PDA

View Full Version : Về miền đất võ


Tiêu Diêu Du
27-08-2004, 17:57
Tại hạ là người Bình Định , thấy mọi người ở đây bàn luận nhiều về môn võ của quê hương tại hạ rất cảm khái . Nhân MaiPhiLong có hỏi và được đọc bài của tieuhoavinh tại hạ mạn phép được thu thập và tổng hợp 1 số thông tin , với " tham vọng " giới thiệu cho mọi người được biết , được hiểu hơn , và được cảm nhận nhiều hơn về môn võ cổ truyền này .
Tại hạ sẽ dùng nguồn tư liệu chủ yếu của trang báo BĐ .Về Lịch sử phát triển sẽ chọn lọc những nét khái quát nhất , bài của tieuhoavinh đã có những thông tin tương đối về các chặng đường rồi , mời mọi người xem lại , tại hạ chỉ bổ sung thêm 1 số thôi . Còn bài này chủ yếu giới thiệu nhiều về võ đạo , võ lý , các môn phái , các đặc trưng ,các câu chuyện được truyền tụng ...
Tại hạ thật sự ko có thời gian để sắp xếp , với lại nguồn tư liệu cũng hơi lộn xộn , nhiều phần chưa được hoàn thiện cần phải chờ nên trong phạm vi hạn hẹp này , vấn đề trật tự sắp xếp sẽ không rõ ràng , sáng sủa cho lắm , mọi người thông cảm .

Nên nhớ , đây chỉ là 1 bài giới thiệu khái quát và trọng tâm vẫn là những điều tập trung cho việc tạo 1 không khí chân thực , gần gũi , dễ hiểu hơn , dễ hình dung hơn về miền đất võ .
Mong mọi người chiếu cố bỏ qua những thiếu sót

*** <Tặng huynh đài 5 điểm cho việc tập hợp, sắp xếp các nguồn tư liệu rồi đánh máy để tạo nên chủ đề này.>

Tiêu Diêu Du
27-08-2004, 18:00
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA VÕ THUẬT BÌNH ĐỊNH

Võ cổ truyền Bình Định được hình thành trên nền tảng của võ cổ truyền các dân tộc Việt Nam, được đúc kết, tập hợp, hệ thống, chắt lọc và sáng tạo qua các giai đoạn lịch sử, phù hợp với yêu cầu và trình độ phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội, với sự mở rộng quan hệ giao lưu, trong đó có sự hoàn thiện các kỹ năng, kỹ thuật, thể lực, tư duy và sự tiếp cận nền khoa học tiên tiến của loài người.

Với xu thế phát triển của dân tộc và thời đại, võ cổ truyền Bình Định cũng được từng bước nâng lên từ thấp đến cao, từ võ bản năng để tự vệ là chủ yếu với những thế võ, miếng võ đơn giản, riêng lẻ để dần dần hình thành các chiêu thức, các bài võ, các bài binh khí để truyền bá trong nhân dân, nhất là trong lực lượng vũ trang, trong thanh thiếu niên, học sinh, nhanh chóng thống nhất các nội dung và hình thức của võ cổ truyền Bình Định. Chính những bài thiệu được phát hiện tại các vùng đất võ ở Bình Định đã góp phần làm cơ sở lý luận trong việc xác định quá trình hình thành và phát triển võ cổ truyền Bình Định.

Đặc biệt, có những bài thiệu đã mất gốc từ lâu không còn lưu hành trong dân gian, nay đã tìm lại được để bổ sung vào kho tàng võ học Bình Định; đồng thời qua các tư liệu cổ vừa phát hiện sẽ làm cơ sở xác định lại một số từ ngữ do quá trình truyền khẩu từ đời này sang đời khác bị sai lệch, nay có điều kiện hiệu chỉnh lại cho đúng với nguyên bản ban đầu, giúp cho các nhà nghiên cứu, người dạy võ điều chỉnh lại một số động tác, tư thế phù hợp với bài thiệu gốc, tạo cơ sở khoa học cho việc thống nhất các bài võ, các bài binh khí trong tương lai không xa. Ông cha ta thường nói "văn biển, võ rừng". Văn học không bao giờ hết, võ học không bao giờ cạn. Văn mà không có võ là văn nhu, võ mà không có văn là võ biền (võ rừng). Cho nên, một con người toàn diện phải là con người văn võ song toàn, giỏi võ mà không nắm được võ lý thì là "võ tặc", chỉ biết đánh nhau, trộm cướp mà không biết mục đích của võ là gì? Võ phục vụ cho ai?

Thời nhà Tây Sơn, Nguyễn Huệ là một trong những người có công đúc kết các dòng võ trong cả nước để xây dựng nên một dòng võ đặc sắc, độc đáo là võ cổ truyền Bình Định, và đã rút ra những kinh nghiệm thực tế sinh động với các quan điểm, phương châm từ vị thế khó khăn có thể đánh thắng đối phương ở vị thế thuận lợi hơn:

Yếu có thể đánh mạnh

Thấp có thể đánh cao

Nhỏ có thể đánh lớn

Ít có thể đánh nhiều

Mỗi bài võ ở thời kỳ này phải bao gồm đủ các phần cơ bản về lời thiệu và động tác đi liền nhau, đây là vấn đề vừa có tính nguyên tắc, vừa có tính thực tiễn để hình thành dòng võ cổ truyền Bình Định.

Tiêu Diêu Du
27-08-2004, 18:04
1 SỐ ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN
Võ cổ truyền Bình Định có nội dung vô cùng phong phú, đa dạng, mang đậm sắc thái độc đáo, tạo nên những nét đặc trưng của vùng đất được mệnh danh là cái "nôi" của võ cổ truyền các dân tộc Việt Nam.

Trước hết, được hình thành do các yếu tố địa lý, tự nhiên, kinh tế, xã hội và sự giao lưu văn hóa cùng với sự hội nhập của các dòng võ, hay nói cách khác đặc điểm lịch sử, bối cảnh xã hội và quá trình hình thành, phát triển võ cổ truyền của dân tộc đã tạo nên dòng võ cổ truyền Bình Định, bao gồm các lĩnh vực: võ lý, võ đạo, võ thuật, võ y, võ nhạc, võ phục... Chính những đặc điểm và các yếu tố đó hình thành nên các đặc trưng và nội dung cơ bản của võ cổ truyền Bình Định.

Võ cổ truyền Bình Định bao gồm nhiều đặc trưng, dưới đây là 3 đặc trưng cơ bản:

* Đặc trưng thứ 1: Mang tính quần chúng và tính chiến đấu sâu sắc

Có thể nói tính quần chúng và tính chiến đấu trong võ thuật là một thuộc tính chung, song đối với võ cổ truyền Bình Định nó còn mang ý nghĩa chính trị, xã hội và giá trị thực tiễn hết sức sâu sắc, trở thành máu thịt và niềm tự hào của người dân Bình Định từ đời này nối tiếp đời khác, đặc biệt là mỗi khi có họa ngoại xâm, mọi người từ già, trẻ, trai, gái, ai nấy đều hăng hái luyện tập võ nghệ, đầu quân giết giặc, lập công. Điều đó được thể hiện rõ nét trong câu ca dao:

Ai về Bình Định mà coi

Con gái Bình Định bỏ roi đi quyền

Từ xa xưa, ở vùng đất Bình Định, việc luyện rèn võ nghệ được coi là sự tự hào của gia đình, dòng họ, có nhiều nơi cả làng cùng học võ, cụ thể hơn là để giữ thân, giữ nhà, giữ của và là tiêu chí được người khác thán phục kính nể. Chính vì vậy nên không chỉ có đấng nam nhi, mà ngay cả phái yếu cũng theo đời cung, kiếm để khi "giặc đến nhà đàn bà cũng đánh".

Tiên biểu nhất là dưới thời Tây Sơn và giai đoạn chống thực dân Pháp. Võ Bình Định được sử dụng như giấy thông hành, là một tiêu chuẩn quan trọng để trở thành nghĩa quân Tây Sơn. Thực tế đã chứng minh trong lịch sử chiến đấu chống ngoại xâm..., nhiều đội quân thiện chiến, võ nghệ cao cường, binh hùng, tướng mạnh nhưng đều bị quân đội Tây Sơn tiêu diệt, mà vũ khí lúc bấy giờ là võ thuật phối hợp cùng các binh khí sở trường của tổ tiên truyền lại.

* Đặc trưng thứ 2: Thường sử dụng bộ ngựa "Túc bất ly địa"
Bộ ngựa này thường di chuyển theo đồ hình bát quái, quyền bông trực chỉ (tay thường đánh thẳng) và vận hành theo huyết âm-dương ngũ hành.
Bộ ngựa di chuyển một cách vững chắc (ví như nền móng của ngôi nhà) nhưng không có nghĩa lúc nào cũng chôn chặt đôi chân hoặc di chuyển không hở mặt đất, mà luôn có sự biến đổi, tiếp cận, thích nghi và khi cần thiết mới dồn trọng lực ở đôi chân, nên khi đứng thì như "hòn đá tảng". Ngược lại lúc di chuyển thì lại linh hoạt, nhanh nhạy, biến hóa khôn lường và hoạt động ở mọi địa hình, mọi tư thế một cách nhẹ nhàng uyển chuyển, cơ động như "chiếc lá bay".
Còn về phần các chiêu thức, đòn thế mang tính đặc trưng của võ cổ truyền Bình Định thì có rất nhiều phương cách, miếng đánh, thế đánh độc đáo, nhưng rõ nét hơn hết, có lẽ phải đề cập đến các bộ pháp: bộ "đội" (thường dùng ngựa cực nhạy và sử dụng cả vai lẫn đầu để nhanh chóng áp sát đội vào vùng hạ bộ đối phương); bộ "hốt" (thường dùng thế đánh lừa đối phương và dùng ngựa cực nhanh, chính xác tiếp cận hốt đối phương quăng ra xa); bộ "liệng" (chủ yếu dùng bộ ngựa phối hợp với bộ tay gài ngựa và đánh đối phương té nhào xuống đất).
Đây là một số đòn thế cực kỳ nguy hiểm, có tính quyết định nhằm nhanh chóng triệt hạ hay quật ngã đối phương cao, to, khỏe hơn mình gấp nhiều lần trong nháy mắt.
* Đặc trưng thứ 3: Có lời thiệu

Mỗi bài quyền, mỗi bài binh khí của võ cổ truyền Bình Định đều có lời thiệu cụ thể, có tên gọi từng bài võ cụ thể tương ứng và phù hợp với từng động tác, từng thế võ trong đó có một số bài quyền, bài binh khí còn có cả hình vẽ minh họa từng cách đánh, cách di chuyển, có lý giải, phân tích sự lợi hại của từng động tác võ. Bài thiệu thường được viết theo dạng văn xuôi ngắn, hoặc thể thơ, ca dao dân gian để giúp cho người dạy và người học thống nhất, dễ đọc, dễ nhớ, dễ hiểu nhằm thực hiện một cách đồng bộ, chuẩn xác giữa lý thuyết với thực hành (nếu một khi thực hành động tác mà quên thì đọc lại lời thiệu sẽ nhớ và hiểu được ngay).

Thời gian qua, ngành TDTT Bình Định đã "mò kim đáy biển" sưu tầm, phát hiện thêm được trên 100 bài võ ở các địa phương trong tỉnh, trong đó có hơn phân nửa có lời thiệu, được viết rất công phu, cẩn trọng, trên loại giấy cổ (giấy gió) bằng chữ Hán-Nôm,

Đây chính là những tư liệu "giáo khoa" cực kỳ quý giá của tổ tiên để lại cho các thế hệ hôm nay và mai sau khỏi mất gốc, đồng thời cũng để khẳng định và minh chứng: võ cổ truyền Bình Định thuộc nền võ dân tộc mới có bài thiệu, nhất là những bài thiệu được tìm thấy trên đất Bình Định

Tiêu Diêu Du
27-08-2004, 18:09
THỜI KÌ ĐẤT NƯỚC THỐNG NHẤT ( bổ sung thêm ,các giai đoạn trước mời mọi người xem lại )
Ngay sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, cùng với việc hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng lại đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm khôi phục các giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc, trong đó có võ cổ truyền Bình Định.

Từ đây, nhiều lò võ, nhiều môn phái được ngành Thể dục Thể thao và chính quyền địa phương khuyến khích mở trường dạy võ.

Đầu năm 1976, lần đầu tiên sau ngày đất nước thống nhất, Phòng Thể dục Thể thao tỉnh Bình Định (nay là Sở Thể dục Thể thao) đã tổ chức đấu "Võ đài" tại sân vận động Quy Nhơn thu hút đông đảo nhân dân, cán bộ, và trở thành ngày Hội võ thuật trên quê hương "Miền đất võ". Đó cũng phát pháo đầu tiên châm ngòi cho phong trào võ cổ truyền Bình Định phát triển rộng khắp từ thành thị đến nông thôn. Nhiều võ sư, võ sĩ đã hào hứng tham gia các đợt huấn luyện võ thuật cho dân quân du kích, cho thanh thiếu niên để bảo vệ xóm làng và làm nòng cốt trong việc giữ gìn an ninh trật tự, tiễu trừ trộm cướp, tệ nạn xã hội trong những ngày đầu mới giải phóng.

Nhiều địa phương có phong trào võ thuật phát triển khá mạnh như An Nhơn, Tuy Phước, Tây Sơn, Quy Nhơn... Năm 1979, huyện An Nhơn thành lập CLB võ thuật đầu tiên của cả tỉnh, quy tụ trên 500 võ sư, huấn luyện viên, võ sĩ, ở mỗi xã đều có 3-5 võ đường hoạt động, mỗi tháng tổ chức 4-6 đợt thi đấu hoặc biểu diễn võ thuật (tổ chức luân phiên ở các thôn, xã trong huyện). Đội tuyển võ thuật của huyện thường xuyên có trên 50 võ sĩ xuất sắc, sẵn sàng làm nhiệm vụ ở tỉnh và tham gia thi đấu ở các tỉnh bạn. Cùng với An Nhơn, các huyện Tuy Phước, Tây Sơn, Phù Cát và TP Quy Nhơn cũng đã xây dựng lực lượng, hình thành các CLB võ thuật, tập hợp các võ sư, võ sĩ mở rộng quy mô hoạt động.

Những năm 1980 đến 1990, phong trào tập luyện thi đấu và biểu diễn võ thuật phát triển mạnh mẽ trên địa bàn cả tỉnh, lực lượng võ sĩ không những đông về số lượng, thường xuyên có trên 10.000 võ sĩ tập luyện trong gần 150 võ đường và CLB, mà chất lượng cũng được nâng lên khá rõ rệt, bằng chứng là nhiều năm liền võ sĩ Bình Định đã chiếm ưu thế trên các võ đài toàn quốc và khu vực.

Song rất đáng tiếc những năm sau đó phong trào có phần chững lại nếu không muốn nói là có chiều hướng đi xuống do nhiều nguyên nhân chủ quan có, khách quan có. Nhưng dù gì đi nữa cũng không được để võ cổ truyền Bình Định bị mai một, bởi lẽ nó không chỉ là truyền thống thượng võ, là di sản văn hóa quý giá của dân tộc, mà còn là máu thịt của người dân "đất võ".

Từ những thúc bách đó, võ cổ truyền Bình Định lại được vực dậy nhờ vào những nỗ lực và tâm huyết của toàn ngành Thể dục Thể thao, của các võ sư, võ sĩ và sự tác động của các cấp, các địa phương, nhất là từ khi có Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; cộng với thành quả bước đầu của việc nghiên cứu, tiếp cận, nâng cấp công trình khoa học về lĩnh vực võ học trong phạm vi rộng, đã góp phần mang lại nguồn sinh khí mới, tạo ra hướng đi đúng đắn, khả năng tăng tiến của võ cổ truyền Bình Định trong tương lai.

Hiện nay, trên địa bàn toàn tỉnh đã có 10/11 huyện, thành phố thành lập chi hội võ cổ truyền với gần 100 phòng tập và CLB võ thuật cơ sở hoạt động. Ở tỉnh có Hội võ cổ truyền trực thuộc Liên đoàn võ thuật quản lý trên 80 võ sư, chuẩn võ sư, huấn luyện viên và thường xuyên có trên 1000 võ sinh được tổ chức đào tạo, huấn luyện trong các lớp nghiệp dư, chưa kể hàng vạn thanh thiếu niên, học sinh, lực lượng vũ trang tham gia tập luyện môn võ cổ truyền Bình Định. Những năm gần đây hệ thống tổ chức thi đấu võ thuật từ tỉnh đến cơ sở được xác lập và đưa vào chương trình thi đấu mang tính bắt buộc.

Hàng năm, ngoài việc tổ chức các giải vô địch, giải trẻ, tỉnh còn tổ chức các giải mở rộng, thi đấu giao hữu, các cuộc hội thi, hội diễn võ cổ truyền, tổ chức các đợt thi kiểm tra đẳng cấp, trọng tài giám định theo quy định của Liên đoàn võ cổ truyền Việt Nam, tổ chức lại các đội tuyển, dự tuyển, tuyển trẻ, tuyển năng khiếu và các vệ tinh ở các huyện trọng điểm, hướng dẫn các nội dung, chương trình huấn luyện thống nhất và phổ biến các bài thiệu. Ngoài ra, võ cổ truyền trong các nhà chùa như: Long Phước (Tuy Phước), Bích Liên, Thập Tháp (An Nhơn) đã đóng giữ vai trò không nhỏ trong việc bảo tồn, phát triển và đóng góp nhiều võ sĩ xuất sắc, mang lại thành tích cho tỉnh.

Nhìn trên diện rộng, võ cổ truyền Bình Định cũng đang phát triển khá vững chắc ở các tỉnh, thành phố phía Nam từ những năm đầu của thế kỷ XIX do các võ sư người Bình Định và người các tỉnh học võ Bình Định truyền dạy và bắt đầu "gieo mầm, nảy hạt" ở các tỉnh, thành phố phía Bắc. Đặc biệt là kể từ khi các võ sư, võ sĩ người Bình Định tập kết ra Bắc, tiêu biểu có võ sư Trần Hưng Quang (Phù Cát), Mai Huê Kỳ, Trương Cẩn (Tuy Phước), Dương Tại (Hoài Nhơn), Nguyễn Tiếp, Nguyễn Thiếp, con của võ sư nổi tiếng An Vinh - Bảy Lụt... và chính các võ sư này đã truyền bá võ cổ truyền Bình Định ở nhiều tỉnh, thành phố phía Bắc. Riêng võ sư Trần Hưng Quang là người đã gắn kết một cách nhuần nhuyễn giữa võ thuật với hát tuồng (hát bội) Bình Định (ông còn là nghệ sĩ ưu tú về lĩnh vực tuồng). Tính đến nay, ông đã đào tạo hàng ngàn môn sinh, trong đó có trên 50 người được phong đẳng cấp võ sư, chuẩn võ sư và huấn luyện viên, trực tiếp huấn luyện ở các tỉnh, thành phố phía Bắc.

Võ cổ truyền Bình Định không những phát triển trong tỉnh, trong nước mà đã bắt đầu vươn ra các nước và được người nước ngoài yêu thích, trân trọng. Từ khi Việt Nam quan hệ, giao lưu rộng rãi với các nước trên thế giới, võ cổ truyền Bình Định đã được các nước đặt quan hệ hợp tác, trao đổi, học tập thông qua các hoạt động đối ngoại về lĩnh vực thể dục, thể thao, thông qua Liên đoàn quốc tế võ Việt Nam ở nước ngoài, nhất là các nước ở khu vực châu Âu, châu Phi, châu Mỹ. Nhiều đoàn võ sư, võ sĩ, nhà nghiên cứu võ thuật của Pháp, Ý, Thụy Sĩ, Algieri, Mehico... đã đến nghiên cứu, tìm hiểu và học võ cổ truyền Bình Định. Nhiều võ sư người nước ngoài và võ sư gốc Việt đã và đang mở trường dạy võ cổ truyền Bình Định. Các môn sinh người nước ngoài đều mặc võ phục, thực hành tôn chỉ, môn quy của võ cổ truyền Bình Định một cách nghiêm túc, cụ thể như TP Milano (Italia) đã có trên 300 môn sinh ở các lứa tuổi, và các đối tượng như nhà khoa học, công chức, sinh viên, học sinh, thanh thiếu niên, nhi đồng theo học; ở Thụy Sĩ có trên 500 môn sinh, ở Algieri có trên 200 môn sinh, và đông nhất vẫn là ở Pháp thường xuyên có trên 2000 người theo học môn võ cổ truyền Bình Định trong các võ đường có đầy đủ phương tiện và được trang bị khá hiện đại.

Trong những năm qua, đã có 25 lượt các đoàn võ sư, võ sĩ người nước ngoài đến nghiên cứu, học tập võ cổ truyền Bình Định và Bình Định cũng đã cử nhiều võ sư, cán bộ, huấn luyện viên ra nước ngoài dự hội thảo, tham gia liên hoan võ quốc tế và truyền dạy võ cổ truyền Bình Định.

Đây chính là cơ hội để võ cổ truyền Bình Định mở rộng quan hệ quốc tế, qua đó giúp cho người nước ngoài hiểu thêm về quê hương " Miền đất võ", về con người Bình Định.

Tiêu Diêu Du
27-08-2004, 18:16
QUÁ TRÌNH GIAO LƯU ẢNH HƯỞNG VỚI VÕ THUẬT NƯỚC NGOÀI
Trong các dòng võ nước ngoài du nhập vào Việt Nam nói chung, Bình Định nói riêng bằng nhiều con đường, nhiều dạng khác nhau, thì dòng võ Thiếu Lâm Tự (Trung Hoa) là nổi bật nhất.

Những thương nhân người Hoa, những nghĩa sĩ của các tổ chức phản Thanh phục Minh như: Thiên Địa hội, Bạch Liên giáo, Trung Nghĩa đoàn, Nghĩa Hòa đoàn… khi đến Bình Định mua bán, mở trường dạy võ đã trao đổi, học hỏi và giao lưu với võ cổ truyền Bình Định. Tiêu biểu nhất là hai dòng họ Lý và họ Diệp.

Lần tìm về cội nguồn võ thuật Trung Hoa, người ta hay đề cập đến Bắc phái và Nam phái, lấy dòng sông Trường Giang làm ranh giới. Võ phái phía bắc như vùng Sơn Đông, Hà Bắc… thiên về sự nhanh nhẹn, dũng mãnh, đánh trong diện rộng và thoáng. Ngược lại, Nam phái thiên về sự kín đáo, gọn gàng, có âm hưởng của thuật khí công, đòn thế thường phát triển ngắn, chú trọng đến kỹ thuật nhào lộn, tránh né, phù hợp với địa thế hẹp trong phòng nhỏ, đường hẻm…

Trong cuốn "Lược khảo võ thuật Trung Hoa", nhà nghiên cứu Từ Triết Đông cho biết: "Nam phái có các phái võ tiêu biểu như Thái Cực quyền, Bát Quái quyền, Hình Ý quyền… Còn Bắc phái đứng đầu là Thiếu Lâm, sau đến Tra Quyền, Bát Phiên, Trường Quyền, Địa Đường, Bát Cực… Sau này các môn võ thường ảnh hưởng lẫn nhau nhưng vẫn còn có khái niệm Bắc phái, Nam phái trong cùng một môn phái như: Thiếu Lâm Bắc phái chú trọng về các đòn (cước); còn Thiếu Lâm Nam phái chủ yếu về các đòn tay (quyền) bởi vậy mới có câu "Nam quyền, Bắc cước".

Võ thuật Trung Hoa thật ra đã du nhập vào Bình Định khá sớm. Sự có mặt của các viên tướng võ nghệ cao cường như: Tập Đình, Lý Tài (người Trung Hoa) chiến đấu trong hàng ngũ quân Tây Sơn là một bằng chứng.

Từ nửa đầu thế kỷ XIX dòng họ Lý, đứng đầu là ông tổ Lý Hùng từ tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) tìm đến vùng đất Tuy Phước để sinh cơ lập nghiệp và mở trường dạy võ, sau đó lại dời đến vùng đất Đập Đá - An Nhơn. Sau đó, Lý Hùng qua đời, các con cháu từ Lý Xuân Mưu, Lý Văn Hân, Lý Xuân Kinh đến Lý Xuân Tạo, Lý Xuân Hỷ, Lý Thành Nhân… đều nối nghiệp võ và đã đào luyện hàng trăm võ sư, võ sĩ qua các thế hệ, trong đó có nhiều võ sĩ đạt thành tích vô địch quốc gia. Võ sư Lý Xuân Tạo là một trong những võ sư góp phần quan trọng để sáng lập Hội võ thuật năm 1972 ở Bình Định. Hiện nay, các võ sư dòng họ Lý tiếp tục đào tạo các võ sĩ, võ sinh góp phần xây dựng vững chắc cho phong trào võ thuật của huyện An Nhơn.

Tiếp theo sau dòng họ Lý có dòng họ Diệp từ Trung Quốc đến định cư buôn bán và mở trường dạy võ ở vùng An Thái (xã Nhơn Phúc, huyện An Nhơn). Đứng đầu là võ sư Diệp Trường Phát, tự Thoại Chi, tục danh Tàu Sáu. Ông sinh năm 1896 tại An Thái, Nhơn Phúc, cha là người Trung Hoa, mẹ là người Minh Hương.

Năm 13 tuổi ông được song thân cho về Trung Quốc học cả văn lẫn võ. Sau đó ông sang Hồng Kông học thêm võ nghệ. Sau 15 năm ông trở về An Thái, mở trường dạy võ và đã góp công đào tạo nhiều người nổi tiếng trong vùng như Chín Kỳ, Năm Tường, Phó Tuần Chẩn, Ba Phùng. Cùng các thế hệ tiếp theo có Quách Cang, Diệp Bảo Sanh (con ông Diệp Trường Phát), Tạ Cảnh Thâm…Võ sư Diệp Trường Phát và võ sư Hồ Nhu là hai cao thủ võ lâm lúc bấy giờ, đã nhiều lần gặp gỡ, trao đổi võ nghệ và kết quả cuối cùng phần thắng môn roi thường thuộc về Hồ Nhu, còn về quyền thuộc về Diệp Trường Phát.

Từ đó, Hồ Nhu mến phục tài của Diệp Trường Phát và đề tặng: "Thú vũ An Thái ngã vô song" (tức: Tay quyền An Thái không có hai). Và Diệp Trường Phát cũng rất kính nể đường roi tuyệt kỹ của Hồ Nhu nên tặng lại: "Đoản côn Thuận Truyền duy hữu chủ" (tức: Đòn roi Thuận Truyền chỉ có một).

Ngoài võ ra, Diệp Trường Phát còn là một lương y đã góp phần cùng các võ sư, danh y ở Bình Định thừa kế, sáng tạo nhiều bài thuốc võ gia truyền hoặc điều trị theo phương pháp bấm huyệt, xoa bóp không cần dùng thuốc.

Từ những năm đầu thế kỷ XX, vùng đất An Thái và xa hơn nữa là các huyện An Nhơn, Tây Sơn, Tuy Phước, phong trào võ nghệ đã phát triển khá mạnh, trong đó có một phần đóng góp không nhỏ của võ sư Diệp Trường Phát. Theo tiến sĩ Mai Văn Muôn (Phó chủ nhiệm Ủy ban TDTT): Công tâm mà xét, Tàu Sáu đã tiếp thu có chọn lọc tinh hoa võ thuật lâu đời của cả vùng rộng lớn An Thái - An Vinh - Thuận Truyền - Kiên Mỹ - Cảnh Hàng - Vân Sơn - Háo Lễ - Văn Quang - Nước Mặn - Hữu Phát - Kỳ Sơn… vì nó có cùng gốc gác là võ Bình Định - Tây Sơn nửa sau thế kỷ XVIII, góp phần hình thành hệ thống quyền thuật của môn phái khá chặt chẽ, được xây dựng dựa trên 4 bộ chính: Hổ quyền, Long quyền, Hầu quyền và Xà quyền. Trong đó, Hổ quyền và Long quyền thuộc Ngạnh công, được coi là nền tảng. Hầu quyền và Xà quyền thuộc Nhu công và Miên công, là phần xuất sắc cao diệu chỉ được truyền thụ khi đã luyện qua Hổ quyền và Long quyền.

Có thể nói đây là hai dòng họ tiêu biểu của các võ sư có gốc gác người Trung Quốc đến định cư ở Bình Định đã góp phần bồi đắp và làm phong phú thêm truyền thống võ cổ truyền Bình Định.

. Theo Bước đầu nghiên cứu nguồn gốc, đặc trưng võ cổ truyền Bình Định

(còn tiếp)

Tiêu Diêu Du
27-08-2004, 18:22
1 SỐ MÔN PHÁI TIÊU BIỂU
Nói đến võ cổ truyền Bình Định chắc hẳn không ai không một lần nghe nói đến các địa danh quen thuộc như: An Thái, An Vinh, Thuận Truyền... những nơi đã tụ hội và sản sinh ra các môn phái, các võ sư, võ sĩ lừng danh qua nhiều thế hệ và cũng chính là môn phái, các võ sư, võ sĩ ở nơi đây đã góp phần tô thắm và tạo dựng nên bức tranh hoành tráng của dòng võ cổ truyền Bình Định.

1. Môn phái tiêu biểu của vùng đất An Thái

Vùng đất này thuộc xã Nhơn Phúc, huyện An Nhơn (giáp ranh huyện Tây Sơn). Chính nơi đây một thời từng là cửa ngõ giao thương buôn bán, đông đúc, tiêu thụ hàng hóa nông, lâm, thổ sản nhờ thuyền bè đi lại dọc theo sông Côn hiền hòa, nối liền với các vùng phụ cận. Ở đây nổi tiếng các đặc sản như: Bún Song Thằn (Song Thần), tơ, lụa, nghề nhuộm the.

Đặc biệt kể từ khi có thầy Trương Văn Hiến từ đàng ngoài vào đây mở trường dạy văn, dạy võ ở thôn Thắng Công, nhiều sĩ phu yêu nước, trai, gái trong vùng đua nhau học võ. Trong số học trò của thầy giáo Hiến có ba anh em nhà Tây Sơn, đã tạo nên diện mạo mới ở vùng đất An Thái - Thắng Công, bên bờ hữu ngạn sông Côn, biến nơi đây thành trung tâm truyền bá võ học có ảnh hưởng rộng lớn trong vùng. Từ đó, xuất hiện nhiều võ sư nối tiếp nhau như: Lâm Hữu Phong, Lâm Đình Thọ (tức Hương Kiểm Lài), bà Sáu Sanh, Ba Phùng, Phó Tuần Chẩn, Chín Kỳ, Tám Lẽo, Diệp Trường Phát (Tàu Sáu)... trong đó tiêu biểu có môn phái dòng họ Lâm.

Môn phái này được hình thành và phát triển lâu đời, có ảnh hưởng lớn đến phong trào võ thuật ở vùng đất An Thái.

Đứng đầu môn phái là võ sư Lâm Hữu Phong, sinh năm 1855 tại thôn Thắng Công, xã Nhơn Phúc. Sinh thời, ông đã có công truyền bá và đào tạo nhiều võ sinh ưu tú và đặt tên cho võ đường của mình là võ đường Bình Sơn để khẳng định võ Bình Định - Tây Sơn. Trước khi qua đời ông đã truyền lại cho con là võ sư Lâm Đình Thọ (tức Hương Kiểm Lài), sinh năm 1895, và để nối nghiệp, ông Thọ cũng đã truyền nghề lại cho hai người con của mình là võ sư Lâm Ngọc Lài và võ sư Lâm Ngọc Phú. Hiện nay, ông Lâm Ngọc Phú vẫn tiếp bước ông cha mở trường dạy võ ngay trên mảnh đất giàu truyền thống thượng võ, góp phần bảo tồn, gìn giữ vốn quí của dân tộc.

Ngoài ra, đến đầu thế kỷ XVIII, người Hoa cũng tìm đến đây để định cư buôn bán và mở trường dạy võ, tiêu biểu có môn phái dòng họ Diệp (Diệp Trường Phát) tục danh thường gọi là Tàu Sáu, đã góp phần làm cho võ "Ta" và võ "Tàu" ở An Thái ngày thêm khởi sắc và phong phú. Sau này (vào khoảng năm 1925) lễ hội "Đỗ Giàn" ở đây cũng được tổ chức hàng năm vào ngày rằm tháng bảy âm lịch, tạo nên sự kích thích đua tài của các môn phái võ trong vùng. Đây cũng chính là lễ hội dân gian độc đáo riêng có của vùng đất An Thái.

2. Môn phái tiêu biểu của vùng đất An Vinh

An Vinh nằm bên bờ tả ngạn sông Côn, thuộc huyện Tây Sơn, đối diện với thị tứ An Thái ở bờ bên kia sông, quanh năm xanh mát, đất đai màu mỡ do phù sa của con sông Côn bồi đắp. Đời sống kinh tế có phần sung túc nên nạn cướp luôn đe dọa, nhiều người cần phải học võ, nhất là các nhà khá giả, địa chủ, phú hộ. Từ đó, các môn phái võ được ra đời, đứng đầu trong giới võ có võ sư: Nguyễn Ngạc (tức Hương Mục Ngạc), Khiển Phạm, Năm Nghĩa, Hương Kiểm Cáo (con trai Hương Mục Ngạc) đến Bảy Lụt, bà Tám Cảng, Đội Sẻ, Đinh Hề (Hương Kiểm Mỹ), Ba Thông, Tuần Sửu, Sáu Hà, Bốn Mỹ… đã cùng nhau tạo dựng được những thế mạnh của mình với những đường quyền hiểm hóc và được lưu truyền đến mãi ngày nay. Một trong những trụ cột của vùng đất An Vinh phải nói đến dòng họ Nguyễn (Nguyễn Ngạc). Ông sinh năm 1850 trong một gia đình có võ nghệ cao cường, chính ông là người đứng ra thành lập môn phái và chọn cho mình một hướng đi riêng. Từ nhỏ ông đã chuyên tâm nghiên cứu về môn quyền thuật, vì theo ông quan niệm: Quyền chính là cái gốc của võ, hơn nữa lúc bấy giờ ở đất Thuận Truyền có đường roi tuyệt kỹ của Hồ Nhu thì An Vinh phải bá chủ về quyền. Trong dân gian có câu: "Roi tiên, quyền tiếp" nhằm khẳng định sự lợi hại, mối quan hệ liên hoàn và hỗ tương của nó.

Môn phái này đã truyền thụ cho hàng trăm môn đệ ở khắp nơi. Sau khi ông Ngạc qua đời, các con cháu của ông lần lượt giữ vai trò chưởng môn và thu nhận nhiều môn sinh, gây được tiếng vang và có ảnh hưởng rộng lớn trong vùng, tiêu biểu có võ sư: Bảy Lụt, bà Tám Cảng, Chín Giác đến các con của Bảy Lụt như: Nguyễn Tiếp, Nguyễn Thiếp… đều là những võ sư nổi tiếng đã cùng dòng tộc vun đắp môn phái của mình ngày càng đơm hoa kết trái.

3. Môn phái tiêu biểu ở vùng đất Thuận Truyền

Vùng đất Thuận Truyền nằm cách An Vinh khoảng 15 km về phía Tây Bắc của huyện Tây Sơn (trước đây gọi là Tổng Thuận Truyền), ở phía đông thuộc làng Hòa Mỹ, đứng đầu là môn phái dòng họ Hồ (Hồ Triêm); ở phía tây thuộc làng Thuận Truyền đứng đầu có môn phái dòng họ Trần và ở phía bắc thuộc làng Mỹ Thạch có môn phái dòng họ Phan án ngữ.

Do điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, giáp ranh với vùng rừng núi (Núi Hòn Trưng, Núi Thơm), đất đai cằn cỗi, dân cư thưa thớt, nạn thú dữ, cướp bóc hoành hành, những người sống ở đây phải là những người biết và giỏi võ. Nhiều môn phái, nhiều võ sư, võ sĩ lần lượt xuất hiện, từ Hồ Triêm, Lê Thị Quỳnh Hà, Cai Quên cho đến Hồ Nhu, Xã Trấp, Hồ Cường (Cả Đan), Xã Nung… nhưng "bá chủ" vùng này vẫn là môn phái dòng họ Hồ. Đứng đầu là Hồ Triêm (Đốc Năm), sinh năm 1843, tại Hòa Mỹ, Tổng Thuận Truyền (nay là Bình Tân, Tây Sơn) đã cùng với vợ là bà Lê Thị Quỳnh Hà (sinh năm 1850), cả hai người đều rất giỏi cả văn lẫn võ, đặc biệt là bà Quỳnh Hà đã dày công khai sáng ra môn phái họ Hồ lừng lẫy một thời. Ông bà sinh ra được 10 người con đều theo nghiệp võ của cha và mẹ, trong đó có võ sư Hồ Nhu (con thứ 9 trong gia đình) tên thường gọi là Hồ Ngạnh - gọi theo tên con.

Ông Nhu có năng khiếu bẩm sinh, đặc biệt là môn roi nên sớm nổi tiếng về roi, không những trong tỉnh mà còn lan truyền đến các tỉnh lân cận. Ông thường sử dụng roi chiến (tề mi) đánh cả hai đầu. Đặc biệt roi Hồ Nhu thường đánh nghịch, lấy nghịch chế thuận, vận dụng triệt để phép âm-dương và khi bị đối phương tấn công thì không đỡ mà lượn theo ngọn roi của đối phương để trả đòn, để đánh hạ đối thủ. Khi nghe đến ngọn roi chiến "xuất quỷ, nhập thần" có một không hai của ông ai nấy đều thán phục. Sau này ông tiếp tục truyền lại cho con cháu và môn phái của mình từ Xã Nung, Xã Thọ, Bộ Lâm, Huỳnh Xuyến, Dư Đính, Hồ Cừu, Hồ Tuyền đến Lê Thành Phiên, Nguyễn Song Bá, Hồ Sừng… nhưng đến nay không một ai còn gìn giữ nguyên bản đường roi tuyệt kỹ của ông nữa. Ông Nhu sinh năm 1886 và mất ngày 6-2-1976.

Dân gian có câu:

Trai An Thái, gái An Vinh

Roi Thuận Truyền, quyền An Vinh

Cân truyền tụng này không phải là sự phân chia, cát cứ, hay đối nghịch hiềm khích giữa vùng này và vùng khác, giữa dòng tộc môn phái này với dòng tộc môn phái khác mà muốn nói lên tính quần chúng sâu sắc, võ nghệ không chỉ dành riêng cho đấng nam nhi mà ngay cả phái yếu cũng theo đời cung kiếm. Đồng thời khẳng định thế mạnh những nét độc đáo riêng của từng vùng, từng môn phái để rồi hòa quyện, bổ sung cho nhau, tạo thành sức mạnh tổng hợp, muôn màu muôn vẻ của võ cổ truyền Bình Định.


(còn tiếp , nếu tìm được thêm tư liệu tại hạ sẽ post sau )

Tiêu Diêu Du
27-08-2004, 18:29
1 SỐ DÒNG TỘC TIÊU BIỂU
Từ bao đời nay, vùng đất Bình Định được mệnh danh là "cái nôi" của nền võ học chân truyền Việt Nam. Nơi đây đã tụ hội và sản sinh ra bao lớp anh hùng, hào kiệt, võ sư, võ sĩ nổi tiếng, được truyền thụ từ đời này sang đời khác, góp phần khẳng định và đánh dấu bước ngoặt lịch sử các quá trình tạo dựng, kế thừa và phát triển dòng võ cổ truyền Bình Định.

Điểm xuất phát của nó chính là sự ra đời của các vùng đất võ như: An Vinh, An Thái, Thuận Truyền, vùng đất căn cứ địa của nghĩa quân Tây Sơn như: Ấp Tây Sơn, Tây Sơn thượng đạo, Tây Sơn hạ đạo, khu Trường võ, khu Gò kho, Thành Hoàng đế đến vùng núi Hoàng Trưng, vùng sông Côn, Truông Mây, thành Bình Định...

Ở mỗi vùng, mỗi địa danh đều có sự gắn kết, quần tụ và sản sinh ra các dòng tộc, các môn phái, các dân tộc, có nhiều võ sư, võ sĩ mà tên tuổi và sự nghiệp của họ mãi mãi gắn liền với truyền thống thượng võ của quê hương Bình Định.

Mỗi môn phái đều có đặc điểm riêng, có bàn thờ sư tổ, có quy định tuyển chọn môn sinh, và có các điều nên làm và không nên làm với môn sinh. Nội dung võ theo gia truyền được truyền dạy theo quy định của môn phái: môn gì được dạy rộng rãi, môn nào lưu truyền trong môn phái, môn gì không được dạy. Có những võ sư đến tận trước lúc qua đời mới chịu dạy đòn bí truyền cho con mình.

Những bài võ gia truyền từ đời này sang đời khác, tuy điều kiện lịch sử có đổi thay, có võ sư qua đời đột ngột không kịp truyền dạy cho con cháu, nhưng nhờ các gia phả bí truyền, các bài thiệu còn giữ lại mà môn phái tiếp tục phát triển. Tuy có động tác thiếu hoặc thừa, lời thiệu có khi thất lạc hoặc rách nát một số chữ, nhưng nói chung vẫn giữ được tính chất và sự độc đáo của võ cổ truyền Bình Định.

Càng về sau, nhất là từ năm 1930 trở lại đây, Bình Định lại xuất hiện thêm nhiều môn phái cổ truyền. Ngoài những bài võ gia truyền, các võ đường cạnh tranh với nhau, đua nhau dạy những đòn thế, cải tiến phương pháp giảng dạy với mục đích bảo vệ môn phái và "hạ đài" được đối phương. Lúc này, võ mang tính chất đối kháng, đánh nhau có kẻ thắng người thua (võ đài), nên mất dần đi tính chất của nó.

Sau đây là một số dòng tộc tiêu biểu:

1. Dòng tộc họ Trương

Ông tổ dòng họ Trương là Trương Đức Thường từ xứ Thanh Hà, Hải Dương vào khai sơn phá thạch ở vùng đất Tú Dương (thuộc xã Mỹ Hiệp, huyện Phù Mỹ, Bình Định) vào đầu thế kỷ thứ XVII (khoảng năm 1605). Sau đó dồn đến định cư ở thôn Phú Thiện, xã Mỹ Hòa, Phù Mỹ, Bình Định cho đến ngày nay.

Theo gia phả của dòng tộc để lại thì dòng họ này có nhiều người học giỏi, thi đỗ cử nhân, cả văn lẫn võ và hầu như đều theo nghiệp văn chương và nghiệp võ.

Các đời sau này có ông Trương Đức Huyên - tự Lương Thành, làm chức quan Câu Đương nước Đại Việt, sinh năm Ất Sửu, mất năm Ất Hơi, thọ 71 tuổi. Ông Huyên là ông nội của ông Trương Đức Giai, thi đậu cử nhân cùng một lúc cả văn lẫn võ và làm quan dưới triều Nguyễn Gia Miêu, sau đó đến ông Trương Đức Lân, Trương Trạch... đều đỗ cử nhân võ, trong đó ông Trương Trạch chính là thầy dạy võ cho ông Trương Thanh Đăng, sau này làm chưởng môn phái Sa Long Cương (một trong những môn phái có ảnh hưởng lớn ở Nam Bộ). Theo ông Trương Quang Miễn, tộc trưởng của tộc họ Trương và căn cứ bài vị thờ ông Trương Đức Giai tại từ đường, thì chính ông Giai là người biên soạn tập sách võ này trước khi thi đỗ cử nhân cả văn lẫn võ. Ngoài tập sách võ còn có cả gia phả ghi lại công đức và sự nghiệp của các thế hệ dòng họ Trương, nhưng đến nay đã thất lạc, chỉ còn lại phần đầu tập sách võ, gồm 26 trang trong đó chép 15 bài thiệu bằng chữ Hán, 2 bài thiệu bằng chữ Nôm còn các trang tiếp theo đã bị mất hoặc bị rách nát không còn thấy chữ. Các bài còn lại được viết theo thể thơ, được thờ cùng các bài vị của ông tổ dòng họ Trương và được dòng tộc trân trọng thờ tự, gìn giữ như một báu vật thiêng liêng trong đó có một số bài chưa truyền bá trong dân gian, cụ thể:

1. Ngũ thảo môn

2. Trực chỉ thảo

3. Ô du thảo

4. Quyền thảo

5. Đằng bài thảo

6. Siêu đao thảo (dài 8 câu, 54 chữ, chưa kể một số chữ bị rách mất)

7. Trường kiếm thảo

8. Tam thế đằng bài thảo

9. Siêu đao thảo (dài 18 câu, 74 chữ)

10. Long đao thảo (dài 11 câu, 77 chữ)

11. Long đao thảo (dài 8 câu, 56 chữ)

12. Song kiếm thảo

13. Song phũ thảo

14. Quyền thảo

15. Tam thế côn thảo

16. Trường thôn diễn quốc âm ca

17. Thập ngũ thế côn pháp

Trong số các bài thảo trên có một số bài trùng tên với các tư liệu đã sưu tầm và phát hiện ở các huyện trong tỉnh Bình Định. Điều đó cho thấy các bài thiệu phần nhiều đều xuất xứ từ các vùng đất có truyền thống võ thuật lâu đời của Bình Định, cụ thể như bài "Ngũ môn thảo", "Trực chỉ thảo", "Long đao thảo", "Ô du thảo"...

2. Dòng tộc họ Đinh
Ông Thủy tổ của dòng họ Đinh là Đinh Viết Hòe, sinh năm 1710 từ đất Ninh Bình phiêu bạt vào sinh cơ lập nghiệp tại ấp Thời Đôn (nay thuộc thôn Thanh Liêm, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, Bình Định) vào khoảng năm 1730 và lấy thêm vợ thứ (ông Hòe đã có vợ ở quê nhà) là bà Nguyễn Thị Quyền, sinh năm 1715 và sinh được 3 người con là Đinh Văn Diệm, Đinh Văn Nhưng, Đinh Văn Triêm.

Ông Đinh Văn Diệm thì theo nghiệp bút nghiên, còn ông Đinh Văn Nhưng thì lại theo đời cung kiếm.

Ông Nhưng đã cùng vợ mở trường dạy võ, học trò các nơi nghe tiếng ông đến xin học rất đông, trong số đó có 3 người tên là Thơm, Lữ và Dũng. Nhưng chỉ có Thơm (Hồ Thơm) là tướng mạo khác thường, trán cao, mũi thẳng, mắt sáng, mày dài, cằm vuông đi đứng uyển chuyển, hình vóc vạm vỡ, sức lực tiềm tàng, mạnh mẽ, trí tuệ thông lạ thường, học đâu nhớ đó, nên thầy Đinh Văn Nhưng rất thương và nhận làm con nuôi.

Sau 4 năm ăn học, chỉ có Thơm là giỏi nhất, võ nghệ tinh thông, siêu quần. Lúc thôi học, thầy Nhưng có tặng Thơm quyển "Binh pháp Tôn Ngô" mà trước kia thầy Nhưng đã được thầy của mình tặng.

Khi phong trào khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra, ông Đinh Văn Nhưng đã giúp nhiều lương thực cho nhà Tây Sơn để tiêu diệt Trương Thúc Loan, một quyền thần gian ác của Chúa Nguyễn Phúc Thuần. Mỗi lần đem lương thực đến giúp nhà Tây Sơn, ông thường đi bằng kiệu khiêng, hai bên che du du (cây lọng, rợp rạ), dân chúng môn đệ theo ông rất đông và mang theo cả cào cỏ, cuốc, thuổng, xẻng, mỏ gãy, vồ vồ, đao, rựa... (đây là những công cụ lao động rất gần gũi, gắn bó với nông dân và cũng chính là những môn binh khí rất lợi hại mà ông đã truyền dạy cho các môn đệ).

Khi vua Quang Trung lên ngôi, ông được phong tước: Điện Tiền Đại Đô Đốc Tả Thân Vệ Úy; hàm: Thái Phó; tước: Sanh Sơn Bá. Mỗi năm được về triều vua một lần nhưng "nhập triều bất bái" (có lẽ ông vừa là thầy, vừa là cha nuôi của nhà vua nên vào triều không phải bái lạy Hoàng đế Quang Trung).

Ông Đinh Văn Nhưng (tên thường gọi sau này là ông Chảng) có hai người con tên là Đinh Văn Thành (con bà cả), và Đinh Quý Lang (con bà thứ). Ông Thành sinh các con là: Đinh Viết Mỹ, Đinh Viết Thừa... ông Lang sinh các con là: Đinh Lưu, Đinh Triệu, Đinh Thuần... Sinh thời ông Đinh Văn Nhưng tướng mạo trông rất uy lực, tính tình ngay thẳng, khẳng khái, sống giản dị, yêu nước, thương người, sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn, nhưng cũng rất ngang tàng.

Theo bảng tông đồ Đinh tộc (dòng họ Đinh) thì đến nay đã trải qua 11 đời, gồm 8 phái ở rải rác nhiều nơi, nhưng tộc chính vẫn là: thôn Thanh Liêm, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, Bình Định, thuộc phái của ông Đinh Văn Diệm. Hiện nay, tại thôn Bằng Châu, Đập Đá còn từ đường dòng họ Đinh, ông Đinh Văn Mỹ, sinh năm 1946, là cháu đời thứ 10 (thuộc chi 2, phái 1) và ông Đào Duy Thu, sinh năm 1945 thuộc chi 2, phái 3 của dòng họ Đinh thờ tự và cũng giống như các công thần của thời Tây Sơn, hầu hết các tài liệu, hiện vật của ông bị tiêu hủy sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi.

Nhưng rất may mắn, trong quá trình truy tìm các tư liệu, Sở TDTT Bình Định đã phát hiện được một tập tư liệu cổ, do võ sư Phan Thọ, ở thôn Thủ Thiện Thượng, xã Bình Nghi, huyện Tây Sơn, (là môn đệ của võ sư Bảy Lụt, Đinh Hề ở An Vinh) cung cấp.

Tư liệu dày 18 trang, gồm 3.260 chữ, được viết bằng loại giấy bắc (giấy cổ), khổ giấy 12cmx12cm, trong đó có 18 bài thiệu võ, chủ yếu viết về quyền và binh khí do ông Đào Thống ký tên (theo bảng tông đồ họ Đinh, ông Đào Thống thuộc dòng tộc Đinh) vì thời ấy dòng họ này khi sống thì lấy họ Đào, còn khi chết thì sẽ trở về họ Đinh "sinh Đào, tử Đinh" nên tập tư liệu này rất có nhiều khả năng là của dòng họ Đinh còn sót lại.

Trong số 18 bài thiệu, có 2 bài Trương Phụng Hoàng thảo pháp và bay thảo pháp (bài 12 và 13) được viết bằng chữ Nôm, còn các bài khác đều viết bằng chữ Hán, cụ thể:

Bài 1: Ngũ môn pháp

Bài 2: Ô du thảo pháp

Bài 3: Thiền sư thảo pháp

Bài 4: Tứ hải giai huynh đệ thảo pháp

Bài 5: Tam phân thế

Bài 6: Bị rách mất tên đầu đề bài thảo

Bài 7: ...biến bách (mất phần đầu)

Bài 8: Thần nhân biến bách thế

Bài 9: Tấn hưng thảo pháp

Bài 10: Thần đồng thảo pháp

Bài 11: Linh ngũ thảo pháp

Bài 12: Trương phụng hoàng thảo pháp

Bài 13: Én bay thảo pháp

Bài 14: Song thủ thảo pháp

Bài 15: Xung thiên thảo pháp

Bài 16: Phụng hoàng oanh thảo pháp

Bài 17: Lão mai thảo pháp

Bài 18: Thái Sơn thảo pháp

Tập tư liệu này có một số bài trùng tên với tư liệu được phát hiện ở dòng họ Trương (Phù Mỹ) và của võ sư Nguyễn Văn Đấy - cháu Hồ Hành, được nhân dân tôn vinh là Hồ Hành Hổ, người có võ công uyên thâm, nổi tiếng đả hổ, cứu người ở vùng đất Bồng Sơn, Hoài Nhơn - cung cấp, cụ thể như các bài: Ngũ môn pháp, Ô du thảo, Song phú thảo pháp, Thái Sơn thảo pháp, Lão mai thảo pháp, Ngọc Trản... Ngoài ra, có một số bài do để lâu năm nên bị mục nát, mất chữ không dịch được và còn sót lại quá ít đã là một thiệt thòi lớn cho công việc bảo tồn, lưu truyền các tư liệu gốc của võ cổ truyền Bình Định trong tương lai.
(còn tiếp , nếu tìm được thêm tư liệu tại hạ sẽ post sau )

Tiêu Diêu Du
28-08-2004, 18:05
Trong quá trình phát triển của dân tộc, qua thời gian dài chiến đấu chống ngoại xâm để giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, võ thuật là bạn đồng hành không thể thiếu được và đã góp phần đánh thắng giặc ngoại xâm, giành thắng lợi to lớn cho đất nước.

Người dân Bình Định đã rất tự hào và thấy rõ tác dụng của võ không chỉ đem lại thể lực, sức khỏe, tinh thần dũng cảm, ý chí quật cường của nhân dân trong lao động sản xuất, chiến đấu, góp phần xây dựng cuộc sống bình yên, hạnh phúc mà còn là di sản văn hóa tinh thần vô giá thể hiện sức mạnh của dân tộc.

Võ thuật bao gồm hai nội dung cơ bản như: quyền thuật và các môn binh khí.

1. QUYỀN THUẬT

Quyền thuật bao gồm các môn luyện tập tay không, không có binh khí, chỉ dùng tay, chân, cấu tạo bằng cương quyền và nhu quyền, với kỹ thuật từ đơn giản đến phức tạp, bao gồm đòn công và đòn thủ lợi hại, đánh trả đòn rất quyết liệt, mang tính sát thương cao. Những bài cương quyền dùng sức mạnh với mục đích tấn công áp đảo, đè bẹp đối phương nhanh. Nhu quyền thể hiện những động tác mềm mại, mang tính thủ, né tránh linh hoạt, uyển chuyển, lợi dụng tình thế từ thủ sang tấn công nhanh cực kỳ lợi hại.

Phân loại các nhóm quyền (võ):

- Võ thể dục: là nội dung tập thể dục hoặc tập thể lực được rút tỉa và cách điệu trong các bài võ, ngoài ra còn có môn võ dưỡng sinh là môn tập dành riêng cho người lớn tuổi. Võ biểu diễn là môn võ thường xuất hiện ở các ngày lễ hội và là một trong các môn thi đấu võ cổ truyền Bình Định.

- Võ tự vệ: Trước đây và nhất là thời Tây Sơn, mọi người dân đua nhau học võ để tự vệ bản thân, chống chọi với thú dữ và chống đạo tặc, cướp đường, về sau để tự vệ chống lại bọn quan tham ô lại hà hiếp dân lành, đòi sưu cao thuế nặng, quấy nhiễu lương dân. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân ta, võ tự vệ là một nội dung của binh chủng đặc công, bộ đội hoạt động nội tuyến vận dụng nó để tiếp cận quân thù, tiêu diệt chúng không có tiếng động và tiếng nổ.

- Võ tỉ thí (còn gọi là võ đài): Là một loại hình thi đấu khá đặc biệt, có một võ sĩ thủ đài. Đài không cố định, bất cứ chỗ nào (trên đồng ruộng khô, trên đồi núi) miễn sao có một khoảng đất trống để hai người có thể đấm đá là được. Có lúc cũng có sàn đài cao hơn 1 mét, với diện tích không cố định, không có dây "rin" bảo vệ xung quanh. Võ sĩ thủ đài, thượng đài thách đấu tất cả các võ sĩ không phân biệt tuổi tác, không cần đến trọng tài, hai người dùng đủ mánh khóe, ra đòn công, thủ tùy ý, đánh nhau không tính thời gian, hễ ai bỏ chạy hoặc rơi xuống đài là thua cuộc.

Còn võ chiến đấu bao gồm võ để thi đấu, hoặc võ để chiến đấu từ hai người trở lên: hai loại này đều mang tính đối kháng cao và trực tiếp nguy hại đến tính mạng.

+ Võ thi đấu: Là một nội dung thi đấu theo một quy định bắt buộc, có sàn đài, luật lệ, có trọng tài, giám định, giám sát có dụng cụ bảo hiểm và mọi người thi đấu đều tuân thủ theo quy định thống nhất.

+ Võ chiến đấu: Là võ đánh nhau thực sự, đánh với mọi đối tượng, đánh không có ràng buộc gì cả, đánh nhau trên mọi trận địa với tất cả các loại võ khí hiện có. Chủ yếu đánh nhau ở cự ly gần (cận chiến hay còn gọi là đánh xáp lá cà). Loại võ chiến đấu này được áp dụng rộng rãi ở cả các giai đoạn lịch sử trước, trong và sau thời Tây Sơn. Trong chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, bộ đội đặc công của ta đã vận dụng võ chiến đấu đánh vào tận sào huyệt của địch để tiêu diệt chúng. Võ chiến đấu thường ít có bài bản nhất định, mà chủ yếu là sử dụng các đòn thế, đặc biệt là đòn thế bí truyền nguy hiểm hoặc đánh vào các huyệt đạo có thể gây tử vong, hoặc chết dần chết mòn về sau không có thuốc gì chữa được (Chỉ có phương cách duy nhất là dùng thuốc võ đặc trị hoặc thế giải huyệt của người đã đánh mình để cứu chữa).

Võ chiến đấu bao gồm một số nội dung:

Võ tay không đánh với tay không

Võ tay không đánh với binh khí

Võ binh khí đánh với binh khí

Hai người cùng đấu một loại binh khí như roi, kiếm, thương… hoặc bằng binh khí khác chủng loại.


2. CÁC MÔN BINH KHÍ
Nội dung của võ cổ truyền Bình Định chính là sự tập trung xử lý các mối quan hệ giữa quyền thuật với các môn binh khí và am hiểu tường tận tính chất lợi hại, hỗ tương của chúng. Người giỏi võ công phải là người biết phối kết hợp nhuần nhuyễn giữa quyền thuật với các môn binh khí, phải biết tận dụng các môn sở trường và sở đoản trong từng tình huống cụ thể, từng đối tượng cụ thể.

a) Phân nhóm binh khí:

Binh khí được sử dụng như một loại vũ khí cực kỳ lợi hại, đồng thời là công cụ hỗ trợ đắc lực để nhanh chóng áp đảo và tiêu diệt đối phương, nhất là lấy ít đánh nhiều hoặc công phá vòng vây. Các môn binh khí được phân ra làm hai nhóm: Binh khí ngắn và binh khí dài.

Binh khí dài gồm các môn như: côn (roi), thương, đại đao, giáo, mác, trường kiếm, chỉa ba…

Binh khí ngắn gồm các môn như: dao, rựa, đoản kiếm, búa (phũ), lưỡi lê, mã tấu, cung…

Trong các môn binh khí của võ cổ truyền Bình Định, môn roi là một trong những môn hàng đầu được ứng dụng khá phổ biến ở Bình Định.

b) Phần căn bản của môn roi

Côn (ở Bình Định quen gọi là roi): Là một loại binh khí tiêu biểu được áp dụng khá rộng rãi, thuộc nhóm binh khí dài thường gọi là trường côn (roi dài). Roi làm bằng gỗ dẻo, mây già hoặc tre đặc. To hay nhỏ tùy theo bàn tay người sử dụng lớn, nhỏ. Mặt khác ở Bình Định, roi là môn nổi tiếng không chỉ ở Thuận Truyền mà còn lan rộng khắp nơi trong tỉnh và cả trong nước mà tên tuổi của võ sư Hồ Nhu đã đi vào huyền thoại. Đường roi bí truyền của ông vẫn còn lưu truyền trong dân gian mãi cho đến nay. Qua khảo sát và truy tìm gốc tích thì hiện nay ở Bình Định có rất nhiều võ đường giỏi về roi như: võ đường Lý Xuân Hỷ, Lâm Ngọc Phú, thầy Bửu Thắng ở An Nhơn, võ đường Hà Trọng Sơn, Phi Long Vịnh và phái võ chùa Long Phước ở Tuy Phước, võ đường Phan Thọ, võ đường Hồ Sừng (cháu của Hồ Nhu) ở Tây Sơn… Nhiều võ sư tiền bối ở thời Tây Sơn có đô đốc Nguyễn Văn Lộc với bài roi "Không tiên". Thầy dạy Hồ Nhu là Hồ Khiêm với đường roi tuyệt kỷ là "Lạc Côn", đó là đường roi có một không hai: "Dựa sức đối phương để đánh lại đối phương" - thường gọi là cộng lực. Còn các đường roi bí truyền như: "Đâm so đũa", "Roi đánh nghịch", "Đá văng roi", "Phá vây", "Roi chiến"… là những bảo vật của võ cổ truyền Bình Định.

Các phách roi cơ bản của võ cổ truyền Bình Định:

Cấu tạo một bài roi bao gồm hai phần: lời thiệu và động tác. Lời thiệu thường là thể thơ, ca dao dân gian… Động tác bao gồm động tác riêng lẻ đến động tác liên hợp, các đòn thế tấn công và phòng thủ theo các phách cơ bản như:

* Bát, bắt, triệt, chận: sử dụng các phách này nặng về thủ để triệt phá hết các đòn tấn công của đối phương, dụ đối phương vào vòng vây để thuận bề sát thủ, nếu đối phương phát hiện né tránh thì ra đòn "đâm so đũa".

* Hoành, khắc, lắc, tém: Sử dụng các phách này là vừa thủ vừa công.

Phân tích từng phách như sau:

- Bát: là trừ thế đánh bổ từ trên xuống của đối phương.

- Bắt: là trừ đòn đâm từ nửa thân trên của đối phương.

- Triệt: là trừ đòn đánh tạt ngang sườn của đối phương.

- Chận: là trừ thế đánh phất cờ của đối phương.

Nói chung là trừ để dụ đối phương, "trá bại" để tấn công trả lại đòn đối phương.

- Hoành: Hoành roi bên trái rồi bên phải để lựa thế thuận tiện tấn công đối phương.

- Khắc: tức là khắc giần roi của đối phương văng ra xa để phá đòn tấn công của đối thủ.

- Lắc: Trừ và né đòn tấn công đâm thẳng từ thắt lưng trở lên của đối phương.

- Tém: Tém gạt tất cả đầu roi, đòn đâm thẳng của đối phương.

Cần lưu ý sau khi sử dụng phách này như sau:

+ Dùng thủ để công

+ Trước thủ sau công

+ Trừ công để thủ

+ Thủ giả công thật

Khi xáp trận, đối phương tranh thủ tấn công trước thì buộc ta phải sử dụng "dùng thủ để công". Thủ không được thụ động, mà phải dùng các phách hợp lý để triệt tiêu đòn tấn công đối phương rồi ra đòn tiêu diệt đối phương. Hay dùng "trước thủ sau công" cũng là thế thủ có thể giả vờ "trá bại" để dụ đối phương vào thế đánh của ta, hay có lúc dùng "trừ công để thủ" khi đã trừ được các đòn tấn công của đối phương rồi, thì không nên tấn công ngay mà phải thủ cho kín chặt không cho đối phương ra đòn tấn công tiếp. Sau khi thủ xem xét phán đoán rất nhanh để xem đối phương phản ứng ra sao mà có đối sách thích hợp. Có thể thủ giả công thật, để đánh lừa đối phương tưởng ta yếu mệt mà tấn công ta, lúc đó ta phải nhanh chóng chuyển thủ thành công.

Roi chiến, roi trận và roi đấu trong võ cổ truyền Bình Định:

Nội dung roi có nhiều môn, mỗi môn có nhiều bài, gồm các bài biểu diễn và bài thi đấu. Trong bài biểu diễn, gồm bài quy định bắt buộc theo quy chế thi đấu hiện nay do Liên đoàn võ cổ truyền Việt Nam quy định. Thời xa xưa, về roi cũng có bài biểu diễn để phục vụ cho các ngày lễ hội. Già, trẻ, gái, trai đều tham gia biểu diễn. Còn roi thi đấu mang tính chất đối kháng có các loại như sau:

* Roi chiến:

Là loại thi đấu giữa hai người và một người đánh với một người. Roi chiến không có bài bản, chỉ sử dụng các đòn thế để tấn công và phòng thủ.

Hiện nay, mỗi môn phái ở Bình Định có các đòn roi bí truyền và các bài riêng cho môn phái mình và khi sử dụng cũng khác nhau. Roi chiến có hai tác dụng sát phạt và gây tử thương, thứ hai là cách phá công (phá vây) hoặc đánh ở địa hình hẹp, tùy theo số lượng đối phương nhiều hay ít mà sử dụng các đòn thế bí truyền phù hợp.

Tương truyền, Hồ Nhu khi vào đánh với một võ sư người Minh Hương ở Phú Yên, ông này võ nghệ cũng rất cao cường, các bạn của Hồ Nhu đánh không lại. Hồ Nhu bảo các bạn lui ra để ông xông trận. Hồ Nhu lừa thế trá bại, võ sư Minh Hương đuổi theo. Trúng thế, Hồ Nhu nhanh chóng chiếm được vị trí lợi hại. Võ sư Phú Yên không chịu thua, hai bên lại tiếp tục đánh nhau quyết liệt. Hồ Nhu thình lình ra đòn tuyệt kỷ "đâm so đũa" để hạ đối thủ.

Còn đây là đòn "Lạc Côn" của võ sư Bầu Đê: Đang đánh nhau với một võ sư khác, ông thả rơi đầu roi xuống giữa hai chân. Đối phương tưởng ông rớt roi xông tới để đánh, Bầu Đê dùng sức bật ngọn roi lên, đối phương hết đường tránh né, bị hất té nhào.

Roi chiến dùng đánh phá vây khi một người chống lại nhiều người, một người đánh năm người gọi là "roi năm". Một người đánh mười người gọi là "roi mười". Cứ như thế tăng lên bao nhiêu thì gọi bấy nhiêu roi. Muốn đánh giải vây thì phải tìm cho được một nơi để dụ mọi người chú ý vào đó, rồi tìm cách giả vây. Nếu bí quá thì mở đường máu chạy thoát thân thì gọi là "ra cửa".

* Roi trận:

Là loại hình đánh nhau có trận tuyến, thường xảy ra trong các cuộc chiến tranh. Hai bên bày binh bố trận rồi áp sát vào nhau mà chiến đấu. Có thể đánh từng đôi, nhiều cặp, một người đánh nhiều người, có trận đấu ít người, có trận đấu nhiều người, hàng trăm hàng nghìn người tham gia. Hai bên dùng nhiều đòn thế, nhiều thao lược để tìm cách tiêu diệt được nhiều đối phương. Quang Trung-Nguyễn Huệ đã truyền dạy các thế roi đánh "cận chiến" cho các tướng sĩ. Trong các chiến công oanh liệt từ nam ra bắc, quân đội Tây Sơn áp dụng cách đánh cận chiến hết sức độc đáo, hiệu nghiệm, kể cả đánh trên lưng ngựa, lưng voi và đã tiêu diệt nhiều quân địch.

* Roi đấu:

Roi đấu là một trong những nội dung thi đấu của triều đại nhà Nguyễn để tuyển chọn nhân tài võ nghệ (Tiến sĩ Võ, Cử nhân Võ). Bình Định cũng có nhiều người thi đậu Tiến sĩ Võ, Cử nhân Võ.

Cùng với môn roi, môn kiếm cũng được truyền dạy khá phổ biến trong các võ đường của Bình Định. Kiếm gồm song kiếm, độc kiếm, kiếm cong, kiếm thẳng, kiếm ngắn (đoản kiếm), kiếm dài (trường kiếm).

Kiếm cong có vỏ bọc bên ngoài, thường gọi là kiếm lệnh dùng cho những ai đảm trách việc ra lệnh cho người khác thi hành (gọi là kiếm chỉ huy).

Kiếm thẳng (có bao hoặc không bao) là kiếm phổ biến dùng trong tập luyện, thi đấu và giáp trận.

Đặc biệt, thời kỳ chống Pháp ở Bình Định đã phổ biến và sử dụng khá rộng rãi bài "kiếm 12", bài kiếm được hình thành từ 12 động tác được rút tỉa trong các bài kiếm bí truyền...

Tiêu Diêu Du
28-08-2004, 18:15
VÕ ĐẠO
Võ đạo là cái đạo của người học võ, cái đạo của con người sống trong trời, đất, được thể hiện một cách sinh động qua bản sắc văn hóa, truyền thống, phong tục, tập quán, điều kiện kinh tế-xã hội và cốt cách con nhà võ, cùng với quá trình giáo dục, tự giáo dục, tu tâm, dưỡng tính gắn với các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với cộng đồng ngay từ lúc sinh ra đến khi nhắm mắt lìa đời.

Hơn thế nữa, võ đạo trong võ cổ truyền Bình Định được hun đúc qua bao đời và trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc, được thể hiện khá rõ nét, cụ thể:

1. Truyền thống thượng võ, chống ngoại xâm

Mỗi con người chúng ta đều gắn liền với quê hương, xứ sở, luôn tự hào về truyền thống tốt đẹp của quê hương, xứ sở mình, và đều mang trong mình dòng máu của cha ông, của dân tộc.

Mỗi khi đất nước có họa ngoại xâm, thì mọi người già trẻ trai gái đều hăng hái tập luyện võ nghệ, sử dụng các loại binh khí, các miếng võ bí truyền và ai có súng dùng súng, ai không có súng thì gươm, giáo, mác, gậy, gộc, đồng lòng chung sức nhất tề đánh đuổi quân thù và sẵn sàng chiến đấu, hy sinh đến hơi thở cuối cùng, nhưng khi quân thù bại trận thì dân ta rất mực khoan hồng, độ lượng, hành sự đúng mực trượng phu.

Truyền thống đó được hun đúc qua 4000 năm lịch sử đấu tranh oanh liệt, chống ngoại xâm, chống bất công, áp bức, cường quyền, cùng nhau chung lưng đấu cật, chia ngọt sẻ bùi, đoàn kết xây dựng cuộc sống và bảo tồn giống nòi Lạc Việt.

Từ đó, cho dù ở phương trời nào, chúng ta cũng nhớ về cội nguồn, tổ tiên, luôn tự hào về các bậc tiền nhân đã dày công dựng nước, giữ nước, đánh đuổi quân thù, thu phục giang sơn về một mối, trong đó có các võ quan, võ tướng, các võ sư, võ sĩ đã không tiếc máu xương vun đắp nên truyền thống võ hào hùng của dân tộc Việt Nam mãi mãi trường tồn.

2. Truyền thống uống nước nhớ nguồn

Dân tộc ta có truyền thống "uống nước nhớ nguồn", "ăn quả nhớ kẻ trồng cây". Nhắc lại chuyện xưa: khi Nguyển Ánh lên ngôi, đã hủy diệt toàn bộ thành quả của nhà Tây Sơn, trong đó có sự nghiệp võ học lẫy lừng của nhà Tây Sơn, nhưng người dân Bình Định, nhất là các học giả, các nhà nghiên cứu, các nhân sĩ, trí thức, các võ sư, võ sĩ, đã một lòng một dạ trung thành với những di sản và tinh hoa võ học chân truyền của nhà Tây Sơn, vẫn tôn thờ vị hoàng đế Quang Trung. Nhiều người khi được dụ hàng để được hưởng ân sủng, chức tước, bổng lộc của nhà Nguyễn, đều từ chối và quyết tâm chiến đấu, hy sinh đến giọt máu cuối cùng, lưu lại tiếng thơm cho muôn đời sau.

Nhiều nhà thi đỗ tiến sĩ, cử nhân võ nhưng không ra làm quan mà vẫn trung thành với "chủ cũ" đã tìm mọi cách để tập hợp tư liệu, biên soạn lại sách, giáo trình, các bài thiệu, các bài thuốc võ, bí mật truyền bá, lưu truyền cho các thế hệ mai sau, khỏi mất gốc, nhờ vậy, mà võ cổ truyền Bình Định không bị mai một, bế tắc mà còn ăn sâu bén rễ và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu được trong đời sống văn hóa của nhân dân Bình Định.

Người Bình Định, từ người có võ công cao cường, đến người hiểu biết võ nghệ chút ít đều luôn một lòng tôn kính giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của dòng võ cổ truyền Bình Định, ra sức truyền bá và bảo tồn võ đạo, võ lý, võ y, võ thuật, võ nhạc và những tinh hoa độc đáo của tổ tiên, tiếp tục truyền lại cho các thế hệ mai sau.

3. Truyền thống võ sĩ đạo và trọng nhân nghĩa

Đây là truyền thống cực kỳ quý báu đã ăn sâu vào máu thịt của người Việt Nam, trong đó có người dân "đất võ". Trong lĩnh vực võ học, người học võ trước tiên phải là người có bản lĩnh, luôn lấy tâm đạo để chế ngự tà đạo, phải có cốt cách diện mạo của con nhà võ. "Tâm đạo" là nói đến tu luyện tư duy đạo đức làm người, sống phải cao thượng, trung với nước, hiếu với dân. Trung thực với môn phái, truyền dạy những điều hay, việc nghĩa. Một võ sĩ chân chính là một công dân tốt. Còn "Tà đạo" là sự đam mê tửu sắc, dâm ô trụy lạc, rượu chè say sưa, gây lộn đánh người, phá rối xã hội, bất chấp kỷ cương phép nước. Đây là những điều cấm kỵ đối với môn sinh học võ cổ truyền Bình Định. Ngoài ra, người võ sĩ đạo còn phải được truyền thụ thuần thục về tâm pháp và thực hiện nghiêm túc những điều cần làm và cấm làm:

- Phải giữ gìn bản thân luôn trong sáng, thuần khiết.

- Phải chuyên cần tập luyện võ công suốt đời và trung thành với môn phái.

- Phải phát huy và truyền dạy võ công của môn phái theo "chính đạo".

- Không phản thầy, hại bạn, hà hiếp người khác.

- Không khoe mình, chê người.

- Không có tư tưởng thắng thì làm "vua", thua thì làm "giặc".

Khi thâu nhận võ sinh, người thầy bao giờ cũng chú trọng tướng diện, cử chỉ, lời nói, cung cách xử sự, nhân thân, lai lịch của người học trò để truyền dạy hay từ chối không truyền dạy, hoặc chỉ truyền dạy một ít thảo thức thông thường (ngay cả người thân trong dòng họ cũng vậy). Sau khi được thử thách để tuyển chọn, môn sinh phải lễ cúng tổ và được thử thách về sức chịu đựng, sự kiên trì, gan dạ, về đạo đức, tư cách, về sự trung thành với môn phái, tuân thủ môn quy, đặc biệt là sự tôn sư trọng đạo. Lễ cúng tổ được tổ chức trang nghiêm và theo nghi thức võ cổ truyền Bình Định, người thầy đứng lên đọc văn tế ông Tổ nghề võ. Sau khi cúng Tổ, đệ tử làm lễ khởi động tay chân...

Người xưa thường nói: "Đệ tử tầm Sư dị, Sư tầm đệ tử nan" - người muốn học võ, nghe thầy giỏi tìm đến không khó; thầy muốn truyền dạy võ thuật cho đệ tử không phải dễ, bởi lẽ thầy phải "chọn mặt gửi vàng", phải chọn người có đạo đức trong sáng, hành động đúng mực trượng phu.

Mỗi bài tập đều có phần "lễ Tổ" và "bái Tổ". Bái Tổ chính là thể hiện sự tôn kính tổ tiên, môn phái, kính thầy, yêu quý đồng môn. Những người giỏi võ cuộc sống thường rất bình dị, tài võ nghệ chỉ tiềm ẩn bên trong con người giàu lòng vị tha, khiêm tốn, ít khi lộ diện ra bên ngoài. Ngoài ra, họ còn có các đức tính như: Tín-Nghĩa-Hiệp-Dũng, đây chính là tinh thần và mục đích của người võ sĩ đạo chân chính. Chữ "Tín" ở đây muốn nói lên từ cái tâm của con nhà võ, lời nói phải đi đôi với hành động, không đem võ ra "bán" theo dạng võ Sơn Đông. Không hại người, không ỷ mạnh hiếp yếu, luôn bảo tồn võ đạo, uy tín môn đồ, mọi việc đều xử sự một cách trong sáng, chính nghĩa, không làm điều phi nghĩa, thất nhân, thất đức - đó là "nghĩa". Còn "hiệp", "dũng" là những đức tính không thể thiếu được của con nhà võ, luôn sẵn sàng diệt gian, trừ ác, thấy sự bất bình không khoanh tay đứng nhìn.

Hay nói cách khác, ở Bình Định, học võ là để giữ thân, giữ nhà, cứu người, giúp đời khi cần thiết, người có võ công càng cao thì đức tính lại càng khiêm nhường, thường sống ẩn dật, không phô trương, kiêu ngạo, không đánh người "dưới ngựa" hoặc truy thù đến cùng, nhưng một khi đã ra đòn thì phải hạ thủ.

Nói tóm lại, võ đạo chính là đạo đức trong sáng, đức tính cao cả, tâm hồn hỷ xả của con người có võ, người có võ mà thiếu đạo đức thì sẽ trở thành một tai họa không thể lường hết được và sự nguy hại không những cho bản thân, gia đình mà cho cả xã hội nữa.

Chính vì vậy mà võ cổ truyền Bình Định luôn đặt vai trò, vị trí và tầm quan trọng của việc giáo dục, truyền thụ võ đạo lên hàng đầu trong toàn bộ sự nghiệp chấn hưng nền võ học chân truyền, cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai góp phần hình thành con người mới phát triển toàn diện, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.

Tiêu Diêu Du
28-08-2004, 18:33
VÕ LÝ
1. Vận dụng học thuyết âm dương

Võ cổ truyền Bình Định vận dụng học thuyết âm dương của triết học phương Đông làm cơ sở lý luận cho dòng võ của mình.

Học thuyết âm - dương được nhiều ngành khoa học vận dụng như: khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học ứng dụng, và cả y học cổ truyền dân tộc. Qua mạch trầm bổng, mạnh yếu mà các nhà y học chẩn đoán bệnh tật, ra toa bốc thuốc có hiệu nghiệm. Võ học các nước phương Đông, trong đó có võ cổ truyền Bình Định vận dụng học thuyết âm dương theo sắc thái riêng của nó.

Vũ trụ (thái cực) là một thể thống nhất gồm hai phần âm và dương, hoạt động theo nguyên tắc đối nhau mà sinh ra ngày và đêm do vòng quay của trái đất trong thái dương hệ, ngày là dương, đêm là âm. Trong quá trình vận chuyển có điểm giao nhau. Từ đó sinh ra hiện tượng, trong thái dương có thiểu âm, rồi ngược lại trong thái âm có thiểu dương. Thể này mang mầm mống của thể kia, thể kia có mầm mống của thể này. Nguyên lý này được vận dụng trong võ học và thể hiện ở tính chất "cương và nhu".

Trong võ thuật, cương, nhu kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn thì bài võ, thế võ mới phát huy hết tác dụng và đem lại hiệu quả cao.

Ví dụ: Khi ta muốn đấm mạnh thì thường dùng nắm đấm sấp "mãnh hổ thôi sơn", ít khi dùng nắm đấm ngửa bàn tay để đấm vì không mạnh. Khi ta muốn chặt mạnh thì dùng ngửa bàn tay (là âm) để thực hiện, không ai dùng sấp bàn tay để chặt "Cương đao phạt mộc".

Tính chất này vận dụng vào võ thuật rất quan trọng, lúc nào tấn công thì ra đòn mạnh, lúc nào lui về thế thủ thì nhẹ nhàng, uyển chuyển, linh hoạt để né tránh đòn của đối phương. Rồi từ thế thủ chuyển sang thế tấn công ra đòn liên tiếp để hạ đối phương.

Còn thái cực lại sinh ra hai thế tương phản là "lưỡng nghi" mà ta thường gọi là âm-dương. Từ đó tạo thành bốn hiện tượng (trí tượng): "Thái âm", "Thiểu dương", "Thái dương", "Thiểu âm". Bốn hiện tượng ấy lại giao nhau sinh ra tám quẻ gọi là "bát quái". Bát quái là tám con vật chỉ rõ tám hướng, được võ cổ truyền Bình Định vận dụng làm cơ sở lý luận cho bộ ngựa của mình. "Lưỡng túc bát quái vi căn" hay còn gọi là "tấn pháp". Tám quẻ là cụ thể hóa vạn vật biến thiên trong vũ trụ. Bát quái gồm: càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài. Mỗi quẻ tượng trưng cho một con vật, mà mỗi con vật là một bộ ngựa của võ Bình Định như: Long Tấn, Xà Tấn, Phụng Tấn, Kê Tấn, Nhạn Tấn, Hổ Tấn, Hạc Tấn, và Hầu Tấn, còn gọi là "bát quái pháp".

Thái cực chỉ có một động và một tĩnh mà phân ra âm-dương nhị khí. Âm-dương có tính "tương sinh" và "tương khắc". Khi dương động thì âm tĩnh, mà âm tĩnh thì tích tụ. Trên cơ sở nguyên lý này, âm-dương sinh ra ngũ hành là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. "Song thủ ngũ hành vi bản" là cơ sở võ lý cho bộ tay của võ cổ truyền Bình Định mà người ta thường gọi là "ngũ hành pháp".

Thuyết âm-dương áp dụng vào võ thuật rất lợi hại, nếu biết vận dụng và kết hợp hài hòa thì phát huy cao độ tác dụng của đòn thế võ. Chúng ta hãy quan sát bước đi của con người thì thấy rõ: Động tác tay chân luôn luôn có sự tương phản. Ví dụ: Khi chân trái bước tới trước thì chân phải bước ra sau và ngược lại. Đồng thời, lúc này tay phải đánh ra trước thì tay trái phải đưa ra sau và ngược lại. Không bao giờ có sự trùng lặp chân trái và tay trái cùng đưa ra trước một lần. Tại sao vậy? Đó là hiện tượng âm-dương tương phản để tạo thế cân bằng cho cơ thể.

Trong võ thuật, người võ sĩ cần nắm vững và áp dụng thuyết âm-dương vào cách di chuyển bộ ngựa trong luyện tập và thi đấu. Ví dụ: Khi đứng ngựa trung bình tấn thì trọng tâm có thể rơi vào giữa hai chân. Phía trước mặt là dương, phía sau lưng là âm. Như vậy bộ tay ra đòn tấn công và phòng thủ ở phía trước mặt là tốt nhất, rất hạn chế ra đòn về phía bên trái (hướng âm), phía bên phải"hướng dương", vì phải xoay người về hai hướng đó không tiện. Khi ta di chuyển chân trái về phía trước mặt, chân phải lùi về phía sau để tạo thành ngựa chữ Đinh (J). Lúc này đã thay đổi hướng, phía bên phải là hướng "dương", phía bên trái là hướng "âm", tức là mở rộng đường vòng của hướng "dương". Như vậy các đòn thế đều tung về phía bên phải (hướng dương) rất lợi. Đặc biệt, có thể sử dụng đòn đánh lật lưng để thuận tiện. Ngược lại, nếu di chuyển chân trái về phía bên trái, chân phải về phía bên phải tạo thành ngựa chữ Đinh (J), bên trái (hướng âm). Lúc này, bộ tay ra đòn đều đánh theo hướng trước mặt và bên phải (hướng dương), hầu như không được ra đòn về hướng âm vì tư thế con người và kỹ thuật chuyên môn của võ thuật không cho phép.

Người xưa đã dạy rằng: Học võ không phải để biết một hai bài võ, hay biết một số đòn thế là đủ. Mục đích của học võ là phải nắm vững võ lý, võ đạo, võ thuật và cả võ y. Phải luyện tập thường xuyên, khắc khổ, chịu khó, kiên trì tập luyện theo đúng phương pháp, dưới sự chỉ dẫn của võ sư. Quá trình luyện tập là quá trình tiêu hao năng lượng, đồng thời cũng là quá trình tích tụ tăng cường thể lực, nâng cao sức đề kháng và sức khỏe. Cơ thể có khỏe mạnh thì tinh thần mới minh mẫn, thì mới xử lý nhanh chóng, kịp thời các tình huống xảy đến. Thân thể tráng kiện mới đủ sức lục tung ra những thế đòn sắc bén và quyết định.

Đối với con nhà võ, đôi chân, bộ tay là vũ khí chủ lực để tập luyện và đánh trả đối phương, biết vận dụng, biết dựa vào sự hóa sinh của thuyết "âm-dương". Đó là: Tấn pháp trong bát quái, thủ pháp trong Ngũ hành. Luyện được thuần thục hai phương pháp này là tạo cơ sở tốt để phát triển bộ chân và bộ tay (lưỡng chi). Vì trong tấn pháp (bát quái) và thủ pháp (ngũ hành) có sự cấu tạo của hai phương diện ngoại công và nội công.

Tập ngoại công là tập thao tác của từng thế võ, tập sức chịu đựng bên ngoài, tập thể hình cường tráng. Tập nội công là tập cách phối hợp, điều hơi vận khí, nhuyễn khớp, tăng cơ tạo sức mạnh từ bên trong cơ thể.

2. Võ cổ truyền Bình Định hình thành dựa vào thao tác lao động của con người và tính năng vận động của các loài vật.

* Võ cổ truyền Bình Định hình thành dựa vào thao tác lao động của con người:

Bình Định xưa kia là một vùng núi rừng trùng điệp, đời sống của người dân muôn vàn khó khăn. Nguồn sống chính dựa vào lao động săn bắt thú rừng, chọt lỗ trên sườn đồi để trồng trỉa lúa, ngô, cày, cuốc, khai phá núi rừng để làm nương, làm ruộng. Người miền biển đôi tay chèo chống, buông lưới, kéo neo. Do yêu cầu thao tác lao động, từ đó tự nhiên hình thành một số động tác võ tay không đơn giản. Theo sự phát triển của cuộc sống, thao tác lao động dần dần được cải tiến, sức lao động của con người cũng được hợp lý hóa, dẫn đến năng suất lao động được nâng cao từng bước, các động tác võ tay được vận dụng ngày càng thuần thục hơn.

Người miền núi thường leo trèo vượt núi qua đèo, khai phá núi rừng để làm nương làm rẫy, có đôi chân rắn chắc, khỏe, chạy nhanh. Người miền xuôi đi bộ, chạy nhảy. Từ thao tác lao động đơn giản của đôi chân cũng đã hình thành động tác võ đơn giản như: di chuyển, đá, trụ rồi chuyển dần thành bộ ngựa ngày càng linh hoạt hơn.

* Từ những tính năng vận động của những loài động vật mà hình thành các động tác võ cổ truyền Bình Định:

Nhiều nhà nghiên cứu đã nhiều lần quan sát các động tác, sự di chuyển linh hoạt của các loài động vật. Mỗi một loài có những đặc điểm riêng của chúng.

Ví dụ: Các loài chim thường bay nhảy trên những cành cây, bay từ nơi này sang nơi khác. Cũng có những loại chân cao như: cò, hạc thường đi lẫm đẫm trên đồng ruộng hoặc sông ngòi để săn tìm tôm, cá. Có những loài bò sát trên mặt đất như: trăn, rắn... Cũng có loài dùng sức mạnh thường núp bóng để săn bắt mồi như: hổ, báo, chó sói... Từ những động tác đó, người ta đã hệ thống hóa, chọn lọc, đúc kết, biên soạn ra một số bài quyền như: Long, xà, hầu, phụng, kê, quyền... theo phương pháp mô phỏng.

Võ cổ truyền Bình Định cũng theo cách đó biên soạn ra một số thế võ, bài võ để tự vệ và chiến đấu, từ đó được lưu truyền rộng rãi ở Bình Định từ đời này sang đời khác. Cụ thể như bài "Hùng Kê quyền" của Nguyễn Lữ. Tương truyền ông đã nghiên cứu, hình thành bài "Hùng Kê quyền":

Lưỡng kê giao nạp thủy tranh hùng

Song túc tề phi trảo thượng xung

Trấn ải kim thượng như bạch hổ

Thủ quan ngân kiếm tự Thanh Long

Xuyên hầu độc tiễn tàng ư trát

Hồi thủ đơn câu thủ tự hung

Khiêu, tẩu, dược, trầm, thiên sở tứ

Nhu, cương, cường, nhược, tận trung kỳ.

Qua bài võ tiêu biểu nói trên cho thấy võ cổ truyền Bình Định đã chú trọng, nghiên cứu, quan sát những động tác của các loài vật và đưa vào kết cấu các bài võ của mình.

Ví dụ một trường hợp khác: Bài roi Thái Sơn có lời thiệu:

Thái Sơn trích thủy địa Xà liên

Thương thượng Lộng ky, lân thoái bạch Viên

Huy ky độc giác trung bình hạ

Thượng thích đại đăng tấn thừa Thiên

Hồi đầu trực chỉ liên tam thích

Đồng tân thuận thế giáng vân biên

Tẩu độc thố, Trưng sơn hoành gián kiếm.

Linh miêu mai phục tấn thích ngưu

Thừa châu bố địa khai côn thích

Hồi tiểu kim kê đả trung lan

Phi phong tẩu vũ khai ngưu giác

Tiểu tử tam phiền giá mã an

Bái Tổ sư, lập như tiền.

Một bài roi được cấu tạo từ động tác của tám con vật: rắn, lân, tê giác, thỏ, mèo, trâu, gà và ngựa là một hiện tượng độc đáo, hiếm thấy. Thông thường, người ta dùng tên một con vật để cấu tạo thành một bài quyền như: xà quyền, long quyền, hổ quyền, hầu quyền... chứ ít khi vận dụng kết hợp nhiều con vật để cấu tạo một bài quyền như bài roi Thái Sơn.

Tiêu Diêu Du
28-08-2004, 18:47
TIẾN SĨ VÕ
Sách sử mô tả: trường thi võ nằm ở phía tây nam "thành Hoàng Đế", nay thuộc xã Nhơn Hòa, huyện An Nhơn. Trường được xây quanh bằng đá ong, rộng 193 trượng, cao 4 thước 5 tấc. Thời ấy, cả nước có bốn trường thi võ, gồm Hà Nội, Thanh Hóa, Huế và Bình Định.

Trường có quy chế tuyển chọn từ thấp đến cao. Đầu tiên là thi "hương võ" qua ba giai đoạn: mang vật nặng; đấu côn, quyền, đao, thương... và thi bắn súng (súng hỏa mai). Sĩ tử nào vượt qua ba môn thi nói trên đều được triều đình phong học vị "cử nhân võ", còn gọi là "võ cử". Thí sinh nào chỉ đạt hai môn thì được gọi là "tú tài võ ".

Sau "hương võ" là đến kỳ thi "hội võ" và "đình võ". Thí sinh ở các tỉnh về thi võ ở kinh thành đều được triều đình cấp tiền, gạo đi đường. Người đạt học vị "tiến sĩ võ" thường phải vượt qua ba kỳ thi, đồng thời thông thạo các lý thuyết bài binh bố trận, cũng như nhuần nhuyễn về binh pháp.

Năm Mậu Dần (1878), triều đình Huế cho mở khoa thi "hương võ" ở bốn địa điểm là Bình Định, Thừa Thiên - Huế, Thanh Hóa và Hà Nội. Đến năm Kỷ Mão (1879), cả bốn trường thi võ trong toàn quốc chỉ tuyển được 120 võ cử. Tuy vậy hầu hết các cử nhân võ này đều kém chữ nghĩa, không am hiểu binh thư nên không giúp được gì nhiều cho đất nước trong thời loạn lạc.

Tháng 7-1883, vua Tự Đức băng hà; tháng 12, Kiến Phúc lên ngôi. Để khôi phục trường thi tiến sĩ võ, vua đã cho mở lại các kỳ thi "hương võ" với thể lệ và các bộ môn thi võ là xách tạ, múa quyền, múa côn gỗ, múa đao to, lăn khiên, nhảy xa... Môn thi võ cuối cùng vẫn là bắn súng. Triều đình chuẩn y cho Bình Định được chiêu mộ 600 võ sinh, nuôi dưỡng để chờ ngày tranh tài "võ cử". Tiếc rằng dự định tốt đẹp này đã tan thành mây khói khi thực dân Pháp đánh chiếm Bắc kỳ và Trung kỳ. Số võ sinh tuyển được bị giải tán, trở về cố hương và sau này trở thành những võ sư đào tạo nhiều nghĩa quân tham gia phong trào kháng chiến chống Pháp. Trường thi "tiến sĩ võ" ở Bình Định bị giải thể vào năm 1884.

Những "cao thủ võ lâm", những bậc cao niên trong làng võ Bình Định kể lại: trong một kỳ thi "đình võ" ở kinh thành Huế có một võ sinh quê ở Thọ Lộc, huyện An Nhơn, Bình Định ra ứng thí. Anh ta khỏe mạnh phi thường. Môn thi mang vật nặng đi 200 m theo quy định, nhưng anh ta xách tạ chạy một mạch giáp vòng chu vi trường thi đến vài nghìn mét không nghỉ. Giám khảo triều đình Huế hội ý và nhất trí chấm võ sinh này đạt thủ khoa, không cần thi tiếp các bộ môn đao kiếm, côn, quyền khác. Nhiều võ sinh khác khiếu nại cho rằng "võ gia dõng vi bán", nghĩa là đối với võ thuật, sức mạnh mới chỉ là một nửa. Họ đề nghị thí sinh Bình Định phải thi đấu roi nếu thắng được 10 võ sinh có điểm cao nhất khóa thi mới phục. Võ sinh thứ nhất ra đấu liền bị võ sinh Bình Định đánh gãy roi; võ sinh thứ hai bị cướp mất roi và quật ngã ngay hiệp đầu. Tám vị võ sinh còn lại đành bái phục.

Một lần khác, tại Trường thi võ Bình Định, Bầu Đê - một võ sinh Bình Định có đường roi nổi tiếng tuyệt kỹ công phu - không dự thi như các võ sinh khác mà chờ cuộc thi đến hồi chung cuộc mới xin lĩnh giáo với các vị "cử võ" tân khoa. Vào sân, chỉ xuất chiêu vài ba hiệp, Bầu Đê đã đánh bại cả ba "cử võ" hạng nhất, nhì, ba vừa được tuyển chọn. Viên quan chủ khảo, vốn là một cây trường côn nổi tiếng của triều đình Huế, ngứa nghề nhảy ra thách đấu. Thời đó, trong giới võ lâm Nam Trung bộ thường truyền tụng câu: "Roi kinh (đô), quyền Bình Định", còn ở miền đất võ có câu: "Roi Thuận Truyền, quyền An Vinh". Nhiều người nghĩ đấu roi thắng "tiến sĩ võ" của triều đình Huế không phải là chuyện dễ.

Quan "tiến sĩ võ" đề nghị Bầu Đê đấu với ông 10 hiệp. Hai bên thi đấu qua lại, chỉ nghe tiếng trường côn va vào nhau, một lát sau Bầu Đê dùng thế tuyệt kỹ đánh văng trường côn của viên quan võ, hai bên tiếp tục đấu hiệp 2. Bầu Đê lại la lớn: "Xin phép quan lớn cho tôi ra tuyệt kỹ thứ hai" - nghe vậy, viên quan võ vội thoái bộ.

Ngày nay, khi nhắc đến các cao thủ ở Bình Định, các vị cao niên đều biết tiếng một người quen gọi "ông Mười" quê ở xã Phước Thuận, huyện Tuy Phước. Tuy rất giỏi võ nghệ nhưng ông Mười hai lần đi thi võ đều trượt. Chuyện kể rằng ông Mười thi "cử nhân võ", sau đó ra kinh đô Huế thi đình và đạt "tiến sĩ võ". Vị tân tiến sĩ võ được vua cho về thăm nhà trước khi ra Huế nhậm chức. Khi đi ngang qua địa phận đèo Nhong (huyện Phù Mỹ), "tiến sĩ võ" bị cọp dữ tấn công. Ông quần nhau với cọp từ lúc nửa đêm đến sáng hôm sau thì giết được cọp. Nhân dân trong vùng rất phấn khởi vì vị tân tiến sĩ võ đã trừ cho dân một mối nguy hại. Triều đình Huế nghe tin đã kết tội vị tân tiến sĩ là "phản sư", cho rằng giết cọp là vi phạm đến điều cấm kỵ. Nhà vua hạ chỉ thu hồi bằng "tiến sĩ võ" của ông và giáng ông xuống hàng thứ dân đồng thời phạt đánh 30 roi.

Tiêu Diêu Du
28-08-2004, 18:57
Bây giờ tại hạ sẽ post 1 số bài về các võ nhân



QUÁCH TRƯỜNG SA
Tên thật là Quách Tạo, sinh năm 1913, tại thôn Trường Định, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.

Cha tên Quách Phương Xuân, giỏi Hán văn, thông Pháp ngữ. Mẹ là Trần Thị Hào, thông Hán học, giỏi thơ văn.

Thuở nhỏ, người ốm yếu, mãi đến ba tuổi mới biết đi chập chững. Tư chất thông minh nhưng rất ham chơi. Lúc lên năm tuổi, nghe cha dạy học mà đã đánh vần được chữ Quốc ngữ. Lại được mẹ dạy học bằng cách bày cho đọc chữ trong cuốn "Tam quốc chí diễn nghĩa" của La Quán Trung do Phan Kế Bính dịch và Nguyễn Văn Vĩnh duyệt. Toàn bộ 10 cuốn, Trường Sa đều đọc thông suốt và thuộc lòng các bài thơ trong sách.

Cha mẹ mất sớm, Trường Sa rời thôn Trường Định về sống tại Phú Phong, nương nhờ gia đình nhạc phụ của người anh. Nhiều năm theo học tại Quốc học Quy Nhơn. Năm 1930 thi Cao đẳng tiểu học, vì nạp sót bài nên tuy đủ điểm đậu mà thiếu điểm một môn nên bị hỏng thi. Bỏ học về trú tại Phú Phong.

Một hôm đang ngồi tập viết chữ Hán thì có một người Tàu tình cờ nhìn thấy rồi làm quen. Đó là võ sư danh tiếng Quách Thiên Thạch.

Được đưa về từ đường họ Quách tại thôn Thuận Nghĩa, Quách Thiên Thạch sau khi đọc gia phổ họ Quách mới xác nhận là bà con và nhận Quách Trường Sa là cháu.

Thủy tổ họ Quách là Quách Tịnh Nương vốn người Mâu Việt. Không chịu sống dưới chế độ Mãn Thanh nên cùng gia đình người anh di tản sang Việt Nam. Đến miền bắc việt, gia đình người anh dừng lại lập nghiệp. Riêng Quách Tịnh Nương đi sâu vào nam và dừng chân lập nghiệp tại thôn An Thái, huyện Tuy Viễn, Bình Định. Ông sinh sống bằng nghề bán cao đơn hoàn tán. Ngày ngày gánh đôi bầu thuốc đi khắp huyện Tuy Viễn. Một hôm trên chuyền đò ngang qua dòng sông Côn, nơi bến An Thái, ông gặp một thôn nữ có quý tướng nên đến nhà xin cưới làm vợ. Đó là bà Trương Thị Bao, người thôn Kiên Thạnh. Ông bán cao đơn, bà mở quán bán tạp hóa và dần dần tạo nên cơ nghiệp tại thôn An Thái. Đến đời con cháu thì dời dần về sống ở thôn Thuận Nghĩa, sống bằng nghề nông tang. Đến đời thứ ba, con trai là Quách Bình nhờ cần cù làm ăn, biết áp dụng các kiến thức trong sách vở người xưa như cuốn "Đào Công trí phú" của Phạm Lãi mà trở nên giàu có. Nhờ biết rộng về địa lý nên ông Quách Bình đã dám bỏ tiền ra mua một số đất tại thôn Thuận Nghĩa đang bị dòng sông Côn xói lở. Ai cũng chê cười là đem của đổ xuống sông. Vài năm sau, dòng sông đổi hướng, các khu đất lở năm sau nay được bồi thành ruộng màu mỡ. Họ Quách trở thành giàu nhất tỉnh. Tục ngữ Bình Định có câu: "Nhất Bình, nhì Doanh, tam Hanh, tứ Huệ". Bình tức là ông Bá Bình hay là Quách Bình.

Quách Trường Sa là hệ thứ chín. Học võ nghệ lúc còn nhỏ, do các cậu họ Trần ở Trường Định chỉ dạy. Gặp được Thiên Thạch, đời võ nghệ của Trường Sa mới chính thức phát huy.

Cuộc đời của ông Quách Thiên Thạch được Trường Sa kể lại:

Ông Quách Thiên Thạch là một bảo tiêu đầu danh tiếng ở miền bắc Trung Quốc. Tổng tiêu đầu là sư phụ Lý Tông. Ông là đệ tử nhỏ nhất. Tuy nhiên võ nghệ được sư phụ chân truyền, tài nghệ vượt các sư huynh. Bảo tiêu cục làm ăn rất phát đạt. Nhiều lúc đoàn xe bảo tiêu đi tải hàng chỉ cần cắm cờ hiệu và ít người hộ tống, chuyến hàng vẫn trót lọt.

Một hôm có một vụ bảo tiêu quan trọng lên Sơn Hải Quan, Lý sư phụ đích thân dẫn các đệ tử theo hộ tống. Chuyến đi này xảy ra một biến cố quan trọng. Tên đại đệ tử từ lâu đã có dã tâm diệt sư chiếm lấy bảo tiêu cục. Y đã âm mưu với một số côn đồ giả làm toán cướp bảo tiêu. Khi đến một triền núi cheo leo, toán phục kích xuất hiện. Hai bên đang dàn trận thế thì tên phản đồ Lưu Thiếu Hùng cầm dao đứng sau lưng thầy như để hộ vệ. Trong một phút bất thần, Hùng chém vào vai thầy một đao. Trận chiến xảy ra khốc liệt. Quách Thiên Thạch vừa che chở cho thầy, vừa ác chiến với Lưu Thiếu Hùng. Bằng những đường đao chân truyền, Quách Thiên Thạch đã dồn Lưu Thiếu Hùng vào chân núi. Vừa căm giận, vừa nôn nóng cứu chữa cho thầy nên Quách Thiên Thạch dồn tất cả sức lực vào cây đại đao. Những đường đao bí hiểm được tung ra sử dụng. Chỉ trong ba hiệp, Quách Thiên Thạch đã chém bay đầu Lưu Thiếu Hùng. Bọn tòng phạm cũng bị đánh tan tác, cắm đầu bỏ trốn.

Chém xong Thiếu Hùng, Quách Thiên Thạch vội chạy đến bên thầy đang đứng tấn vận công, đỡ thầy ngồi xuống. Lý sư phụ biết không thể sống nổi nên trước lúc lâm chung đã trao lại quyền lãnh đạo cho Quách Thiên Thạch, tuy ông là đệ tử nhỏ nhất. Sau một thời gian xây dựng bảo tiêu cục đứng vững trong giang hồ, Quách Thiên Thạch cũng giã từ ra đi ngao du khắp nơi. Trên đường du hiệp, thình thoảng ông cũng tổ chức vài vụ hộ tống hàng hóa đề có tiền ăn đường song không tổ chức thành tiêu cục. Giới giang hồ gọi ông là "Độc cước đại đao Quách thất lang". Những cuộc phiêu lưu kỳ thú quan các cuộc bảo tiêu khiến ông gặp rất nhiều trường hợp éo le. Khi thì đánh thắng bọn thảo khấu, có lúc phải cúi đầu lạy tạ các cao thủ lục lâm để mạng được sống mà phiêu bạt giang hồ.

Tiêu Diêu Du
28-08-2004, 19:02
Ông cũng từng có những chuyến bảo tiêu thuốc phiện từ Lào, Miến Điện sang Trung Hoa, đã có những hành vi chia chác với nhân viên thuế đoan, lính tuần, bằng cách đến những đoạn nào có lính, có nhân viên tuần tra thì đoàn buôn lậu chỉ việc đem một kiện hàng (thường là thùng thiếc) đựng thuốc phiện treo trên cành cây ven đường rồi đi. Sau đó, bọn lính đoan, lính tuần đến lấy đem về. Thành ra đoàn buôn lậu ít khi chạm mặt lính đoan, lính tuần phòng, nhưng việc chia lợi thì không bao giờ sai sót, đúng với câu: "Ta không bao giờ làm khó dễ ai thì ai đó phải luôn luôn biết ơn ta vậy".

Chuyến qua Việt Nam của Quách Thiên Thạch là để du khảo thắng cảnh Việt Nam và thăm viếng các bạn hữu đã định cư tại Bình Định như ông Hòa Thoại, Trường Phát. Tại Phú Phong, ông ở chơi với ông chủ hiệu Hòa Sanh Đường là một chi nhánh của Hòa Thoại ở Quy Nhơn.

Không ai biết ông có võ nghệ và từng làm bảo tiêu đi khắp Trung Quốc, Lào, Miến Điện.

Một buổi trưa đang nằm đung đưa trên võng nơi chái hiên, nói chuyện với chủ nhân, ông nhìn thấy hai con két nơi đầu hiên leo xuống giá áo, cắn vào khuy nút. Vút. Chiếc hài nơi chân lao vèo đến đánh ngã quay con vẹt. Lại một chiếc hài nơi chân trái bay đến đánh gục con vẹt thứ hai. Chính cái đá thứ hai đã làm mọi người thán phục vì có thể cái đá ban đầu là trúng tình cờ còn cái đá thứ hai giống in cái đá trước. Như vậy chứng tỏ tài võ nghệ tuyệt luân.

Quách Thiên Thạch dạy Trường Sa vào các buổi chiều, khi hai ông cháu đến tắm ở bến Trinh Tường bên bờ sông Côn. Ông thì bì bõm tắm, cháu thì phì phò chạy bộ trên bãi cát. Ròng rã một tháng trời chỉ toàn là tập chạy. Một hôm, Trường Sa thỏ thẻ cùng Quách sư phụ:

- Thưa ông, nếu học võ mà chỉ cốt chạy cho nhanh thì không lẽ khi gặp địch thủ mình chỉ lo tầm phương tẩu thoát?

Quách sư phụ mỉm cười:

- Thì trước đây cháu nài xin học võ để phòng thân. Không có môn võ nào phòng thân tốt cho bằng chạy nhanh. Đối phương không đuổi theo kịp thì đánh thế nào được mình.

Trường Sa hóm hỉnh:

- Thế thì khi ở trên xe, trên tàu hỏa mà đối phương đánh mình thì phải chạy đi đâu?

Quách Thiên Thạch phì cười rồi bắt đầu dạy võ thuật cho Trường Sa. Các môn căn bản như đứng trụ, tập thở, tập đánh, tập né, tập chạy… đều được huấn luyện cặn kẽ. Ngoài giờ luyện võ, Quách sư phụ thường kể cho Trường Sa các chuyện võ lâm trong giang hồ. Nhất là các chuyến bảo tiêu ông đã trải qua.

Gần một năm, một hôm hai ông cháu ra bến Cây Sung tắm, Quách Thiên Thạch bảo cháu:

- Ngày mai ông sẽ vào Nam, qua nhiều nước ở Đông Nam Á, rồi trở lại Trung Hoa. Ông mong muốn cháu đi cùng. Trước tiên là cháu được tận mắt thấy nhiều điều mới lạ và học được nhiều nơi đất khách quê người. Hai là cháu được trở về Trung Quốc thăm nguồn gốc tổ tiên.

Dù rất muốn theo ông để học võ, để tham quan các xứ lạ, song Quách Trường Sa vẫn không thể nào xa được quê hương, bà con dòng họ, anh em thân yêu. Sáng hôm sau, ông Quách Thiên Thạch ra đi rất sớm trong lúc Trường Sa vẫn còn say sưa trong giấc nồng. Trước khi ra đi, Quách Thiên Thạch có để lại một bức thư giới thiệu Quách Trường Sa với một võ sĩ nổi danh đất Gò Bồi là chú Nghĩa.

Buồn vì vắng thầy, Trường Sa bèn theo bạn đi buôn gỗ từ Vĩnh Thạnh xuống Tuy Phước.

Nguyên tại Vĩnh Thạnh có một bà tục danh là bà Hương Vĩnh Thạnh có chồng mù mắt và hai con trai đã lớn. Bà Hương sống bằng nghề buôn bán gỗ. Trong nhà nuôi rất đông thợ rừng. Phần đông là người tứ xứ. Tuy là đàn bà nhưng bà tổ chức, chỉ huy rất khoa học. Tài chánh phân minh, uy tín giữ chặt chẽ, công việc làm ăn phát đạt. Trong nhà có nuôi một võ sư để dạy hai người con trai.

Trường Sa cùng bạn lên liên hệ mua gỗ ván đóng cốp pha dùng trong việc xây cất. Loại này dễ tìm nên chỉ trong một tuần đã mua được một bè gỗ xuôi dòng sông Côn trở về Tuy Phước. Nằm trên bè gỗ, ngày phơi nắng, đêm dầm sương, Trường Sa hưởng nhiều phút vui vẻ, cũng nhận không ít gian nan cực khổ.

Đi được hai chuyến thì một hôm, Trường Sa nghỉ đêm tại nhà bà Hương. Đang ngồi uống trà nói chuyện cùng bà chủ còn ngoài sân ông võ sư đang dạy hai học trò. Vui miệng, ông bạn của Trường Sa giới thiệu:

- Thím Hương này, chú Trường Sa cũng là một tay võ có tiếng ở Phú Phong. Tuy ít tuổi nhưng được danh sư truyền nghề nên căn bản võ nghệ khá lắm.

Vừa khi ấy, ông thầy võ bước vào nghe thấy liền nói:

- Ái chà, là một tay có nghề à. Tiện đây ra sân thử chơi vài hiệp.

Trường Sa một mực từ chối rằng bạn mình nói đùa cho vui mà thôi.

Ông thầy võ cười khẩy:

- Chưa chi mà đã co vòi, tôi chỉ dạy cho vài thế thôi. Hay chỉ giỏi đánh võ mồm.

Trường Sa thầm nhủ:

- Tại sao ông này lại hiềm với mình như vậy. Mình có chọc ghẹo gì đâu? Thôi ráng mà nhịn. Đi buôn gỗ thì lo buôn gỗ. Đánh đấu mà làm gì. Nhịn, nhịn, nhịn.

Nhưng ông bạn của Trường Sa lại nổi nóng:

- Không phải là sợ nhưng việc ai nấy làm, can chi lại khích nhau. Này, tôi nói thiệt, võ nghệ cỡ thầy chưa chắc đấu nổi với chú nó đâu.

- Thì ra sân khắc biết. Còn nếu sợ thì cả lũ cút khỏi nơi đây ngay lập tức

Tiêu Diêu Du
28-08-2004, 19:08
Bộ ngựa Tứ Ngung căn bản lấy chữ khẩu (hình vuông) làm khung. Khởi đầu tại hai điểm Tý, Mão rồi chuyển sang hai điểm Dậu, Ngọ. Võ sinh ban đầu phải thuộc nhuần nhuyễn các thế bước căn bản, sau đó mới học đến các bộ biến thức. Bộ Tứ Ngung khi lên đến bộ Bát Quái thì người sử dụng có thể một chọi mười mà vẫn ung dung tránh né. Rèn luyện bộ Tứ Ngung phải mất độ mười năm chuyên cần. Bộ ngựa Tứ Ngung chẳng những dùng trong môn quyền mà còn dùng trong môn kiếm và môn đánh roi.

Nhất là áp dụng cho Trường sang (roi trường) và Trung bình kiếm.

Bởi bộ ngựa Tứ Ngung lợi hại như vậy, nhất là để ứng dụng trong các thế tấn công của roi, nên ông Hương lễ Nghè tuy rất giỏi về roi trường mà vẫn muốn cầu học thêm bộ Tứ Ngung nên sẵn sàng đổi cho Trường Sa các thế roi lấy bộ ngựa Tứ Ngung. Chỉ tiếc rằng khi đó Trường Sa chưa học được các thế biến của Tứ Ngung qua Bát Quái nên cuộc trao đổi chỉ diễn ra nửa chừng.

Người con gái chú Lường tuổi mới cập kê mà võ nghệ tinh thông, nhất là bộ ngựa Tứ Ngung. Tánh tình thuần hậu, cô đem tất cả hiểu biết truyền lại cho Trường Sa.

Năm 1934, Trường Sa đổi về làm ở phủ Quy Nhơn. Nhân dịp tại Huế có tổ chức đấu võ đài cho các tỉnh miền Trung trong dịp hội chợ Trung Kỳ, Quách Trường Sa được chỉ định dẫn phái đoàn võ sĩ Bình Định đi tham dự, nhân dịp này ông quen thân với các tay võ có tiếng của Bình Định như Bảy Lụt, Chín Giác, Tám Cảng... và nghe kể lại nhiều chuyện chính mắt các đương sự trông thấy và đã tham gia. Như chuyện Bảy Lụt đi bắt Dư Đành, đánh nhau với các tay võ ngoài huyện... Hành trình đi về ngót cả tháng trời nên nhiều câu chuyện đã được kể lại một cách tường tận. Các ưu điểm, nhược điểm và câu chuyện riêng tư của các tay võ nổi tiếng cũng được bàn luận.

Năm 1935, Trường Sa lại được dịp may gặp gỡ hai tay võ có danh là Hựu và Phỉ trong nhóm cướp Dư Đành mãn hạn tù từ Lao Bảo về trình diện tại phủ Bình Định. Những ngày tạm lưu để lập hồ sơ tại phủ, Hựu và Phỉ đã tỉ mỉ kể lại toàn bộ cuộc đời của Dư Đành và nhất là nội vụ trong đêm vượt ngục (xem đoạn nói về Dư Đành).

Làm việc tại Bình Định, Trường Sa quen hầu hết các tay võ danh tiếng. Với Đoàn Phong ở Mỹ Yên, Trường Sa là phận con cháu (Trường Sa kêu Đoàn Phong bằng cậu) nhưng được đối xử như bạn bè thân hữu. Với ông Tàu Sáu ở An Thái thì Trường Sa được nhận là bà con (họ Diệp và họ Quách cùng lập nghiệp tại An Thái). Cho nên trong những ngày nghỉ thường niên hoặc vào dịp Tết, Trường Sa thường ghé đến hai nhà nằm chơi đôi ba ngày. Ngoài việc bàn luận võ nghệ, các ông rất tâm đắc cùng nhau về hát bội. Tàu Sáu và Đoàn Phong hát rất hay, Trường Sa hiểu cặn kẽ nhiều bản tuồng của Đào Tấn, nên bộ ba đã trải qua nhiều đêm không ngủ để nói chuyện võ hoặc hát bội.

Trường Sa cũng học thêm được ở Đoàn Phong cách sử dụng song xỉ và ở Tàu Sáu các thế đá liên hoàn.

Cuối năm 1935, Trường Sa đổi ra làm ở Quảng Nghĩa tại các tòa án Nam triều, từ phủ Bình Sơn rồi Sơn Tịnh. Cách mạng tháng Tám thành công, trong những ngày đầu cách mạng, Trường Sa phụ trách huấn luyện võ thuật cho đội du kích Ba La. Sau đó, về tham dự khóa huấn luyện quân sự Lê Trung Đình trong thời gian hai tháng và thi ra trường đậu thủ khoa. Về tỉnh lỵ dạy côn, kiếm cho du kích, dân quân tỉnh. Trong lúc đầu cách mạng, vũ khí tối tân chưa có được nhiều nên việc sử dụng côn, đao là chính. Cho nên thanh niên, thiếu nữ học võ nghệ thành một phong trào rầm rộ. Hầu hết các quân dân du kích về tỉnh huấn luyện võ thuật đều biết mặt và kính phục Trường Sa. Năm 1949, tại tỉnh lỵ có tin đồn Trường Sa bị tử thương trong một trận phục kích giặc Pháp tại đèo Cù Mông. Một số học trò võ cũ tại Quảng Nghĩa đã tổ chức một buổi truy điệu có rất nhiều người tham dự. Sau đó, nguồn tin được đính chính.

Năm 1946, nhân về thăm quê vợ ở Tuy Phước, Trường Sa không trở ra Quảng Nghĩa nữa. Sau đó, vào Phú Yên làm biện lý tòa án tỉnh Phú Yên, kiêm thẩm phán huyện Tuy Hòa, rồi chuyển sang phụ trách Tư pháp miền Nam. Ông là một cán bộ tư pháp duy nhất ở miền Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký giấy khen tặng là một cán bộ thẩm phán Cần, Kiệm, Liêm, Chính năm 1948 (Bằng khen số 87/sổ vàng ngày 25-4-1948).

Hiệp định Geneve ký kết, ông là cán bộ trong phái đoàn hai bên, bàn giao và kiểm soát việc tập kết quân dân miền Nam ra Bắc, đóng tại Bình Định.

Trong thời gian kháng chiến chống Pháp (năm 1947-1948), Trường Sa đã hai lần vào đến các tỉnh tạm bị chiếm như Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận tổ chức các cơ quan tư pháp và mở các phiên tòa tại các vùng kháng chiến để xử các vụ hình sự. Có những khóa huấn luyện về tư pháp được tổ chức cho các cán bộ cơ sở. Kết quả của hai chuyến đi tổ chức tư pháp này, ông đã được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa Phạm Văn Đồng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì ngày 30 tháng 6 năm 1952. Tư liệu trong những ngày này đã được Trường Sa ghi lại trong hai tập hồi ký: "Tổ chức tư pháp nhân dân trong vùng tạm chiếm".

Tiêu Diêu Du
28-08-2004, 19:14
DƯ ĐÀNHVào năm 1920, tại Bình Định đã xảy ra một hiện tượng thuộc giới võ lâm làm chấn động khắp, thôn xóm trong tỉnh nhiều ngày, tháng. Đó là chuyện toán cướp Dư Đành.

Là người đã từng sống trong những đêm hãi hùng vang tiếng trống, tiếng mõ từ thôn này lan sang thôn khác và đã từng lập hồ sơ, chấp cung và nghe các đương sự có liên quan đến sự việc kể lại như Bảy Hựu, Năm Phỉ, Bảy Lụt... Quách Trường Sa đã ghi lại trong hồi ký: Xã hội chung quanh tuổi thơ tôi. Sau đây là nguyên văn đoạn hồi ký về Dư Đành:

"Gần đây trong sách vở của Nghĩa Bình (trước khi chia tỉnh) cũng như một số bài trong tập san nghiên cứu lịch sử Trung ương có nhắc đến tên Dư Đành, coi như là lặp lại hình ảnh chàng Lía trong truyền thuyết, đại biểu cho sự phẫn nộ của nông dân bị áp bức bóc lột thậm tệ đã vùng lên dùng sức mạnh và sự táo bạo cá nhân để chống lại luật pháp của phong kiến thực dân với cái trật tự tôn ti nghìn năm đen tối.

Tôi là người biết chuyện Dư Đành, vì đã sống trong một thời gian mà sự khủng khiếp và lo sợ triền miên do cái nạn Dư Đành gây ra. Biết bao nhiêu ngày không yên, đêm không ngủ, vì tiếng mõ tiếng trống xen lẫn vào tiếng quát tháo của từng toán trai tráng võ trang gậy, giáo mác, rựa quéo, được ghép lại để đi tuần nã, rầm rập kéo từ làng này qua làng khác để truy nã bọn Dư Đành

Nhân dân ba huyện Bình Khê, An Nhơn, Phù Cát khốn khổ, lo âu vì hai tai họa:

1. Bọn Dư Đành gồm mười một tên, võ nghệ cao cường, có hành tung bí mật "lai vô ảnh, khứ vô thanh" (đến không thấy, đi không nghe). Có lần chỉ trong một đêm mà đánh cướp hai nhà giàu ở hai nơi cách xa nhau trên mười lăm cây số.

Khổ chủ bị trói, bị tra khảo chỗ dấu tiền, dấu vàng bằng cách đánh đập, đốt bụng, đốt lưng...

Dân làng đến tiếp cứu thì bị chúng đánh thua chạy vong mạng, nhiều người bị thủng đầu, rách trán. Do đó, khi có việc xảy ra, đành phải chờ cho chúng rút đi rồi mới kéo đến mở trói cho chủ nhà.

Có nơi chúng đốt nhà ở đầu xóm để nhân dân bâu lại cứu lửa, còn chúng thì vào nhà cuối xóm khảo chủ nhà lấy của.

2. Tai họa thứ hai do tai họa thứ nhất gây nên. Việc cướp bóc táo bạo như thế mỗi tháng xảy ra năm ba vụ. Bọn cướp hoành hành, nhân dân tán thán. Náo loạn khiến không còn an cư lạc nghiệp. Tiếng kêu oan, kêu cứu vang xa khắp ba huyện, nhưng các quan phụ mẫu, các quan đồn, cả một bộ máy quan liêu đồ sộ đều khoanh tay bất lực.

Suốt nửa năm, không tìm ra được vụ nào. Tỉnh tư về Bộ, luôn luôn với khẩu hiệu: "Bọn gian ác đang bị truy nã ráo riết, nhưng chưa tìm ra tông tích".

Bộ, Tòa khâm, khiển trách tỉnh. Quan tổng đốc Võ Liêm phẫn nộ, khiển trách nghiêm khắc các phủ huyện hữu quan (Bình Khê, An Nhơn, Phù Cát) lặc lạn (hẹn cho) trong ba tháng phải lùng bắt cho được bọn cướp táo bạo do Dư Đành chỉ huy. Các huyện phải huy động tráng đinh các làng, tổ chức thành đội ngũ, canh gác cẩn mật các nơi hiểm yếu, đồng thời lùng sục các nơi nghi ngờ, nơi từ lâu đã có những ổ trộm cướp. Từng đoàn thám báo, chỉ điểm giả trang buôn gánh, bán muối, thợ đóng cối xay, hàn nồi, hàn chảo, thầy bói, thợ thiến heo, bò và cả thợ đi săn nữa... được rải về các vùng Thuận Ninh, Thuận Truyền, Thuận Hạnh, Thuận Nhất (vùng Tứ Thuận), Trà Sơn, Vĩnh Thạnh - là những vùng bán sơn địa thuộc huyện Bình Khê (Tây Sơn) để nghe ngóng, dòm ngó, tìm tông tích Dư Đành và đồng bọn.

Việc khẩn thiết trước tiên là tìm ra tông tích của Dư Đành: tên, tuổi, quê quán, hình dạng, bà con thân thuộc và nơi ẩn náu.

Tất cả các võ sĩ có chút ít danh tiếng đều được cấp phát trát mật (lệnh kín của quan huyện) đi tìm bắt cho được Dư Đành dù sống hay chết. Gặp đâu bắt đó, đánh cho quỵ rồi khiêng về trình quan lãnh thưởng. Các chức sắc tổng, xã được lệnh phải hỗ trợ đắc lực cho các vị võ sĩ lan ra đi khắp vùng. Ấy là vào năm 1920-1921. Cả vùng ba huyện đều náo động cả lên. Đồng ruộng không còn đủ nhân lực để cày bừa gặt hái.

Vui mừng hơn hết là những người giàu có, lâu nay ngày đêm thường lo sợ ngủ không yên, vì có thể bất cứ lúc nào nhóm Dư Đành cũng có thể xuất hiện đánh cướp. Cho nên nay thấy chính quyền tích cực bảo vệ tài sản của mình nên họ sẵn sàng bỏ ra một số bạc gần cả trăm đồng để góp vào phí tổn của xã mà lòng vẫn cảm thấy vui vẻ, hồ hởi.

Khổ nhất là mấy anh dân nghèo. Một tháng ba mươi ngày ròng rã, luôn luôn mang kè kè bên mình một bó đuốc, một cây gậy hoặc giáo mác hay rựa quéo kèm theo một cuộn dây thừng. Ngoài ra, lưng còn mang một mo cơm, một bầu nước, ngày đêm trực canh ở các điểm canh tại các ngã ba, ngã tư hoặc cổng vào làng. Nhiều toán được chia nhau đi kiểm soát lưu động, rồng rắn kéo đi từ thôn này đến thôn khác, lùng sục từ trong nhà đến xó rào, lùm cây.

Các điểm canh, do một chức viện làng, một đại diện tổng, chỉ huy độ mười người dân canh, đón đường lục soát, kiểm tra bài chỉ (biên lai đã nộp thuế thân) thông hành, hành lý của kẻ qua người lại, làm cho đường làng vắng người qua lại. Cả đến các chợ phiên cũng thưa đến hơn một nửa số người mua bán.

Do đó xảy ra tình trạng "nhất lệ sinh thì nhất tệ sinh" nghĩa là vua quan đặt ra một lệ mới là liền nảy ra một tệ nạn mới, do bọn thừa hành gây ra. Việc lùng sục và soát xét ấy đẻ ra biết bao nhiêu tệ nạn. Chưa tìm được Dư Đành, nhưng họ đã bắt được hàng xâu những chàng trai lạ, trốn canh tuần ở làng mình sang tạm trú nhà bà con ở làng khác hoặc người khác tỉnh; khác huyện đến có việc riêng, không mang theo đủ giấy tờ - nhất là vì đã cãi cọ, xem thường người cật vấn (hỏi vặn) của đội tuần tra hay điểm canh gác.

Huyện, nha (văn phòng huyện) rồi hai Ty của tỉnh (ty phiên lo việc Hộ, ty niết lo việc Hình) rộn lên vì phải giải quyết hàng lô người lai lịch bất bình, hành vi và ngôn ngữ khả nghi mà các thôn xã đã dồn dập giải đến. Các nha quan, các thầy tuy có mệt, có bận, song cũng vớ bở được tiền "vi thiền", hạnh họe.

Lại còn các tai vạ tự trên trời giáng xuống. Các đội kiểm tra của huyện, của tỉnh, của các đồn lính tập bất thần xuống kiểm tra các điểm canh, điểm số các toán canh tuần, thiếu người thì phạt tiền, phạt roi. Hoặc ban đêm cho người lẻn đi qua các điểm canh mà không bị chận xét, vì người canh ngủ quên thì đánh mõ hồi một lên, gọi các chức xã tề tựu đến lập biên bản trễ nải, lơ là trong việc canh tuần. Chỉ là một hình thức để vòi tiền. Khi cầm được tiền trong tay thì việc vi phạm được coi như xong. Cho nên người dân canh tuần phải góp với nhau sẵn một ít tiền để khi có việc thì "xì ra". "Dùi đánh đục, đục đánh săng" bọn tuần phu lại nhè ngay người dân lương thiện mà "bù" vào. Thành ra mọi người đều trốn ở trong nhà. Nhiều lúc bọn canh tuần không có tiền lót tay thì người đốc căng ra đánh hai mươi roi hoặc bị giải lên huyện nha.

Để trả đũa, có nơi dân vờ ngủ say để cho người của huyện lẻn qua, nhưng chưa qua khỏi điếm thì bị dân canh phục kích đánh cho một trận kêu trời kêu đất.

Tiêu Diêu Du
28-08-2004, 19:19
Tai họa thứ hai do tai họa thứ nhất đẻ ra, song nó lại gấp trăm lần tai hại hơn và gây phẫn nộ trong nhân dân lao động.

Truy lùng, canh gác như thế, nhưng lại xảy ra liên tiếp hai vụ cướp cùng một đêm ở Phú Lạc và Hữu Giang, thuộc huyện Bình Khê (Tây Sơn). Hai thôn cách nhau trên chục cây số, cùng nằm ven sông Côn. Tại Hữu Giang là nhà một cựu phó tổng. Tại Phú Lạc là nhà của một thương gia.

Bọn cướp cũng chỉ độ 10 tên, giong đèn gió lên, phá cổng vào nhà. Đèn gió là một loại đèn làm bằng một ống tre đổ đầy dầu rái trộn với dầu chai (là một loại dầu lấy từ cây dầu rái ra) dùng giẻ làm tim đèn đốt lên cháy như một cây đuốc vừa sáng vừa nhiều khói. Người cầm đuốc vừa để soi sáng vừa dùng như một vũ khí nguy hiểm, vì dầu và dầu rái khi cháy chảy ra, sôi lên rất nóng. Họ dùng để hắt lên người đối phương gây ra phỏng nặng và khi dầu bắt vào quần áo thì cháy, khó mà dập tắt. Dầu rái có thể văng xa đến mười thước tùy theo trình độ sử dụng của người cầm đuốc.

Vào đến sân họ chia nhau phá cửa, canh ngõ và bắt trói gia đình khổ chủ. Chúng tra hỏi vơ vét tất cả các đồ đồng, tiền bạc và các vật quý giá trong nhà. Tài sản có trên 10.000$ bạc Đông Dương (tương đương với 10 tấn lúa) chúng hành động rất gọn. Bắt gia chủ, thu tài vật rồi tắt đèn "buồm" (tiếng lóng của ăn cướp có nghĩa là rút đi thôi).

Dân canh tuần trong thôn đợi chúng nó đi xa rồi mới đốt đuốc, đánh mõ, chiêng và cầm gậy, thừng, kéo nhau đến mở trói cho gia chủ rồi phân ra tìm dấu vết để đuổi theo. Tất nhiên là đuổi không kịp, vì họ cầm đuốc đi soi tìm dấu rất cẩn thận. Cãi nhau về dấu mới, dấu cũ, phân vân bàn bạc với nhau không biết nên rẽ theo đường bên phải hay đường bên trái.

Cuối cùng, họ chia nhau đi khắp xóm khắp làng để rồi lại tập trung về nhà khổ chủ bị cướp để uống nước trà bàn luận đủ điều về vụ cướp. Nào là bọn đó chỉ hữu danh vô thực, nếu chúng không sớm cao chạy xa bay thì cả bị bắt cả bọn rồi; nào là chúng chỉ chờ cơ hội tuần đinh lơ là canh gác chúng mới dám ra tay…

Trong lúc đó, bọn Dư Đành sau khi cất giấu đồ đạc cướp được, rồi kéo thẳng lên Hữu Giang, vào cướp nhà cựu Phó tổng Can. Lần này chúng đến đầu thôn đốt một chuồng bò và đống rơm bên cạnh. Dân làng nổi mõ báo động và kéo nhau đi chữa cháy. Trong khi đó, bọn Dư Đành phá cổng tràn vào nhà cựu Phó tổng Can. Lần này, chúng âm thầm lẻn vào, không đốt đèn, không hò la uy hiếp. Trông thấy bọn cướp đông đảo, gia chủ hoảng sợ vội vã đem của cải ra nạp. Thu tóm trong khoảnh khắc, chúng "buồm" ngay. Cả nhà đợi một hồi lâu mới dám hô hoán. Dân làng dẹp xong đám cháy mới chạy đến. Rầm rộ chật cả trong nhà ngoài sân. Của vặt vãnh tha hồ mà mất. Đến trái cà, quả dưa ngoài vườn cũng sạch. Thì đổ thừa cho bọn cướp là xong. Bàn cãi nhau ỏm tỏi cuối cùng nhất trí với nhau là bọn cướp đốt chuồng bò để dụ dân làng đi chữa cháy.

Sáng hôm sau, huyện Bình Khê được báo cáo trong một đêm hai làng cách xa nhau cùng bị bọn Dư Đành đánh cướp. Lại thêm một dư luận về tài "xuất quỷ nhập thần" của đồng bọn Dư Đành.

Từ mấy tháng trước, bọn cướp đã giả tạo ra kỳ tích để đề cao sức mạnh vô địch, với tài võ nghệ tuyệt luân của Dư Đành.

Giữa đoạn đường từ thôn Trường Định lên Kiên Mỹ, trên một gò cát vắng vẻ có một cây đại thụ. Dưới gốc đa có một bà già bán nước chè Huế và bánh kẹo cho khách qua đường. Một buổi sáng, hành khách ghé quán uống nước, thấy một nhánh đa to bắng bắp vế xếp bị chặt đứt hai phần ba sà xuống mặt đường, phơi rõ một vết chém sắc gọn. Người qua đường tò mò thăm hỏi thì một ông lão nói nho nhỏ ra vẻ bí mật:

- Chiều hôm qua, anh Dư với ba anh nữa đi qua đây, ngồi chơi. Quán vắng, bà chủ đã dọn về. Một anh trong bọn họ thách: Anh Dư chặt thế nào mà chỉ một nhát thôi mà đứt cành đa này thì chúng em xin chịu một chầu rượu.

Anh Dư nói: Cành đa cao quá đầu hàng thước mà to bằng bắp vế người mập. Gỗ đa rất cứng chớ đâu mềm như chuối mà dễ chặt một nhát thôi?

Anh em đồng nói: Với anh Dư thì chuyện gì anh không làm được, xin anh ra tài để đàn em mở mang kiến thức.

Anh Dư đứng lên, rút trong mình ra một thanh đao thất tinh sáng loáng. Lấy móng tay thử đao, rồi anh Dư đứng nhìn chăm chăm cành đa. Thình lình ảnh hét lên một tiếng, nhảy vọt lên cao ngang tầm cành đa rồi tay trái vin cành, tay phải cầm đao chém bổ xuống. Một tiếng chát vang lên rồi rắc rắc, ào ào, cành đa đổ quặt xuống lề đường. Mọi người vỗ tay hoan hô. Anh Dư xem lại lưỡi dao rồi tra vào vỏ, nói: "Cành to mà cao quá không thể chặt đứt tiện được. Sức mình chỉ làm được chừng đó". Rồi họ kéo nhau xuống chợ Suối Bèo nhậu rượu.

Những khách qua đường nghe kể, kinh hoàng nhìn cành đa, vết chém, rồi loan truyền khắp nơi. Người kéo đến xem nườm nượp. Bà quán được dịp phát tài. Chẳng bao lâu, câu chuyện được lan truyền kèm theo những câu chuyện phóng đại như chém gục cả cây đa, vác cả cành lẫn lá trong một đêm... vang ra khắp 3 huyện. Những kẻ hiếu thắng nhất, hiếu sự nhất cũng thấy lạnh xương sống khi lãnh trát mật đi bắt Dư Đành. Còn dân tráng thì bàn nhau không dại gì dấn thân vào việc nguy hiểm là đón bắt bọn Dư Đành để nhận rủi ro vào thân. Một số bà già thì ước vọng đó là chàng Lía Truông Mây tái hiện để cướp của nhà giàu giúp đỡ nhà nghèo, trị kẻ tham quan, cường hào, bênh vực kẻ cô thế, yếu đuối.

Nhưng thật sự chúng chỉ cướp phá, đốt nhà, đánh người, khảo của một cách dã man. Thường xuyên gây kinh hoàng khắp vùng mà chưa hề làm một điều thiện nào, giúp đỡ một gia đình nghèo khó nào. Nhất là đối với các cơ quan chính quyền thì chúng luôn luôn tránh xa, chưa hề có một trận đụng độ nào gọi là trừng trị tham quan. Chúng xuất hiện ở nơi nào là nơi đó có máu, có lửa, có cướp phá, có trả thù, có hăm dọa mà chưa thấy có một biểu hiện gì về lòng nghĩa hiệp, ưu ái đối với người nghèo.

Cụ thể nhất là vụ án mạng giữa chợ Suối Bèo, ở làng trường Định mà tôi đã tận mắt chứng kiến.

Chợ Suối Bèo ngày giáp Tết, người mua kẻ bán đông đúc. Bọn Dư Đành gồm 4 tên, mang dao bảy vào chợ cướp giật tiền và hàng của người đi chợ sắm Tết. Khi chúng đến hàng một anh bán pháo, đòi tiền và lấy đi một bồ pháo thì anh chàng pháo không chịu, chúng bèn hành hung và đâm chết anh bán pháo. Tôi theo mẹ đi chợ Tết, chứng kiến trong cảnh hãi hùng.

Chợ Tết đang nhộn nhịp buôn bán bỗng chốc tan hoang. Người lo chạy tháo thân, của đổ tháo, văng tung tóe khắp nơi. Khi Lý hương dẫn dân tráng làng Trường Định đến nơi thì bọn chúng đã đào tẩu biệt tăm. Anh bán pháo bị chém bay mất một tai và bị đâm một dao vào ngực suốt từ trước ra sau. Đang lúc lập biên bản, ông Lý trưởng tên Nguyễn Thoại, thấy một tên tướng trông dữ tợn, hung ác, lấn đám đông ra dòm rồi thốt ra.

- Chết cha nó rồi!

Lý trưởng Thoại lập tức hô dân tráng bắt trói, tra khảo. Ban đầu, nó chối khai bậy bạ. Sau nó thú là tù vượt ngục ở huyện về. Lý trưởng cố ghép vào tội cướp của giết người bán pháo, nhưng trước sau nó đều chối.

Sau này, khi vụ án Dư Đành đem ra xử, bọn chúng có nhận đã cướp ở chợ Suối Bèo, còn người giết anh bán pháo thì đau chết rồi.

Tiêu Diêu Du
28-08-2004, 19:25
Để trấn an dư luận, tỉnh tư về huyện, huyện tư về các làng, bắt dân làng ngày đêm phải tầm nã cho ra bọn Dư Đành. Trong khi hàng đoàn dân tuần vũ trang gậy đuốc đi lùng sục, canh tuần thì các võ sĩ lãnh trát mật đi dò xét tìm tung tích bọn Dư Đành để bắt lập công kiếm hàm cửu phẩm và tiền thưởng. Nhưng các anh chỉ đi hai ba người và không dám giáp mặt bọn cướp. Vả lại trên thực tế, chưa anh nào biết mặt Dư Đành hoặc biết rõ Dư Đành là ai, đồng bọn gồm những ai, ở đâu, tên gì...

"Bịt mắt bắt dê" tuy khó, nhưng còn biết bắt dê ở trong vòng rào không rộng lắm. Còn đây tuy không hề bịt mắt nhưng lại lùng bắt người mình không hề biết mặt, dù có đứng trước mặt cũng có thể cho qua. Phạm vi truy lùng lại rộng lớn, khắp cả ba huyện Bình Khê, An Nhơn, Phù Cát. Đã khó khăn như vậy mà còn lại có những tin đồn về đồng bọn Dư Đành với những hành tung thần kỳ như trong các chuyện kiếm hiệp, thám báo.

Một đêm, ông xã Đoàn cùng dân canh đang nằm nói chuyện râm ran bên đống lửa thì có quan đến. Quan đi ngựa có lính hầu cầm hèo đi trước, lính bưng tráp, lính xách điếu và hai lính vác súng theo sau. Anh lính cầm hèo hỏi giọng hách dịch:

- Bọn này, dân canh tuần xóm hả? Sao nằm dài cả trong điếm, không đèn đuốc gì cả mà chỉ nhóm một đống lửa loe loét thế này thì canh gác cái gì?

Xã Đoàn vội vã chạy lại trình bày. Các dân canh choàng dậy, hấp tấp ra sắp hàng. Quan ngồi trên ngựa bảo điểm danh. Thiếu hai người. Xã Đoàn trả lời lúng túng bị quan cầm roi ngựa đập lên đầu. Nó sụp lạy xin quan lượng thứ. Quan bảo ghi tên họ và bảo ngày mai lên nha hầu. Quan dặn dò chỉ bảo cách thức canh tuần rồi đi qua các điếm khác. Quan nói giọng Huế trọ trẹ. Mấy tên lính câm như thóc, trừ tên cầm hèo nghe giọng quen quen. Hú vía, may mà quan không cho đánh mõ, bắt trói giải huyện.

Sáng hôm sau, có phi báo tốc hỏa của huyện cho biết đêm qua bọn Dư Đành đã giả danh quan huyện đi từ Phú Phong qua Kiên Mỹ xuống Thuận Nghĩa, Trường Định rồi về Thuận Hạnh. Khẩn sức các làng truy nã nhất là bốn xã Thuận Truyền, Thuận Hạnh, Thuận Ninh, Thuận Nhất, phải tìm cho ra tông tích bọn này.

Lại hú vía lần thứ hai: Đã để cho bọn Dư Đành qua mặt mà không bị trừng phạt.

Việc ấy có thật như thế không? Cứ đồn đi đồn lại mãi nên thành giai thoại mà chưa có xác minh hoặc biết rõ là có thật hay không?

Về việc truy tầm của các võ sĩ, chỉ ghi dấu có một việc nổi tiếng. Đó là sự sáp mặt và giao đấu giữa Bảu Lụt và Dư Đành, xảy ra vào một buổi chiều tháng tư, trên một con suối cạn vắng vẻ.

Mặc dù Bảy Lụt đi truy tầm Dư Đành, nhưng cuộc giáp mặt ấy đối với Bảy Lụt vẫn là một sự cầu may. Trái lại, đối với Dư Đành thì đây là một cái bẫy lừa cho Bảy Lụt chui vào để diệt. Và nhất là để cảnh cáo, để "dằn mặt" các võ sĩ khác đã mang trát mật đi truy lùng bè đảng Dư Đành.

Cuộc đấu sức giữa hai địch thủ cân sức cân tài, song cái rủi vẫn dành riêng cho Bảy Lụt, vì các bạn đồng nghiệp đã bỏ chạy khi lâm trận để lại một mình Bảy Lụt nằm chịu trận đao thương.

Việc đánh chém Bảy Lụt táo tợn quá làm cho quan tỉnh, huyện căm giận điên tiết lên cho lùng sục ráo riết, canh tuần nghiêm ngặt. Bọn cướp không còn dám tụ tập tại sào huyệt trong vùng núi Tứ Thuận. Không có chỗ dung thân, chúng phải phân tán mỏng ra, trốn mỗi đứa một nơi. Sau cùng bị lộ, bị bắt dần từng đứa một.

Sở dĩ bị như thế là vì chúng không có quần chúng ủng hộ, bao che. Khi chúng đắc thế thì có vài người chứa chấp, cung phụng, nhưng cũng chỉ để lợi dụng theo đóm ăn tàn hoặc để khỏi gây thù oán mà thôi. Lúc bị truy cấp, không ai dám rây vào cho nên chúng bị cô lập hoàn toàn.

Người bị bắt sau cùng là Dư Đành.

Nhờ Bảy Lụt thoát chết, nên hình dáng của Dư Đành được Bảy Lụt tả rõ, cho nên quan trên cho truyền báo khắp nơi. Đồng đảng lần lượt bị bắt, Dư Đành không còn bộ hạ phò tá, bị truy nã thất cước. Dư Đành chạy từ núi Bình Khê xuống núi An Nhơn rồi Tuy Phước, trốn tránh trong khe núi, đêm mò xuống đồng kiếm ăn. Giống như cọp hung dữ đi qua để lại dấu chân và mùi hôi thối khét lẹt, Dư Đành đi qua nơi nào cũng để lại nhiều vết vì phải bẻ trộm chuối, ăn trộm gạo, mắm, muối và áo quần để sinh sống. Bị trộm cắp, dân liền báo ngay cho xã, huyện để theo dấu lùng kiếm.

Một hôm, hai anh dân tuần của xã Tân Vinh lùng nơi núi Phước An thì gặp Dư Đành đang nằm ngủ ngay dưới bóng một tảng đá hàm ếch, cây rựa quéo để bên cạnh. Vội vã chạy về phi báo. Hội đồng xã đưa lên mấy chục dân tuần, gậy gộc, dây thừng, vũ trang đầy đủ. Đoàn người chia làm nhiều toán, bí mật kéo đến núi Phước An. Lúc ấy, có một tu sĩ ở nhà dòng Lòng Sông đang đi săn cũng theo coi. Khi bị bao vây, Dư Đành vẫn còn say sưa trong giấc ngủ. Tiếng ngáy ồ ồ như bò rống. Ba cây gậy thọc đầu vào khe đá còn một đầu do ba người lực lưỡng cầm hai tay đè xuống. Một chắn ngang cổ, một ngang bụng, một ngay ống chân. Dư Đành giật mình thức giấc, dùng hai tay cầm giữa cây gậy nơi cổ nhấc bổng lên, đồng thời chuyển gân bụng chịu với cây gậy thứ hai và hai chân định uốn qua thoát khỏi cây gậy thứ ba. Cây gậy nơi cổ cong vòng nơi khúc giữa. Hai người tuần đinh khác vội nhảy lại giúp sức đè mạnh xuống. Lực đè dường như bằng sức nâng, nên cây gậy cong vòng sắp gãy. Tảng đá hàm ếch lung lay như sắp đổ sập xuống đè tất cả mọi người. Lý trưởng trong cơn hốt hoảng vội quát to:

- Nằm im, không thì tao bắn.

Vừa đúng lúc ông tu sĩ nạp xong đạn vào cái súng săn, bắn chỉ thiên đùng một phát.

Dư Đành hoảng sợ kêu lên:

- Thôi đừng đè nữa, tôi xin hàng.

Tiêu Diêu Du
28-08-2004, 19:31
Dân tráng xúm lại trói cả chân tay, bó toàn thân Dư Đành vào một đòn tre dài rồi khiêng đi nạp quan.

Dư Đành được đưa về dinh tổng đốc, đóng vào cổ một cái gông tạ, chân đeo một cái bánh xe bằng gỗ, đặt nằm tại dịch đình cho dân chúng đến xem. Đúng vào dịp tôi theo cha tôi đi Quy Nhơn có ghé lại xem mặt Dư Đành.

Chắc nhiều người muốn biết Dư Đành như thế nào? Lúc ấy, tôi mới mười tuổi nên bây giờ không nhớ rõ nét mặt và đặc điểm của Dư Đành. Chỉ còn nhớ rằng đó là một người cao to, vạm vỡ có gương mặt dữ tợn nhưng hơi tái. Quần áo thì chỉ có áo cánh, quần đùi, trông cũ kỹ lắm. Chỉ có một việc là tôi nhớ mãi. Đó là cái gông, cái bánh xe và cái cùm.

Cái gông làm bằng hai súc gỗ lim dài độ 2 mét, rộng 0,2 mét, dày 0,15 mét, có bốn cây ngang to bằng bắp tay ghép chung lại để hở ở giữa đủ vừa cái cổ. Hai đầu có hai thanh ngang đóng nêm vào hai súc gỗ ấy. Hai thanh gỗ tròn nơi giữa gông cũng âm sâu vào hai khúc gỗ lim. Chung quanh gông lại ràng thêm dây thép. Khi chúng tôi đến xem thì Dư Đành đang nằm ngửa, cổ trong gông, đầu gối lên một khúc gỗ, hai đầu gông sát vào hai vách của góc. Chân trái Dư Đành đeo một bánh xe bằng gỗ, đường kính độ 0,3 mét, có lỗ tròn ở giữa vừa sít với cổ chân. Bánh xe này gồm hai mảnh ghép lại ở đường kính và được đóng dính lại bằng hai miếng sắt rộng 0,03 mét có đóng đanh. Chân phải thì đút vào trong một cái cùm gỗ có bốn lỗ để cùm chân 4 người (nhưng lúc đó chỉ có một mình Dư Đành). Cái gông chắc nặng lắm. Người ta gọi là gông tạ, nhưng có lẽ nặng hơn. Sau một giờ trưng bày cho nhân dân xem (một ngày, sớm chiều hai lần) rồi phạm nhân được tháo cùm đưa trở lại nhà lao. Tháo cùm xong, phải có hai người lính lực lưỡng đến hai đầu gông nhấc lên, Dư Đành mới ngồi dậy được. Nghỉ một lát, hai anh lính đó lại đỡ hai đầu gông giúp Dư Đành đứng lên, quay cái gông ra hướng trước sau để hai súc gỗ nằm trên hai vai. Dư Đành đưa hai tay lên đỡ gông, nhích cho được thăng bằng, rồi ráng sức bước tới từng bước. Khi xuống các bậc cấp, lính lại phải đỡ giúp hai đầu gông và dìu xuống đến đất bằng mới để cho Dư Đành đi một mình.

Vụ án Dư Đành được xét xử nhanh. Dư Đành lãnh án chung thân, đày lên Lao Bảo. Bảy Hựu tuy là quân sư nhưng nhờ ít tham gia đánh người, đốt nhà, nên bị xử hai mươi năm. Phỉ, Cao, Đen đều bị án mười lăm năm. Cả bốn người đều đày lên Lao Bảo. Còn một số khác lãnh án ba đến năm năm giam tại lao tỉnh.

Khi năm người bị trọng án này được đưa xuống Quy Nhơn để giam tại đề lao nhà đá chờ phát Bảo (đi đày Lao Bảo) thì gông tạ không được dùng nữa. Dư Đành được mang gông ngắn, chỉ vừa quá hai vai, nhẹ hơn. Nhưng bánh xe ngang ở chân vẫn giữ và đêm vẫn bị cùm chung với bốn người kia.

Năm người nằm riêng một phòng, gần bót gác, cách ly những phạm nhân khác. Dư Đành đã bàn cùng bốn bạn tìm cách vượt ngục, trốn về vùng núi An Khê, ẩn nấp một thời gian rồi hoạt động lại.

Hựu trách bốn bạn:

- Trước, tôi đã can không cho đánh Bảy Lụt mà các anh không nghe. Đánh nó có ích gì? Mà chỉ làm cho quan và xã đoán biết địa bàn làm ăn của mình nên ráo riết lùng quét gây nên cảnh ngày nay. Nay lại bàn ra chuyện này thì chỉ có thí cái đầu của mình.

Anh em thuyết phục không được bèn yêu cầu Hựu:

- Nếu anh không làm thì xin đừng làm lỡ việc của chúng tôi.

Hựu đồng ý là sẽ giữ kín như bưng, có gì thì chịu một mình chứ không hở môi:

- Chúng ta đã thề đồng sống chết, đã tin nhau, đã nương tựa nhau cùng tung hoành. Nay anh em cần tin tưởng rằng tôi không hèn nhát để tố cáo anh em. Tôi không tham gia chỉ vì tôi thấy trước sự thất bại mà thôi.

Thế là bốn người kia chuẩn bị kế hoạch và mọi phương tiện. Vài hôm sau, mọi việc chuẩn bị hoàn tất.

Đến đêm thứ tư, đúng mười hai giờ đêm, chúng bẻ xích tháo được gông, cùm một cách êm ả, rồi phân công hành động. Dư Đành và Đen lén ra cửa giết lính canh cổng lấy súng. Cao ở lại canh chừng, Phỉ lẻn ra phụ trách ném dây lên tường để đồng bọn leo ra.

Dư Đành và Đen ra đến cửa thì vừa lúc tên lính gác cùng tên cai đốc canh đang rọi đèn xem lại khóa, nên việc cạy khóa chui ra phải hoãn lại. Chúng trở vào, giả nằm ngủ. Độ nửa giờ sau, chúng lại lần ra, nhưng vừa đến cửa thì nghe sau lưng có tiếng kêu "ôi chao" não nuột, nghe lạnh mình. Chúng trở vào thì thấy Phỉ đã dùng lưỡi dao cùn của chúng lén đem vào để cạy cùm, tự chặt bàn tay trái của mình. Máu tuôn xối xả, bàn tay tòn ten nơi cổ tay trông thật hãi hùng. Dư Đành vội bóp chặt cổ tay trái của Phỉ để cầm máu. Đen xé áo buộc lại.

Cả bọn chưa biết xử trí ra sao thì Hựu đã cầm lấy lưỡi dao, đặt bàn tay trái mình lên cùm, chặt một dao. Hai ngón tay trỏ và giữa văng nằm dưới đất. Bọn còn lại vội la kêu cứu.

Lính nghe tin, mở cửa cầm súng xông vào, thấy tình trạng này vội bắt Dư Đành, Cao, Đen gông lại rồi gọi y tá đến băng bó cứu chữa kịp thời cho Phỉ và Hựu rồi chuyển đi bệnh viện.

Tiêu Diêu Du
28-08-2004, 19:44
Sáng hôm sau, Dư Đành, Cao, Đen lập tức được đưa lên xe chuyển đi Lao Bảo. Còn Hựu và Phỉ nằm lại bệnh viện ba tháng đợi lành vết thương rồi cũng lên đường đi Lao Bảo.

Năm 1952, tôi học lớp nhì, ở trọ tại chùa Long Khánh sát bên nhà lao Quy Nhơn (cách nhau chỉ có một con đường đất cát) nghe một chuyện rùng rợn mới của Dư Đành:

Dư Đành ở tù Lao Bảo được mấy năm thì một hôm đi làm lao động lên rừng đốn củi, nhân một dịp thuận tiện, Dư Đành hạ thủ người lính coi giữ tù, lấy súng trốn đi. Chính quyền các địa phương được lệnh tầm nã, canh tuần cẩn mật, từ Quảng Trị trở vào Bình Định. Lính khố đỏ, khố xanh đi tuần tiễu hàng ngày trên các nẻo đường rừng núi, phục kích các nơi hiểm yếu ròng rã hai tháng trời mà chẳng thấy tăm hơi Dư Đành.

Nửa tháng gần đây, nghe tin Dư Đành đã trở về miền núi Bình Khê, loanh quanh ở vùng Tứ Thuận. Dân làng, lính tập kéo nhau ngày đêm đi lùng sục các làng ấy và các khu rừng núi kế cận.

Cuối cùng đã tìm được Dư Đành, đang bị cơn sốt rét dày vò trong một hang núi. Dư Đành, thân thể bị bủng beo xanh xao vàng vọt. Hai chân bị phù sưng to như hai chân voi. Dư Đành bị trói khiêng về trại giam tỉnh rồi chuyển xuống nhà lao Quy Nhơn.

Tại trạm giam tỉnh, Dư Đành đã khai về ý đồ vượt ngục của y:

- Dư Đành cố tâm vượt ngục để về tìm viên xã đoàn làng Thuận Ninh trả thù. Tên này võ nghệ bình thường nhưng cũng nhận trát mật đi bắt Dư Đành. Đã nhiều ngày, tên này xông xáo vào tận sào huyệt dò xét để về bẩm báo với quan trên. Dư Đành về tìm giết tên xã đoàn này rồi sẽ tự sát.

Từ trại giam tỉnh giải xuống nhà lao Quy Nhơn, Dư Đành bất tỉnh. Chỉ độ mười hôm sau thì chết.

Năm 1934, tôi làm tại ty niết Bình Định có dịp gặp lại Phỉ và Hựu. Cả hai mãn hạn tù được giải về giao cho tỉnh để lập hồ sơ đưa về quản thúc tại xã. Phỉ được tha về trước, người đã già nhưng vẫn còn mạnh khỏe, bàn tay trái đã bị cụt. Sáu tháng sau, Hựu cũng được tha về, gầy yếu hơn Phỉ. Cả hai đều được ân giảm nhiều lần nên được tha trước hạn. Hỏi đến Cao, Đen thì hình như một người đã về năm trước và một người đã chết tại nhà lao.

Hựu và Phỉ đều kể lại cho tôi nghe việc chặt tay trong đêm vượt ngục và Phỉ nói:

- Lúc ấy tôi thấy ý kiến anh Hựu là đúng, vì kế hoạch vượt ngục táo bạo vừa thiếu điều kiện cụ thể. Lính canh không phải một người mà nhiều người. Có thể tiếp cận bóp cổ nhưng rồi thoát đi ngõ nào. Mà bóp cổ như thế nào để đừng lọt ra một tiếng kêu nhỏ nào? Nếu trong vòng năm phút mà chưa ra lọt tường lao thì bọn lính gác khác sẽ phát hiện. Ra khỏi trại giam rồi đi đâu? Làm sao ra khỏi thành phố trước khi chúng báo động… Hơn nữa, chúng tôi hoàn toàn đơn độc, bên ngoài không một chỗ nương thân, không một ai che chở nuôi nấng, dấu che trong những ngày lẩn tránh. Hễ ló mặt ra là bị dân chúng nghi ngờ phát giác rồi đi báo quan. Nhưng vì nể anh Dư Đành, tôi không nỡ không theo ý của ảnh. Vậy mà vẫn suy nghĩ, lo sợ. Nếu lần thứ nhất mà trót lọt thì tôi đi ngay không do dự. Nhưng lại bị trắc trở. Lúc anh Đành và Đen trở lại chỗ nằm khiến tôi càng nghĩ lung và chỉ mong anh Dư bỏ ý định vượt ngục. Nhưng rồi anh ấy lại trở dậy ra cửa. Tôi không chịu được nữa nên đành làm liều để khỏi phải đi theo, khỏi phải liên lụy. Chỉ tiếc rằng khi chặt bàn tay, vì đau quá không thể nén được tôi đành phải thốt ra hai tiếng "chao ôi" làm đổ vỡ kế hoạch của anh Dư Đành.

Hựu cũng nói:

- Anh Phỉ không bàn với tôi, nhưng tôi biết anh ấy lo lắng lắm. Khi thấy anh Phỉ chặt bàn tay thì rõ ràng công việc đã bị bại lộ. Tôi nghĩ anh Dư Đành bị lỡ cuộc sẽ oán tôi, nên tôi vụt nảy ý tự hủy hoại bàn tay để chấm dứt mọi liên hệ với anh ấy kể từ đây. Thật tình mà nói, nếu đêm ấy cạy cửa ra được thì tôi tin chắc rằng cũng sẽ bị tóm ngay trước khi vượt tường ra bên ngoài. Muốn vượt ngục thì phải có tay trong tay ngoài thì kết quả mới bảo đảm. Tôi không tham gia là như vậy.

Câu chuyện về Dư Đành là như thế ấy.

Tiêu Diêu Du
08-09-2004, 10:36
DIỆP TRƯỜNG PHÁT

Người Minh Hương, ngụ tại An Thái, huyện Bình Khê, có tục danh là Tàu Sáu.

Ông sinh trưởng tại Việt Nam, song theo tục lệ Trung Quốc, năm lên mười ông được đưa về Trung Quốc học văn lẫn võ trong năm năm. Ông nói tiếng Việt rành rỗi như một người dân Việt. Võ nghệ giỏi, văn chương lại tinh thông, hợp với tính tình đôn hậu nên bạn bè của ông có khắp nơi trong tỉnh.

Cùng với họ Quách, họ Diệp là hai họ đầu tiên gây dựng nên thôn An Thái và tổ chức thành một nơi thị tứ. Hai họ rất thân với nhau. Sau khi họ Quách dời lên thôn Thuận Nghĩa, hai bên vẫn thường xuyên qua lại thân tình với Quách Trường Xuyên và Quách Trường Sa, tuy hai anh em học Quách thuộc vào hàng con cháu.

Hầu hết các trai tráng trong làng đều học võ nơi ông. Tuy nhiên, ông không chuyên tâm huấn luyện một ai để trở thành truyền nhân của ông. Ngoại trừ người con trai.

Ông Tàu Sáu giỏi về quyền cước. Bởi vậy, ở Bình Định có câu: "Roi Thuận Truyền, quyền An Thái" hoặc "Roi Thuận Truyền, quyền An Vinh", vì tại An Thái có võ sư Diệp Trường Phát, ở An Vinh có gia đình ông Hương mục Ngạc. Cho nên dùng câu nào cũng được.

Trong những năm ở Trung Quốc, ông theo học võ Thiếu lâm. Gần đây có người ghép ông là ông tổ phái võ Tây Sơn. Chuyện này không được chính xác. Vì tổ tiên của ông không có liên hệ gì với nhà Tây Sơn và chính ông cũng thừa nhận ông thuộc môn phái Thiếu lâm.

Ông không bao giờ đấu võ ở các nơi. Khi phải giao đấu với Hai Tửu là sự chẳng đặng đừng. Một là cho Hai Tửu một bài học, hai là chứng tỏ tài nghệ của mình. Tuy là một võ sư danh tiếng mà thái độ ôn tồn nhã nhặn như một văn nhân. Nhìn qua, không ai ngờ là người đã từng đánh ngã một lần mười người đàn ông mạnh khỏe.

Sau đây là mẩu đối thoại giữa ông và Quách Trường Xuyên:

- Đối với tôi, nước Trung Hoa là cha, nước Việt Nam là mẹ. Chữ hiếu nặng cả hai vai.

Trường Xuyên hỏi:

- Võ Bình Định nổi tiếng ở Việt Nam, nhưng đối với võ Tàu thì như thế nào?

Diệp Trường Phát đáp:

- Võ Bình Định gốc võ Tàu mà ra. Mà võ Tàu có nhiều môn phái. Truyền sang Việt Nam hầu hết là môn phái Thiếu lâm. Những võ sư sang Việt Nam có lắm người chưa học hết các môn trong môn phái. Rất ít người đã lãnh hội được môn bí truyền của bổn sư. Như thế những người Việt Nam học võ, thì làm sao sánh kịp những người học tận gốc.

- Lúc về Tàu, chắc chú thụ giáo được nhiều?

- Học suốt đời mà còn chưa tới chỗ vi diệu, huống hồ tôi chỉ học có mấy năm. Những gì trước kia tôi học được ở Việt Nam, khi về Tàu đều trở thành vô dụng mà còn có hại là khác. Những đường đi sai lâu ngày trở thành thói quen, thật khó cải tạo! Cho nên muốn học võ phải tìm thầy thiện nghệ chớ nếu học với những người thiếu căn bản chỉ biết "tròm trèm đôi miếng", tục gọi là "thầy vườn" thì đừng học còn hơn. Chính những người thiếu căn bản, những ông thầy vườn lại là những người ưa khoe khoang, ưa đấm đá, làm mất uy danh của võ lâm nhiều lắm. Do đó tôi ít muốn nói về võ nghệ.

Diệp Trường Phát cũng giỏi về văn chương. Ông sở trường về thơ Nôm. Cũng như phần đông người làm thơ Đường Luật, họ Diệp bị ảnh hưởng lối thơ trực trần và thiên về lối tiểu xảo lấy việc đối chọi cân xứng, sít sao mà định giá trị của thơ.

Một năm nọ, họ Diệp ra Quảng Nghĩa chơi, nhân có người ra đề "Dạ Vịnh Bút Sơn thi", ai muốn làm thơ chữ, thơ Nôm tùy thích. Phần đông người Việt và người Hoa làm thơ chữ Hán. Một mình họ Diệp là người Hoa lại làm thơ Việt. Ai nấy đều ngạc nhiên:

Dựng ngược giữa trời bút một cây

Chữ là hàng nhạn, chép là mây

Sao vì chấm hẳn từng câu rõ

Trăng cứ khuyên lần mấy chỗ hay

Nét mực nước chan nào có giậm

Cái ngòi gió thổi vẫn không lay

Nghìn thu cao ngất hình còn tạc

Tạo hóa vì ai khéo đắp xây

(Trích hồi ký Bóng ngày qua của Quách Tấn)

Ông cũng rất rành về môn hát bội. Giọng hát hay, lý thuyết giỏi và nghiên cứu rất tường tận các bản tuồng của các cụ Tú Nhơn Ân Nguyễn Diêu và cụ Đào Tấn. Những buổi gặp gỡ bạn bè võ nghệ như Đoàn Phong, Trường Sa, các bạn lại ít bàn về võ nghệ mà lại làm thơ thù tạc và phân vai cùng hát một vài lớp Trầm hương các, Cổ thành hội, Ngũ hổ bình tây.

Ông mất vào năm 1963, mộ chôn tại quê hương An Thái

Tiêu Diêu Du
08-09-2004, 10:42
KHÁCH BÚT
Tại huyện An Nhơn, cách Đập Đá vài cây số trên đường đi Gò Bồi, có một khu phố nằm dọc theo sông Biểu Xuyên có nhiều người Trung Quốc đến lập phố: đó là khu phố Kiến Hàng. Cách xây cất giống như mọi khu phố của người Trung Hoa ở khắp nơi trên đất nước Việt Nam. Những dãy phố thấp lè tè và sâu hun hút. Bên ngoài dùng để buôn bán và bên trong gồm nhiều gian phòng làm kho và làm chỗ ở.

Trong một ngôi nhà nhỏ, sống cô đơn một ông khách già. Đó là ông Khách Bút. Ông sống bằng nghề cao đơn hoàn tán. Trong một tủ kính kê sát tường, bày đủ mọi thứ thuốc cao đơn rất ngăn nắp. Một bộ ván nhỏ kê bên cạnh một cái bàn rộng, sắp đầy các thố thủy tinh to có, nhỏ có, trong chứa các loại thuốc tán, thuốc nước.

Hàng tháng, ông thường đóng cửa hàng, quảy một đôi bầu đi bán tại các chợ phiên Đập Đá, chợ Gồm, chợ Dinh. Đôi khi ông cũng đi Quy Nhơn, hoặc ra khỏi tỉnh. Ông sống lặng lẽ, ít bầu bạn nên mọi người chung quanh ít ai chú ý đến ông. Nhất là không ai biết ông là một võ sư sang Việt Nam để sinh sống bằng nghề bán cao đơn hoàn tán.

Cho đến một hôm, ông Khách Bút quảy đôi bầu đi bán phiên chợ Gồm về muộn. Trời đã tối mịt mà ông phải đi qua một cách gò mả khá rậm để về nhà. Một toán cướp dường như đã phục sẵn để chờ ông. Chúng lặng lẽ đón đường và đòi lấy tất cả tiền bán hàng. Ông Khách Bút không chịu, nên một trận ẩu đả xảy ra. Dùng chiếc đòn gánh, ông Khách Bút đã đánh tan tác bọn cướp. Tuy không có người chết song không một người nào không khỏi bị thương. Câu chuyện đón đường ăn cướp bị đánh tơi bời rất ít người biết, vì bọn cướp cố giấu cái thảm bại của mình và riêng ông Khách Bút thì không khi nào mở miệng kể lại với ai. Sau này, khi nhận dạy võ cho học trò, ông mới kể lại. Mãi đến khi xảy ra câu chuyện náo loạn tại chợ Gò - Tuy Phước, khắp cả huyện, toàn tỉnh đều biết ông Khách Bút là một người có võ nghệ tuyệt luân.

Phiên chợ Gò là một phiên chợ hàng năm có một lần họp chợ rất đông đảo, tập hợp mọi người chẳng những là trong huyện Tuy Phước mà còn gồm nhiều người ở các quận trong tỉnh Bình Định và các tỉnh Nghệ An, Huế, Quảng Nam, Gia Định, Phú Yên…

Nguyên đây là một khu gò mả rộng rãi nằm gần chùa hang núi Cần Úc, huyện Tuy Phước, gần quốc lộ xuống Quy Nhơn. Gò này trong thời Tây Sơn đã xảy ra một trận đánh lớn, quân Tây Sơn và Gia Long chết tại đây rất nhiều.

Tháng 4 năm Kỷ Mùi (1799), Nguyễn Phúc Ánh kéo quân ra đánh Quy Nhơn, sai Võ Tánh và Nguyễn Huỳnh Đức đem quân lên bộ đóng ở núi Hàm Long, thuộc huyện Tuy Phước. Hàm Long, còn gọi là Cần Úc, là một độc sơn thấp bé song có thể dụng binh, nằm trong địa phận thôn Thuận Nghi. Hình giống như đầu rồng, miệng há rộng. Con sông Hà Thanh chạy từ nam ra bắc, qua khỏi núi thì quành xuống đông để ra đầm Thị Nại, tạo thành cánh tay ôm lấy chân núi ở mặt bắc và mặt tây.

Chiếm cứ Hàm Long, Võ Tánh chờ thủy binh của Nguyễn Ánh kéo đến đánh ở mặt bắc thành Quy Nhơn thì mình sẽ kéo binh đánh bọc hậu.

Tướng Tây Sơn là Võ Đình Tú đi kinh lý Phú Yên được tin quân Nguyễn Phúc Ánh đổ bộ lên Quy Nhơn, vội kéo quân về, đi thẳng lên Cần Úc đánh quân Võ Tánh.

Hai bên đánh nhau kịch liệt suốt hai ngày đêm. Trận này quân Tây Sơn thất bại và tướng Võ Đình Tú tử thương. Dưới chân núi Cần Úc có một gò rộng lớn. Thây binh sĩ hai bên chôn cất lẫn lộn tại đây. Vì là nơi chôn cất của binh lính hai nhà Nguyễn Tây Sơn và Nguyễn Gia Miêu, gồm nhiều quân các tỉnh, nên hàng năm vào ngày phiên chợ Gò (ngày 30 tháng 4) những thân nhân của các tử sĩ đều tụ hội về thắp nhang tập thể tại chợ Gò. Để tránh sự rắc rối do quan quân địa phương triều Nguyễn Gia Miêu, phần đông người đi tảo mộ đều đem theo một ít hàng hóa nơi địa phương mình để bán tại chợ Gò, gọi là có công chuyện bán buôn. Do đó ngày 30 tháng 4 âm lịch, chợ Gò bỗng nhiên đông đảo người đi chợ.

Chợ nhóm bắt đầu từ lúc hoàng hôn buông xuống. Từ xế chiều, các đoàn người gồm đủ các hạng người: già có, trẻ có, thanh niên, thiếu nữ, quang gánh, thúng mủng, tay xách, tay nải từ các nẻo đường tụ hội về tại chợ. Ngay trước ngõ vào chợ là một cái "bể hạ" (một loại như cửa ngọ môn làm bằng gỗ và tre được dựng ngay trên đầu hai cánh cửa đan bằng tre chắc chắn). Đi ngoài đàng cái quan nhìn vào khi hai cánh ngõ đóng lại thì không thấy gì bên trong chợ cả.

Khi trời nhá nhem tối, người bán hàng bày hàng của mình ngay dưới đất và trước hàng cắm một nhánh tre, trên treo một ngọn đèn dầu phộng cháy leo lét. Dưới gốc nhánh tre, một bó nhang nghi ngút tỏa khói. Nhìn chung toàn cảnh thì trông như một buổi họp chợ, song cái không khí náo nhiệt ồn ào thường lệ của một buổi chợ phiên nơi thôn quê không còn nữa mà chỉ như một đám cúng cô hồn ngày rằm tháng bảy tại các chợ làng. Tuy nhiên nhờ có đông đảo người qua lại, nên tuy ít phần náo nhiệt song vẫn có cái không khí chợ búa. Không khí ban đầu im lắng trang nghiêm bao trùm cả chợ.
Người bán cũng như người mua đứng ngồi trang nghiêm, dường nhẩm đọc đoạn văn chiêu hồn của Nguyễn Du:

Nào những kẻ bài binh bố trận
Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung

Gió mưa thét rống đùng đùng

Dãi thây trăm họ làm công một người

Khi thất thế tên rơi đạn lạc

Bãi sa trường thịt nát máu trôi

Bơ vơ góc bể chân trời

Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao!

Trời xâm xẩm mưa gào gió thét

Khi âm ngưng mờ mịt trước sau

Năm năm xương trắng dãi dầu

Nào đâu điếu tế nào đâu chủng thường...

Khi nhang tàn và lửa đốt vàng bạc rực cháy phừng phừng thì cảnh nhộn nhịp buôn bán bắt đầu. Không khí âm u lạnh lẽo ban đầu không còn nữa. Dường như người hai cõi âm dương đã thông quan cùng nhau. Trên nét mặt mọi người biểu hiện cái nét tươi vui hớn hở như vừa gặp gỡ người thân xa cách bấy lâu.

Chợ cứ thế mà ồn ào náo nhiệt cho đến gà gáy sáng. Khi sao mai đã rực rỡ phương Nam thì người lần lượt ra về. Lúc đến trong im lặng âu sầu, khi ra về trong niềm vui hớn hở.

Hằng năm, phiên chợ Gò rộn rịp nhóm một lần. Quan cai trị địa phương tuy biết rằng hội chợ chỉ là một cái cớ để mọi người từ xa tụ về tảo mộ vong nhân. Người của gia đình triều Tây Sơn cũng có mà của triều Gia Long cũng có. Cho nên địa phương vẫn làm ngơ coi như chỉ là một phiên chợ thường.

Cũng như mọi người có chút tình võ đạo, ông Khách Bút năm nào cũng có mặt ở phiên chợ Gò ngày cuối tháng tư.

Một lần vào sáng ngày tan chợ, bọn vô lại trước kia đã từng bị ông Khách Bút đánh tan tác lúc chận đường cướp tiền, gặp ông ở phiên chợ. Chúng âm thầm theo dõi và tụ hội những bạn bè vô lại ở các nơi đang có mặt tại phiên chợ, nhất định trả thù. Chúng chuẩn bị gậy tre, giáo mác và mã tấu dấu trong các sạp hàng.

Khi trời vừa mờ mờ sáng, chợ đã bắt đầu thưa người thì chúng kéo cả bọn ra đón ông Khách Bút. Trước tiên, chúng nhái tiếng Trung Hoa nói những câu vô lại với ông Khách Bút rồi đồng rố lên cười. Vẫn điềm nhiên, ông Khách Bút đứng lên sửa lại đôi bầu thuốc và lẳng lặng gánh đi. Được thế, một tên túm lấy cái "đuôi chệt" của ông kéo ghì ra phía sau.

- Vô lễ.

Tiếng mắng chưa dứt, ông Khách Bút đã tung một cước đá hậu. Tên vô lại bắn ngã ngửa vào một cái chòi tre cách đó vài thước, nằm ôm bụng rên la.

Cả lũ hò lên một tiếng và một số chạy đi lấy vũ khí, một số dùng quyền cước xông vào. Chỉ vài ngọn cước cùng vài cái vung tay, bọn vô lại đã bò lăn, bò càng.

Ưng dung cúi xuống cầm lấy đòn gánh định gánh đôi bầu đi thì ông Khách Bút trông thấy một lũ khác đang cầm vũ khí rầm rập chạy đến. Biết không thể nhân nhượng được nữa, ông Khách Bút cầm ngang cây đòn gánh làm vũ khí tùy thân. Trận hỗn chiến càng ngày càng khốc liệt. Ngoài bọn vô lại, còn có một số người biết võ nghệ cũng xông vào vòng chiến mà không hiểu ất giáp gì cả. Chỉ kịp nghe đánh với khách trú là xông vào để rồi lãnh một vài thế đòn.

Trước một đám đông có gậy, giáo, ông Khách Bút trước chỉ đỡ gạt mà không phản công, sau thấy càng lâu bọn người vô lại càng để lộ dã tâm đánh chết mình nên ông Khách Bút liền đổi thế đánh và cố thoát lấy vòng vây, vì nếu đánh dai dẳng chắc sẽ gây ra thương vong vô ích.

Thoáng một cái, tự nhiên đám người ô tạp mở rộng vòng vây. Một số người té nhủi vào nhau, gậy giáo văng ra ngoài xa. Ông Khách Bút đã dùng chiêu thức "Toàn phong tảo lạc diệp" đánh văng vũ khí và mở đường tiến ra cổng chợ. Ông đi đến đâu người rạp đến đó, gậy văng tứ tung. Khi đi gần đến cổng chợ thì có người lanh tay đóng ngay hai cánh cửa lại. Thấy thế, sau khi quét một vòng theo thế "Toàn phong tảo lạc diệp" để nới rộng đám đông, ông chụp ngay ba cái mâm bằng gỗ thị để ở bên hông một ngôi hàng và vút một cái, ông đã nhảy lên trên "bể hạ" ngay cổng ra vào. Thấy ông nhảy lên cao, bọn vô lại tưởng ông tìm cách nhảy ra khỏi cổng chợ, nên vội vã mở cửa và tràn ra ngoài đường. Đứng trên cao, ông Khách Bút cầm một mâm gỗ ném vù ngay trên đầu đám đông. Nhìn thấy cái mâm gỗ lao đi vun vút phát ra một âm thanh rợn người, đám đông sợ quá nằm rạp xuống đất. Tiếp theo là một tiếng vút rợn người nữa, mọi người vừa định nhổm dậy lại phải nằm rạp xuống lại. Ngay lúc đó, ông Khách Bút tung tiếp chiếc mâm thứ ba và thân hình ông cũng vừa vút theo chiếc mâm, và khi gần đến kịp chiếc mâm ông đưa chân khẽ chạm vào mâm và dùng mâm làm điểm tựa phóng mình nhảy qua khỏi đám đông đang nằm rạp dưới đất.

Vừa kinh sợ vừa thán phục, đám đông tự tan vỡ và không một ai dám đuổi theo.

Ông Khách Bút không chạy ra đường cái mà lại chạy theo hướng lên núi Cần Úc và chỉ vài cái nhún nhảy nhẹ nhàng, ông đã vượt qua eo núi, bóng khuất trong đám cỏ cây.

Từ đó khắp các huyện trong tỉnh, ngồi đâu người ta cũng nói về võ nghệ siêu quần của ông Khách Bút. Những câu chuyện huyền hoặc được thêu dệt, tô đậm thêm trong các buổi mạn đàm.

Sau đó vài năm, ông Khách Bút nhận dạy học trò. Ông chỉ dạy duy nhất có ba người:

- Ông Hương mục Ngạc và ông Năm Nghĩa ở An Vinh.

- Ông Ba Đề ở An Nhơn.

tuankhanh_nd00
08-09-2004, 14:40
ông nói gì mà nhiều vậy hả tôi chả hiểu gì cả
ông có thể nói văn tắt đi được không

Tiêu Diêu Du
09-09-2004, 10:47
BA ĐỀ

Ba Đề người thuộc huyện An Nhơn, học trò Khách Bút. Được chân truyền về Côn và Quyền. Tánh tình hiền hậu, rất mực thương yêu học trò. Vì tấm lòng nhơn hậu đối với môn đệ nên bị lụy vì học trò.

Ông theo học thầy Khách Bút về môn Côn, chuyên vê Trung bình tiên. Học trò ông nhiều người xuất sắc như Từ Thứ là một.

Ông sống một cuộc đời bình dị, nay đây mai đó. Nơi nào vui ở lâu, rồi đến chơi nơi khác. Đến đâu dạy roi đến đấy. Vì không kén chọn học trò, nên ông bị nạn vì học trò.

Nguyên Ba Đề có hai người học trò thuộc vào hàng xuất sắc. Một hôm, theo một đám cướp đi cướp một nhà giàu tại thôn Kiến Hàng. Cuộc cướp vỡ lở, thanh niên trong thôn phần đông đều có võ nghệ nên kéo nhau vây đánh. Chống cự không lại, cả bọn kéo nhau chạy về hướng Đập Đá. Dân tráng đốt đuốc đuổi theo.

Ba Đề đang ở chơi tại nhà một môn đệ gần Kiến Hàng, nghe tin có đánh nhau bèn đến xem. Thấy trong đám cướp bị vây có mặt hai đệ tử của mình bèn tham gia trận đánh.

Vừa xông vào, Ba Đề đã bị một gậy đánh vào đầu. Lập tức bước sang một bên để né tránh thì sau lưng đã vù vù bay lại một gậy thứ hai.

Cúi mình luồn qua tên thứ nhất, khiến cho tên này lãnh trọn ngon roi của tên thứ hai. Ngay lập tức Ba Đề đoạt lấy roi và dùng ngay thế "Toàn phong tảo diệp" vung roi đánh rạp hơn chục người bao quanh. Biết gặp cao thủ, mọi người hò nhau hướng về Ba Đề. Roi, rựa quéo đều nhằm ngay Ba Đề bổ xuống. Một mặt che cho hai đệ tử, một mặt Ba Đề đánh tháo một đường trống để rút lui. Nhân dịp vòng vây sơ hở, hai tên đồ đệ vượt vòng vây cắm đầu chạy trốn, để mặc thầy ở lại chịu đòn.

Ba Đề vừa đánh vừa lui đến giữa bậc ruộng trên và ruộng dưới. Nơi đây có một con mương, bờ đắp cao ngang bụng, nên Ba Đề nương làm thế che mặt sau để chống đỡ mặt trước. Đám người ỷ thế đông lăn xả vào, nhưng vào ít thì ngã ít, vào nhiều thì ngã nhiều. Một thế roi văng ra, vài ba người văng vũ khí, ôm đầu chạy thối lui. Thấy không thể chống cự lâu dài, vì đám cướp đã chạy trốn tứ tán không người hỗ trợ, Ba Đề vụt nhảy lên bờ mương tìm phương chạy trốn. Rủi ro thay, khi định nhảy qua mương thì bị một người nương theo lòng mương lòn sau lưng Ba Đề, đánh ngay một gậy vào chân. Ba Đề dùng roi đỡ được thì bị một mũi tên đã cắm phập vào ót. Ba Đề lảo đảo và nhận thêm một vài gậy vào lưng đành ngã gục xuống mương. Gậy, đuốc, rựa quéo đồng loạt bổ xuống, Ba Đề chết ngay tức khắc. Đám đông sau khi lật mặt nhìn xem, thấy Ba Đề là người lạ mặt, nên lẳng lặng bỏ xác lại nơi mương rồi kéo nhau rút lui.

Hai tên học trò, chạy trốn và ẩn sau một cái mả vôi, chờ đám đông đi khuất mới đến hiện trường và phát hiện xác của thầy nằm chết dưới mương. Vừa thương cảm vừa sợ hãi, hai người đem vùi thây thầy tạm thời dưới lòng mương rồi chạy về làng. Khuya hôm sau rủ thêm hai người bạn nữa đến moi xác thầy lên, đem về đồng làng chôn cất một cách thầm lặng, sợ người làng hay biết, vì tin bọn cướp có người bị đánh chết bỏ thây ngoài đông lan ra khắp huyện An Nhơn.

Việc Ba Đề chết vì cứu học trò làm bậy được lấy làm một tấm gương cho các võ sư chọn lựa môn đệ. Học trò giỏi võ mà không có đức hạnh thì dù có tài cao đi nữa cũng không làm rạng danh sư phụ.

Tuy nhiên, Ba Đề cũng đã để lại cho đời một học trò danh vang khắp huyện. Đó là Từ Thứ.

Tiêu Diêu Du
09-09-2004, 10:48
TỪ THỨ

Từ Thứ, người làng Trường Định, huyện Bình Khê. Họ Từ là một trong bốn họ Trần, Phan, Từ, Nguyễn khai phá và lập ra thôn Trường Định vào đời Lê Cảnh Hưng (tiền bán thế kỷ thứ 18). Ông học được toàn bộ môn đánh roi của Ba Đề, nhất là Trung bình tiên. Từ Thứ lại giỏi về môn quyền, nhờ luyện tập chuyên cần, Từ Thứ được mọi người coi như là một Ba Đề thứ hai.

Rút kinh nghiệm nơi tai nạn của sư phụ, Từ Thứ rất kén chọn học trò, nhiều người đến xin thọ giáo, song Từ Thứ nhất mực từ chối. Người vừa có tài năng vừa có đức độ mới được ông đón nhận. Ông chỉ sơ qua cho con cháu trong làng Trường Định về môn đánh roi để phòng thân, giữ làng. Đệ tử duy nhất của ông là Đoàn Phong ở Mỹ Yên.

Từ Thứ ít khi giao thiệp với người đời, nên ít xảy ra chuyện xung đột trong giới võ lâm. Chỉ còn truyền lại chuyện đá văng Cả Nhượng.

Nguyên Cả Nhượng là một phú hộ ở Cà Đáo, theo đòi học võ đã lâu. Thường tự thị là đệ nhất võ lâm cao thủ huyện Bình Khê, trong nhà thường nuôi thầy võ để dương oai. Vừa có tiền lại có thế, nên Cả Nhượng xem thường mọi người. Hễ có gì không vừa ý là y vừa chửi vừa đánh ngay.

Một hôm, y dẫn bộ hạ đi ăn giỗ ở thôn Trường Định. Từ Thứ cũng được mời. Cả Nhượng trước đây đã nghe danh Từ Thứ, nhưng y ỷ mình có võ nghệ và nhất là có bộ hạ là hai võ sư đi kèm, nên nét kiêu căng để lộ ra ngoài mặt.

Ăn xong, mọi người đang ngồi nơi phản giữa uống nước thì Cả Nhượng lên tiếng:

- Chà, lâu nay nghe danh Từ Thứ là học trò ruột của Ba Đề, võ nghệ cũng khá. Nhân có mặt hôm nay, xin được chứng kiến một vài thế. Có sẵn hai vị võ sư là người nhà của tôi, xin chỉ giáo.

Từ Thứ ôn tồn:

- Thưa Cả, học võ mục đích là để phòng thân giữ mình, chớ đâu phải để giao đấu với nhau cho vui. Xin Cả miễn cho.

Cả Nhượng nổi giận nói xách mé:

- Nếu tao muốn đấu với mày thì mày có dám đấu không?

Từ Thứ vẫn ôn tồn:

- Đấu với Cả lại càng không đấu!

Vừa nghe dứt lời, Cả Nhượng hai tay chụp lấy cái ống nhổ trầu bằng đồng để bên cạnh, đập xuống đầu Từ Thứ. Đang ngồi xếp bằng, Từ Thứ ngã người né tránh, rồi dùng ngay thế "Đạo Thiết Mã" vừa nằm ngửa vừa đá quét một cái. Cả Nhượng người to béo như một con trâu, trúng đòn văng như một trái banh từ phản ngựa vọt ra khỏi cửa bàn pha, lộn ba vòng rồi nằm thẳng cẳng ngoài sân. Hai võ sư đi theo sợ quá, tái cả mặt mày, vội vã chạy ra cõng học trò chạy mất.

Sau trận này, Cả Nhượng không bao giờ đi ngang qua thôn Trường Định nữa và mỗi lần nghe nói đến Từ Thứ thì vội tảng lờ đi như không hề quen biết.

Thế đá "Đạo Thiết Mã", Từ Thứ đã truyền cho học trò Đoàn Phong và cũng nhờ thế đá này mà Đoàn Phong đã hạ Mười Đậu trong hai lần đọ sức

Tiêu Diêu Du
09-09-2004, 10:53
HAI TỬU

Hai Tửu người làng An Vinh, huyện Bình Khê, Bình Định, cháu gọi ông Hương mục Ngạc bằng cậu. Từ nhỏ đã ham học võ nghệ. Học được các tay võ trong làng, lớn lên theo cậu học thêm võ công. Tuy không nhận cháu làm học trò song Hương mục Ngạc vẫn chăm lo luyện tập cho cháu. Vì vậy, cho nên Hai Tửu vẫn một niềm tôn kính cậu như một sư phụ.

Cậy có học tập và nương vào tiếng tăm của ông cậu, nên Hai Tửu thường tỏ vẻ ngông nghênh, coi ai cũng thua kém mình.

An Vinh và An Thái cách nhau bởi dòng sông Côn. Hai làng đều nổi tiếng võ nghệ.

"Trai An Thái, gái An Vinh" thường dùng để nói đến võ nghệ của hai làng trên. Tuy không đúng lắm song cũng có thể nói như vậy. Trai làng An Thái giỏi võ như gái làng An Vinh. Câu này thêm ý nhị cho câu ca dao:

Ai về Bình Định mà coi

Con gái Bình Định bỏ roi đi quyền

Có người nói là "cầm roi đi quyền" song khi đã cầm roi thì làm thế nào mà đi quyền được. Câu "bỏ roi đi quyền" ý nói gái Bình Định chẳng những giỏi roi (côn) mà cũng giỏi về quyền cước.

Câu "trai An Thái, gái An Vinh" thoát thai từ câu "trai An Thái, gái Phú Đa" của tục ngữ Bình Định để nói đến phong thái con người: trai An Thái người cân đối, gọn gàng đẹp trai, gái Phú Đa nổi tiếng xinh đẹp nết na.

Tuy nhiên, nói về võ thì câu "trai An Thái, gái An Vinh" gần đúng vì gái An Vinh có rất nhiều anh hùng hào kiệt như ở An Thái.

Hai làng cách nhau một dòng sông, nhưng tình giao hữu ít đậm đà. Tuy không có chuyện xích mích song lại ít qua lại. Khi thanh niên bên này xông qua bên làng nọ thì thanh niên bên làng nọ lo bảo vệ các thôn nữ của mình. Nên thỉnh thoảng cũng có một vài cá nhân đọ sức để tranh người đẹp. Những buổi hội hè, đình đám hoặc làm chay hát bội thì dân bên này cũng qua thôn bên kia, tuy nhiên không hề có vụ phá đám nào xảy ra. Thành ra tình giữa hai thôn tuy không thân nhưng thuận.

Hai Tửu biết bên An Thái có Diệp Trường Phát võ giỏi, nên nhiều lúc muốn sang thử sức. Nhân dịp nhà Tàu Sáu có ngày giỗ lớn. Bà con tụ về đông. Hai Tửu bèn sắm lễ vật đem sang thắp hương. Chủ khách gặp nhau vui vẻ trong xã giao. Thấy Tàu Sáu niềm nở trong giao tiếp, Hai Tửu tưởng là chủ nhà có ý khiếp danh Hai Tửu ở An Vinh. Khi trời đã xế chiều, khách đã ra về, chỉ còn lại một người lối xóm, đợi đến lúc gia chủ rảnh rang, Hai Tửu mới đứng lên ngỏ cùng Tàu Sáu xin được giao đấu một vài hiệp. Biết ý định của Hai Tửu ngay từ lúc vào nhà, Tàu Sáu chỉ nói một vài câu khiêm nhường xã giao rồi cùng Hai Tửu bước ra sân.

Chỉ qua lại vài đường quyền, Hai Tửu nhảy lên đá liên tiếp hai cước vào sườn Tàu Sáu. Lẹ làng né tránh, Tàu Sáu cũng đá lại một cước. Như chờ sẵn dịp này, Hai Tửu đánh mạnh một cùi chỏ vào chân đá của Tàu Sáu. Không ngờ chỉ là một cú đá dứ, nên Hai Tửu để lộ sườn nên lập tức bị trúng ngay một quyền và một cước. Hai Tửu ngã lộn nhào ra mé sân. Tuy không bị thương tích nhưng Hai Tửu đứng ngẩn người ra một hồi lâu rồi mới chào chủ ra về. Từ đó, Hai Tửu mới thật sự kính phục Tàu Sáu và khi nhắc đến tên họ Diệp thì không hề có một câu nào mạo phạm.

Tiêu Diêu Du
09-09-2004, 10:55
MƯỜI ĐẬU

Học trò xuất sắc của Hai Tửu là Mười Đậu. Người thôn Đại Chí, được Hai Tửu thương yêu như con ruột, mọi tuyệt kỷ đều truyền cho Mười Đậu.

Vốn sẵn có sức mạnh thiên phú và tính tình phóng khoáng, võ nghệ cao cường, nên Mười Đậu được vang danh khắp nơi. Bạn bè kẻ tốt thì ít mà bọn đàn em theo thói ngang tàng thì nhiều, nên càng ngày Mười Đậu càng thêm kiêu ngạo, tự đắc. Cho rằng mình tài nghệ vượt hơn thầy Hai Tửu, nên nhiều lúc làm bậy bị thầy quở trách, Mười Đậu đâm xa thầy rồi dần đi vào con đường du đãng.

Sau trận ẩu đả cứu chị Tám Cảng ở Thu Xà, Quảng Nghĩa, Mười Đậu càng kiêu căng hơn. Hễ nghe ở đâu có người võ nghệ cao cường là lập tức Mười Đậu đến thử sức ngay. Đụng độ với Đoàn Phong hai lần, Mười Đậu nhụt bớt tính hung hăng và đi theo bọn trộm cướp làm bậy.

Trong một trận đánh cướp ở An Nhơn, Mười Đậu bị truy nã và bị bắt giam tại huyện Tuy Phước. Một hôm, một toán tội phạm được đưa ra làm tạp dịch tại sân huyện đường. Tại trước cửa huyện có bố trí hai khẩu thần công vào đời Gia Long còn lại. Súng hư hỏng chỉ còn dùng làm cảnh. Một khẩu đế gỗ bị mục lăn ềnh xuống đất. Tám tù nhân xúm lại dùng đòn tre xeo lên, nhưng đòn thì gãy mà súng không nhúc nhích. Cả toán è ạch cả buổi mà vẫn không hoàn tất công tác. Mười Đậu đứng nhìn và cười khẩy:

- Đâu phải bu đông người mà được việc. Phải có sức mạnh và trí thế mới hòng bê nổi.

Mọi người yêu cầu Mười Đậu giúp cho một tay, Mười Đậu xăn tay áo, xuống tấn, tay phải thò nắm nơi miệng súng, tay trái luồn ôm thân súng, rồi lấy sức nâng được đầu súng lên. Mọi người vội vàng dùng đá kê lần lần đầu súng lên cao. Thân súng đã có khe hở với mặt đất nên đòn cây được luồn vào và không mấy chốc súng lại được đặt lên kệ. Ai nấy đều khiếp phục sức mạnh của Mười Đậu.

Mãn hạn tù, Mười Đậu về ở luôn tại An Vinh và chỉ đi loanh quanh các làng trong huyện.

Mười Đậu lại có tật mê hát bội và rất thích ngồi cầm chầu. Một bữa, Mười Đậu lên Phú Phong xem hát. Tại Phú Phong có một rạp hát thường trực hàng đêm. Hôm đó Mười Đậu đến trễ nên đã có hai người đánh chầu rồi, một là cựu Chánh tổng Liễn người thôn Trinh Tường, có uy danh trong huyện. Một là Bốn Liên, con ông Nguyễn Thái Hoàng ở Phú Phong. Mười Đậu không dám động đến ông cựu Chánh tổng, nên đến gần Bốn Liên hăm he muốn dành lấy dùi chầu thì bị Bốn Liên nện cho một dùi chầu vào đầu. Choáng váng vì bất ngờ, Mười Đậu định làm dữ, song nhìn thấy tướng mặt của Bốn Liên râu quai nón, đeo kính cận như một sĩ quan Nhật Bản, Mười Đậu dường như nhớ lại cái dùi chầu của Đoàn Phong tại rạp Mỹ Yên, nên đành ôm đầu lủi thủi ra khỏi rạp đi thẳng một mạch về An Vinh.

Mười Đậu có bà con với Bảy Lụt. Cả hai thường đấu với nhau song không phân thắng bại. Các cuộc giao đấu thường kết thúc bằng cuộc vật lộn cũng không phân thắng bại.

Tuy bà con và sống cùng thôn song cả hai đều không ưa nhau, nên ít qua lại với nhau.