác đứng vững trong cuộc sống. Mọi việc đều có thể từ mình mà nghĩ đến người khác, có thể nói đó là biện pháp thực hiện đạo nhân (Luận ngữ - Ung dã).

Chữ NHÂN theo Khổng Tử còn là "Cái gì mình không muốn thì đừng gán cho người" (Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân). Để thực hiện được chữ NHÂN, Khổng Tử cho rằng con người ta phải có Lễ. Lễ là các quy phạm đạo đức hợp thành một hệ thống quy tắc xử thế, là phương thức để bậc quân tử đạt tới chữ NHÂN. Nhân là nội dung bao hàm và là mục đích của Lễ vậy. Trong suốt cuộc đời làm thầy của mình, bên cạnh việc dạy chữ, bao giờ Đức Khổng cũng chú trọng vào việc dạy người, đề cao thuyết đức trị, phản đối pháp trị. Theo ông, đức trị là đức độ của các ông quan thanh liêm và lễ giáo là cách giáo dục, quản lý Nhà nước của các bậc quân vương và các quan lại. Khổng Tử có lẽ cũng là người đầu tiên đưa ra khái niệm trách nhiệm và bổn phận, và suốt đời ông đã tuyên truyền, vận dụng nó vào việc giáo dục các sĩ tử. Ông ước ao, đặt kỳ vọng vào một xã hội lý tưởng mà "vua phải làm tròn phận sự của vua, bề tôi phải làm tròn phận sự của bề tôi, cha phải làm tròn phận sự của cha, con phải làm tròn phận sự của con". Tư tưởng, nội dung của học thuyết mà Khổng tử áp dụng vào giáo dục mang tính nhập thế và tích cực. Ông đề xướng thuyết tôn hiền (tôn trọng người hiền tài, có đức độ), mạnh dạn giao phó cho họ những trọng trách, bổ nhiệm những người có năng lực ra làm quan (nhiệm năng). Những tư tưởng ấy của Khổng Tử, trong bối cảnh rối ren của xã hội đương thời rất khó thực hiện, song đó cũng là những quan niệm và đóng góp quý báu. Chính từ cuộc đời gương mẫu và đầy trách nhiệm với đời, với người của ông, nhất là cách dạy chữ gắn bó với dạy người, đề cao sự học của ông mà các thế hệ phong kiến sau này ở phương Đông, các bậc vua chúa đều hết sức coi trọng đạo Nho do ông sáng lập, coi đạo Nho là rường cột trong việc củng cố và xây dựng thiết chế phong kiến.

Thời Khổng Tử đã đào tạo được hàng ngàn trò giỏi, trong đó có 72 người hiền (Thất thập nhị hiền) nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa. Một đời Khổng Tử đề cao việc học và chính ông cũng là tấm gương học tập không mệt mỏi. Ông cho rằng phàm là con người ai ai cũng phải học, vua phải học để làm vua, quan phải học để làm quan, dân phải học để làm dân. Đây là đóng góp hết sức căn bản của Đức Khổng Tử. Ngay cả trong thời đại ngày nay khi mà cánh cửa của nền kinh tế tri thức đang mở ra, hướng nhân loại vào kỷ nguyên tin học, kỷ nguyên khoa học kỹ thuật, khi mà việc học tập thường xuyên, suốt đời đã trở thành hiện thực. Nhớ Khổng Tử, chúng ta không chỉ nhớ một người thầy giáo vĩ đại, mà còn nhớ một nhà sư phạm có đóng góp lớn lao trong việc chỉnh lý hệ thống và viết sách giáo trình, giáo khoa nữa. Những trước tác vĩ đại do ông sưu tầm, hiệu đính như: Kinh thi, Kinh thư, Kinh nhạc, Kinh lễ, Kinh dịch đã trở thành những tác phẩm kinh điển của bao thế hệ Nho giáo. Ông lại viết bộ Kinh Xuân Thu, hợp lại thành bộ đại giáo khoa thư Lục kinh, về sau bộ Kinh nhạc bị thất truyền chỉ còn lại một chương (Thiểu) sáp nhập vài bộ lễ ký, vì thế hậu nho chỉ còn lại 5 kinh (ngũ kinh). Khổng Tử còn một bộ sách vĩ đại nữa là Luận ngữ - cuốn sách ghi chép những lời nói, những câu chuyện hàm nghĩa giáo huấn sâu xa của ông với các đệ tử, cùng với nhiều ý kiến có liên quan tới nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, đạo đức, văn học, triết học v.v...

Các tư tưởng và học thuyết về giáo dục của Khổng Tử về sau được các môn đệ tiếp tục kế thừa và phát triển và người có công đầu chính là Mạnh Tử (372-289 TCN) với học thuyết Nhân - Nghĩa đã trở thành "khuôn vàng thước ngọc" của các triều đại phong kiến phương Đông trong việc trị quốc an dân. Vì thế đạo Nho do Đức Khổng Tử sáng lập và Mạnh Tử kế tục còn được gọi là đạo Khổng - Mạnh.
st

Kim_xa_Lang_Quan
15-11-2003, 01:14
[center:018406d2da]17. Lý Bạch[/center:018406d2da]
[center:018406d2da]*** Sưu Tầm ***[/center:018406d2da]
[center:018406d2da]Lý Bạch (701 - 762)[/center:018406d2da]

Tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, sinh ở Tứ Xuyên (làng Thanh Liên, huyện Chương Minh, nay là huyện Miện Dương). Quê ông ở Cam Túc (huyện Thiên Thuỷ - tức Lũng Tây ngày xưa). Lý Bạch xuất thân trong một gia đình thương nhân giàu có. Lúc nhỏ học đạo, múa kiếm, học ca múa. Lớn lên thích giang hồ ngao du sơn thụy 25 tuổi "chống kiếm viễn du", đến núi Nga My ngắm trăng, ngâm thơ rồi xuôi Trường Giang qua Hồ Động Đình, lên Sơn Tây Sơn Đông cùng năm người bạn lên núi Thái Sơn "ẩm tửu hàm ca" (uống rượu ca hát), người đời gọi là Trúc khê lục dật (sáu người ẩn dật trong khe trúc). Sau đó được người bạn tiến cử với Đường Minh Hoàng, ông về kinh đô Tràng An ba năm, nhưng nhà vua chỉ dùng ông như một "văn nhân ngự dụng" nên bất mãn, bỏ đi ngao du sơn thủy. Đến Lạc Dương, gặp Đỗ Phủ kết làm bạn "vong niên" (bạn "quên tuổi tác", không coi trọng tuổi tác - Đỗ Phủ nhỏ hơn Lý Bạch 11 tuổi). Họ cùng Cao Thích vui chôi, thưởng trăng ngắm hoa, san bắn được nửa năm. Rồi ông lại tiếp tục chia tay Đỗ Phủ viễn du về phương Nam. Những năm cuối đời ông ẩn cư ở Lô Sơn. Tương truyền năm 61 tuổi ông đi chơi thuyền trên sông Thái Thạch, tỉnh An Huy, uống say, thấy trăng lung linh đáy nước, nhảy xuống ôm trăng mà chết. Nay còn Tróc nguyệt đài (Đài bắt trăng) ở huyện Đăng Đồ (An Huy) là địa điểm du lịch nổi tiếng. Người đời phong danh hiệu cho ông là Thi tiên (ông tiên trong làng thơ), Trích tiên (tiên giáng trần), Tửu trung tiên (ông tiên trong làng rượu)...

Khi ông mất, Lý Đăng Dương sưu tầm thơ ông. Theo đó thì nhà thơ làm khoảng 20,000 bài, nhưng ông không để tâm cất giữ nên nay chỉ còn khoảng 1,800 bài.

Thơ ông viết về mọi đủ mọi đề tài: vịnh cảnh, thưởng hoa, tình bạn, nỗi khổ đau của người dân, nỗi cay đắng của người vợ trẻ xa chồng (chinh phụ, thương phụ), của người cung nữ, nỗi cô đơn và bất lực trước vũ trụ vô cùng vô tận, nỗi cay đắng vì có tài mà không được dùng... Đề tài nào cũng có những bài tuyệt tác.


Đất nước Trung Hoa hiện lên tráng lệ dưới ngòi bút của ông. Sông Hoàng Hà cuồn cuộn chảy ra biển đông như một lực sĩ:

Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi
(Trương Tiến Tửu)

(Há chẳng thấy nước Hoàng Hà từ trời đổ xuống
Chảy tuột biển Đông chẳng quay về)
(Hãy cạn chén)

Sông Dương Tử (tức Trường Giang) đi vào thơ ông như giải lụa thắt ngang trời:

Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu
Yên hoa giang nguyệt há Dương Châu
Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu
(Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng)

Bạn từ lầu Hạc lên đường
Giữa mùa hoa khói châu Dương xuôi dòng
Bóng buồm đã khuất bầu không
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời
(tại lầu Hoàng Hạc tiễn bạn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng)

Thác Hương Lô được miêu tả như sông Ngân Hà tuột khỏi mây:

Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên.
Phi lưu trực há tam thiên xích,
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
(Vọng Lư Sơn Bộc Bố)

Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,
Xa trông dòng thác trước sông này :
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
(Xa ngắm thác Hương Lô)

Tả cảnh thiên nhiên mà tráng lệ như thế, rõ ràng tác giả đã yêu quê hương, đất nước biết nhường nào. Lòng yêu nước ở Lý Bạch chính là bắt nguồn từ lòng yêu sông núi quê hương vậy.

Bài tứ tuyệt thể hiện nỗi lòng nhớ quê hương da diết của ông là bài Tĩnh dạ tư (Trăn trở trong đêm thanh vắng), một bài thơ mà không người Trung Quốc tha phương cầu thực nào không thuộc lòng:

Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sơn.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.

Đầu giường ánh trăng rọi,
Mặt đất như phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
(Tương Như dịch)

Chính vì lòng yêu quê hương, đất nước mà Lý Bạch có lòng đồng cảm sâu sắc với số phận của nhân dân - những người chăm bón vun trồng cho vườn hoa đất nước. Nếu Đỗ Phủ do u65c đời chìm ngập trong khói lửa loạn ly, do cảm hứng trách nhiệm của một nhà Nho mà chủ yếu nói đến số phận đẫm máu và nước mắt của nhân dân thì Lý Bạch do sống chủ yếu trong thời thịnh vượng của nhà Đường, lại do khát khao cái đẹp, cái bay bổng diệu kỳ của một nhà thơ lãng mạn mà ca ng75i vẻ đẹp của người phụ nữ và nói đến những trăn trở thầm kín của họ. Bất kể đối tượng xã hội nào, nếu là người đẹp, một vẻ đẹp đầy nữ tính đều tạo nên nguồn cảm hứng mạnh cho nhà thơ. Bài "Thái liên khúc" (khúc hát hái sen) miêu tả cô gái hái sen thoắt ẩn thoắt hiện giữa một không gian đầy hoa, hoa trên đầm sen, hoa dưới nước. Mấy cô thôn nữ đã hiện về như những nàng tiên giáng trần. Ba bài Thanh bình điệu" tả vẻ đẹp của nàng Dương quý phi thật mê hồn. Nhưng điều cần nói là trong mắt Lý Bạch, Dương quý phi không hiện lên với vẻ đẹp kiêu sa của một cung phi mà chỉ là một người đẹp trong suốt và ẻo lả. Ta nhớ lời thơ của ông:

Nước trong sẽ nở hoa sen
Thiên nhiên là đẹp chớ nên vẽ vời

Bởi vậy, lòng đồng cảm của ông dành cho phụ nữ là lòng đồng cảm với phái đẹp và cũng là phái yếu. Ông hiểu thấu nỗi trăn trở đầy nữ tính của họ. Bài "Xuân tứ" nói đến nỗi tê tái của người vợ trẻ có chồng tiễn biệt nơi biên cương:

Cỏ Yên vừa nhú tơ xanh
Dâu Tần đã rũ lá cành xum xuê
Khi chàng tưởng nhớ ngày về,
Chính là lúc thiếp tái tê cõi lòng
Gió xuân đâu biết cho cùng,
Cớ chi len lỏi vào trong màn là?
(Cảm xúc mùa xuân)

Cái cảm xúc "gió động màn" của người vợ trẻ phòng không gối chiếc ấy, chỉ có người trong cuộc mới có. Chứng tỏ nhà thơ am hiểu sâu sắc nhân vật trữ tình của mình. Cũng như vậy, Tý dạ Ngô Ca nói đến nỗi niềm của người phụ nữ giặt áo bông khi gió heo may về để kịp gửi cho người chinh chiến phương xa. Trường can hành nói đến nỗi sầu bi của người thương phụ, chồng đi xa, lại vì đồng tiền lời mà coi khinh ly biệt (Thương nhân trọng lợi khinh ly biệt). Ngọc giai oán, Vương Chiêu Quân... lại bày tỏ nỗi lòng đồng cảm với cung nữ...

Tóm lại chủ nghĩa nhân đạo ở mỗi nhà thơ lại có biểu hiện khác nhau. Ở Lý Bạch, một nhà thơ phóng khoáng bay bổng, ít chịu ảnh hưởng cho Nho gia mà nhiều hơn là Đạo gia và Du hiệp, thì lòng đồng cảm với cái đẹp, sự xót xa trước cái đẹp bị vùi dập, bị chà đạp lại là biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa nhân đạo của nhà thơ.

Nhưng trong xã hội xưa, chò dù vào thời kỳ thịnh vượng nhất của nhà Đường, bất công ngang trái vẫn là hiện tượng phổ biến. Bất công ấy đổ lên đầu nhà thơ. Ông ôm ấp chí lớn, muốn làm "con cá vắt ngang biển" (hoành hải ngư), muốn "chém sạch cá kình cá nghê, khơi trong dòng Lạc Thủy (Tặng Trương Tương Cảo), nhưng ông không khỏi thất vọng. Ông nói: "Tôi vốn không bỏ đời mà đời bỏ tôi). Có tài mà không được dùng, có chí mà không nơi thi thố, tâm hồn đa cảm mà bất lực trước xã hội. Điều đó tạo nên những vần thơ u uẩn bất đắc chí của ông. Hàng loạt bài như Hành lộ nan (Đường đời khó khăn), Trương tiến tửu (Hãy cạn chén), Nguyệt hạ độc chước 2 bài (Một mình uống rượu dưới trăng) đã bộc bạch tâm sự ấy. Có lúc ông mượn rượu để giải sầu:

Đời người đắc ý cứ say đi
Trăng suông chén trống để mà chi

Nhưng rồi cái buồn vẫn đeo đẳng, biến thành phẫn uất:

Rút dao chém nước, nước vẫn chảy
Cất chén tiêu sầu, sầu vẫn sầu


Trăng và rượu, tiên và kiếm kết hợp trong tâm tư đầy mâu thuẫn của nhà thơ. Thực trạng ấy khiến có lúc ông buông thả, hành lạc, nhưng chung quy vẫn là tinh thần tiến thủ, vì cái đẹp, vì cuộc sống vẫn quán xuyến tư tưởng nhà thơ.

Ở Việt Nam, tứ thơ mạnh mẽ, say mê của Lý Bạch ảnh hưởng nhiều đến Chinh phụ ngâm, thơ Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ. Nhưng cũng không ít người chịu ảnh hưởng mặt buông thả, hành lạc trong thơ ông, tiêu biểu là Vũ Hoàng Chương.

(trích Đại cương văn hóa phương Đông)

bagiai
17-06-2004, 19:24
Ơ hơ,
Hôm nọ bagiai lang thang trên net có câu được "Centuries" của Nostradamus, không ngờ người ta suy ra được lắm thứ thế. Bagiai đọc thì chỉ thấy rức đầu chẳng hiểu gì cả. :))