PDA

View Full Version : Mưu cao kế lạ thời xưa


LSB-KỳCôngKỳThủ
13-06-2003, 19:34
nguồn: chép lại từ cuốn "Mưu cao kế lạ thời xưa của tác giả: Mã Sâm Lượng; dịch giả: Khánh Vinh; do Nhà Xuất Bản Phụ Nữ xuất bản

[center:931fd20678]Mưu cao kế lạ thời xưa[/center:931fd20678]
Mục Lục


Kế 1: Rước chàng vào vại.
Kế 2: Nhổ cỏ trừ tận gốc
Kế 3: Cây bạc nở hoa
Kế 4: Bề ngoài thơn thớt nói cười mà trong nham hiểm giết người không dao
Kế 5: Độc trị độc
Kế 6: Thuận nước đẩy thuyền
Kế 7: Giả ngây giả dại
Kế 8: Mượn thuyền cắt lúa
Kế 9: Ném đá hỏi đường
Kế 10: Dời hoa tiếp cành
Kế 11: Mở cửa đón trộm

LSB-KỳCôngKỳThủ
13-06-2003, 19:53
[center:d932883595]Kế 1[/center:d932883595][center:d932883595]Rước chàng vào vại[/center:d932883595]
[center:d932883595]Đào thông mương cũ, Hồ Hoàng Thiên Ngột Thuật thoát chết
Rước chàng vào vại, Tư Mã Ý không dám ra quân[/center:d932883595]
Rước chàng vào vại được giải thích theo ý là dùng đường hướng của người khác để trị lại chính bản thân người ấy.

Câu chuyện xuất xứ ở thời Đường Trung Tông. Châu Hưng và Lai Tuấn Thần đều là đại thần bộ hình, sớm chiều thấy nhau, cảm tình rất gắn bó.

Một hôm, hai người cùng ngồi ăn cơm, bỗng có người hầu bươc tới, nói Hoàng Thái Hậu (Võ Tắc Thiên) có mật chỉ giao cho Lai Tuấn Thần. Lai Tuấn Thần vội rời bàn ăn ra nhận chỉ dụ. Nguyên văn chỉ dụ là ngầm lệnh cho Lai Tuấn Thần phải nhanh chóng thẩm tra hành vi phản loạn của Châu Hưng.

Sau khi nhận chỉ dụ. Lai Tuấn Thần thấy vô cùng áy náy, nghĩ rằng Châu Hưng với mình vốn là đồng sự, lại là bạn thân, trong lòng không nỡ, nhưng lại không dám chống lại chỉ dụ.

Quay trở lại bàn ăn. Lai Tuấn Thần liền hỏi Châu Hưng:

- Có một việc muốn hỏi ý ngài, gần đây tôi đã thẩm vấn rất nhiều phạm nhân, nhưng chúng vẫn không chịu khai thực, không biết dùng cách gì để chúng phải nhận tội lỗi của mình.

Châu Hưng vốn là một pháp quan có tâm địa rất độc ác, thường xuyên nghĩ ra những cách tra tấn kỳ quái để ép cung, nghe Lai Tuấn Thần hỏi vận, bèn dương dương tự đắc đáp rằng:

- Chuyện ấy rất dễ! Hãy lấy một cái vại lớn, xung quanh xếp đầy than củi, đốt đỏ lên rồi bỏ những tên tội phạm bướng bỉnh không nhận tội kia vào vại, thì dù có gan lì đến mấy, cũng không thể không nhận tội.

- Hay lắm, hay lắm! - Lai Tuấn Thần vỗ tay khen và nói tiếp - Ta phải thử nghe tại chỗ xem sao?

Châu Hưng cho rằng sẽ hỏi tội phạm ngay trước bàn ăn, cho nên không để ý, vẫn vừa ăn vừa nói như cũ.

Vại đã được khiêng ra, than cũng được đốt lên. Lai Tuấn Thần bỗng dưng đứng dậy quát lên với Châu Hưng:

- Châu Hưng! Nhà ngươi hãy nghe đây, ta vừa mới nhận được chỉ dụ của hoàng thái hậu, lệnh cho ta xét hỏi những hành vi phản loạn của nhà ngươi. Nhà ngươi hãy thành thực mà khai nhận, nếu không thì xin "rước chàng vào vại" kia.

Châu Hưng nghe xong, như sét đánh ngang tai, vội vàng cúi đầu nhận tội.

Kế "rước chàng vào vại" này áp dụng vào trong một cuộc đấu tranh thì không dễ dùng như thế, bởi người đời vốn dĩ nhẹ không ưa lại ưa nặng, huống chi là tự dấn thân vào vại? Cho nên thường thì nếu không là dẫn người ta vào vại, thì cũng phải ép người ta vào vại. Việc dẫn hay ép, bản thân nó là một mưu lược.

Tục ngữ có câu: "Ép người vào tròng" hoặc "lừa nhau vào tròng", không khác gì hơn là một cách "rước chàng vào vại". Đường Thái Tông khi làm hoàng đế, lúc huênh hoang lên cũng từng nói: "Anh hùng trong thiên hạ, thảy đều trong tay ta". Trong tay có nghĩa là một kiểu mưu kế, nói rõ hơn là "đã bị ta lung lạc hết". Đó chẳng qua chỉ là câu nói mỹ miều, lung lạc tức là bị khống chế, mà cái cảnh bị khống chế thì có khác gì "vào vại"? Cho nên " vào vại" mà hiểu theo nghĩa rộng, có nghĩa là vào tròng.

Những cái tròng ấy vốn sinh ra từ cuộc sống và được mở rộng ra theo sự phát triển của sự vật. Xã hội càng phức tạp, càng có nhiều tròng. Bạch Cư Dị cũng từng nói: "Đường đi khó, không bởi vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người phản phúc". Lòng người phản phúc ở đây chính là nguồn gốc của những cái tròng, cũng tức là muốn nói: "Đâu đâu cũng có cạm bẫy, việc gì cũng có tròng đợi sẵn, mỗi người đều là kẻ ở trong vại".

Có điều, đó lại là hiện tượng phổ biến trong xã hội, không có gì làm lạ. Nếu kế rước chàng vào vại nổi bật lên trong đấu tranh chính trị hay quân sự thì sẽ là máu chảy đầu rơi, sẽ có nhiều kẻ chết.

Bộ Tam quốc chí là một cuốn sử đấu tranh kịch liệt, mưu kế được dùng nhiều nhất ở trong đó cũng là kế "rước chàng vào vại", mà nổi bật nhất là Hà Tiến và Đổng TRác. Hà Tiến vốn là một đại tướng quân, lại là chỗ hoàng thân quốc thích trong cuộc đấu tranh cướp quyền trong triều với hoạn quan Thập Thường Thị, bọn Trương Nhượng đã lợi dụng Hà thái hậu (em gái Hà Tiến) xuống chỉ vời Hà Tiến vào cung bàn việc nước. Hà Tiến mới bước vào cửa cung, đã bị bọn đao phủ của Thập Thường Thị mai phục sẵn chém đứt đôi.

Đổng Trác cũng vậy, bản thân là một Thái sư, quyền nghiêng cả triều chính, uy danh vang động các công khanh. Vương Doãn đã dùng kế rút củi đáy nồi, thông đồng được với con nuôi của hắn là Lã Bố và mưu sĩ Lý Túc theo lệnh thiên tử vời Đổng Trác vào triều nhận lễ truyền ngôi. Đổng Trác ỷ vào khí thế lớn lao của mình, không ai dám có điều ác độc, nên chẳng cân nhắc lo ngại gì khác, nghênh ngang với bộ dạng hoàng đế tương lai, ngồi xe vào triều đi thẳng đến cửa cung. Vương Doãn bèn hô lớn:

- Tên phản tặc đã đến rồi, các võ sĩ đâu?

Quân phục kích ở hai bên nghe tiếng xô cả ra, dùng đao, kích đâm vào người Đổng Trác. Nhưng Đổng Trác lại mặc áo giáp, đao kích đâm không thủng. Hắn bèn hô lớn:

- Phụng Tiên con của ta đâu?

Lã Bố liền từ phía sau xông ra quát lớn:

- Hãy giết tên nghịch tặc đi! Và một mũi kích đâm thẳng vào yết hầu, giết chết y ngay tại chỗ.

Đó là kế "rước chàng vào vại", đưa người ta tự dẫn thân vào luwói một cách rất điển hình. Ngoài ra, cũng còn những kẻ bày sẵn cạm bẫy để bắt hổ dữ, kiểu "ép chàng vào vại" đó là: Gia Cát Lượng bủa vây Tư Mã Ý.

Gia Cát Lượng Bủa Vây Tư Mã Ý

Gia Cát Lượng sáu lần ra khỏi Kỳ Sơn đối trận với Tư Mã Ý ở trên sông Vị Thủy. Qua mấy lần tiếp xúc, có bại, có thắng, chiến sự đang ở thế giằng co.

Chiếc lược của Tư Mã Ý xưa nay là cố thủ, vì biết rõ quân Thục viễn chinh đường dài mệt mỏi, tuyến cung cấp hậu cần quá dài, lợi cho việc đánh nhanh thắng nhanh cho nên đào hào đắp lũy để cho địch mòn mỏi.

Gia Cát LƯợng đã mấy lần rút ra bài học là hậu cần gián đoạn, nên đã có sự phòng bị sẵn, bèn cho làm nhiều xe trâu, xe ngựa khắc phục nỗi khổ vì chuyên chở không thuận tiện, rồi còn dùng chính sách bám ruộng, lệnh cho quân sĩ trồng lương thực tại chỗ để thực hiện kế sách đánh lâu dài.

Tư Mã Ý được báo, rất kinh ngạc nói:

- Sở dĩ ta kiên trì không ra đánh là do bên chúng lương thảo không đủ, cố để chúng tự chết, nay chúng dùng kế này là muốn đánh lâu dài, không muốn rút nữa đây.

Thế rồi bèn cho binh lính lấy mấy bộ xe trâu, xe ngựa về nghiên cứu, rồi cũng phỏng theo làm để chuyên chở lương thực. Vì chưa nắm bắt được bí mật cũng như cách sử dụng những thứ phương tiện này, cho nên đã nếm mùi cay đắng đến mấy lần, bị cướp đi mất khá nhiều lương thực, đến mức đành phải kéo cờ hoãn chiến, mặc cho quân Thục khiêu khích chửi mắng, nhất định đóng cửa không ra đánh.

Thấy Tư Mã Ý nhất định không ra đánh, Gia Cát LƯợng bèn lập kế, dựng lều tranh ở trên đỉnh thung lũng Hồ Lô, chôn sẵn địa lôi và vật dẫn lửa. Sau đó sửa sang như không có gì xảy ra, lệnh quân sĩ tản ra các nơi bám ruộng để nhử quân nước Ngụy. Tư Mã Ý liên tục bắt được một số quân Thục và biết Gia Cát Lượng không ở Kỳ Sơn mà đã hạ trại ở thung lũng Hồ Lô. Tư Mã Ý thấy có thể dùng kế được nên đã cho quân đi cướp trại.

Kỳ thực Gia CÁt Lượng vẫn ở Kỳ Sơn, thấy quân Ngụy hành động, trù tính thế nào rồi chúng cũng tới đánh Kỳ Sơn. Còn Tư Mã Ý đã thân chinh đánh vào thung lũng Hồ Lô, bèn bàn với Ngụy Diên phải như thế, như thế...

Quả nhiên, quân nước Ngụy đánh Kỳ Sơn, là giương đông kích tây. Tư Mã Ý và hai con là Tư Mã Sư, Tư Mã Chiêu hộ vệ người ngựa, đánh thẳng vào thung lũng Hồ Lô, và đụng đầu với Ngụy Diên. Đánh chém nhau một trận, Nguỵ Diên quất ngựa chạy. Tư Mã Ý từ phía sau đuổi tới. Cứ như thế vừa đánh vừa đi đã kéo được Tư Mã Ý đến thung lũng Hồ Lô, tận đến lúc vào sâu trong khe núi cũng chẳng hề thấy quân mai phục, trên núi toàn là nhà kho. Tư Mã Ý không nghi ngờ gì nữa, bèn đốc quân đánh thẳng vào thung lũng.

Thế nhưng Ngụy Diên bỗng nhiên mất hút, trên các nhà kho lại thấy xếp đầy củi khô. Tư Mã Ý biết mình đã trúng kế. Nói thì nói vậy, nhưng lúc ấy còn chưa kịp nghĩ sao thì bỗng tiếng hồ vang dội, một ngọn đuốc từ trên núi bay xuống đốt chặn cửa thung lũng , làm cho địa lôi nổ đồng loạt, nhà cửa bốc cháy, khói lửa ngút trời. Tư Mã Ý sợ đến nỗi run bắn cả chân tay, nhảy xuống khỏi mình ngựa, ôm lấy hai con khóc rằng:

- Phen này ba cha con đành chết ở đây thôi!

Đagn khi Tư Mã Ý chờ chết, trời bỗng trút một trận mưa như đổ nước, gió lốc gầm rít, lửa trong thung lũng bị dập tắc trong phút chốc. Tư Mã Ý đưa tay ngang trán nói:

- Trời còn chưa quên ta, không mau mau thừa cơ chạy trốn, còn chờ đợi đến bao giờ? Bèn dẫn quân xông ra thung lũng, may mà thoát chết.

Qua được tai nạn này. Tư Mã Ý không dám ra quân nghênh chiến nữa.

Kế "rước chàng vào vại" được Gia CÁt Lượng vận dụng tài tình, chỉ tiếc rằng ở đời có khi "mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên", vải bị thủng đáy cho nên đối thủ đã trốn mất.

Vại bị thủng đáy còn xảy ra lần nữa, đó là Hàn Thế Trung vây khốn Kim Vô Thuật ở đầm Hoàng Thiên.

Đầm Hoàng Thiên Kim Vô Thuật Thoát Chết

Vua nhà Tống là Huy Tông và Khâm Tông bị Kim Vô Thuật bắt, giải đến nước Kim. Tống Cao Tông xuống phía nam, lấy Lâm An làm kinh đô. Kim Vô Thuật thừa cơ đem quân vượt sông, định chuyến này tiêu diệt nhà Tống. Hắn huy động mấy chục vạn quân, chia làm hai ngả, một ngả đánh vào khu vực Giang Đông (tức là vùng Từ Châu). Vô Thuật thì dẫn quân tiến về khu vực Giang Tây.

Sau khi vượt Trường Giang, khí thế của Kim Vô Thuật mạnh như chẻ tre, vây hãm Lâm An, phá Minh Châu nhưng không bắt được Cao Tông. Cao Tông lúc ấy đã chạy tới Ôn Châu giáp biển rồi. Vô Thuật e chiến tuyến kéo dài quá, sợ vào sâu vùng hiểm yếu sẽ bị đối thủ đánh ngang sườn , bèn vu hồi rút quân về hướng Bắc, mười vạn đại quân áp sát vùng Thường Châu. Trấn Giang, chuẩn bị vượt sông.

Lúc ấy tướng trấn giữ đông tuyến của quân Tống là Hàn Thế Trung, ông này biết trước thế nào Kim Vô Thuật cũng đi qua ngả này cho nên đã sắp sẵn kế hoạch phòng ngự và tấn công, chuẩn bị một trận đánh chặn trên sông. Tuy trong tay chỉ có 8000 tinh binh nhưng đã bố trí rất chặt chẽ, phong tỏa dọc sông, địch khó bề vượt nổi.

Kim Vô Thuật triển khai thế công trước, đồng thời đánh úp Kim Sơn và Tiêu Sơn. Kết quả là hai mũi đều hao quân tổn tướng. Lúc này lương thảo đã gần cạn , quân bên bờ bắc lại không có cách gì tiếp ứng, chỉ còn có một cách là đánh chính diện để vượt sông Trường Giang.

Cuộc chiến đấu mở đầu từ lúc mờ sáng, vợ Hàn Thế Trung là Lương Hồng Ngọc chỉ huy trận đánh trên mặt sông, đứng chót vót trên mui thuyền, tự tay thúc trống, địch ở bên Đông thì chỉ hướng Đông, sang Tây thì chỉ hướng Tây, ba mặt giáp co ong, đánh cho Kim Vô Thuật lên trời không còn đường, xuống đất cũng hết lối, quân phiên vượt sông, đằng thì chết đuối, đằng thì chết chém , không biết bao nhiêu mà kể. Chỉ còn mỗi cách là rút về bờ Nam rồi dần dà chuyển sang phía Tây, định vòng qua Trấn Giang, tới phía Tây lại vượt sông . Thế nhưng Hàn Thế Trung lại truy kích dọc sông, giám sát mọi hành động của Kim Vô Thuật cho đến lúc ép được quân của Kim tới đầm Hoàng Thiên.

Đầm Hoàng Thiên là một cái cảng chết, đường thủy không thông suốt được. Hàn Thế Trung thấy quân của Kim Vô Thuật đã vào hết đầm Hoàng Th iên, bèn cho bịt chặt lấy cửa biển như người bịt kín miệng vại mọc cánh cũng khó mà bay thoát được, chỉ cần một vài ngày quân địch tất nhiên sẽ chết do không có lương ăn.

Kim Vô Thuật cũng phát hiện thấy cái cảng này phía trước không có lối đi, sau lưng thì bị truy kích, không chết còn đợi gì nữa, bèn lo lắng bồn chồn, treo thưởng để trưng cầu cách giải vây. Bỗng có một kẻ sĩ hiến kế nói rằng đầm Hoàng Thiên có thông tới một con hào cũ, hiện nay tuy bị tắc, nhưng lòng hào toàn là bùn cát, rất dễ đào để thông với sông Hoài của nước Tần và có thể chuyển sang Trường Giang được.

Kim Vô Thuật tiếp nhận kế hoạch này, lập tức tập trung nhân lực, trong một ngày đêm đã đào xong, quân lính yên lặng vượt qua 50 dặm sông mới đào, trốn về tới Nam Kinh. Khi Hàn Thế Trung biết ra thì Kim Vô Thuật đã mang đám tàn quân lén bơi ra sông rồi.

LSB-KỳCôngKỳThủ
15-06-2003, 17:47
[center:24ddace02b]Kế 2[/center:24ddace02b][center:24ddace02b]Nhổ Cỏ Trừ Tận Gốc[/center:24ddace02b]
[center:24ddace02b]Khéo đặt cạm bẫy Lệ Cơ vu hại Tần Công Tử
Nhổ cỏ trừ gốc Ung Chính đế cạn tình đoạn nghĩa[/center:24ddace02b]
Nhổ cỏ trừ gốc là căn cứ một câu trong bài hịch Lương triều của Ngụy Thu: "Rút củi để bớt sôi, nhổ cỏ trừ tận gốc". Ý nghĩa của nó chỉ ra rõ ràng trong thượng thư: "Cái ác lan tràn như lửa cháy trên đồng cỏ, không thể đến gần, không dễ dập tắt". Quan đại phu của triều nhà Chu cũng từng nói: "Những người mưu việc cho đất nước, thấy việc ác phải như người nông dân thấy cỏ dại cần phải nhổ, phải chặt đứt từ gốc rễ nó, không để nó sinh sôi nảy nở, sau đó việc tốt mới có thể phát triển được.

Gốc rễ của lời nói này là khuyên người ta phải làm việc tốt, hết lòng trừ ác, người có đạo đức thì hướng thiện, nhưng do sự đời nhiễu nhương, đầu óc con người chứa đầy quan niệm công lợi. Câu nói này trở nên chiêu bài của các nhà đạo học, cái cớ của nhà chính trị, ý định đẹp đẽ trở nên ý định xấu xa, việc tốt biến thành việc xấu. Chẳng khác gì người Trung Quốc phát minh ra thuốc nổ, công dụng ban đầu của nó là phá núi mở đường làm lợi cho giao thông, sau này lại dùng nó làm ra súng đạn để giết người. Nhổ cỏ trừ tận gốc dùng trong chiến lược cũng chính là như thế, không hề mảy may có ý gì tốt đẹp, có hận thế nào thì hận như thế, vậy mới là bản sắc anh hùng, mà cũng chỉ có lòng căm tay độc mới phô bày được tài hoa, nổi bật được công trạng của mình. Người xưa từng nói: "Từ tâm không làm được tướng". Người quá nhân ái đều không thể cầm quân, đương nhiên càng không thể làm những việc đảo lộn phải trái, lật lọng đảo điên, mở miệng ra khét mùi thuốc súng. Nhúng tay vào đâu là máu và nước mắt tuônt heo... Cũng giống như Đỗ Phủ từng than rằng. "Suối trên núi thì nước trong, ra khỏi núi nước đục" là ý vậy.

Tại làm sao nhổ cỏ xong còn phải trừ tận gốc? CHính là vì sợ "cỏ dại đốt không hết, gió xuân thổi lại mọc". Một sự nghiệp lớn sở dĩ thành công, tuyệt nhiên không phải do may mắn, mà phải cướp đoạt quyền hành lợi ích của rất nhiều người, tổn thương cả tính mạng của rất nhiều người "Nhất tướng công thành vạn cốt khô" thật là một câu nói đến nơi đến chốn. Việc xây đắp Vạn Lý TRường Thành, máu và nước mắt còn nhiều hơn vôi vữa. Nền móng của hoàng cung không xây bằng xương trắng thì đâu há dễ đàng hoàng kiên cố như thế? Huống hồ là thành quả giành được qua một cuộc đấu ttranh tàn khốc, có cái nào mà không thấm máu của quân ta và quân địch. Đến cái phút đã phân thắng bại, họa phúc rạch ròi, một ngưòi đắc đạo, tất nhiên gà chó phải lên trời, cùng với việc giũ bụi để mừng công, tự nhiên cũng có những người đáng thương trong cảnh cây đổ thì chồn cáo chạy, xấu hổ cúi đầu lo chờ nhận tội. Cái đám người thất bại đó cam tâm chịu người khác chi phối, tuyệt nhiên không chịu thua, mà từng giờ từng phút nuôi ý nghĩa làm lại từ đầu "quân tử báo thù mười năm chưa muộn", hễ gặp dịp là lại dựng cờ nổi dậy, đó mới gọi là "báo thù rửa hận". Thời xưa đã thế, thời nay còn hơn thế, bất kể là vì nước, vì nhà hay vì bản thân, ai cũng có điều sĩ nhục khắc cốt ghi xương của kẻ chiến bại và luôn tâm niệm rằng: "Có thù không trả, không xứng là quân tử", ai cũng hiểu rõ và cảnh giác với bài học : "Nước Sở tuy có ba họ, cũng đủ tiêu diệt nước Tần".

Thời Chiến Quốc, Đồ Ngạn Giả giết hại cả nhà Triệu Thuẫn, chỉ để sót lại đứa con coi là Triệu Vũ, mà rồi họ Đỗ sau cũng bị chém giết sạch, Để chạy thoát có một Ngũ Tử Tư, Sơ Bình Vương cũng bị phơi thây. Khang Hy đời Mãn Thanh nêu ra văn tự ngục tru di tam tộc Lã Lưu Hương, chỉ sót có một cô gái nhỏ Lã Tứ Nương mà Ung Chính hoàng đế phải đầu lìa khỏi cổ, bỏ mạng dưới lưỡi gươm của Lã Tứ Nương.

Bởi vậy kẻ thắng lợi trong lúc ngâm thơ vịnh phú, rượu ngọt hát hay ca mừng chiến thắng cũng không dám lơ là sơ hở, để thắng lợi làm mụ đầu óc mà quên mất việc trừng trị, coi chừng những kẻ đối nghịch, xem mức nguy hại của nó đến đâu hoặc làm tan rã chúng ra, đưa đến vùng hoang mạc xa xăm, hoặc đưa ra pháp trường dìm nó xuống mười tám tầng địa ngục. Khổng "nhổ cỏ", không thể hủy diệt được công cụ báo thù, không "nhổ tận gốc" không thể tiêu diệt được ý thức báo thù của chúng. Bất kể thế giới rồi sẽ văn minh đến đâu, xã hội tiến hóa mau lẹ đến đâu, sự vật xảy ra những thay đổi lớn lao đến đâu, quan niệm tư tưởng "phục thù" sẽ mãi mãi không bao giờ phai mờ hay mai một.

Trong Hậu Hán Thư có câu "đảng đồng phạt dị" (giống nhau thì bè đảng với nhau, khác nhau thì giết nhau) chính là nói lên cách nhìn nhận có tính bè phái họ hàng, giúp đồng loại để đánh kẻ khác mình. Nhổ cỏ trừ tận gốc là cách dùng đối phó với kẻ khác mình, xem trong lịch sử thấy những ví dụ về mặc này, khác một tí là chu di tam tộc, cửu tộc thậm chí thập tộc.

Tào Tháo tị nạn với Trần Cung, tá túc ở nhà bạn của bố ông là Lã Bá Sa làm nghề mổ lợn, Bá Sa đi ra ngoài mua rượu về đãi khách. Vì người giúp việc cầm dao bảo nhau giết lợn mà gây nên sự hiểu lầm. Hai người rút gươm xông thẳng vào bếp, chẳng hỏi gì già trẻ lớn bé, giết sạch tám người trong nhà rồi vội vàng ra cửa. Dọc đường thấy Bá mua rượu mang về, Tào THáo lại vung gươm giết nốt, Trần Cung kinh ngạc hỏi: "Vừa mới giết nhầm tám mạng người, cũng còn có thể hiểu được, bây giờ biết là nhầm lại còn giết nữa, thì làm sao mà có thể hiểu được". Tào Tháo đáp: "NẾu Bá về đến nhà, thấy người nhà bị giết, tất không để yên, sẽ trình quan đuổi bắt, tất sẽ gây tai họa". Trần Cung nói: "Biết rõ mà cố ý giết người, thật là đại bất nhân!". Tào Tháo đáp: "Chẳng thà ta phụ người thiên hạ, chứ đừng để người thiên hạ phụ ta". Câu nói này của Tào Tháo người đời sau đều thấy muốn chửi và muốn giết nhưng bình tâm nghĩ lại hàng động ấy của Tào Tháo quả thực có chỗ khác người.

Lệ Cơ vu hại Tấn công tử

Thời Xuân Thu, Tấn Hiến Công chinh phục Lệ Tuất, Lệ Tuất đem hiến hai con gái, cô lớn là Lệ Cơ, cô nhỏ là Thiếu Cơ.

Lệ Cơ rất xinh đẹp, lại thông minh trí lự, khiến Hiến Công rất mê, ngày đêm không lúc nào rời xa. Không lâu sau, sinh được một người con trai tên là Khê Tề. Thiếu Cơ cũng sinh được một người con trai là Trác Tử.

Hiến Công vì mê muội Lệ Cơ, yêu mẹ thì yêu lây cả con nên định lập Khê Tề làm thái tử, bèn đem ý này nói với Lệ Cơ. Lệ Cơ nghe vậy mừng lắm. Nhưng lại nghĩ đến việc đã lập Thân Sinh làm thái tử, lại có tình hữu ái như thế với anh em Trùng nhĩ. Ba người này tuy không phải đều do mình sinh ra, nhưng về danh nghĩa cũng là quan hệ mẹ con. Nay tự nhiên vô cớ thay đổi thế này, sợ rằng quần thần không phục, sẽ sinh họa về sau, bèn quì dưới chân Hiến Công, khóc mà thưa rằng:

- Thái tử Thân Sinh không có điều gì thái quá, tiếng đã nổi khắp chư hầu, chẳng ai nói điều gì xấu, nay nếu vì mẹ con thiếp mà phế bỏ đi, người ta sẽ nói thiếp mê hoặc chúa công, thiếp thà chết cũng không chịu magn tội ấy.

Hiến Công nghe nàng nói thấu tình đạt lý, khen nàng là người hiền thục.

Lệ Cơ ngoài mặt thì làm như rất quang minh chính đại nhưng bên trong lại ngầm mua chuộc một lũ nịnh thần như Lương Ngũ, Đông Quan Ngũ, Ưu Thi v.v... ngày đêm bàn bạc hãm hại anh em Thân Sinh.

Không lâu sau, Đông Quan Ngũ ra mặt khởi tấu, điều ba vị công tử mỗi người đi một nơi. Thân Sinh đi Khúc Nhiêu, TRùng Nhĩ đến Bồ Thành. Di Ngô đến Khúc Thành... để rồi lần lượt thanh toán họ. Tiếp đó, lại đe dọa các lão thần để họ xa lánh Thân Sinh.

Sau khi thực hiện xong chính sách cô lập, Lệ Cơ mới nói với Hiến Công:

- Thân Sinh là đứa mà thiếp yêu quí nhất, đã ở Khúc Nhiêu mấy năm nay rồi, thiếp ngày đêm mong nhớ, xin chúa công hãy cho gọi về để thiếp gặp mặt.

Hiến Công là một người háo sắc lại nhẹ dạ, tưởng rằng Lệ Cơ thật lòng như vậy, bèn cho gười đến Khúc Nhiêu gọi thái tử Thân Sinh về triều ngay.

Thân Sinh là người con hiếu thảo, biết thi, biết lễ, về đến nơi liền tới chào thăm cha và vào cung thăm mẹ kế là Lệ Cơ. Lệ Cơ mở tiệc đãi đằng, nói năng vui vẻ. Ngày hôm sau, Thân Sinh vào cung để tạ ơn, Lệ Cơ lại giữ Thân Sinh ở lại ăn cơm. Thật không ngờ,, ngay tối hôm đó, trước mặt Hiến Công, Lệ Cơ đã sụt sùi khóc lóc phịa chuyện.

- Sao thế? Lại có kẻ nào quấy rầy gì người đẹp của ta sao?

- Chỉ tại thằng quí tử của hàong thượng.

- Thằng Thân Sinh hả? Nó làm gì?

-Không nó thì còn ai vào đây nữa - Nàng càng khóc lớn hơn - Thiến có lòng tốt cho gọi nó về gặp mặt, giữ nó ở lại ăn cơm. Ai ngờ đâu vài chén rượu vào, nó bắt đầu chọc ghẹo thiếp, còn nói: "Cha tôi đã già rồi, nàng thì trẻ đẹp". Lúc đầu thiếp rất giận, muốn dạy cho nó một bài học, thế nhưng nó lại cười nhăn nhở nói: "Đây là lệ gia truyền của nhà ta, khi ông nội ta chết, cha ta bèn lấy vợ bé của ông. Ngày nay, cha ta đã già, chẳng mấy nữa mà sẽ chầu trời, theo đúng lệ ấy, nàng chẳng là của ta thì còn là của ai", nó còn muốn ôm hôn thiếp nữa, cũng may mà thiếp tránh được nhanh, nếu không thì... Trời ơi, tôi không muốn sống làm gì nữa". Nói xong gục vào lòng Hiến Công đấm tay vật vã liên hồi.

- Đâu lại có chuyện như vậy? THằng súc sinh này lại dám láo lếu thế à? - Hiếu Công nổi giận đùng đùng.

- Phải đấy, nó còn bảo ngày mai hẹn thiếp ra vườn hoa để nói chuyện trăng hoa nữa. Nếu chúa thượng chẳng tin hãy theo dõi một chút sẽ rõ.

Đến ngày hôm sau Lệ Cơ lại triệu Thân Sinh vào cung, dẫn ra vườn ngắm hoa. Nàng trang điểm cực kỳ lộng lẫy, quanh mình thơm ngào ngạt, dùng mật ong thoa lên tóc, dọc đuowfng đi kéo theo không biết bao nhiêu là ong bướm bay lượn trên đầu. Lệ Cơ gọi Thân Sinh tới xua lũ ong bướm trên đầu nàng đi. Thân Sinh vâng lệnh, từ phía sau, đưa tay áo vẫy trên đầu Lệ Cơ. Cảnh đó, Hiến công đứng ở trên lầu đã nhìn tận mắt, giận không chịu nổi, nên đã sai ngươi bắt trói Thân Sinh ngay tức khắc và muốn đem chém luôn, làm cho Thân Sinh toát mồ hôi hột, không hiểu đầu cuối ra sao.

Lệ Cơ lại quì trước mặt Hiến Công nói:

- Chúa thượng hiểu hết sự việc là được rồi, xin chớ đem giết nó, bởi vì hcính thiếp đã cho gọi nó về đây gặp mặt. Nếu giết nó, quần thần sẽ nói rằng thiếp ra tay. Huống chi đây là việc trong nhà, không vạch áo thì không ai thấy lưng, tin đồn lan ra sẽ rất khó nghe, xin hãy tha cho nó lần này.

Hiến Công chẳng biết làm thế nào, liền hạ lệnh:

- Đuổi cổ thằng súc sinh này về Khúc Nhiêu!

Rồi sau còn cho người theo dõi dò la mọi cử chỉ, việc làm của Thân Sinh.

Không bao lâu sau, Hiến Công ra khỏi thành đi săn bắn, Lệ Cơ cho người đi báo với Thân Sinh:

- Ta vừa qua một giấc mơ thấy Tề Khương mẹ của con khóc lóc với ta rằng bà ở dưới âm phủ chịu đót rét, thật là thê thảm. Phận làm con, con nên tế lễ cho bà ấy mới được.

Thân Sinh vốn là người con có hiếu, nghe lời ngay. Nơi thờ Tế Khương ở Khúc Nhiêu cho nên việc tế lễ được làm ngay tại đó và theo lệ thường Thân Sinh phải mang rượu thịt là lộc tế lễ về biếu vua cha, để tận lòng hiếu nghĩa của con cái. Hiến Công còn đi săn chưa về nên rượu thịt ấy chỉ có thể để lại ở trong cung.

Sáu hôm sau, Hiến Công mới trở về. Lệ Cơ đã bỏ thêm thuốc độc vào rượu thịt đem dâng Hiến Công và nói:

- THiếp nằm mộng thấy Tề Khương ở dưới âm phủ rất đói rách, chúa thượng lại đi vắng, nên sai người bảo với Thái tử lập đàn tế lễ cho mẹ đẻ mình, nay Thân Sinh đã gửi lộc tế lễ để chúa công nếm thử.

Hiến Công cầm lấy rượu định uống. Lệ Cơ lại nói:

- Rượu thịt từ bên ngoài dâng vào, không thể coi thường, phải thử coi mới được!

- Đúng! - Hiến Công tiện tay hắt ngay chén rượu xuống mặt đất, bỗng nhiên bốc khói lên.

- Cái gì thế? Lệ Cơ giả vờ không tin, bèn cắt một miếng thịt vứt cho chó ăn. Chó ăn phải, không kịp kêu tiếng nào, chết ngay thẳng cẳng. Sau lại bắt một tên người hầu uống rượu, tên này không chịu uống, liền bị giữ chân giữ tay ép đổ vào miệng bằng được. Vừa buông tay ra, tên hầu trào máu tai, máu mũi chết tươi.

- Trời ơi! Đất ơi! - Lệ Cơ bắt đầu la lối - Ai ngờ thái tử lại ác độc đến thế này, muốn đầu độc cả cha mình. Ngôi báu sớm muộn gì cũng truyền cho thái tử, cha đã già rồi, làm gì không đợi thêm một hai năm nữa hay sao?

- Nói rồi lại quì trước mặt Hiến Công, nước mắt giàn giụa, nức nở nói:

- Chúa thượng hãy đoái nhìn xem, Thái Tử làm thế này chẳng p hải là để đối phó với thiếp và Khê Tề là gì? Thế thì hãy để rượu này, thịt này cho thiếp, thiếp thà chết thay cho chúa thượng còn hơn!

Nói xong, bưng lấy rượu định đổ vào miệng. Hiến Công nhanh tay đã giằng lấy bình rượu, căm giận ném xuống đất, không nói được lời nào.

Lệ Cơ khóc lăn dưới đất, căm giận kể lể:

- Thái tử sao mà ác độc thế, đến cha đẻ của mình mà cũng muốn giết đi, huống chi là người khác? Lúc đầu chúa thượng định phế truất nó thiếp không cho, đến khi trêu ghẹo thiếp ở vườn hoa, chúa công định giết nó, thiếp cũng lại xin tha cho nó. Nay nó định giết chúa thượng, rồi sau sẽ giết đến thiếp. Trời ơi! Tôi mắc tội mắc nợ gì đây.

Cứ như thế nước mắt nước mũi giàn giụa, kêu la đòi sống đòi chết hồi lâu. Lệ Cơ càng làm cho Hiến Công bầm gan tím ruột giận run cả người, nâng Lệ Cơ dậy nói:

- Nàng hãy đứng lên! Rồi ta sẽ có cách.

Ngay sau đó lập tức lên điện, nói với quần thần, kể lể tội trạng của Thân Sinh. Quần thần sớm đã thừa biết đây là một kế hoạch sắp đặt từ lâu, chẳng ai dám nói gì. Chỉ có Đông Quan Ngũ nói:

- Thái tử vô đạo, thàn xin được thay chúa công đi trị tội hắn! - Hiến Công lập tức phê chuẩn.

Đông Quan Ngũ làm tướng, Lương Ngũ làm phó soái, oai phong lẫm liệt kéo quân đến Khúc Nhiêu.

Thân Sinh thấy tình trạng này, không nghe quần thần khuyên can, không chống cự, cũng chẳng trốn ra nước ngoài mà tự thắt cổ chết.

Tiếp đó, Lệ Cơ lại giá họ cho Trùng Nhĩ, Di Ngô, ép những người này phải phiêu bạt đi nơi khác.

Ung Chính Đế cạn tình đọan nghĩa

Ung Chính là con trai của hoàng đế Khang Hy nhà Thanh, xếp hạng thứ 4 (hoàng tử tư) tên là Dận Trinh, thiên tư thông minh, văn võ song toàn, nhưng tính khí lại hà khắc hung bạo, cạn tình đoạn nghĩa.

Khang Hy có hơn ba mươi người con, nhưng có thế lực và tiếng tăm thì chỉ có ba người: Thái tử DẬn Kỳ, hoàng tử tư Dận Trinh, hoàng tử tám DẬn Dị. Vương công đại thần trong triều cũng do đó mà chia ra ba phái, người nào theo chủ nấy. Phái của thái tử do Bảo Chí cầm đầu, phái Dận Trinh thì có Long Khoa Đa và Niên Canh Nghiêu ngầm ủng hộ, phái DẬn Dị có Đông Quốc Duy, Mã Tề làm thủ lĩnh.

Trong ba phái, hoàng tử tám là DẬn Dị ôn hòa hơn cả, thái tử với Dận TRinh thì như nước với lửa, ai cũng có trong tay cả ngàn kỳ nhân dị sĩ, ngấm ngầm tranh đấu hoàng lật đổ lẫn nhau. Dận Trinh lợi dụng sư sãi cho thái tử uống thuốc có chất độc, biến thành người ngớ ngẩn. Khang Hy bèn phế truất người này và tuyên bố sau này khong lập sẵn thái tử nữa, đồng thời được biết thái tử bị hoàng tử ám hại cho nên rất căm ghét DẬn Trinh.

Lúc ấy ở Thanh Hải có kẻ nổi loạn. Khang Hy lệnh cho hoàng tử thứ 14 mang quân đi dẹp, mấy tháng sau dẹp yên loạn, cho nên Khang Hy rất yêu mến và trong lòng nuôi sẵn một ý định.

Năm Khang Hy 68 tuổi, bị ốm nặng, ngày càng trầm trọng, tự thấy không qua khỏi được, bèn truyền gọi Long Khoa Đa, Niên Canh Nghiêu vào cung bàn việc sau này và đưa di chiếu cho Long Khoa Đa, dặn dò sau này cứ làm theo ý đó. Long Khoa Đa liếc nhìn thấy có viết: "Nếu Trẫm có gì bất trắc, sẽ truyền ngôi cho hoàng tử mười bốn". Và như thế biết rằng DẬn Trinh sẽ chẳng ăn nhằm gì, sắc mặt bỗng biến đổi. Khang Hy cũng cảm thấy mặt Long KHoa Đa biến sắc, nên thuận tay rút bản chiếu thư về, để vào dưới gối.

LOng Khoa Đa lui về mang chuyện bàn với DẬn Trinh và Niên Canh Nghiêu cùng tính kế, nói:

- Đem chữ "thập" là mười trong "hoàng tử mười bốn", sửa thêm một nét trên đầu thành chữ "vu" là cho, thì sẽ chẳng thành câu là truyền ngôi cho "hoàng tử tư" là gì.

- Đúng, việc đến như thế này, cũng chẳng cân nhắc được thêm nhiều nữa.

Mưu kế bàn xong, ba người nhân đêm tối, lẻn vào cung. Khang Hy đang hấp hối, các hoàng tử đều chầu chực ngoài cửa để chờ thánh chỉ. Khang Hy nằm trên giường đang thở hắt ra, mắt nhắm nghiền. Dận Trinh thò tay vào dưới gối rút trộm chúc thư ra. Khang Hy chợt tỉnh, thấy Dận Trinh đứng trước mặt, vội quát mắng:

- Ai cho ngươi vào đây?

Dận Trinh đáp:

- Thần đến đây theo lệnh của phụ hoàng! Khang Hy nổi nóng vội lật gối lên, nhưng chiếu thư đã mất, lại càng tức giận, bèn giật chuỗi tràng hạt đang đeo nơi cổ mình ném theo. Dận Trinh đón lấy chuỗi tràng hạt trong tay, vội quỳ xuống nói:

- Đa tạ phụ hoàng đã cho tiểu thần được nối ngôi và có chuỗi tràng hạt làm bằng.

Câu nói đó làm cho Khang Hy tức mà chết. Long Khoa Đa vội vàng sửa chửa chữ thập trong chiếu thư thành chữ vu như đã bàn, đem ra khỏi cửa cung đọc lên rồi đưa cho các hoàng tử chuyền tay nhau xem, và tuyên bố:

- Anh tư phụng chiếu lên nối ngôi, có chuỗi tràng hạt làm chứng. Hoàng tử Dận Trinh lên ngôi hoàng đế, đó là Ung Chính.

Thử đoạn cướp ngôi này khiến các hoàng tử khác nhao nhao bất bình và có nhiều điều oán giận. Ung Chính dằn lòng lại, muốn nhổ cỏ trừ tận gốc bèn xúi giục bọn kiếm khách vong mạng, lần lượt thanh toán hết các hoàng tử. Trong hoàng tộc, trừ mỗi mình Ung Chính Vương ra, tất thảy đều biến thành mẹ goá con côi. Cho đến lúc gốc cỏ nhổ hết rồi, ngai vàng cũng vững chăc rồi, lại thực hành chính sách "qua cầu rút ván", "đã bắt được thỏ, thịt bỏ chó săn", bèn dụ mời bọn kiếm khách, tăng lữ đã giúp mình lấy lại giang sơn đến một hành cung lộng lẫy đã được đặt mìn sẵn từ trước để dự tiệc mừng công, đúng vào lúc mà mọi người vui vẻ hả hê, bỗng dưng một tiếng nổ xé trời, tường nhà đổ sập, chết sạch chẳng còn ai.

Chó săn đã được giết đi rồi. Ung Chính lại ra tay với đám công thần. Quốc cữu Long Khoa Đa và đại tướng quân Niên Canh Nghiêu là hai người đã giúp Ung Chính cướp quyền anh em, sợ rằng hai người sẽ vì vậy mà mượn cớ khống chế, bèn tìm cách liệt cho Long Khoa Đa tới 41 tội trạng rồi tống giam ngục chung thân. Long Khoa Đa từng ngửa mặt than với trời: "Giận vì năm ấy có mắt mà như mù, giúp đỡ nó cướp quyền, lên ngồi, đến nay chim hết thì vứt nỏ, hối cũng muộn mất rồi!".

Còn với Niên Canh Nghiêu thì sao? Vi ông này có binh quyền trong tay, chưa dám manh động, bèn dần dần giáng cấp ông ta, điều làm tướng quân Hàng Châu, cuối cùng giáng xuống tới chỉ còn là viên coi cổng ở cửa Thông Kim Hàng Châu. Binh quyền của Niên Canh Nghiêu cũng dần hết, biến thành một con cua không càng. Ung Chính lúc ấy mới liệt cho ông 92 khoản trọng tội, đem chém cả nhà, tất cả con cháu thân cận hầu như từ 15 tuổi trở lên đều phải vào lính và ra biên ải.

LSB-KỳCôngKỳThủ
18-06-2003, 23:07
[center:4df19782d7]Kế 3[/center:4df19782d7][center:4df19782d7]Cây Bạc Nở Hoa[/center:4df19782d7]
[center:4df19782d7]Đánh vào lòng người, dâng em gái Lý Viên đoạt chính quyền
Cây bạc nở hoa, Trương Đại Thiên dùng kế dỡn Trình Lâm Sinh[/center:4df19782d7]
Tục ngữ có câu: "Cây sắt ra hoa", tức là chỉ sự mong muốn cho một thân làm bằng sắt lại có thể nở hoa để ví với sự thành công hoàn toàn không có được của sự việc.

Do về sau có những sự thực chứng minh, câu nói trên được cải chính, vì quả đúng là có một thứ cây gọi là cây sắt. Giống cây này mọc ở vùng nhiệt đới, ở Quảng Đông có, Việt Nam và Nam Mỹ càng nhiều. Giống cây này cũng nở hoa song rất khó và ít.

Nhưng cách nói "cây sắt ra hoa" cũng mang ý nghĩa phổ biến vẫn là chỉ sự khó thành công của sự việc.

Lôgic của câu "cây bạc nở hoa" cũng giống câu tục ngữ "cây sắt ra hoa", nhưng ý nghĩa lại khác nhau nhiều.

Cây làm bằng bạc đã là quí giá lắm rồi, mà lại còn nở hoa nữa thì có phải đã "quý" còn thêm "phú" nữa không, còn thuật ngữ trong khi đặt kế dùng mưu thì có nghĩa là "từ thắng lợi này đi tới thắng lợi khác".

Còn có cách nói "thêu hoa trên gấm, trong tuyết đưa than", là muốn chỉ cái thế thái hững hờ, yêu cái giàu có, ghét cái nghèo nàn của người đời. Hoa thêu trên gấm và hoa nở trên cây bằng bạc đều là biểu hiện đã phú còn thêm quí, nhưng nguồn gốc của hoa cũng như giá trị của nó lại có chỗ không giống nhau. Hoa trên gấm là thêu thêm vào, là do tác động của con người, còn hoa trên cây bạc là tự nó nở ra bằng sự nỗ lực tự thân nó, hoa thêu trên gấm là giả, hoa tự nở ra mới là thực.

Có hai chuyện tiện mang ra so sánh:

Tùy Dạng Đế là một ông vua hoang dâm vô độ, đang uống rượu hành lạc với hoàng hậu và các quí phi, lúc ấy là mùa đông hoa cỏ úa tàn, cây lá điêu linh. Dạng đế bảo rằng chẳng có hứng thú gì với cảnh sắc mùa đông, không thể sánh với mùa xuân "trăm hoa đua nở", không nơi nào không thấy lòng vui, không phút nào có ý nghĩ buồn tẻ. Các quí phi nghe vậy, bèn trở về kêu gọi tất cả cung nga của tam cung lục viện, dùng lụa màu ngũ sắc làm ra đủ các loại hoa, đem treo lên cành cây, cánh thắm dài xanh y như một vườn hoa thật. Hôm sau, Dạng Đế đến thăm lại, vừa bước vào vườn đã thấy muôn hồng ngàn tía, đào mai khoe sắc, bông nào cũng đẹp tựa gấm thêu, lại ngỡ rằng mới xảy ra chuyện lạ, trong lòng lấy làm sung sướng. Sau này nghe các quí phi kể lại đầu đuôi mới hay rằng sức người đã thay công tạo hóa, khiến cây khô cũng khởi sắc hồng nhan.

Một truyền thuyết khác kể về một vị vua đàn bà là Võ Tắc Thiên. Khi con gái bà ta là Thái Bình công chúa đi bước nữa, đúng vào dịp cuối đông, cây khô lá vàng, cảnh trí điêu tàn hết sức. Nhưng muốn tăng thêm không khí vui mừng cho hợp với cảnh cưới xin rộn rã. Võ Tắc Thiên nghe theo lời thụat sĩ, muốn thay cả quyền của hóa công, lệnh cho chúa xuân lập tức quay về với đất trời, cho trăm hoa đua nở, bèn lấy giấy vàng viết một đạo chiếu chỉ, ra lệnh cho thần hoa bằng mấy câu thơ:

Mai thăm vườn thượng uyển,
Vội báo chúa xuân hay,
Đem ra hoa phải nở,
Đừng chờ gió sớm bay.

Sau khi đốt chỉ dụ thành tro cho bay lên không, quả nhiên sáng sớm hôm sau, ngự hoa viên bỗng thấy nở đầy hoa thắm, rực rỡ trên cành, hương thơm ngào ngạt, ong bướm đến vây quanh.

Những chuyện trên mang màu thần thoại, nhưng có thể thấy rằng cái thứ hoa thêm vào một cách bị động và thứ hoa chủ động nở ra, phân lượng cố nhiên là khác nhau, ý nghĩa và hậu quả của nó, trên cơ bản là có sự phân biệt.

Cây bạc nở hoa là thế, Võ Tắc Thiên bá đạo như vậy, chỉ cầu mong thỏa mãn được mình, không cần biết ảnh hưởng đến người khác thế nào, phải "hỏa tốc", phải "không chờ đợi", phải thực hiện quyết tâm, thúc đẩy nó đến thắng lợi cuối cùng.

Thực hiện kế này phải như bàn chân dính đất, càng dính càng nhiều, phương thức của nó thì hoặc là ngấm ngầm, hoặc là lấn từng bước như lạc đà "gửi" chân vào lều ấm. Mục đích ngấm dần là để phân hóa, tác dụng của phân hóa là gây nên mâu thuẫn, lợi dụng mâu thuẫn, dần dần thực hiện ý đồ của mình, "lạc đà gửi chân vào lều ấm" là lấy một câu chuyện đồng thoại làm tỉ dụ. Giữa đồng tuyết bao la, một con lạc đà muốn tìm chỗ tránh rét, nó bước tới gần một túp lều, nói với chủ nhân rằng: "Ông ơi! Xin ông hãy ra tay làm phúc, cho tôi được vào trong lều tránh mưa tuyết một lát được kho ong?". Người chủ nói: "Xin lỗi! Lều của tôi nhỏ lắm ,không chứa nổi anh dâu". Lạc đà nói: "Thế thì cho tôi gửi cái chân vào cho ấm một chút được không? Trời lạnh quá. Chủ nghĩ một hồi rồi đồng ý. Sau khi đã đưa chân vào trong lều, lạc đà nhích dần từng tí một đưa cả bốn cái đùi vào trong lều. Người chủ không biết gì và cũng để ý. Cuối cùng, lạc đà đã chẳng nề hà đưa cả thân hình của mình vào hẳn trong lều, rồi chen bật cả chủ ra ngoài nhà...

Đây là một đồng thoại rất có ý nghĩa giáo dục, m ột mặt dạy người ta không nên quá tin người , phải đề phòng người ta lấn át mình trong giấy phút mình sơ ý, tục ngũ Trung Quốc có câu: "Chồn chuột thương hại người, người không thể thương hại chuồn chuộc". Khi cứu chó rơi xuống nước lên bờ, hãy đề phòng nó có thể ngoái lại cắn vào tay mình. Còn có câu nói "đừng tin người ngay thẳng trong những người ngay thẳng, phải phòng kẻ bất nhân trong số người có nhân", dễ bị mắc lừa nhất là những người trung hậu thực thà, nên phàm những kẻ lấy lừa đảo làm nghề nghiệp, đều phần lớn lấy những người này làm đối tượng, hiểu rõ được điều này, thì cũng hiểu được quá nửa nhân tình thế thái. Kẻ biết dùng tiền không cho bừa bãi, người có lòng tốt thực khó làm, nhiều kẻ vong ơn bội nghĩa và những hạng tuyệt tình phụ bạc trên đời, đến lúc mắc lùa thì hối không kịp nữa.

Một mặc khác, cũng nhắc nhở những kẻ sĩ sáng suốt lại hay dùng quyền thế, một khi bám vào một cơ hội nào đó có thể kiếm chác được, là y như được đằng chân lân đằng đầu, thế nào cũng tạo nên một cục diện lợi mình hại người, như một thứ nấm mốc, bám vào đâu cũng nở mốc nở meo đến đó.

Do cuộc đời đầy lừa dối, nhân tình phản phúc, biết bao nhiêu cách cướp bóc chụp giật, vụng trộm, lừa đảo đã liên tục diễn ra mà ngày càng mới lạ. Cái kiểu thừa cơ gây rối, được chân lân đằng đầu ở đâu cũng thấy, chỗ nào cũng bắt gặp. Lớn thì đấu tranh giành quyền lực về chính trị, nhỏ thì như ngày xưa, giữa bè bạn với nhau gửi vợ "sinh" con, đều là cách vận dụng khéo léo kế "cây bạc nở hoa". Hay như chuyện hàng trăm năm trước đây bọn đế quốc từng chia cắt Trung Quốc, vạch tô giới chia nhau chiếm đất rồi lấy đó làm bàn đạp, mở ra hàng loạt cuộc xâm lược về kinh tế, thấm dần về chính trị, khiêu khích về quân sự. Cũng như Nhật Bản xâm lược Trung Quốc ngày nào đã từng nói trắng ra rằng: "Cần truowsc hết chinh phục Mãn mông, sau đó mới có thể chinh phục Trung Quốc, sau khi chinh phục Trung Quốc mới có thể thống trị thế giới". Cái kiểu "chinh phục dần từng bước" cũng tức là chính sách tằm ăn lá dâu, chính là sự thẳng hoa của kế "cây bạc nở hoa.

Hãy nhìn những nhân vật nổi tiếng trong và ngoài nước từ xưa đến nay, chẳng một người nào là không ác máu tanh lòng, dựa vào cái ý niệm "cây bạc nở hoa" mà lập nghiệp, từ lúc bắt đầu vào cửa quan đã dùng mọi mưu sâu kế hiểm để tạo nên mâu thuẫn, lợi dụng mâu thuẫn, đến khi mâu thuẫn được giải quyết, thì họ cũng nước lên thuyền lên. Mới hay, "cây bạc nở hoa" là nguyên tắc cao nhất trong đấu trí, muốn đạt mục đích đó, còn phải phối hợp với mưu mô khác.

Dâng em gái, Lý Viên cướp chính quyền

Vua nước Sở là Khảo Liệt Vương, không có con, đại thần Xuân Thân Quân (Hoàng Yết) rất lấy làm lo buồn, sợ rằng sau này vua băng hà đi rồi, do không có người nối ngôi, dễ xảy ra đại loạn. Ông ta đi khắp nơi tìm những người đàn bà có tướng đẻ con trai (theo truyền thuyết cũ, nhìn tướng mạo có thể biết ngươi đàn bà nào có thể đẻ con trai). Tuy có tìm ra được rát nhiều, nhưng chẳng đẻ ra được đứa con nào.

Có một người nước Triệu, tên là Lý Viên, vốn rất tinh khôn, tính đánh vào lòng người. Ông ta có người em gái tên là Lý Yên, vô cùng xinh đẹp. Lý Viên muốn dâng em mình cho vua Sở làm cung phi, lại nghe người ta nói nàng sẽ không biết sinh con, sợ sẽ không đượv vua Sở yêu mến. Ông ta nghĩ, muốn gặp được Sở Vương, trước hết phải bắt quen và có quan hệ với Xuân Thân Quân, con người có thể thét ra lửa này mới được, chi bằng dâng ngay em gái mình cho lão ta, chờ đến lúc mang thai, rồi mới tìm cách dâng cho vua Sở, chẳng may cái bụng đó không làm nên trò trống gì, mình cũng còn chút quan hệ anh vợ em rể với lão ta.

Kế đã sắp sẵn, bèn tìm sang nước Sở, xin Xuân THân Quân một chức quan xoàng trong phủ.

Làm ở Hoàng Phủ được một thời gian, ông rất được Xuân Thân Quân biết đến. Một hôm, ông xin nghỉ phép năm ngày để về thăm quê, rồi cố ý ở lại quá mười ngày mới đến phủ. Xuân Thân Quân hỏi ông tại sao mà ở quá thời hạn, Lý Viên đã trả lời rằng:

- Vì tôi có người em gái là Lý Yên ,cũng có chút nhan sắc hơn người , vua Tề đã biết tin và cho người đến xin ăn hỏi, để đón em tôi vào triều làm cung phi, vừa hay tôi đã gặp sứ giả, mời ông ta ở lại uống rượu mấy ngày nên mới đến trễ thế này.

Xuân Thân Quân vốn là tên hiếu sắc, sau khi nghe nói thế, lòng bỗng nảy ra ý gian, nghĩ rằng nàng đã nổi tiếng ở nước TỀ, nhất định phải là hàng tuyệt sắc giai nhân , vội hỏi:

- Vậy ông đã nhận lễ của vua Tề chưa?

Lý Viên đáp:

- Dạ chưa! Tôi còn phải cân nhắc thận trọng đã.

- Có thể để ta gặp lệnh muội được không? - Xuân Thân Quân cười hỏi.

- Đương nhiên là đuọc, chẳng lẽ tướng quốc lại chịu để mắt tới sao.

Lý Viên thừa biết Xuân Thân Quân đã cắn câu, bèn mau chóng cho em gái vào Hoàng Phủ. Xuân Thân Quân vừa thấy mặt đã như mèo tháy mỡ, muốn chiếm ngay làm của riêng mình, bèn lập làm cơ thiếp, âu yếm vô cùng.

KHông lâu sau, Lý Viên thấy em gái mình đã mang thai, bèn ngầm bàn bạc với nàng, hỏi:

- Em cho rằng làm phu nhân tướng quốc danh giá hơn hay làm thị tì của tướng quốc danh giá hơn?

- Đương nhiên là làm phu nhân danh giá hơn.

- Thế thì làm tướng quốc phu nhân danh giá hơn hay là làm hoàng hậu hơn?

- Còn phải nói gì nữa? Rõ ràng là hoàng hậu hơn chứ ạ! Là đệ nhất phu nhân kia mà!

Lý Viên liền nói với nàng:

- Đúng rồi, đúng là hoàng hậu danh giá hơn, thế mà hôm nay ở phủ tướng quốc em chỉ là một tì thiếp mà thôi, muốn thế nào đi nữa cũng không thể lên làm phu nhân được, chứ đừng nói đến làm hoàng hậu. Ta đã có một mẹo này, nếu em chịu làm theo chắc chắn là em sẽ được làm hoàng hậu. Này nhé, hiện nay vua Sở còn chưa có con trai, ta sẽ tìm cách tiến em vào cugn, em hiện đang có mang, sau này nếu em sinh được con trai, thì em sẽ đượvc vua vì con mà quí mẹ, lập em làm hoàng hậu, đến khi con em được nối ngôi vua, lúc ấy em sẽ được làm thái hậu.

Lý Yên nghe xong mừng lắm, hỏi làm thế nào để được vào cung. Lý Viên bèn bảo với nfang cứ như thế, như thế.

Tối hôm đó, sau khi nũng nịu với Xuân Thân Quân một hồi , Lý Yên bèn thừa dịp nói:

- Vua Sở tôn kính tướng quốc như thế, tin tưởng như thế, đến anh em ruột cũng không bì kịp, mà tướng quốc làm tể tướng nước Sở này đã hơn hai chục năm, vua Sở lại không có con trai, chẳng may vua băng hà đi, người nối ngôi vua đương nhiên sẽ là anh em nhà vua. Đến lúc đó, một ông vua khác lên, đương nhiên ông ấy sẽ tín nhiệm và tôn kính người nào thân cận với mình, tưóng quốc có muốn được tin yêu như hiện nay là điều không thể được.

Nàng nói đến đâu Xuân Thân Quân gật đầu đến đấy, nói:

- Nàng nói qủa là có lý, ta cũng đang nghĩ tới điều này.

- Lại còn... - Nàng tiếp tục thẻ thọt - Tướng quốc nắm giữ việc nước đã lâu, đối với anh em của vua Sở thế nào cũng có nhiều điều không phải. Sau này bất kể là ai lên nối ngôi vua, nhất định họ sẽ chẳng nể nang gì, mà không bới lại những thù hận cũ, để dồn tướng quốc vào chỗ chết, sẽ thanh toán đến cùng, lúc đó tướng quốc và thiếp làm sao mà trốn thoát được? Đừng nói đến chuyện không giữ nổi địa vị, đến ngay như muốn về quê làm một gã dân den cũng còn khó, có đúng vạy không?

Xuân Thân Quân những muốn ân ái với nàng đôi chút, nghe thấy nói vậy, lòng bỗng thẫn thwò. Chẳng biết làm sao, buông một tiếng thở dài:

- Ôi! Ai chẳng biết rằng "quan nhất thời dân vạn đại", khốn nhưng không còn cách gì hơn!

Lý YÊn thấy ông ta đã bắt đầu nao núng, bèn tát nước theo mưa. Đem hết bản lĩnh của mình, ngả vào lòng ông nhỏng nhẻo:

- Việc đã đến thế này, xem chừng họa tày đình sắp đổ xuống đầu rồi, vì chuyện này thiếp mất ăn, mất ngủ, hay dở đều nghĩ đủ điều mà chưa nghĩ ra cách gì hơn. - Nói đến đây, nàng bỗng cố ý ngừng lời, lại cố tình uốn éo, liếc mắt nói - Nhưng nếu thiếp có nghĩ cách gì, tướng quốc sẽ không trách thiếp chứ?

- Đâu có, đâu có ! Nàng cứ nói ra đi, ta quyết không trách nàng đâu.

- Kỳ thực, việc đã cấp bách đến thế này, thì cũng chẳng muốn gì nhiều. Thiếp nghĩ rằng... - Lý Yên tiếp tục nói - Thiếp cũng mới ở đây không lâu, nay đã có mang, nhưng cũng còn chưa ai biết. Nếu tướng quốc dám dứt lòng yêu thiếp, kịp thời tiến thiếp vào cung, vua Sở nể lòng tướng quốc, nhất định sẽ yêu quí thiếp. Sau này nếu thiếp sinh con, nhất định nó sẽ được nối ngôi vua Sở, như thế chẳng phải là con trai tướng quốc được làm vua đó sao. Đến lúc đó, tất cả giang sơn nước Sở lại không phải thuộc về tay họ Hoàng của tướng quốc hay sao? So với những chuyện ghê sợ hãi hùng vừa nói, thì đằng nào hơn. Kỳ thực, thiếp cũng chẳng muốn làm như vậy, nhưng vì tướng quốc, vì thiếp, vì con của chúng ta sau này, vì họ hàng bạn bè của chúng ta, thì dù có nhảy vào lửa, thiếp cũng quyết liều.

Những lời nói đó, nghe ra có lý có tình. Xuân Than Quân nghe xong, còn thầm khen nàng biết nhìn nhận, bèn chuyển buồn ra vui, nói với nàng:

- Thật không ngờ nàng lại có tầm nghĩ cao xa đến thế, biết hy sinh cả cho ta, thật còn dũng cảm hơn, lớn lao hơn cả bậc nam nhi -Nói rồi hôn đánh "chút" vào má nàng.

Ngày hôm sau, Lý Yên được đưa ra ngoài phủ, ở kín đáo trong một căn nhà được canh giữ nghiêm ngặt. Tiếp đó Xuân Thân Quân vào triều tâu len với vua Sở, nói rằng khó khăn vất vả lắm mới tìm được người đẹp là Lý Yên, nguwòi vừa xinh xắn, lại có tướng sinh con trai, ngay vua Tề cũng còn sai sứ sang muốn lấy nàng về làm vương phi, nay đã đón được nàng, miếng ngon đừng để vào miệng kẻ khác và thúc giục vua Sở hãy mau đón nàng vào cung.

Vua Sở đón Lý Yên vào cung, vừa nhìn đã bằng lòn gngay. Được mấy tháng, quả nhiên sinh một lứa sinh đôi đều là con trai, thật đúng là "có ý trồng hoa hoa chẳng mọc, vô tình cấy liễu liễu lên xanh", có được kết quả ngoài ý muốn thế này, vua Sở mừng lắm, lập tức lập Lý Yên làm hoàng hậu, Lý Viên nghiễm nhiên thành quốc cữu, được tham dự triều chíh.

Lý Viên thấy em được làm hoàng hậu, cháu ngoại được làm thái tử. Mà nguồn gốc của thái tử ra sao, lại rõ hơn ai hết, từng giây từng phút lo lắng Xuân Thân Quân sẽ tiết lộ bí mật, muốn củng cố thêm địa vị của mình, liền nuôi dưỡng một loạt thích khách trong nhà định bụng sẽ giết Xuân Thân Quân đi.

Năm ấy, vua Sở lâm bệnh. Xuân Thân Quân có một thích khách tên là Chu Anh, nói với Xuân Thân Quân rằng:

- Trên đời này có những hạnh phúc không thể ngờ tới, lại có thứ tai họa khôn lường, thế mà nay tướng quốc đang ở vào cái bước chưa rõ yên nguy ra sao, đối với một đấng quân vương vui giận thất thường như thế, tại sao không sắp xếp lấy một người đột nhiên cần thiết đến?

- Cái gì gọi là hạnh phúc không ngờ tới? - Xuân Thân Quân ngạc nhiên hỏi.

Chu Anh đáp:

- Tướng quân làm tể tưóng nước Sở 25 năm nay, trên danh nghĩa là tể tướng, nhưng thực tế đã là vua nước Sở. ngày nay vua nước Sở đang ốm nặng, sớm muộn gì cũng sẽ băng hà, thái tử thì còn ít tuổi, mai ngày lại chẳng phải ôm ấu chúa lên đăng quang giống như Y Doãn, Chu Công thưở trước. Đã như thế thì tự mình ngồi quách lên ngai vàng, nước Sở sẽ về tay tướng quốc, đó tức là niềm hạnh phúc không thể ngờ tới.

- Thế còn gì là tai họa khôn lường? - Xuân Thân Quân lại hỏi.

Chu Anh nói:

- Tướng quốc có biết Lý Viên là con người như thế nào không? Ông ta xưa nay vốn là một kẻ mưu sâu kế hiểm lại táo bạo dám làm liều, ngày nay đã là quốc cữu roòi. Ông ta không phải là tướng quân, nhưng lại nuôi không biết bao nhiêu thích khách trong nhà, vậy thì để làm gì? CHỉ nghĩ qua cũng biết. Chẳng may vua Sở băng hà, ông ta dựa vào chút quan hệ thắt lưng dải yếm đó, tất sẽ lọt vào cung trước, dựng ấu chúa lên, giúp thiên tử thừa lệnh giết tướng quốc, cái đó gọi là tai họa khôn lường.

- VẬy thì... cái gì là người đột ngột cần thiết?

- Chuyện ấy thì lại không đơn giản, sự thực nếu có xu thế ấy, thì mèo chết cũng phải đánh như đánh hổ. Nay tướng quốc cứ cho tôi làm thị bảo trưởng, đem quân canh giữ cửa cung, để p hòng có sự biến. Đến ngày vua Sở băng hà, nếu Lý Viên vào cung trước, tôi sẽ cho hắn một nhsat kiếm để trừ hậu họa, đó chính là người đột nhiên cần thiết!

- Ha ha ha! Xuân Thân Quân bỗng nhiên cười lớn -Thì ra ngươi nói đến những điều này, hãy băn khoăn vừa vừa chứ, ta biết rõ Lý Viên là người nhu nhược, lại do ta cất nhắc lên, dù thế nào đi nữa cũng không thể xảy ra chuyện đó được .

Thấy Xuân Thân Quân như thế. Chu Anh không nói nhiều nữa, e rằng sau này sẽ họa đến thân, nên đã ngầm chạy đến một nơi khác.
Được mười mấy ngày sau, vua Sở chết thật. Lý Viên quả nhiên vào cung trước, cho binh mã phục sẵn ở hai bên tả hữu, sau đó sai người đi báo Xuan Thân Quân, rồi vào cung sắp xếp mọi việc. Xuân Thân Quân vội vã vào cung, vừa bước qua cửa, bị quân sĩ hai bên giết chết, họ hàng cũng không ai thoát.

Chứa mới đăng quang, Lý Viên chễm chệ lên hàng tể tướng.

Trương Đại Thiên bày kế dỡn Trình Lâm Sinh

Theo sự ghi chép trong Xuân Thân Cực vấn của Trần Định Sơn thì Thượng Hải có một ông "vua nhà đất" là Trình Lâm Sinh. Ông này bụng toàn chứa mỡ, không có một giọt mực nào, ấy thế nhưng lại thích làm ra phong nhã, chuyên đi sưu tầm danh họa cổ. Bởi vì chuyện vẽ vời ông ta chỉ là ngoại đạo, dễ bị những kẻ trong nghề lừa gạt, nên tranh mà ông ta sưu tầm, phần lớn là tranh "dởm".

Trương Đại Thiên lúc ấy đang độ thanh xuân, là đệ tử ở Lý Mai Am của một đạo nhân đời nhà Thanh, rất có danh tiếng, thường vẽ nhại những bức tranh của họa sĩ nổi tiếng đời Minh là Thạch Đào, rồi đem gia công, lộn sòng thật giả. Một lần, ông vẽ nhại một bức tranh của Thạch Đào, troe ở trong am, đến lúc Trình Lâm Sinh đến thăm sư phụ của Trương Đại Thiên, thấy bức tranh đó, ngỡ là tranh thực của Thạch Đào. Sau khi tán tụng một hồi, đòi được mua bức tranh đó mang về đưa tới trả bảy trăm đồng. Ông thầy ngay trước mặt cũng không dám nói là tranh dởm, nhưng cũng ngượng không dám để cho bạn bị thiệt thòi. Nhưng tiền đã đưa đến rồi, bèn cũng làm như một cuộc mua bán công bằng, đành đưa thêm một bức tranh thực của THạch Đào đáng giá bảy trăm đồng, bảo TRương Đại Thiên mang tới cho Trình Lâm Sinh, nói rằng biếut hêm một bức.

Trương Đại Thiên tới Trình Phủ, thấy phòng khách thênh thang sang trọng, bài trí rất xa hoa, bốn mặt tường treo đầy tự họa (tranh bằng chữ -một loại hình mỹ thuật của Trung Quốc qua nét chữ hán - N.D) nhìn mà hoa cả mắt, trong bụng nghĩ rằng thằng cha trọc phú học làm sang này cũng dám chơi ngông đây, bèn nói với Trình Lâm Sinh:

- Tranh cổ mà ngài sưu tầm, nhiều thì có nhiều, nhưng mà hơi tạp, tại sao không chuyên sưu tập của một người?

Trình lâm Sinh vội bám lấy, hỏi n gay:

- Theo ông thì nên chuyên sưu tập của ai tốt hơn cả?

Trương Đại Thiên vội đánh rắn leo đầu gậy, chớp lấy lời, nói luôn:

- Trình Công đã yêu thích Thạch Đào, thì đổi quách cái phòng khách này thành "phòng tranh THạch Đào" mua bằng hết tranh của Thạch Đào về treo ở đây, thế thì chẳng khó gì mà không trở nên một bậc có tiếng tăm số một của Thượng Hải ta.

Trình Lâm Sinh mừng lắm, cho rằng không còn gì tốt hơn, nhưng nhìn quanh bốn phía tường bỗng có chút rụt rè, nói:

- Với cái phòng rộng thế này, tốt nhất có bức tranh treo chính giữa, không biết Thạch Đào có bức nào lớn tới chừng này không? Mà làm thế nào có thể kiếm được! -Trương Đại Thiên có tính toán trước bèn nói ngay rằng đã từng thấy một bức lớn tầm ấy, đồng thời đưa mắt ước lượng trên tường, ngầm ghi nhớ kích thước ngắn dài, trên dưới, sau ba hoa một hồi bốc cho chủ nhà lên tận mây xanh rồi mới cáo từ.

Truơng Đại Thiên mừng khấp khởi trong lòng, đã bắt được hươu rồi, chẳng cưa lấy sừng hươu còn đợi đến bao giờ. Về đến nhà bèn cặm cụi suốt ngày đêm, trổ hết tài cho bút vẽ như hoa, nhại theo một bức tranh to, dài hai trượng bốn thước, rồi ký tên Thạch Đào, sửa sang ngoài mặt, gia công thêm một hồi, quả đúng là công sức đã đế nơi, mới nhìn qua y như một bức tranh cổ đã mấy trăm năm.

Công việc chuẩn bị đã xong, bèn dắt tay vào bày mưu đặt kế. Trương Đại Thiên tìm đến một người chuyên mua tranh cổ, nhờ ông ta mang bức tranh này đưa đến bán cho Trình Lâm Sinh, và dặn rằng đừng nói bức tranh này đã qua những tay ai.

Anh chàng lái buôn đem tranh đến Trình Phủ gặp Trình Lâm Sinh nói rằng gần đây co mua được một bức tranh lớn của Thạch Đào, nay xin mang tới để ông coi, nói xong mở ngay trang ra. Trình Lâm Sinh thấy bức tranh, mừng không để đâu hết, cứ tưởng như mình gặp vận may, tấm tranh lớn treo giữa phòng đang ao ước, nay bỗng đến ngoài ý muốn, tấm tắc khen và ngắm nghía hồi lâu, bèn hỏi giá bao nhiêu?

Gã lái buôn nói:

- Nếu phải người khác, tối ẽ đòi bảy ngàn đồng, nhưng trước mặt Trình Công, là khách quen , tôi chỉ lấy năm ngàn thôi, vì tôi còn muốn được ngài chiếu cố lâu dài về sau.

Trình Lâm Sinh vội đáp:

- Năm ngàn đồng nào có là cái gì, ta đã thích, thì chẳng kể gì giá cả, có điều ta cần phải có một người xem qua, để xem bức tranh này thật giả thế nào rồi mới bàn được, ông hãy chờ đây chốc lát xem sao.

- Người ấy là ai ạ? - Người lái buôn hỏi.

- Trương Đại Thiên - Trình Lâm Sinh đáp - Người này rất có tiếng tăm, phân biệt tranh cổ cũng có nhiều kinh nghiệm.

Nói xong, liền cho gọi phu xe, kéo xe riêng của mình đi đón Trương Đại Thiên và dặn bất kỳ giá nào cũng phải đón bằng được. Người lái buôn lúc này vui như mở cở trong bụng, nhận định rằng chuyến buôn này chắc chắn tànhh công.

Kỳ thực Trương Đại Thiên sớm đã ở trong phòng chờ đợi sẵn, vừa thấy có tin mời, lập tức đi ngay.

Trương Đại Thiên đến nơi, chỉ chào qua người lái buôn đôi câu, còn với Trình Lâm Sinh lại tỏ ra hết sức cung kính. Sau một hồi hàn huyên, bèn hỏi:

- Trình công cho gọi Đại Thiên tới, chẳng hay có điều chi sai bảo?

Trình Lâm Sinh đáp:

- Chẳng có việc gì khác, có một bức tranh của Thạch Đ ào, xin nhờ ông xme hộ là thực hay là giả? - Nói rồi bảo Trương Đại Thiên sang phòng bên để ngắm bức tranh đó. Ngắm nghía một hồi, Trương Đại Thiên làm ra bộ quan trọng, chỉ nói một câu gọn lỏn "đồ dởm".

Lời nói đó, chẳng khác gì một gáo nước lạnh dội lên đầu gã lái buôn, lòng bỗng thấy hụt hẫng, nghĩ rằng thằng cha Trương Đại Thiên này bảo ông đến đây để bán hột ranh, thế mà lại bảo là của dởm, tự mình bôi nhọ mặt mình, là có ý sắp đặt hay mày mắc chứng thần kinh? Mấy lần đứng cạnh đưa mắt cho Đai Thiên, nhưng Đại Thiên làm như không biết, vẫn tiếp tục bới chỗ nọ vạch chỗ kia, nói chô xnày có vết chỗ kia có nét giả, khiến bức tranh chẳng đáng một xu.

Trình Lâm Sinh thấy nói thế thì buồn lắm, bèn bảo với người buôn tranh:

- Vậy thì phiền ông anh hãy đem tranh về, tìm khách khác mà bán. Gã lái buôn không ngờ bị vố đòn đau, bẽn lẽn cuốn tranh ra khỏi cửa. Dọc đường về chửi thầm Trình Lâm Sinh thật tệ, thật khôn gngờ bị người ta lỡm như chó như mèo, càng nghĩ càng bực, càng bực càng chửi. Thế là lại đi gặp Trương Đại Thiên nói cho ra nhẽ, định chửi cho một trận vuốt mặt không kịp.

Ai ngờ đâu Trương Đại Thien đã về từ trước, đang đung đưa ngồi trên ghế nghêu ngao hát vặt. Vừa thấy gã lái buôn tranh đã cười ngặt nghẽo, vội vàng phân trần:

- Xin ông anh chớ vội buông lời, tất cả đều có sắp đặt cả đấy, một lát phiền ông anh lại đến Trình phủ lần nữa, b ảo rằng bức tranh đã bị Đại Thiên này mua mất rồi - Thế rồi lại ghé tai dặn như thế như thế... Người buôn tranh nghe vậy mới vỡ lẽ, vỗ mạnh vào vai Trương Đại Thiên:

- Chú em, mày giỏi thật.

- Đương nhiên, người rừng cũng có lúc có kế hay chứ!

Mấy hôm sau,, người buôn tranh lại ghé qua Trình phủ thăm Trình Lâm Sinh, trong khi chuyện phiếm, như vô ý nói đến chuyện bức tranh hôm ấy bị Trương Đại Thiên mua mất rồi.

- Cái gì? Đại Thiên lại đi mua tranh dởm của nhà anh? - Trình Lâm Sinh hỏi một cách lạ lùng.

- Đúng như vậy, thưa ông -Người buôn tranh trả lời hết sức thành thật - Ông ta bảo hôm xem tranh vì mấy đêm liền mất ngủ, nên mắt nhìn không thật, sau bảo tôi lấy ra xem lại kỹ lưỡng, mới xác định là tranh của Thạch Đào.

Trình Lâm Sinh nghe thấy thế, bực không thể tả được, buột miệng chửi tướng lên:

- Thằng chó để, hóa ra thằng cha Trương Đại Thiên này lại dám lỡm cả ta truwóc mặt người khác, mày bôi tro trát trấu vào mặt tao. Rốt cuộc nó mua với giá bao nhiêu? Ông sẽ trả nhà anh gấp đôi!

- Bốn ngàn rưỡi ạ. Thế nhưng, thưa ông, bức tranh ấy ông Đại Thiên đã mua đứt với tôi rồi, đúng lý ra phải để tôi hỏi ông ấy có bằng lòng để lại hay không mới được.

- Đi đi, càng nhanh càng tốt, để xem thằng chó đểu còn định giở trò gì?

Người buôn tranh ra phố lượn quanh một vòng, bèn quay về trả lời , nói rằng Trương Đại Thiên đã bằng lòng, nhưng đòi một vạn đồng mới chịu để lại cho. Trình Lâm Sinh chẳng thèm cân nắch gì nhiều, lập tức viết ngay cho một tờ ngân phiếu mười ngàn đồng, trao cho ngưòi buôn tranh để mua bằng được bức tranh đó, rồi lập tức cho sửa căn phòng xây dựng thành "phòng tranh của Thạch Đào" thu thập riêng tranh có tới hơn 300 bức. Khi treo lên, bất kể mọi người ở các tần glớp đều có thể vào tham quan, chỉ trừ có một người, đó là Trương Đại Thiên.

Trương Đại Thiên nghĩ, Trình Lâm Sinh đã học đòi làm sang, chơi ngông thế, đã bị mắc vào tròng. Thế là vẽ hàng loạt tranh Thạch Đào dởm, nhờ người đem bán. Cho nên mới có câu "kỹ thuật bán tranh của Trương Đại Thêin cũng không kém gì nghệ thuật vẽ tranh của ông".

Việc cũng ngẫu nhiên rất hay, không lâu sau Trình Lâm Sinh tuyên bố phá sản. Trương Đại Thiên lại thừa cơ mua hàng loạt tranh vẽ của phòng tranh Thạch ĐÀo, thực ra trong đó lại có nhiều bức là thứ thiệt của Thạch ĐÀo.

LSB-KỳCôngKỳThủ
03-07-2003, 17:04
[center:40522cb990]Kế 4[/center:40522cb990][center:40522cb990]Bề Ngoài Thơn Thớt Nói Cười
Mà Trong Nham Hiểm Giết Người Không Dao[/center:40522cb990]
[center:40522cb990]Trừ Kẻ Khác Mình Lý Lâm Phủ Miệng Nam Mô Bụng Bồ Dao Găm
Trong Cười Có Dao Trịnh Tụ Dùng Kế Trừ Khử Mỹ Nhân Nước Ngụy[/center:40522cb990]
Trong cười có dao, còn có những từ đồng nghĩa như khẩu phật tâm xà, miệng nam mô, bụng bồ dao găm. Nhưng đều có một ý nghĩa chung là miệng thì ngọt ngào nhưng lòng thì độc như rắn rết. Người dùng kế này, bề ngoài lúc nào cũng vui vẻ tươi cười , nhưng phía sau lại mài dao sàn sạt như sắp sửa giết trâu mổ lợn.

Bản năng ngây thơ nhất của loài người là cười và khóc, do đã quen với gian trá nên bản năng này vừa biến đổi cả về thể chất cũng thay đổi cả dạng. Khóc và cười đều có thực và giả. Khóc thật hay khóc giả, thì mục đích cũng không ngoài sự biểu lộ niềm u uất trong lòng hay kêu gọi sự đồng tình của người khác. Thế nhưng cười thì lạc khác. Ngoài những tiếng cười thơ ngây hay mỉm cười biểu lộ sự vui lòng, còn có những giọng cười khác đều mang theo một ý đồ như cười man rợ, cười gian trá, cười thâm hiểm, cười nhạt, cười nheo mắt... nếu không muốn lấy lòng người thì cũng là lấy của người, thậm chí còn lấy cả mạng người, cho nên Bạch Cư Dị mới cảm nghĩ mà ngẫm ngợi rằng: "Cá bơi dưới biển chim bay trên trời, cao thì bắn được, sâu câu được. Duy chỉ có lòng người gần trong gang tấc mà khó đo vô cùng. Thần âm dương biến hóa còn có thể dò , sao dò nổi trong tiếng cười chứa giận".

Vì hình tượng lúc khóc trông khó coi, vẻ mặt cười bao giờ cũng đẹp , mà con người lại vốn ghét cái xấu, yêu cái đẹp, cho nên mắc lừa vì cười thì nhiều. Nói cách khác, tiếng khóc không nhậm chìm được anh hùng, nhưng tiếng cười lại dễ chôn vùi hào kiệt.

Lấy tiếng cười làm vũ khí tiến công , tức là "thế tấn công bằng nụ cười", khi dùng phải tỏ ra tự nhiên, phải cười đúng lúc, đúng lẽ. Giống như Bao Tự, vì cười không đúng chỗ làm cho "lửa cháy khắp chư hầu". Túc phu nhân cười không phải lẽ, khiến cho chư hầu bị vây khốn, mạng thiệt, nước mất. Ngược lại, Dương Quý Phi "liếc mắt một tiếng cười bằng trăm điều quyến rũ, giới phấn sáp trong lục cung trở thành vô nhan sắc". Ba trận cười của Thu Hương, khiến Đường Bá Hổ phải bán thân làm nô lệ.

Đó chẳng qua là hiệu quả tiếng cười của đàn bà, nếu cái cười dùng trong những cuộc đấu tranh đầy "huyết lệ" thì không chỉ hạn chế ở đàn bà, mà cũng không nhất định phải cười. Tóm lại, ngoài mặt làm ra vẻ cung kính đôn hậu, hòa nhã dễ gần , lấy sự thành khẩn giả dối đổi lấy sự thành khẩn thật, lấy sự đồng tình giả dối đổi lấy sự đồng tình thực, làm cho đối phương trúng vào kế của mình mà không hề hay biết. Các nhà chính trị có một điều tâm niệm là "lấy nhu trị cương", muốn giết một con ruồi, dùng một hạt đường vẫn hơn là dùng thuốc sát trùng.

Tục ngữ có câu: "Thân nhau lắm, cắn nhau đau" còn có thể giải thích theo ý "càng yêu càng giận, càng thân càng thù". Bởi thế lại còn có câu răn "Quân tử chơi với nhau nhạt như nước, tiểu nhân kết bạn ngọt hơn đường". Tại sao mà càng thân lại càng thù? Không có gì khác là do xung đột về quyền lợi. Khi có cái để lợi dụng thì sán đến với nhau, gọi nhau bằng cha bằng mẹ, khi thời thế đã đổi thay, thì người thấy cần đấu đá thường lại là người thân mật nhất. Trong lịch sử Trung Quốc, Võ Tài Nhân (Võ Tắc Thiên) đời Đường đối với Vương hoàng hậu. Ý Quý Phi (Tây Thái Hậu) đời nhà Thanh đối với hoàng hậu Hiếu Trinh (Đông THái hậu) mới đầu thân thiết hiếu thuận ai bằng, về sau lại vô tình nhạt nhẽo không biết nhường nào. Võ Tắc Thiên, Tây Thái hậu sở dĩ thành công trong việc cướp chính quyền chính là nhờ "thơn thớt nói cười mà giết người không đao". Vương Hoàng Hậu, Hiếu Trinh hoàng hậu sở dĩ thất bại vì trong tiếng cười không có giấu dao.

Lưu Bang với Hạng Vũ, từng kết nghĩa anh em, thế mà vì cướp quyền tranh lợi, biến kết nghĩa thành kết oán. Lưu Bang biết dùng thủ đoạn "thơn thớt nói cười, giết người không dao", cho nên tránh được vận hạn ở Hồng Môn Yến. Hạng Vũ do không biết dùng thủ đoạn đó, nên không tránh khỏi tự vẫn ở Ô Giang.

Do hạng người miệng nam mô, bụng bồ dao găm còn có nhiều, nên những ai từng trải sự đời, thường hay đề phòng nhất là những kẻ cười hì hì, bắt tay có vẻ nồng nhiệt.

Lý Lâm Phủ Miệng Nam Mô, Bụng Bồ Dao Găm

Thời Đường Minh Hoàng, có hai vị Tể tướng cùng lo việc nước, một là Lý Thích Chi ngay thẳng chuyên cần, một là Lý Lâm Phủ thâm hiểm gian trá. Lý Thích Chi luôn luôn chống lại Lý Lâm Phủ. Lý Lâm Phủ lúc nào cũng muốn hãm hại Lý THích Chi, nhưng ngoài mặt hai người rất tốt với nhau chẳng thấy gì có vẻ xung đột mâu thuẫn.

Có một hôm, hai người ngồi nói chuyện phiếm. Lý Lâm Phủ khuyên Lý Thích Chi:

- Hoa Sơn là nơi có mỏ vàng, ai cũng biết. Nếu cho người đi đào kiếm, thực là thêm cho nhà nước biết bao nhiêu của cải, tại sao ông không tâu lên với hoàng thượng?

Lý Thích Chi vốn là người thực thà, cũng cho rằng có thể làm được, bèn tâu lên với Đường Minh Hoàng.

Đường Minh Hoàng cho vời Lý Lâm Phủ, hỏi:

- THích Chi mới tâu lên rằng Hoa Sơn có mỏ vàng, ngươi có biết không?

Lý Lâm Phủ tìm lời đáp khéo:

- Tiểu Thần gần đây chỉ lo cho bệnh tật của bệ hạ, thừa biết phương vị mỏ vàng Hoa Sơn chính là bản mệnh của bệ hạ, dưới đất có hàm chứa cái khí của vương giả, nếu như đào bới lên, sẽ không lợi cho long thể của bệ hạ, chính thần cho việc đó, nên không dám tâu với bệ hạ.

Đường Minh Hoàng nghe vậy, cho rằng Lý Lâm Phủ mới là người thực sự bầy tôi trung nghãi nhất. Lý Thích Chi có ý xấu xa, từ đó đem lòng xa lánh và cuối cùng bãi cả quan chức của ông này, để Lý Lâm Phủ một mình đảm đương triều chính.

Lý Lâm Phủ lên nắm quyền, bước đầu tiên là trừ bỏ người không ăn cánh với mình, lôi kéo một đám thân thích và tham nịnh. Đối với những người trung thực, đã gạt bỏ đi để trừ hậu họa.

Có viên thái thú giáng quận là Nghiêm Đình Chi rất được Đường Minh Hoàng quí trọng và có ý cất nhắc. Lý Lâm Phủ biết chuyện đó, sợ rằng người này mà được trọng dụng tất sẽ ảnh hưởng đến mình, bèn kiếm cách tìm em của Nghiêm Đình Chi là Nghiêm Tốn Chi tới, vỗ vai nói rằng hắn tốt với lệnh huynh như thế nào, quan hệ mật thiết đến thế nào và hứa trước mặt Tốn Chi là sẽ tâu lên xin cho người em này làm chức viên ngoại lang, để tỏ lòng quan tâm và sự kính trọng với Nghiêm Đình Chi. Sau đó mới nói lộ rằng:

- Hoàng Thượng vô cùng kính trọng lệnh huyhn, chúng ta cần phải tìm cách, điều lệnh huynh về kinh, như thế mới kịp thời phất cờ đúng dịp.

Nghiêm Tốn Chi như đã bị bùa mê thuốc lú, bèn hỏi liệu có cách gì. Lý Lâm Phủ ra chiều suy nghĩ hồi lâu, rồi mới nói:

- Hay là thế này, đệ hãy viết cho lệnh huynh một bức thư, bảo lệnh huynh viết một tờ trình, nói rằng bị bệnh phogn thấp, mong được về TRàng An chữa trị, lúc đó tôi sẽ nghĩ cách giúp thêm.

Nghiêm Đình Chi nhận được thư của em, tin rằng thật, còn cho rằng Lý Lâm Phủ có lòng tốt với mình, bèn theo như lời dặn, viết một bức thư trình xin "điều về kinh chữa bệnh".

Lý Lâm Phủ được thư trình, vội chạy vào xin yết kiến Đường Minh Hoàng, nói:

- Nghiêm Đình Chi nay tuổi đã cao, hay mắc chứng bệnh phong thấp, đi lại đứng ngồi đều rất khó khăn. Chẳng thà cho ông ấy một chức quan nhàn, điêu đến nơi khí hậu tốt để điều dưỡng, như vậy lại vừa thấy được sự quan tâm của bệ hạ với các hạ thần.

Đường Minh Hoàng nghe theo Lý Lâm Phủ chẳng cân nhắc gì thêm, phê duyệt ngay, điều Nghiêm Đình Chi đến Lạc Dương, nơi "hoa tươi nở tựa gấm" nhận một chức nhàn quan, chỉ biết lĩnh lương và ngồi chơi xơi nước, đến thái thú một quận cũng không được làm.

Trịnh Tụ Dùng Kế Trừ Khử Mỹ Nhân Nước Ngụy

Trịnh Tụ là phu nhân của Sở Hoài Vương, rất xinh đẹp, lại thông minh nhanh nhẹn, rất được Sở Hoài Vương yêu dấu.

Một lần, vua nước Ngụy tặng Sở Hoài Vương một người con gái đẹp, vừa xinh xắn, vừa nhiệt tình, làm cho Sở Hoài Vương mê tít.

Trịnh Tụ rất đau lòng vì có người sắp xen ngang vào chiếm đoạt tình yêu và còn có nguy cơ bị tống vào lãnh cung.

Bề mặt nàng tỏ ra như không có chuyện gì, không ca cẩm điều gì với Sở Hoài Vương, cũng không nói ra nói vào nửa câu, hơn thế lại tỏ ra hết sức có thiện cảm với TÂn phu nhân. Tân phu nhân thích xiêm áo gì, thích chơi bời thứ gì. Trịnh Tụ đều cho làm bằng được. TÂn phu nhân muốn sửa sang bày biện căn phòng của mình thế nào, Trịnh Tụ cũng cho làm ngay. Trịnh Tụ quan tâm đến TÂn phu nhân còn hơn cả Sở Hoài Vương, săn sóc tận tình đến nơi đến chốn như thân phận một nữ tì. Chẳng những thế, còn tỏ lời khen n gợi Tân phu nhân ng ay trước mặt Sở Hoài Vương.

Tân phu nhân cũng rất cảm kích đối với bài chị, thường xuyên đi lại, gặp việc gì cũng đưa ra bàn bạc, thân đến mức xưn hô bằng hcị em.

- Chị ơi! - TÂn phu nhân nói - Em rất cảm động thấy chị tốt với em quá!

Trịnh Tụ nói:

- Có gì đâu? Hai chị em ta cùng săn sóc một ông chồng, đúng là thân thiết như ruột thịt, không hề so bì. Chồng chúng ta là vua một nước, bận trăm công ngàn việc. Phận chúng ta là vợ, phải hết sức chăm lo săn sóc người, để trong mệt mỏi, người có được phút thảnh thơi, nếu chúng ta không lo việc trong nhà được trong ấm ngoài êm, chẳng hóa ra dằn vặt chồng hay sao? Em ạ! Em làm được cho chồng chúng ta vui vẻ, chị cũng vui vẻ chẳng kém gì, chị nên cám ơn em mới phải.

Nghe những lời nói đó, Tân phu nhân cảm động rơi cả nước mắt, nói:

- Chị dạy hơi quá lời, em quả thực không làm nổi, mong chị hãy thường xuyên chỉ bảo cho, bày vẽ cho em cách làm thế nào cho chồng chúng ta vui lòng.

- Làm gì phải khách sáo thế em, tất cả là trông vào chồng, gặp việc gì chúng ta hãy bàn bạc với nhau, như thế thì chẳng có gì mà chòng chúng ta không vui lòng.

Sở Hoài Vương thấy hai người vợ như hoa như ngọc ăn ở với nhua tốt như thế, trong lòng rất vui , nói:

- ĐÀn bà phần lớn đều lấy sắc đẹp để làm vui lòng chồng, nhưng mà trời lại sinh cho họ có máu ghen. Thế nhưng đệ nhất phu nhân của ta thì không thế, nàng rất quan tâm đến ta, biết ta yêu thích Tân phu nhân, mà nàng lại còn yêu thích hơn ta, đến mức như một người con hiếu thảo, một bậc trung thần cũng không bằng.

Trịnh Tụ biết Sở Hoài Vương không nghi ngờ gì mình ghen tuông, nên ng ầm vui trong lòng. Một hôm, đang ngồi nói chuyện phiếm với TÂn phu nhân, như vô tình nói với TÂn phu nhân:

- TRước mặt chị, đại vương nói rằng em rất đáng yêu, vừa xinh đẹp vừa thông minh lại dịu dàng, biết săn sóc chồng. Chỉ có một điều, đại vương chê mũi em hơi bị lõ một chút.

- Thế thì làm thế nào? - Tân phu nhân vừa nói vừa sờ lên mũi mình hỏi.

- Điều đó chẳng có gì ghê gớm - Trịnh Tụ trả lời như không hề có gì xảy ra - Sau này mỗi lần gặp đại vương, nhẹ nhàng khéo léo che mũi đi một chút là được.

Tân phu nhân tưởng đó là cách tốt nhất, sau đó mỗi lần gặp Sở Hoài Vương, đều lấy tay che mũi.

Sở Hoài Vương thấy lạ, song không tiện hỏi thẳng trước mặt, bèn về hỏi Trịnh Tụ:

- Tại làm sao gần đây TÂn phu nhân mỗi lần gặp ta đều cứ che mũi lại thế?

Trịnh Tụ đáp rất thành khẩn:

- Thiếp cũng có nghe nàng nói qua, thế nhưng... Nàng liế cmắt nhìn Sở Hoài Vương, định nói lại thôi.

- Nàng nói đi - Sở Hoài Vuơng giục - Vợ chồng với nhau, còn có gì mà không nói thực. Nàng có nói sai, ta cũng không trách kia mà!

Trịnh Tụ làm ra vẻ sợ sệt, cúi đầu nói:

- TÂn phu nhân nói r ằng rất ghê sợ cái mùi buồn nôn trên thân mình đại vương...

- Hả, ta là vua một nước, thế mà mình lại có mùi hôi thối, mà nó lại ghê sợ? Thật vô lý, vô lý quá! - Vị quân vương vui giận bất thường này bắt đầu nổi nóng, đập tay lên án thư, gầm lên giận dữ - Bay đâu, hãy cắt cái mũi của tên giặc cái đó đi!

Dung nhan của TÂn phu nhân đã mất, kẻ tình địch của Trịnh Tụ bị đánh đổ và nàng lại độc chiếm loan phòng của Sở Hoài Vương.

LSB-KỳCôngKỳThủ
04-07-2003, 17:24
[center:c94235d3db]Kế 5[/center:c94235d3db][center:c94235d3db]Độc Trị Độc[/center:c94235d3db]
[center:c94235d3db]Nhiều Mẹo Nhiều Sức Mã Học Sĩ Dùng Mưu Trị Vợ Ngang Ngược
Lấy Độc TRị Độc Vương Thế Trinh Viết Sách Báo Thù Cha[/center:c94235d3db]
Lấy độc trị độc, cũng như câu tục ngữ của người Trung Quốc: "Mi có kế Trương Lương, ta có thang leo tường". Biểu hiện một sự đấu trí mặt đối mắt.

Trong một cuộc đấu tranh căng thẳng và dữ dội, bên nào cũng nghiến răng nghiến lợi, gằm ghè giáp mặt nhau. Mi định moi gan ta thì ta cũng muốn móc ruột mi, hai bên đều nghĩ mưu, nghĩ kế xuất kỳ mà đánh. Cái "thuật" muốn đưa ra, chính là mưu kế, cũng tức là độc. Chẳng có kế nào mà lại không độc, không độc thì đã không gọi là kế, kế đi kế lại hai bên, gọi là lấy độc trị độc.

Dùng kế chẳng khác gì đánh cờ, tiến công phòng bị đều phải nghĩ tới, thế nào cũng phải đi trước, bước nào cũng phải áp sát, hơi lơ đễnh một chút là cả ván cờ lôi thôi, cục diện và đấu pháp đó mục đích là ở chỗ áp đảo đối phương. Nói về đấu pháp, thì cuộc đấu trí trong Tây Du Ký giữa Tôn Ngộ Không với Nhị Lang thần là rõ ràng nhất mà cũng phổ biến nhất. Đại Thánh bị thiên tướng vây chặt, không còn lối thoát thân, bèn dướn mình một cái biến ra con chim sẻ. Nhị Lang thần thấy thế cũng hóa thành con chim ưng tới mổ chim sẻ. Đại Thánh cuống lên, lại biến ra con chim cốc, bay vọt lên trời. Nhị Lang thần lại biến thành con hạc biển, đuổi con cốc xuống đất. Đại Thánh rơi vào động biến ra một con cá nhỏ. Nhị Lang thần liền biến ra con cò bắt cá. Đại Thánh liền hóa thành con rắn cắn cò, Nhị Lang thần liền hóa ra con hạc xám chuyên ăn thịt rắn. Đại Thánh bị dồn quá, lại hóa ra con chim sấm, Nhị Lang thần bèn hiện thân, dùng đạn bắn, Đại Thánh hết cách bèn lăn xuống dốc núi, nằm phục và biến ra một cái miếu thổ thần, há miệng ra làm cửa miếu, răng làm cánh cửa, lưỡi làm tượng phật, mắt thành cửa sổ còn mỗi cái đuôi không biết để vào đâu, bèn dựng lên ở phía sau thành cái cột cờ, tưởng rằng chờ đối phương vào miếu thì sẽ cắn chết tươi. Nhị Lang thần đuổi tới, vừa nhìn thấy đã cười, nói:

- Con khỉ kia, mày thật là xảo quyệt, nhưng tao không ngu đâu. Mày có biến hóa kiểu gì cũng không qua được mắt tao, làm gì có cái thứ cột cờ lại dựng ở đằng sau miếu? Được, cứ để ta phá tan cửa và cửa sổ đi xem mày thế nào?

Đại Thánh nghe thấy thế mà run , bèn biến thành cơn gió bay lên không, trốn mất.

Đó tuy là thần thoạt "Tây Du nói khoác" nhưng cũng nói lên phương thức của quá trình đấu pháp.

Nói đến "độc" là có công, có phòng, cũng như trong kế là có tiến có thoái. Giống như người chủng đậu, lấy mủ độc ở mụn đậu trên mình bò chế thành mầm bệnh rồi cấy lên thân người là có thể đề phòng nhiễm bệnh đậu mùa. Đó là cách lấy độc phòng độc, về mưu lược mà nói, đây là một sự phòng chống tiêu cực. Phòng chống kiểu này, tuy là một cách an toàn, nhưng áp dụng vào mưu kế, đóng vai lợn để ăn thịt hổ, nếu không cẩn thận phòng chống chẳng được mà còn lâm vào thế bị động. Nhất là khi sắp bước vào đáu tranh, tình thế hiểm ác diễn biến trong từng nháy mắt, một là thắng lợi, thì chi phối được người ta, hai là bó giáo đầu hàng, chịu sự chi phối, quyết không thể nào có con đường thứ ba. Cái gọi là "chung sống hòa bình" xét cho cùng, cũng chỉ là ngôn từ khách sáo khi hai bên không có xung đột về l ợi hại, giữa hai bên đối địch nhau làm gì có chuyện hòa bình, chung sống chỉ là sự hoang tưởng. Cho nên muốn khỏi bị người ta khống chế, thì phải dùng mưu kế, mà đã dùng mưu kế thì phải độc hơn người, không độc không phải là đại trượng phu.

Kế lấy độc trị độc, trong lịch sử từng có không biết bao nhiêu. Ví dụ như cuộc tranh chấp giữa Tào Thực với TÀo Phi là con TÀo Tháo thời Tam Quốc, đã gây nên cuộc đấu trí giữa Dương Tu và Ngô Chất, rồi sự kiện diễn ra ở cửa Huyền Vũ do cuộc tranh chấp giữa anh em Kiến Thành Nguyên Cát với Lý Thế DÂn ở thời đầu nhà Đường, giành được thắng lợi cuối cùng, cũng đều là nhờ kết quả do đã giở những ngón độc chiêu liên hoàn.

Võ Tắc Thiên khi làm "tài nhân" trong cung nhà Đường. Đường THái Tông có con ngựa lớn tên là "sư tử hống", vô cùng bất kham, chưa có ai trị đuợc nó, Võ TẮc Thiên nói với Đường THái Tông rằng thiếp có thể trị được nó, nhưng cần có ba loại dụng cụ sau đây: MỘt là roi sắt, hai là búa sắt, ba là con dao nhọn. Dùng roi sắt đánh nó, nếu không chịu, thì dùng búa sắt mà đánh. Nếu không chịu nữa thì cắt đầu nó đi. Đường Thái Tông vô cùng thán phục.

Tại sao Đường Thái Tông lại thán phục nghe theo, bởi ông tin rằng các biẹn pháp rất độc ấy dùng để điều khiển quần thần thì không còn gì hay hơn.

Phàm những người muốn gây dựng nghiệp lớn, cần p hải có cái chí hơn người, có sự chịu đựng, có lòng căm giận hơn người. Võ TẮc Thiên sở dĩ làm được một nữ hoàng đế Trung Hoa từ xưa tới nay chưa từng có, chính vì bà ta có ba thứ "sắt" đó.

Mã Học Sĩ Dùng Mưu Trị Vợ Ngang Ngược

Đời nhà Thanh, ở Thường Châu có một vị Hiếu Liêm họ Hoàng, năm ba mươi tuổi chưa có con trai. Vợ của chàng Hiếu Liêm là Trương Thị, vốn có máu ghen, Hiếu Liên sợ hơn hổ, không dám lấy vợ lẽ. Thầy dạy học của chàng là Mã Học sĩ, thương cho Hòang ba đời độc đinh, bèn tặng cho chàng một cô hầu. Vợ của Hoàng vô cùng tức giận, nhưng ở vào cái thời "thiên địa quân thân sư", với những đấng thiêng liêng ấy , ở vào hoàn cảnh này nàng tuy tức giận trong lòng mà không dám hé răng nửa lời.

Ngày đón người mới vào nhà, các bạn học mang rượu thịt đến chúc mừng, rượu vừa ngà ngà, TRương Thị ở sau màn chửi khách. Có một khách say đã lao đến tóm lấy tóc mục, tát cho hai tát, mắng:

- Mi đối xử với chồng mi như thế, thật là quá đáng. Hoàng huynh là bạn học của ta, mi tôn kính anh ấy, thì ta kính trọng mi như chị dâu. Còn nếu mi không tôn kính anh ấy, thì ta coi mi như kẻ thù, mi mà còn lắm mồm, thì hãy xem ta có dám đánh chết mi hay không...

Sau nhờ có nhiều người khuyên can, Trương THị mới thoát thân, nhưng lại đem lòng oán giận, thế nào cũng phải kiếm một phen báo thù và giận lây sang cả thầy dạy học của họ là Mã học sĩ.

Không lâu sau, vợ của Mã học sĩ chết, ông không muốn lấy vợ kế. Trương THị thấy đã đến lúc dùng mưu, bèn dùng tiền bạc hối lộ cho mụ mối, tìm cho Mã học sĩ một con mụ đanh đá na nh nọc để cưới làm vợ kế. Mã đã biết được thâm ý đó, song vẫn vui lòng ăn hỏi.

Ngày thành hôn, trong hòm nữ tranh của tân phu nhân có một cây gậy, trên đó viết: "Tam đại truyền gia bảo" (của quí ba đời). Sau khi lễ trời tế đất xong, tất cả thị nữ và con hầu đều phải lên chào bà chủ mới. Tân phu nhân hỏi:

- Bọn này là ai?

Mã học sĩ đáp:

- Đều là thị nữ.

Mụ ta liền trợn tròn đôi mắt, mặt hằm hằm tức giận mắng ngay:

- Đường đường là một nhà học sĩ, ai cho phép có nhiều thị nữ thế này.

Nói rồi mụ liền lấy ngay cây gậy, đánh tới tấp vào bọn thị nữ. Mã học sĩ đã biết trước thế nào cũng có chuyện này, bèn lệnh cho bọn thị nữ cướp roi đánh trả, đánh cho tân phu nhân kêu lên như lợi bị chọc tiết, vội chạy trốn vào phòng, đóng cửa kêu khóc ầm ĩ. Đám thị nữ ở ngoài cửa, đập gõ inh ỏi cho át tiếng kêu. Thế là mới trận đầu tân phu nhân đã bị thua, lại còn dọa sẽ tự tử. Ngay sau đó thấy một thị nữ đưa qua khe cửa vào một con dao và một sợi dây và nói:

- Ông tôi bảo phu nhân thế nào cũng cần thứ này, nên đã cho chuẩn bị sẵn món quà này để dâng biếu phu nhân. Tiếp đó, đám thị nữl ại nhịp nhàng gõ mõ, cùng tụng kinh, cầu cho phu nhân sớm được siêu thoát để lên tiên.

Thế là kế "một là khóc, hai là dỗi ăn nhịn đói, ba là đe tự tử" đều không linh nghiệm, chẳng còn cách gì hơn, chỉ còn cách đổi giận làm vui, mở cửa quì trước học sĩ để kêu xin:

- Chàng là chồng htiếp thực. Những gì thiếp vừa làm là gia pháp cổ truyền để dọa những đàn ông đần độn, sau này xin sửa chữa lỗi lầm, nhất định sẽ làm theo lời học sĩ, mong người hãy tha lỗi cho.

Học sĩ đỡ mụ đứng dậy , nói:

- Khanh làm được thế thì còn gì bằng - Nói xong bèn cho làm lễ tiến và lệnh cho thị nữ vào tạ tội với nàng. Sau đó giao tất cả mọi việc vườn ruộng tiền nong sổ sách để cho nàng lo liệu việc nhà, chỉ trong một tháng, gia đình họ Mã lại êm thấm yên vui.

Sau khi Mã học sĩ lấy vợ, Trương Thị liền cho người dò la tin tức, được biết mụ đàn bà độc ác nay đã ngoan ngoãn thành một người vợ hiền , trong lòng mụ sinh nghi, bèn hẹn gặp mặt nàng hỏi xem có dùng bài b ản cái gậy gia truyền, nàng đáp rằng:

- Có dùng, nhưng bị đánh bại.

- Sao không chửi mắng? Sao không khóc lóc?

- Ăn thua quái gì? Bọn họ làm ầm ĩ ngoài cửa, gào rát họng cũng chẳng ai nghe thấy.

- Sao không dọa chết?

- Bọn họ đã mang dao và dây dể sẵn đưa tận nơi, còn gõ mõ tụng kinh đưa tiễn.

- Thế sau thì làm thế nào?

- Còn làm thế nào, chỉ còn mỗi cách là ngoan ngoãn đầu hàng.

- Trương Thị tức đỏ mặt tía tai, chửi luôn:

- Đồ ăn hại, cơm toi, phí cả công ta, mất cả chì lẫn chài, chỉ bở cho thằng cha ấy thôi!

Vương Thế Trinh Viết SÁch Báo Thù Cho Cha

Vương Thế Trinh có thể nói là một bậc quyền uy trên văn đàn triều nhà Minh. Cha ông là tả đô Ngự sự Vương TRữ lúc đó có giữ tấm "Thanh Minh thượng hà đồ" của Trương Trạch Thụy. Gian tướng Nghiêm Tung muốn lấy đi song Vương Trữ rất tiếc nên đã nhờ người thợ giỏi vẽ nhại một bức khác hệt như bức đó dâng lên. Nghiêm Tung với quan hàn lâm Đường Thuận Chi cùng thưởng lãm bức tranh. Đườn g Thuận Chi đã vạch ra rằng đây là bức tranh dởm, cụ thể là chỉ bốn người trong tranh đang chơi trò xúc xắc, năm con đều đổ 6 điểm, còn một con đang quay, một người trong đó há miệng hô "sáu" Người miền Bắc nói "sáu" thì miệng chúm lại, chỉ có người Phúc Kiến nói từ "sáu" mới mở miệng ra. Từ đó mà đoạn định rằng đây là bức tranh dởm.

Nghiêm Tung nghe vậy, bỗng nhiên nổi nóng, cho rằng Vương TRữ đã rắp tâm lừa mình. Bởi vậy mang ác cảm trong lòng.

Vừa gặp dịp có giặc ngoại xâm lăng bờ cõi. Vương TRữ được thăng làm quan tuần phủ, Nghiêm Tung mượn cớ ông đã để chậm trễ quân cơ, đem giết đi.

Vương Thế Trinh biết lý do cha mình chết là tại bức "Thanh minh thượng hà đồ" mà Đường Thuận Chi chính là kẻ gây họa. Tuy ông cũng ngang sức ngang tài với Đường Thuận Chi, lại là chỗ bạn bè, nhưng để báo thù cho cha, không cân nhắc thêm gì nữa mà đã quyết chí giết Đường Thuận Chi.

Vương Thế Trinh mấy lần sai người đi giết Đường Thuận Chi, nhưng do canh giữ cẩn mật quá không thể ra tay được. Đưòng Thuận Chi lúc đó vẫn không hề hay biết rằng Vương Thế Trinh đang ôm mối thù sâu với mình.

Một buổi tối, Đường Thuận Chi đang ngồi trong phòng vắng đọc sách, bỗng có người đứng đằng sau túm tóc, dao sắc đã kề cổ, nhưng Đường vẫn rất bình thản nói với thích khách:

- THôi thì mạng ta đã trong tay nhà ngươi, còn có gì đáng nói nữa? Ta chỉ xin một diều, hãy để thư thư cho ta vài phút, ta viết mấy chữ gửi về nhà.

Thích khách bằng lòng, đứng ở phía sau trông cho Đường viết thư. Đường Thuận Chi viết được mấy dòng, bỗng đâu ngòi bút tụt ra, vội đưa quản bút vào ngọn đèn giả vờ sửa bút, ai ngờ đâu trong quản bút có chứa tên độc. Vừa gặp lửa nóng, tên độc bắn ra, bay thẳng vào yết hầu của người thích khách làm chết ngay tại chỗ. Vì chết không có ai đối chứng, nên cũng chẳng biết ai là chủ mưu.

Lần ấy, việc chẳng thành, Vương Thế Trinh hoàn toàn thất vọng, đành phải chờ dịp khác.

Một lần, gặp Đường Thuận Chi trong triều, Đường Thụan chi lại là người rất thích đọc văn chương của Vương Thế Trinh, bèn hỏi Vương có tác phẩm gì mới không. Vương Thế Trinh buột miệng trả lời:

- Có, đang viết một bộ tiểu thuyết là Kim BÌnh Mai.

Kỳ thực Vương không hề viết sách truyện gì, chỉ vì thuận miệng mà trả lời vậy thôi. THế nhưng Đường Thuận Chi lại cho là thực, giục lấy ngay. Vương Thế Trinh nghĩ ngay ra một kế, bày trò đánh răn leo đầu gậy, bèn lập tức thuê mấy anh thợ in giúp một tay, vừa viết, vừa in, trộn thuộc độc vào dầu in để in sách, chờ Đường Thuận Chi cho người đến lấy thì cứ thế mà đưa sách cho mang về dâng lên.

Đường Thuận Chi nhận được sách, vội vàng đọc ngay. Vì mực in trên sách còn chưa ráo, giấy dính vào nhau, rất khó gỡ ra, bèn liên tục nhấm nước bọt vào đầu ngón tay để mở sách.

Ngồi xem chăm chú hồi lâu, bỗng Đường Thuận Chi thấy lưỡi mình tê dại, chợt giật mình kinh hãi, thấy có chuyện chẳng lành, vội soi gương xem sao thì thấy lưỡi đen lại và biết mình đã trúng độc, bèn cho gọi con lại nói:

- Ta bị người hãm hại, đã trúng thuốc độc rồi! Vừa nói dứt lời thì đã ngã ngay ra đất, chết liền.

LSB-KỳCôngKỳThủ
04-07-2003, 18:23
[center:9840e37a11]Kế 6[/center:9840e37a11][center:9840e37a11]Thuận Nước Đẩy Thuyền[/center:9840e37a11]
[center:9840e37a11]Đóng Giả Làm Thật, Viên Tài Tử Chắp Mối Duyên Lành;
Thuận Nước Đẩy Thuyền, Lý Tịnh Đánh Một Trận Bắt Túc Tiễn[/center:9840e37a11]
Thuận nước đẩy thuyền là một kiểu ứng biến, trong lúc sự việc xảy ra bất chợt, biết lợi dụng mâu thuẫn trong đó, để đứng ở vị trí chủ động, thừa chỗ thuận tiện mà lấy lợi thế xuất vào chỗ địch không ngờ để tiến công.

Trong ngôn ngữ của người Trung Quốc còn có câu "thuận nước gửi tình người". Tình người là nói đến thiện chí, đẩy thuyền tuy là việc bình thường song lại là hình ảnh tả một ác ý. Hãy lấy một sự việc đơn giản để giải thích cho hai khái niệm. THí dụ có một người đang muốn qua anh để điều tra về một người khác. Nếu anh có thiện chí, nói tốt cho người ta một câu, đó là thuận nước gởi tình người. Còn nếu anh có ác ý, anh sẽ nói vài câu xấu, đó là sự ám hại , là thuận nước đẩy thuyền.

Trong lịch sử Trung Quốc từng có một câu chuyện thế này:

Ở thời chiến quốc, Ngụy VĂn Hầu một hôm ngồi chuyện phiếm với các bậc đại phu. Văn Hầu hỏi họ:

- Các người thấy ta là một bậc quân vương thế nào?

Mọi người đều đồng thanh đáp:

- Bệ hạ là một đấng quân vương nhân hậu ạ!

Hỏi đến Trác Hoàng, Trác Hoàng lại trả lời rằng:

- Bệ hạ không phải là một bậc quân vương nhân hậu!

Văn Hầu nghe vậy, bỗng biến sắc mặt, hỏi thêm:

- Tại sau mà nói thế?

Trác Hoàng đáp:

- Bệ hạ đánh lấy được đất TRung Sơn, không đem chia cho anh em, lại phong cho con cả, như thế rõ là tự tư, vậy nên thần mới nói là bệ hạ không nhân hậu.

Văn Hầu thẹn quá hóa giận, lập tức đuổi ông này. Trác Hoàng ngang nhiên bước đi như không có gì xảy ra.

Văn Hầu, tiếp đó lại hỏi Nhiệm Tòa:

- Rốt cuộc, ta là một bậc quân vương thế nào?

Nhiệm Tòa đáp:

- Tâu quốc vương: Người đúng là một đấng quân vương nhân hậu ạ!

Tại sao lại nói thế?

Thần nghe nói, phàm là một đấng quân vương nhân hậu, thì thần tử nhất định sẽ đều cương trực. Vừa rồi lời của Trác Hoàng rất thẳng, không phải là lời xiểm nịnh, bởi vậy thần biết rằng người rất nhân hậu.

Văn Hầu nghe ra, thấy rất đúng, bèn buột miệng nói:

- Phải lắm! Phải lắm! - Nói xong lập tức cho gọi Trác Hoàng quay lại và bái làm thượng khanh.

Từ câu chuyện trên thấy rằng. Nhiệm Tòa đã làm một việc đầy tình người. Nhưng nếu ông ta có ác ý, nói thêm cho TRác Hoàng một lo wfi nói xấu, có thể Trác HOàng sẽ bị chém làm đôi, như thế sẽ trở nên thuận nước đẩy thuyền, ném theo đá cho người dưới giếng.

Phàm là một thứ mưu kế, thì tuyệt nhiên không thể nói đến tình người. Tình người chỉ là câu xã giao với nhau khi không có xung đột về lợi hại. Còn khi đã mở ra một cuộc đất tranh, tình người sẽ là đòn chí mạng. Hãy xem Hạng Vũ với Lưu Bang, vốn là một cặp anh em kết nghĩa, nhưng đến khi có xung đột về lợi hại, bỗng trở mặt vô tình. Hạng Vũ còn hơi có chút tình người , không giết chết Lưu Bang ở Hồng Môn Yến, để cho chạy thoát được. Nhưng đến khi Hạng Vũ đưa bố Lưu Bang ra làm con tin, mang ra chỗ chiến trường giữa hai hàng binh mã, muốn dọa để Lưu Bang phải bãi binh, nói rằng nếu không bãi binh sẽ bỏ bố Lưu Bang vào vạc dầu nấu. Lúc đó, Lưu Bang đã trả lời rằng: "Ta với mi là anh em kết nghĩa, cha ta cũng là cha mi, nếu mi nhẫn tâm bỏ cha ta vào nấu , thì hãy phần ta một bát". Thế mới hay rằng Hạng Vũ còn chút tình người nên thất bại, Lưu Bang tuyệt tình mới làm nên đế vương. Đấy cũng là sự khác nhau giữa hiền và ngu.

Sách lược thuận nước đẩy thuyền, không ngoài việc thấy lợi thì thừa cơ, vừa có thể ném đá theo người dưới giếng, vừa có thể đánh chớp nhoáng hay nói như một câu tục ngữ của nguời Trung Quốc là "đánh rắn leo đầu gậy". Biết lợi dụng sự đột biến của hoàn cảnh, đánh úp kiểu giấu trời qua biển, làm cho người khác không kịp đề phòng , muốn phòng cũng không được , thế mới là kế cao tay.

ĐÀn Bà Dương Châu Giết Quân Thát

Cuối đời nàh Nguyên, anh hùng các nơi nổi dậy, đều dựng nên cờ nghĩa Đại Hán, xua đuổi quân Thát. Dương Châu là mảnh đất giành giật của nhà binh, cũng là nơi bọn cướp cần phải chiếm, nên lúc đó tình thế rất lộn xộn, dân chúng lũ lượt chạy trốn ra ngoại thành lánh nạn.

Có một người tên là TRần Thuý làm nghề gái làng chơi, khi Dương Châu loạn lạc, đã chạy trốn ra ng oại thành, ngày nghỉ đêm đi, muốn đến Đại Nghi tìm họ hàng. Đến một thị trấn nhỏ, tưởng rằng đã xa thành thị lắm rồi nên yên tâm đi tiếp.

Dọc đường muốnd di tiểu, bèn lén ra mé sông ngồi một chỗ vắng, bỗng có một tên giặc Thát từ xa đi tới , không còn cách nào chạy thoát, đành ngồi trơ ở đó.

Tên giặc Thát thấy người con gái, như hổ đói gặp cừu non, bèn ỷ sức hãm hiếp. Người con gái thấy tên này của cải giắt đầy lưng, bèn chiều theo mặc sức cho hắn muốn làm gì thì làm. Tên giặc cởi hết quần áo của cô gái ra, trần trùng trục nằm ở mé sông, còn hắn chỉ cởi quần, đang định xông vào vật lộn. Cô gái cười nói:

- Thật đúng là đồ ham gái, chẳng hiểu tình tứ là gì. Trai gái ăn nằm với nhau phải lột trần ra ôm nhau, không cởi áo ra, có khác gì gãi ngứa ở ngoài quần!

Tên giặc nghe vậy mừng quýnh, vội cởi ngay áo ra, ả nọ giả tảng uốn éo, tên giặc càng hồn vía lên mây. Nhân lúc tên giặc không đề phòng, ả ôm chặt lấy hắn lăn ùm xuống nước. Ả giang hồ quen sông nước, tên giặc Thát ở xứ Bắc nên không biết bơi, giãy giụa lung tung, ả giang hồ dìm chặt đầu hắn xuống, chẳng mấy tí mà hết hơi. Ả lên bờ rút dao chém đầu giặc Thát, lấy hết vàng bạc trong túi và của cải giắt lưng của hắn, ung dung lên đường.

Lại có một người đàn bà khác, khi thành Dương Châu sắp mất, đã dặn chồng đem con chạy trốn đi, mình nàng ở lại chôn giấu của cải, giắt một cái kéo bên mình ra đi sau. Dọc đường gặp tên tướng giặc, thấy con gái liền nổi máu mây mưa, phóng ngựa lên hồ đứng lại. Người đàn bà chẳng hề run sợ, đứng ở bên đường mỉm cười đón đợi. Tên tướng giặc vừa xuống ngựa đã ào đến cởi quần áo, người đàn bà cười, nói:

- Tướng quân thế mà ngốc, ông làm được việc gì cũng phải nhờ sức ngựa. Nếu ông nằm với tôi, ngựa chạy mất thì làm sao?

Tên giặc thấy có lý, muốn tìm chỗ buộc ngựa rồi quay lại, nhưng quanh đó lại không có câ,y có đá mà buộc, nên đang loay hoay. Người đàn bà nói:

- Tôi nghĩ ra một cách rất hay, nếu buộc ngựa vào ngay chân ông, thì chẳng còn gì đáng lo nữa.

Tên giặc vỗ tay khen hay, hai người hùa nhau buộc chặt cương ngựa vào chân hắn.

Lừa lúc hắn bất ngờ, ngwuời đàn bà lấy kém đâm mạnh vào bụng ngựa, con ngựa bị đau lồng tế lên, tên tướng giặc bị lôi theo, có khác gì năm ngựa cùng xé xác. Người đàn bà thu nhặt của cải của tên giặc, ung dung lên đường.

Đóng Giả Làm Thật Viên Tử Tài Chắp Mối Duyên Lành

Viên Tử Tài là danh sĩ đời nhà Thanh, khi làm tri huyện ở Giang Ninh, có một ngwuời con gái họ TRần, vốnd dã hẹn gã cho một người họ Lý. Nhưng chàng trai nhà nghèo, bó cô gái thách cưới quá nặng đến nỗi không sao cưói nỗi. Sau này, cô gái bị một nhà sự hổ mang đánh lừa, làm nhục. Anh chàng sư hổ mang này lại là người rất sẵn tiền . Kẻ có tiền mà đi tu, tất sẽ thành một lũ côn đồ, bọn chức tịch trong làng còn đua nhau bợ đỡ, cho thêm sức thêm oai. Dưới sự ép buộc và dụ dỗ, cô gái họ Trần đành phải làm tình nhân cho tên lưu manh núp dưới áo cà sa. Tuy không từng chung chăn gối, nhưng hai người thậm thụt đêm hôm không chỉ một lần. Một số tên vô lại trong làng biết chuyện, lấy cớ rình bắt bằng được, ra tay bắt kẻ gian dâm. Một buổi tối, thấy bóng cái đầu trọc lẻn vào phòng ả nọ, đang lúc định giở trò "này nọ", ập vào bắt quả tang, lập tức giải lên trình huyện.

Ông huyện Viên Tử Tài đem đôi gian phu dâm phụ cho giam mỗi kẻ một nơi, rồi xét hỏi từng người. Sau khi hỏi rõ tình cảnh, cô gái đã khóc kể lể tình đầu việc ép phải thông dâm, nói rằng thực tình là bất đắc dĩ phải làm thế chứ lòng cô trước sau vẫn luôn nhớ tới chồng chưa cưới của mình là chàng trai họ Lý.

Viên Tử Tài nghe qua, động lòng trắc ẩn, nửa đêm ngầm cho gọi nhà sư hổ mang lên. Sau khi xét hỏi một hồi, lệnh cho hắn phải viết văn tự nhận vay hai trăm lạng bạc, lột lấy áo cà sa, mắng cho một hồi rồi tống cổ ra khỏi công huyện. Sau đó cho gọi một nàng hầu để tóc ngắn trong nhà, dặn dò mấy câu rồi cho mặc áo cà sa bước vào phòng giam lại.

Sáng sớm hôm sau , quan huyện ra công đường, xét hỏi cô gái họ Trần. Cô này chẳng nói gì, chỉ cúi đầu khóc lóc. Lại hỏi đến tên gian phu, đáp rằng: "đã nhiều lần ăn nằm với ả này từ lâu". Quan huyện đập bàn quát:

- Giỏi thật! Kẻ tu hành mà dám ăn nằm với gái à! Có đáng giận hay không? - Nói rồi vứt thẻ hô - Nọc nó ra, lột truồng nó ra, đánh tám chục roi!

- Dạ! Bọn sai nha lao ra như hổi đói, chẳng nói thêm nửa lời, lột phăn gngay quần của gã gian phu tại chỗ. Nhưng, lại chưa! Rõ ràng là một ả thị mẹt trăm phần trăm.

- Bẩm quan lớn, nó là một thị mẹt, một ni cô ạ, không phải là sư.

- Hả! Ni cô à? - Viên tài tử giả tảng như thật lộ ra vẻ kinh ngạc, đưa mắt sagn phía bọn vô lại đứng đó làm nguyên cáo, giận dữ mắng ngay:

- Những quân này giỏi thật! Định giở trò gì đây? CHúng bay lại dám đem bản quan ra làm trò hề à! Cút ngay! Bay đâu, tóng cổ hết lũ ăn hại này ra ngay.

Mấy hôm sau, Viên Tử Tài cho tìm anh chàng họ Lý chồng chưa cưới của cô gái họ Trần đến, thử dò xét tình cảm anh ta với vợ chưa cưới của mình xem có phải vì chuyện này mà sứt mẻ hay là sẵn lòng tha thứ. Anh ta thưa lên:

- Cô ta làm chuyện xấu xa này, nhưng trách nhiệm không thuộc về cô ấy, suy cho cùng là tôi làm cô ta lỡ làng, nguyên do là tôi không đủ tiền ăn hỏi, rồi chẳng may cô ta bị hãm hại, chứ không phải tự ý cô ta làm thế, lòng cô vẫn luôn nghĩ đến tôi, lòng tôi cũng luôn luôn gắn bó với cô ta. Mặc cho cô ta có lầm lỡ, tôi luôn sẵn sàng tha thứ!

Viên Tử Tài hỏi:

- Hai người sở dĩ không sớm lấy được nhau, là bởi vì không có tiền nộp cheo đúng không? Giả sử có người giúp anh trả món tiền này, anh có ưng không?

- Thì tôi sẽ cưới ngay cô ấy, nhưng đó phải là những đồng tiền chính đáng, kô phải là thứ lòng dạ khó lường mới được.

- Đúng! - Viên Tử Tài thấy chàng trai là người có chí khí, lại càng thêm vui lòng bèn nói: Được, ta sẽ giúp anh. Ta có một món tiền, dành riêng giúp anh cưới vợ, và khoản tiền này không phải đồ phi nghĩa, mà cũng không phải tiền túi của ta, mà có một cách đànng hoàng, cũng không phải cho anh vay, mà là cho hẳn anh luôn, anh hãy cứ tin bản quan không làm gì xấu với anh.

- Xin đa tạ quan lớn, ngài là bậc thanh liêm, ai ai cũng biết cả ạ!

- Vậy thì mai anh cứ đợi ở nhà mình, khi có ai mang tiền đến, cứ thế mà nhận là được, không cần hỏi tiền ấy ở đâu ra, càn gkhông nên nói chuyện này với họ.

Quả nhiên hôm sau Viên Tử Tài sai người thân tín , mang văn tự cho vay tiền của nhà sự đến kho bạc lĩnh, đem hai trăm lạng bạc đến nhà chàng trai họ Lý. Chàng trai nhận được khoản tiền bạc này, lập tức đem đến cho nhà gái. Đôi tria gái bị bạo lực bức hại, gặp người có tình nên cuối cùng đã thành gia thất.

Lý Tịnh Một Trận Bắt Túc Tiễn

Đầu nhà Đường, Lý Tịnh là trưởng sử thuộc hạ của Triệu Vương Hiếu Cung, tổng quản về quân sự, chuẩn bị tiến công đánh Túc Tiễn là vua nhà Lương, bàn cứ ở Giang Lăng.

Lúc ấy vào mùa thu, nước sông rất to, sóng cuộc đục ngầu, các tướng cho rằng đóng quân lúc này vô cùng nguy hiểm. Riêng Lý Tịnh bàn với mọi người rằng:

- Dùng binh quý ở thần tốc, nay ta thừa cơ lúc này thuận nước đẩy thuyền, một ngày ngàn dặm, xuất quân lúc chúng không phòng bị ,quân ta ập đến, Túc Tiễn nhất định sẽ bị bắt gọn.

Hiếu Cung vốn trọng thiên tài quân sự của Lý Tịnh, nói sao nghe vậy, bèn cử hơn 2000 chiến thuyền. Ngay hôm ấy, kéo về hướng Đông, chỉ một ngày đêm đã tới Di Lăng, tướng của Túc Tiễn là Lâm Sĩ Hoằng quả nhiên không phòng bị, bị quân của Lý đánh thẳng vào. Lâm Sĩ Hoằng trốn chạy thảm hại, vào sâu vùng Bắc Giang, tướng giữ thành Cái Nhan Cử nghe tin bạt vít dâng năm châu xin đầu hàng.

Lúc này vua nhà Lương là Túc Tiễn đang đóng quân làm ruộng, nghe tin quân của Lý Tịnh đến, vội vàng chỉnh đốn quân sĩ , nhưng không kịp nữa, đành mang quân thị vệ ra đón đánh.

Hiếu Cung muốn ra quân. Lý Tịnh nhận thấy không thể được, nói:

- Nay quân địch liều chết mà đến, chỉ nên tạm tránh lúc chúng đang hăng, chi bằng đóng quân ở bờ nam, đợi cho khí thế chúng giảm sút, ta đánh úp nhanh cũng còn chưa muộn.

Hiếu Cung không nghe, tự dẫn quân tinh nhuệ ra trận, quả nhiên bị thua trận, rút về bờ nam. Quân của Túc Tiễn đánh thắng, đi cướp bóc dọc sông. Lý Tịnh thấy quân ngũ địch tản mạn, xin một mình quay lại phản công, chém giết một trận, trở thành thế truy đuổi địch, thừa thắng đến thẳng Giang Lăng, bèn hạ lệnh phá hết chiến thuyền của địch, thả nổi trên sông. Các tướng hoài nghi nói:

- Thuyền lấy được của địch, lẽ ra có thể để mà dùng, sao lại thả nổi trên sông, hóa ra để cho địch dùng. Lý Tịnh cười nói:

- Các tướng thế mà còn chưa biết, đất thuộc quyền Túc Tiễn rất rộng, phía Nam đỉnh núi chắn, Đông nối tới Động Đình, quân ta vào đánh lẻ, nếu công thành không vỡ, quân địch sẽ có viện binh bốn phía, quân ta sẽ bị ép cả trong lẫn ngoài, tiến thoát lưỡng nan, thì dãu có chiến thuyền, cũng chẳng có ích gì. Nay đem thuyền giặc ném cả xuống sông cho trôi xuôi dòng, viện quân của địch nhìn thấy, tất ngỡ rằng Giang Lăng đã mất, không dám tiến quân , chờ cho đến lúc chúng dò ra hư thực, cũng còn phải có thời gian. Lúc đó, ta đã phá đuợc Giang Lăng, bắt sống được Túc Tiễn.

Nói xong, vẫn tiếp tục hạ lệnh vây thành.

Túc Tiễn bị vây ở thành Giang Lăng, ngày đêm trông ngóng viện binh, ai ngờ viện binh đã trúng kế của Lý Tịnh, thấy thuyền của quân nhà LƯơng, trôi ngổn ngang trên sông , tưởng rằng Giang Lăng đã bị phá , sợ không dám tiến quân, còn lũ lượt ra hàng Hiếu Cung.

Túc Tiễn bị vây trong thành, trong ngoài bị ngăn cách, lương thực cũng hết, thủ cũng chết, mà đánh cũng chết, trước sau chỉ có một con đường chết, bèn bàn với hệ lang Sầm Văn Bản. Văn Bản bàn với Túc Tiễn:

- Thế lới đã l ỡ qua rồi, để tránh trăm họ lầm than, chẳng thà đầu hàng là thượng sách. Túc Tiễn bất đắc dĩ mở cửa thành đầu hàng. Lý Tịnh nhờ trận đó mà thành công, bình định được chín mươi sáu châu thuộc địa bàn trước dây của Túc tiễn.

LSB-KỳCôngKỳThủ
05-07-2003, 15:33
[center:76e60d366f]Kế 7[/center:76e60d366f][center:76e60d366f]Giả Ngây Giả Dại[/center:76e60d366f]
[center:76e60d366f]Vờ Điên Vờ Rồ, Vượt Cạm Bẫy Tôn Tẫn Thoát Nạn;
Giả Ngây Giả Dại, Yên Vương Thác Bệnh Dấy Nghĩa Binh[/center:76e60d366f]
Mới nghe qua, tưởng mấy từ này cũng giống như "đóng vai lợi để ăn thịt hổ", nhưng thực ra ý nghĩa khác nhau nhiều. Đóng vai lợn ăn thịt hổ chẳng qua chỉ là sự vờ vĩnh, giả câm giả điếc, lấy cái tĩnh chế cái động. Còn "giả ngây giả dại" thì như một kiểu khổ nhục kế, phải kìm nén ý chí của mình, hủy hoại thân thể mình, mà cũng khó mới làm giả được, không đến phút cuối cùng khó mà thấy ra được.

Khi đã phải dùng đến kế này thì tình thế đã trở nên vô cùng cấp bách, dưới sự khống chế ngấm ngầm và chặt chẽ của người khác, bản thân gần như phải đem sinh mạng ra chống chọi một mình, không làm thế không thể thoát được.

Thế giới là một vũ đài, mỗi con người đều là thân phận của một diễn viên, vai gì cũng có thể đóng được, có người đóng vai hổ để ăn thịt lợn, người thì đóng vai lợn để ăn thịt hổ, giả dại giả ngây, giả điên mà hưởng lộc v.v... Những vai diễn đó, chẳng qua chỉ là những ngón trò vặt, không thể nặng nề nhưng phải thật sự giả ngây giả dại, bởi vậy giả dại là phải biến một người đầy đủ lý trí thành một kẻ điên dại mất hết lý tính, phải tự mình hủy hoại mình để che con mắt nhòm ngó chặt chẽ và thường xuyên.

Người đóng vai khác nhau thì nhiều, còn đóng vai giả ngây giả dại thì cực ít, trong lịch sử cũng chỉ lác đác vài nguời.

Người đầu tiên giả ngây giả dại trong lịch sử phải kể đến Ki Tử thời Trụ Vương đời nhà Thương. Ki Tử là chú của Trụ Vương, nguyên tên là Tư Dư, được phong tử tước, làm đến chức Thái sư. Trụ vương tàn bạo, bầy tôi là Tỉ Can can ngăn, đã làm cho Trụ Vương nổi nóng, moi ruột gan ông này ra, nói:

- Tỉ Can tự cho mình là thánh nhân, ta nghe nói gan của thánh nhân có bảy lỗ nên mổ ra xem thế nào.

Ki Tử thấy Trụ Vương vô đạo như thế, không nghe cả lời can ngăn, sợ rằng sự tàn bạo đó rồi sẽ lan đến mình, bèn dở bài giả ngây giả dại, xoã tung đầu tóc, nói năng nhảm nhí, bỏ cả công việc tôn nghiêm của Thái sư, cam chịu để Trụ Vương nhốt trong xe tù. Đúng như người ta nói: "Chút ngó sen tàn đợi gió xuân". Chẳng bao lâu TRụ Vương qua đời, Chu Vũ Vương của triều vua mới ra lệnh ân xá cho tù nhân. Ki TỬ được tha và được mời ra làm quan, nhưng Ki Tử không bằng lòng, ngầm mang theo năm ngàn người trốn sang Triều Tiên, Vũ Vương khong còn cách nào, bất đắc dĩ phải làm một chuyện vớt vát tình người, phong cho ông dựng nước ở Triều Tiên. Hiện nay ở Bình Nhưỡng vẫn còn dấu tích phần mộ của Ki Tử.

Thời nhà Minh, Thần Hào là Ninh Vương ở Giang TÂy, cậy mình là dòng dõi tôn thất, âm mưu tạo phản cướp quyền , bèn lôi kéo những bậc kỳ tài vào bè đảng của mình. Trong đó có Đường Bá Hổ được mệnh dang là tài tử đất Tô Châu cũng được mời làm thượng khách. Đường BÁ Hổ lúc đầu cho rằng chẳng qua chỉ là Ninh Vương khiêm nhường tôn trọng các hạ sĩ, không ngờ rằng lại có ý định khác. Ở với nhau một tháng , mới biết đây là một vụ mưu đồ , bèn nảy ra thoái chí, từ chức về quê, nhưng cũng không thoát, bị theo dõi quá chặt chẽ, bèn diễn một màn "giả ngây giả dại". Tối tối đi quán xá tìm hoa ghẹo liễu, ngây ngây ngô ngô giả dạng một kẻ si tình, thấy a hoàn hay gái hầu đều đuổi theo, tụt quần đái bậy trước mặt các quí phi trong Vương phủ, lúc tự nhiên khóc, khi bỗng dưng cười, nói bậy nói bạ, chẳng lọt tai ai. Thấy hành động gnây dại điên rồ đó Ninh Vương cũng khóc dở mếu dở. Muốn giết ông đi, lại sở hỏng mất đường lối cầu hiền, thả ông ta, lại sợ lộ bí mật.

Sau may nhờ được đám bạn bè chó má vốn ghen ghét tài năng, lừa gịp bắn tin, đẩy ông ta ra khỏi phủ về quê cũ Tô Châu.

Quả không ngoài dự đoán của Đuờng Bá Hổ, mấy năm sau Ninh VƯơng làm phản, rất nhanh chóng bị dẹp yên. Ninh Vương chết, đám danh sĩ được tôn vinh lên làm thượng khách đều bị liệt vào nghịch đảng, chẳng thoát một người nào, chỉ có Đường Bá Hổ đã kịp thời giả ngây giả dại nên không bị liên lụy.

Tôn TẪn Giả Điên Tránh Được Nạn

Thời Chiến quốc, Tôn TẪn với BÀng Quyên đều là đệ tử của Quỷ Cốc Tử, cùng học binh pháp, từng có mối quan hệ khắng khít kết làm anh em khác họ. Bàng Quyền thì hà khắc nghiệt ngã, Tôn Tẫn lại trung thành đôn hậu.

Bàng Quyền nghe lỏm được tin chính hậu Tệ nước Ngụy chiêu hiền để cầu tướng tài, nên bỗng động lòng, bèn chào thầy xuống núi. Trước lúc ra đi, Tôn Tẫn đưa chân nói lời từ biệt, Bàng Quyên nói:

- Tôi với anh đã kết nghĩa anh em, thề cùng chung phú quí, chuyến đi này nếu có dịp tiến thân, tất sẽ tiến cử anh cùng nhau dựng cơ đồ.

Bàng Quyên đến nước Ngụy, Ngụy Huệ Vương thấy có chút tài năng thao lược, bèn tôn làm quân sư , đánh đông dẹp bắc, lập được nhiều công lớn. Trận đánh bại quân Tề, tiếng tăm lừng lẫy các chư hầu, hẹn nhau lũ lượt vào triều.

Bàng Quyên tuy hiển hách một thời không ai bì, những vẫn mong nhớ một người, đó là anh kết nghĩa Tôn Tẫn , vẫn cho rằng Tôn Tẫn học "mười ba bài của Tôn Tử" tổ truyền có giỏi hơn mình, nếu tạo cơ hội, hẳn là hắn sẽ áp đảo mình , cho nên trước sau vẫn không tiến cử.

Quỷ Cốc Tử rất thân với Mặc Trác (Mặc Tử) thường qua lại thăm nhau. Một lần Mặc Tử qua thăm Quỷ Cốc Tử, gặp được Tôn Tẫn , qua trò chuyện, từng thốt lên rằng đây là bậc kỳ tài trong kinh học.

Sau khi Mặc Trác sang nước Ngụy, đã tiến cử Tôn Tẫn trước mặt Ngụy Huệ Vương, nói người này duy nhất được tổ tiên là Tôn vũ bí truyền, thiên hạ không ai là đối thủ. Huệ Vương cả mừng, biết Tôn TẪn với Bàng Quyền là chỗ anh em đồng môn, bèn lệnh cho Bàng Quyên thảo thư mời.

Bàng Quyên biết rất rõ rằng nếu Tôn Tẫn mà tới, sẽ được vua yêu. Nhưng lệnh của Ngụy Vương, lại không dám không theo, bèn thảo thư theo lệnh cho sứ ra đi.

Quỷ Cốc Tử rất giỏi thuật âm dương, bấm độn biết tiền đồ Tôn TẪn có trắc trở, nhưng không thể tiết lộ tiên cơ, bèn chỉ đổi tên cho Tôn Tẫn thành Tôn Tân, và cho một gói cẩm nang, dặng rằng phải giữ đến lúc nguy cấp nhất mới được mở.

Tôn tẫn vái chào thầy, theo sứ giả nước Ngụy xuống núi, rồi lên xe sang nươc Ngụy. Khi gặp Ngụy Vương, hỏi đến binh pháp. Tôn Tẫn đối đáp như cháo chảy, Nguỵ Vương mừng lắm, tôn làm phó quân sư, cùng Bàng Quyên nắm giữ binh quyền, BÀng Quyên lại nói:

- Thần và Tôn Tẫn, đồng môn két nghĩa, Tẫn chính là bậc anh của thần, sao nỡ để anh làm chức phó, chi bằng quyền bái là khách khanh, sau này có công, thần sẽ nhường vị, chịu ở dưới người này. Thế là phong Tôn TẪn làm khách khanh.

Từ đó, hai người lại thường xuyên lui tới. Nhưng chung sống với nhau lúc này không còn chân thành như trước nữa. Bàng Quyên đang ngầm nuôi ý xấu, muốn hại anh kết nghĩa để khỏi lụy về sau. Thế là để Tôn TẪn lại nhằm học thuộc hết binh pháp của Tôn Tử, đợi truyền thụ hết, rồi mới ra tay.

Cho đến một lần bày diễn trận pháp. Bàng Quyên không bằng Tôn Tẫn, bèn vội vàng dùng mưu nọ kết kia hãm hại Tôn Tẫn, trước mặt Huệ Vương nói rằng Tôn TẪn người ở nước Ngụy song lòng ở nước TỀ, ngầm thông với nước Ngu. Sau nữa lại bịa ra chứng cớ, mạo ra nét chữ của Tôn TẪn, nói lừa rằng Tôn Tẫn xin phép về nước Tề viếng mộ. Huệ Vương xem biểu bực lắm, cho rằng Tôn TẪn có ý thân nước TỀ phản nươc Ngụy, bèn cách chức quan và giao cho Bàng Quyên theo dõi chặt chẽ. Thừa dịp này, Bàng Quyên lại ném đá thoe người dưới giếng, tâu riêng với Ngụy Vương, nói rằng Tôn TẪn tuy có tội tư thông với nước Tề, song chưa đến tội chết, chi bằng chặt bén hai chân của hắn đi, cho thành người tàn tật, như thế cả đời hắn cũng không thể về được nước Tề, vừa giữ được mạng nó, lại ngăn được hậu họa, như thế chẳng phải là nhất cử lưỡng tiện hay sao? Ngụy Vương y lời tâu. Ngay tối hôm dó, BÀng Quyên đã ra tay, đem cắt bánh chè ở hai chân Tôn Tẫn đi, rồi thích lên mặt bốn chữ "tư thông nước Tề". Bàng QUyên còn giả làm mèo thương khóc chuộc, kêu khóc một hồi, rồi cho người buộc thuốc, đưa vào thư phòng, tìm lời an ủi.

Tôn Tẫn mắc vào mưu ấy, thân tuy tàn phế, nhưng đối với Bàng Quyên vẫn vô cùng cảm kích. Bàng Quyên dốc lòng đọc binh pháp của Tôn Tử do Quỷ Cốc Tử chú giải, bèn hỏi thử Tôn Tẫn, Tôn Tẫn vẫn tự nhiên nhận lời sẽ dùng bản gỗ để khắc in ra.

Thành Nhi là người hầu hạ Tôn TẪn, thấy Tôn Tẫn vô cớ bị hại, nảy ra lòng thương xót.

Một hôm, Bàng Quyên cho gọi Thành Nhi, hỏi Tôn TẪn ngày khắc bao nhiêu chữ? THành Nhi đáp rằng Tôn tướng quân hai chân bị què, thường ngủ và ít khi ngồi, mỗi ngày chỉ khắc được đôi bài. Bàng Quyên giận lắm, nói:

- Chậm trễ như thế, bao giờ mới khắc xong, ngươi phải đốc thúc cho ta.

Thành Nhi sợ hãi lui ra, gặp một quan thị vệ, bảo:

- Quân sư bảo Tôn tướng quân viết sách, tại sao lại cứ phải giục như thế?

Người thị vệ nói nhỏ:

- Anh không biết đâu, quân sư và Tôn tướng quân, bền ngoài xem ra rất tốt với nhau, nhưng lòng lại ghét nhau, trước mắt muốn để cho người này cố kéo ngày tàn, mục đích là để viết cho xong, đến lúc viết xong, sẽ không cho ăn cho uống. Nói vậy anh không được để lộ với ai.

Thành Nhi nghe vậy thất kinh, bụng nghĩ quân sư mà lại là người bất nghĩa đến thế, quay về đem chuyện kể với Tôn TẪn. Tôn TẪn mới hiểu rõ gót đầu, nghĩ rằng với hạng người này thì truyền binh pháp cho nó làm gì? Nhưng bản khắc mà không viết ra, sẽ làm hắn giận, mạng sống của mình chỉ là trong ngày một ngày hai. Nghĩ đi nghĩ lại, muốn tìm ra một kế thoát thân, bỗng nhiên nhớ đến cẩm nang thầy dạy của mình là Quỷ Cốc và những lời dặn lúc chia tay "đến lúc nguy cấp nhất mới được mở ra". Bèn mở cẩm nang ra xe, bỗng thấy một giải lụa vàng, trên chỉ viết có ba chữ "giả vờ điên". À thì ra thế" Tôn Tẫn than lên như vậy rồi bỗng thấy nhẹ nhõm đi rất nhiều.

Buổi tối, cơm vừa đưa tới. Tôn TẪn đang cầm đũa, bỗng xoài ra đất, làm ra vẻ nôn mửa, một lát sau lại lớn tiếng kêu la" "Cớ làm sao mà mày lại đầu độc tao?". Tiếp đó hất tung cơm rau xuống đất, đem những bản gỗ đã khắc ra, châm lửa đốt sạch, mồm lảm nhảm chửi bới, chẳng câu nào ra câu nào.

Thành Nhi không biết đây là sự giả vờ, vội chạy đi báo với Bàng Quyền. Hôm sau, BÀng Quyên đến thăm, thấy Tôn TẪn mặt đầy mũi dãi, phục dưới đất cười sằng sặc, ngay sau đó lại ôm mặt khóc. Bàng Quyên hỏi:

- Huynh trưởng làm sao lại vừa cười vừa khóc thế? - Tôn TẪn đáp:

- Ta cười Ngụy Vương muốn hại ta, mà không biết ta có mười vạn thiên binh bảo hộ, ta khóc vì nước Ngụy trừ ta là Tôn TẪn ra, không còn ai làm đjai tướng.

Nói xong, trừng mắt nhìn Bàng Quyên, rồi lại gục đầu xuống đất miệng gọi:

- Thưa thầy Quỷ Cốc, thầy hãy cứu con với!

Bàng Quyên nói:

- Tôi là BÀng Quyên, chớ có nhận lầm người.

Tôn TẪm túm chặt lấy áo hắn, không buông ra, miệng la lớn:

- Thầy hãy cứu con với!

Bàng Quyên cho tả hữu gở Tôn Tẫn ra rồi mới về phủ.

Bàng Quyên về phủ, lòng còn nghi hoặc, cho rằng Tôn TẪn giả ngây giả dại. Hắn muốn thử xem thật giả ra sao, bèn sai tả hữu lôi Tôn Tẫn bỏ vào chuồng lợn, phân rác ngập ngụy, thối không chịu nổi. Tôn TẪn râu tóc xõa tung, như không hề biết gì là bẩn, nằm lăn ngay ra đống phân đống rác. Có người mang cơm rượu đến, nói rằng mang trộm quân sư đến đây, vì thương ngài bị tội giam cầm. Tôn TẪn biết đây là trò BÀng Quyên bày ra, bèn trừng mắt chửi lớn:

- Mày lại đến đầu độc ta à? Nói roòi đổ hết cơm rượu xuống đất. Sứ giả thuận tay nhặt mấy cục phân lợn đưa cho Tôn TẪn, ông liền chụp lấy nhét ngay vào miệng ăn. Sứ giả đem chuyện về báo lại Bàng Quyên, BÀng Quyên nói:

- Hắn ta điên thật rồi, không còn phải lo gì nữa.

Từ đó không đề phòng gì với Tôn TẪn, để mặc sức ra vào, chỉ cho người theo dõi mà thôi.

"Thằng điên" Tôn TẪn từ đó đi đâu không ai để ý, sớm ra, tối về lấy chuồng lợn làm giường, có khi cả đêm không về, ngủ ở vệ đường hay quán chợ, lúc ở ngoài thì ăn dơ ăn bẩn, lúc khóc lúc cười, chẳng ai còn nghi ngờ ông là giả ngây giả dại nữa.

Lúc này, Mặc Trác vân du đến nướ cTề, ở trong nhà đại thần Điền Kỵ, con ông là CẦm Hoạt cũng từ nước Ngụy đi, Mặc Trác hỏi:

- Tôn Tẫn ở nước Ngụy có được vừa lòng không?

Cầm Hoạt đem chuyện Tôn Tẫn bị cắt bánh chè kể lại. Mặc Trác nghe xong hết sức kinh ngạc, than rằng:

- Ngày ấy ta muốn tiến cử Tôn Tẫn, ai ngờ lại là làm hại ông ta!

Thế là Mặc Trác đã nói hết với Điền Kỵ về tài của Tôn Tẫn, về sự đố kỵ ghen ghét của Bàng Quyên. Điền Kỵ liền tâu lên Tề Uy Vương. Tề Vương thấy rằng nước mình có một bậc tướng tài lại chịu nhục ở nước khác, chẳng những là sự hổ thẹn mà còn là điều mất mát, bèn nói:

- Quả nhân sẽ đem quân đi, đón Tôn Tẫn về nước!

Điền Kỵ lại nói:

- Ném chuột phải tránh đồ, Tôn TẪn đã không chịu ở nước Ngụy, thì làm sao lại chịu về nước Tề? Việc này chỉ có thể dùng trí, không thể dùng võ lực, phải như thế như thế.

Uy Vương dùng kế đó, lệnh cho Thuần Vu Đốn làm sứ giả. Cầm Hoạt giả làm tùy tùng, mượn cớ đi tiến trà, sang nước Nguỵ để thực hiện ý định.

Thuần Vu Đốn sang đến nước Ngụy, vào gặp Huệ Vương, đưa lệnh của TỀ Hầu, Huệ Vương cả mừng, sắp xếp cho Thuần Vu Đốn nghỉ ở nhà khách. CẦm Hoạt ngầm đi tìm Tôn Tẫn. Đến một buổi tối, đã tìm được Tôn Tẫn, thấy Tôn TẪn đang ngồi bên bờ giếng, chỉ trừng mắt nhìn Cầm Họat không nói gì. Cầm Họat bước đến gần, ứa nước mắt nói thầm:

- Tôi Cầm Hoạt là học trò của Mặc Tử, thầy đã nói với Tề Vương nỗi oan khuất của ông, Tề Vương lệnh cho tôi và Thuần Vu Đốn mượn cớ sang tiến trà, thực ra là muốn ngầm đưa ông về nước Tề, báo mối thù ông bị giam cầm, ông không phải nghi ngờ chi nữa.

Một lúc lâu sau, Tôn Tẫn mới gật đầu trào nước mắt nói:

- Ôi, ta những tưởng trên đời này không còn buổi hôm nay, giờ có dịp này, những muốn moi tim gan ra để giải bày, nhưng BÀng Quyên là đứa đa nghi, sợ rằng khó tiện.

Cầm Hoạt nói ngay:

- Lần này ông khỏi phải lo, tôi đã đặt bày tươm tất, chờ đến lúc ra đi, tôi sẽ tự đến đón.

Nói xong hẹn nơi gặp gỡ ngày hôm sau rồi mới quay về quán khách.

Ngày hôm sau, đoàn sứ giả Thuần Vu Đốn chuẩn bị lên đường về nước. Nguỵ Vương mở tiệc tiếp đãi. Bàng Quyên cũng đến Trường Đình bày rượu đưa tiễn, trước hôm đó, Cầm Hoạt đã đón Tôn Tẫn lên xe, bảo tuỳ tùng của mình là Vương Nghĩa mặc áo của Tôn Tẫn, xõa râu xõa tóc, lấy bùn xoa lên mặt, giả làm Tôn TẪn điên điên khùng khùng đi trên phố, che được mặt bọn lính canh và che được cả mắt Bàng Quyên.

Cầm Hoạt giục xe đi nhanh, Thuần Vu Đốn áp tải đằng sau, rất mau chóng đưa được Tôn Tẫn về nước Tề. Được mấy hôm, Tôn Tẫn giả cũng trốn được về. Người đi theo dõi, thấy quần áo dơ bẩn của Tôn TẪn vứt ở mé sông, báo với Bàng Quyên, ai cũng cho rằng Tôn Tẫn đã nhảy xuống sông tự tử, chẳng ai ngĩ rằng ông ta lại trở về nước Tề.

Tôn TẪn bí mật về nước không lộ mặt. Sau này trong cuộc chiến giữa nước Triệu và nước Ngụy, Tôn Tẫn dùng kế vây Ngụy cứu Triệu, đánh bại BÀng Quyên. Trong cuộc chiến giữa Hàn Quốc với nước Ngụy, Tôn Tẫn lại dùng kế "Tăng quân giảm bếp" như cho địch vào sâu, cuối cùng đã bắn chết Bàng Quyên ở đường Mã Lăng.

Yên Vương Giả Điên Dấy Nghĩa Binh

Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đi dẹp quần hùng, ngoài việc không sao được buộc phải phong hầu cho những chiến hữu khác họ với mình là bọn Từ Đạt v.v... ra, vẫn còn lo "không cùng họ với ta, tất có lòng khác ta", nên phong vương hết cho mười bốn người con, vừa tỏ ra đoàn kết nhưng lại dễ khống chế. Trong mười bốn người con đó, tương đối trội hơn là Ninh Vương thạo mưu lược và Yên Vương giỏi võ nghệ. Yên Vương tức là Minh Thành tổ Chu Đệ sau này.

Sau khi Minh Thái tổ băng hà, do người nối ngôi là Hoàng thái tử Chu Tiêu cũng mất sớm , không theo nếp cũ, người cháu đầu lên nối ngôi, đó là Huệ đế, đổi niên hiệu là Kiến Văn, túc là Kiến Văn hoàng đế. Tuy tuổi còn nhỏ, nhưng Kiến Văn tỏ ra thông minh, biết được hoàn cảnh của mình, dưới sự uy hiếp của hơn mười ông chú, địa vị của Kiến Văn rất mỏng manh, cho nên làm việc gì cũng tỏ ra ráo riết. Để khỏi bị sự khống chế của các hoàng thúc nên theo sự mưu mô sắp đặt của Hoàng Tử ĐĂng, đã mở một cuộc thanh toán bằng đao búa, căn cứ vào mức độ nguy hiểm của từng ông chú, người thì đưa đi lưu đày, kẻ thì đem giết đi, dần dần thanh trừng hết mọi thế lực đe dọa đến vương triều, chỉ còn Minh Vương với Yên Vương, do hoàn cảnh đặc biệt, nên chưa dám ra tay.

Yên Vương Chu Đệ thấy các vương huynh vương đệ theo nhau sụp đổ, thỏ chết cáo cũng đâm lo, nên cũng chột dạ thấy rằng xu thế này, rồi sẽ đến lượt mình, ngồi chờ chết với nó, chẳng thà đi trước một bước dấy binh mà thoát nạn. Quân sư của Yên Vương là Đạo Diễn cho rằng quân còn chưa đủ, thời cơ cũng chưa chín muồi nên khuyên hãy nán đợi chờ cơ hội, bởi vậy hãy tạm thời nín nhịn, bí mật luyện quân, chuẩn bị hành động.

Có một lần, theo lệ thường, Yên Vương cử người thân tín là Cát Thành vào kinh tâu việc gặp Kiến Văn Đế. Kiến Văn đế có ý muốn mua chuộc Cát Thành, bèn vời vào phòng kín nói:

- Nếu ngươi chịu báo cho ta mọi hoạt động của Yên Vương, sau này ta sẽ thăng cho làm công khanh.

Cát Thành nói:

- Ăn lộc nước, phải lo thay cho vua, thần sẽ mang hết tài khuyển mã, lần này ra về, tất sẽ mật báo mọi việc của Yên Vương, làm nội ứng cho bệ hạ.

Sau khi Cát Thành về tới Yên Kinh, giục Yên Vương lên kinh đô (Nam Kinh) gặp Kiến Văn Đế , để khỏi bị hoài nghi. Kế này chẳng khác gì là lùa dê vào miệng cọp. Yên Vương bàn bạc với Đạo Diễn. Đạo Diễn ngăn chúa đừng đi, Yên Vương không nghe còn nói:

- Lúc này ta có thể dấy binh thì dấy binh, nếu không dấy binh thì chẳng thà cứ đi một chuyến, xem chúng làm gì được ta, bởi vậy đã lên kinh. Quả nhiên có người giục Kiến Văn đế hãy giữ lại, nhưng Kiến Văn Đế còn trù trừ, chưa tìm ra được cớ gì để bắt giữ, thế là một tháng sau, dành để Yên Vương trở lại Yên Kinh.

Yên Vương rất tinh khôn và cáo già, biết rất rõ tình cảnh của mình, về đến nơi là giả vờ ốm, ốm lê ốm lết, làm như thế chẳng có ý gì khác hơn là để triều đình không nghi mình có biến.

Tuy thả lỏng Yên Vương, nhưng Kiến Văn Đế vẫn luôn luôn đề phòng, không vì thấy YÊn Vương "ốm nặng" mà lơ là. Ngay sau đó, dùng kế điệu hổ ly sơn. Kiến Văn đế lấy cớ phòng giữ biên thùy, điều một phần quân chủ lực của Yên Vương rời khỏi Bắc Kinh, cử người thân tín là công bố thị lang làm bố chánh sứ (quản hành chính) của Yên Kinh. Tạ Quý làm đô chỉ huy (tư lệnh giữ thành), cướp hết quyền văn võ. Ngoài ra lại bịa chuyện mang hai người thuộc hạ đắc lực của Yên Vương là Vu Lượng, Chu TRạch giết đi với tội là âm mưu làm phản.

Yên Vương thấy cái trò cướp quyền chẳng có gì khác hơn là chính vì mình, nên muốn giữ tròn tính mạng, đã giả ngây giả dại, trốn ra ngoài vương phủ, lang thang cả ngày ngoài phố nói nhảm nói nhí, gặp cái gì cũng lấy, đúng như mọt thằng điên. Có một lần ra đi suốt mấy ngày không về, mọi người tìm kiếm khắp nơi, sau thấy ngũ ở vũng bùn, vực dậy còn chửi toáng lên:

- Tao đang ngủ trên giường, tại sao lại lôi ta ra?

Trương Bính, Tạ Quý biế việc này, bèn vào doanh thăm bệnh để xem rốt cuộc thế nào. Lúc ấy giữa mùa hè, lại thấy Yên Vương đang mặc áo bông, ngồi sán bên lò lửa, mà còn run lên cầm cập, kêu sao trời lạnh thế.

Bọn này cho rằng Yên Vương điên thật, nên phòng bị có lơi lỏng hơn, nhưng Cát Thành lại bảo Yên Vương chẳng ốm đau gì hết, đó là giả ngây giả dại, khó mà biết được dụng ý của hắn, chớ để hắn lừa.

Trương Bính vội báo về triều, Kiến Văn đế lập tức ra tay hành động, mật lệnh cho phó tư lệnh giữ thành là Trương Tín ra tay. Trương Tín truớc đó từng là thân tín của Yên Vương, nhận được mật lệnh, còn đang do dự chưa biết tính sao, bà mẹ ông ta thấy vậy, hỏi rõ ngọn nghành, khuyên con nên uóng nước nhớ nguồn, không thể vong ân bội nghĩa. Truowng Tín bèn lần lữa kéo dài sự việc.

Kiến Văn Đế chưa thấy tin tức gì, bèn lại ra mật chỉ thôi thúc Trương Tín. Trương Tín nổi nóng cự lại: "Triều đình làm gì mà ép người ta quá đáng thế!" rồi đùng đùng đi gặp Yên Vương. Lính canh cổng không cho vào. Trương Tín nói lớn:

- Chúng mày cứ vào báo rằng, có ta là Trương tín có viẹc rất cần muốn xin gặp!

Yên Vương để Trương Tín vào gặp, nhưng vẫn phủ phục trên giường, không nói nửa lời, tả hữu thưa rằng:

- Điện hạ đang bị trúng phong.

Trương Tín thừa biết đó là giả vờ bèn nói:

- Điện hạ không cần thiết phải thế, có việc gì, cứ nói với lão thần, đừng ngại.

Yên Vương thấy qua thần sắc xem ra có vẻ không có ác ý mới nói rằng:

- Ốm trận này ghê quá, mấy tháng nay rồi!

Trương Tín thấy Yên Vương vẫn chưa nói thật, bỗng thấy đau lòng, nước mắt tràn ra, bèn nói thẳng với Yên Vương:

- Điện hạ! Việc đã đến thế này, còn không chịu nói thật, tai họa sắp giáng xuống đầu ta rồi! - Thuận tay, rút luôn chỉ dụ của Kiến văn đế ra, nói:

- Triều đình lệnh cho thần đến bắt điện hạ, nếu người có ý gì , xin hãy nói ra, để ta cùng kiếm cách, nếu không thì sẽ như cá nằm trên thớt, để cho người cứa dao!

Yên Vương thấy vậy, liền ra khỏi giường, vái tạ Trương Tín và cho vời quân sư Đạo DIễn vào trong bàn kế để cấp cứu. Kết quả cuộc bàn kín này là Trương Tín sẽ tăng quân vào Vương cung nói là để theo dõi chặt chẽ, thực chất là giữ an toàn cho Yên Vương. Bước tiếp theo là bàn kế trừ khử hai tên Trương Bính và Tạ Quý là hai tên mệnh quan của triều đình.

Tình thế lùng bùng như nhọt bọc đã đến mức chỉ đụng vào là vỡ. Trương Tín ngầm giữ an toàn cho đồng đảng, ngay đêm đó ra lệnh bắt hết các bộ tướng của Yên Vương nói là nghi rằng họ làm phản, phải đưa về triều đình xét xử. Làm việc đó là để che tai bịt mắt, ông còn ngầm cho quân lính mai phục hai bên đông điện, trong ngoài cửa cung, rồi cho nguời mặc thường phục ngầm canh giữ.

Ngày hôm sau, có tin Yên Vương đã khỏi bệnh, cho vời Trương Bính và Tạ Quý bàn việc làm thế nào để đưa bọn quan quân làm phản này về triều xét xử.

Hai tên TRương, Tạ tuy không nghi ngờ song vẫn có đề phòng, mang rất nhiều quân phòng vệ đi theo và chầu. Tới Lễ đoan môn, Yên Vương đón hai người vào, bọn vệ binh bị chận lại ngoài cửa. Giữa lúc uống rượu, trong bữa tiệc, mọi người nói cười rôm rả, tả hữu dâng vào mấy quả dưa hấu, mọi người vui vẻ ăn. Yên VƯơng như nghĩ ra việc gì, không ăn nữa, dứng lên, giận dữ nói:

- Nghĩ đến tình cảnh ta lúc này có ăn cũng nghẹn không nuốt nổi , ngay có làm một thằng dân đen, giữa anh em chú cháu cũng còn thương xót cho nhau. Huống chi ta đường đường là chú vua, thế mà một ngày lo nơm nớp một ngày, nay hoàng đế đối xử với ta thế này, thì đất nước còn có gì sở cậy? CÒn có gì mong mỏi nữa. Nói xong, đập ngay quả dưa xuống dất.

Thì ra đó là mật hiệu, quân sĩ mai phục hai bên thấy thế, lập tức ùa ra không nói không rằng, chém luôn đầu Trương Bính, Tạ Quý và lôi Cát Thành ra cùng chém cổ bêu đầu. Sau đó tuyên bố dựng cờ khởi nghĩa, tiến thẳng về Nam Kinh, chẳng bao lâu đã phá được hoàng thành, ép Kiến Văn đế gọt đầu đi tu, hóa trang thành nhà sư trốn ra nước ngoài. Yên Vương cướp ngôi vua, tức là Minh Thành tổ.

LSB-KỳCôngKỳThủ
06-07-2003, 16:21
[center:339099ef7d]Kế 8[/center:339099ef7d][center:339099ef7d]Mượn Thuyền Cắt Lúa[/center:339099ef7d]
[center:339099ef7d]Hay Ghen Lộng Quyền, Giả Thái Hậu Làm Mưa Làm Gió;
Mượn Thuyền Cắt Lúa, Lang Thiên Cẩu Khiến Nhật Hết Hồn[/center:339099ef7d]
Mượn thuyền cắt lúa cũng có nghĩa như "mượn nước đẩy thuyền", "mượn gió căng buồm" ví việc dùng sức lực người khác để làm việc của mình. Nó khác với "mượn dao giết người", vì "mượn dao giết người" là ngầm sai người khác ra tay, mình tự hưởng thành quả. Mượn thuyền cắt lúa, không gì khác hơn là mượn thuyền của anh A đi cắt lúa của anh B. Nó là một kiểu lừa khéo, mấu chốt là ở chỗ mượn thế nào, không phải như mượn tiền đi buôn, hay mượn tiếng , chẳng ai muốn mượn như thế vì xem ra chẳng có lợi lộc gì cho mình. Mượn thuyền để làm việc chỉ có lợi cho mình mà mượn kiểu ấy, cũng chẳng ai muốn cho mượn, vì thế phải dùng mưu, không dùng mưu không được.

Có một câu chuyện cười, nói việc cuối đời nhà Thanh, ở Thượng Hải có một ông thầy thuốc ngoại khoa, kê bàn ra trước cửa chữa bệnh cho mọi người, ai mắc bệnh phụ khoa hay ở chỗ kín thì lên gác để chữa trị. Có hôm, một nhà buôn đứng tuổi, nói rằng ông có một đứa cháu ngoại khoảng mười bốn tuổi, mọc cái nhọt ở chỗ kín, sẽ đưa tới nhờ chữa trị. Thế nhưng đứa bé lại xấu hổ, phải đưa lên gác chữa mới được. Thầy thuốc bằng lòng, người kia liền đến cửa hàng bán quần áo mua một ít quần áo, giá tới hàng trăm đồng và bảo cho người cùng đi để trả tiền. Chủ quán liền gọi một nhân viên kế toán trẻ đi theo để thu tiền. Dọc đường , nhà buôn nói với người kế toán:

- Anh cứ theo tôi đến chỗ ấy, rồi sẽ có người dẫn lên gác trả tiền.

Đến nhà thầy thuốc, chào hỏi xong, thầy thuốc liền dẫn ngưòi kế toán lên gác, nhà buôn ngồi chờ ở bên dưới. Lên đến nơi, thầy thuốc bảo người kế toán cởi quần ra, anh kế toán kêu lên:

- Tôi đến thu tiền chứ, tại sao lại bảo tôi cởi quần?

- Thế anh chẳng mọc nhọt ở chỗ kín là gì?

- Tôi làm gì có bệnh ấy.

- THì cậu anh nói với tôi vậy.

- Ông gặp cậu tôi lúc nào.

- Chẳng phải cái người đưa anh đến đây còn ai ?

Anh chàng kế toán kêu lên kinh ngạc:

- Ông ta là khách hàng mua quần áo, dẫn tôi đến đây để trả tiền.

Biết là đã bị lừa, chạy xuống dưới nhà thì ông nhà buôn đã mất tăm, mất tích.

Chuyện cười thứ hai là ở thời kỳ đầu của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, một thanh niên Pháp tình nguyện nhập ngũ, nhận được thư vợ, nói rằng từ sau ngày anh vào lính, đời sống khó khăn, muốn cuốc mảnh đất sau nhà trồng rau cũng chẳng có người đỡ đần. Anh chàng chau mày, liền nghĩ ngay ra một kế, viết ngay thư trả lời, nói rằng anh có chôn ở vườn sau hai khẩu súng máy và mười trái lựu đạn. Lúc ấy thư từ trong đơn vị đều phải qua sự kiểm tra của cấp trên.

Đơn vị của anh được tin, cho rằng việc này rất quan trọng, lập tức cho hẳn một đội quân đến đào bới để tìm kiếm, nhưng chẳng tìm thấy được thứ gì. Sau đó, vợ anh lại nhận được thư anh viết rằng: "Người nước ta thật cũng giàu lòng thương người, nên anh nghĩ rằng đã có người giúp em cuốc đất , nay chỉ cần gạt qua là có thể trồng trọt được".

Đây tuy chỉ là chuyện cười nhưng cũng thấy được rằng kế lớn dùng vào việc lớn, kế nhỏ dùng vào việc nhỏ. Dù việc lớn hay nhỏ, hậu quả có khác nhau nhưng cách làm không khác, nếu không có chiêu bài đường đường chính chính, thì cũng thậm thụt câu kết với nhau làm cái việc hại người lợi mình, đó là lẽ thường tình. Cuộc sống lọc lừa, mưu mô đã thành thói quen thì thấy lúa không thể không cắt, thấy thuyền không thể không mượn.

Giả Hoàng Hậu Làm Mưa Làm Gió

Thời nhà Tấn, con gái Giả Đột là Giả Nam Phong mới mười lăm tuổi đã gả cho thái tử đần độn Tư Mã Trung làm thái tử phi, nàng vừa lùn, vừa đen, vừa xấu, lại lớn hơn thái tử hai tuổi, tính lại hay ghen và thích dùng quyền thuật.

Tấn Vũ đế Tư Mã Viêm trước lúc qua đời, thấy thái tử còn ít tuổi, lại ngu đần, vợ thì nanh nọc nên đã để lại di chiếu, lấy chú là Nhữ Nam vương Tư Mã Lương, quốc trượng cha của Dương hoàng hậu là xa kỵ tướng quân DƯơng Tuấn ra giúp việc triều chính. Dương Tuấn là người thâm hiểm, lấy tình gần gũi, độc chiếm quyền hành, trở nên bậc đại thần duy nhất.

Tấn Vũ đế chết, thái tử đần Tư Mã Trung nối ngôi làm hoàng đế là Tấn Huệ đế, Giả Nam Phong làm hoàng hậu , tôn Dương Hoàng hậu lên làm thái hậu.

Dương Tuấn nắm trong tay quyền lớn, không kiêng nể gì ai, nhưng lại không an tâm với con mụ Giả hậu thâm hiểm, tai ác mà lại đầy quyền hành này.

Giả hậu cũng là con người không cam chịu làm phái yếu, quyết không chịu buông tha trước việc cha con Dương Tuấn chuyên quyền, bèn ra điều rộng rãi, mua chuộc quần thần, ngầm mưu hại cha con Dương Tuấn.

Cái thuyền đầu tiên ả muốn mượn để cắt lúa là Sở Vương Ta Mã Vĩ, là một người con khác của Tấn Vũ đế. Tư Mã Vĩ vốn sẵn có binh quyền ở Kinh Châu, dâng biểu xin vào triều gặp hoàng đế. Dương Tuấn không thể không cho vào. Sau khi vào đến Lạc Dương. Vì đã bàn với Giả hậu, bảo hoàng hậu giục hoàng đế xuống chiếu, vu cho Dương Tuấn có ý đồ làm phản, lệnh TƯ Mã Vĩ mang quân bao vây tướng quốc phủ đệ, giết hết cả nhà Dương Tuấn, còn chu di ba họ, chết đến mấy ngàn người.

Cắt lúa được một lần, bèn đón vị cố mệnh đại thần trước đó là Tư Mã Lương vào triều, cùng phò tá triều đình với khai quốc nguyên huân Hằng CẨn.

Sau khi TƯ Mã Lương lên võ đài, đã nắm chắc chính quyền trong tay, coi thường hoàng đế ngốc nghếch, coi Giả hậu như cái gai trước mắt, muốn âm mưu phế lập.

Giả hậu vừa kinh sợ vừa bực mình, lại mệnh lệnh cho chồng xuống chiếu, cách chức Tư Mã Lương, giao cho Tư Mã Vĩ mang quân đi bắt Tư Mã LƯơng và Hằng CẨn, giết chết cả nhà.

Sở Vương Tư Mã Vĩ đã hai lần lập công lớn cho Giả Hậu, trở nên đắc chí kiêu căng, còn chuyên quyền hơn cả Dương Tuấn và Tư Mã Lương. Giả Hậu lại càng không thể buông tha, quyết làm bằng được , lại lệnh cho chồng xuống chiếu, lệnh cho cấm quân bắt Tư mã Vĩ, cũng đem giết cả nhà, tiêu diệt hết bè cánh của hắn. Từ đó, Giả hậu mới thực sự nắm chính quyền, cất nhắc người thân tín, triều chính tạm yên được vài năm.

Lang Thiên Cẩu Khiến Nhật Hết Hồn

Sau khi Nhật Bản chiếm ba tỉnh miền Đông Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc không ai không căm giận, rầm rộ tổ chức nghĩa dũng quân để chống lại, trong đó có một vị mang biệt dang Lang Thiên CẨu, đó là Trình Quế Lâm. Ông này đã ngoài năm mươi tuổi, đã từng được học ở Lục Quá giảng võ đường ở Đông Bắc, đã từng làm đến chức thiếu tá tiểu đoàn trưởng rồi xuất ngũ. Nay nhìn thấy quân Nhật Bản hoành hành, bèn căm giận tổ chức thanh niên của các làng thành đội cứu quốc nghĩa dũng quân, tập hợp được hơn một ngàn người. Do người nhiều súng ít, không thể chiến đấu được. Tuy ông ít được học hành, nhưng rất giàu kinh nghiệm chiến đấu, mưu trí dũng cảm hơn hẳn mọi người.

Đã không thể lấy bằng sức thì chỉ còn dụ bằng mưu , muốn lấy súng ống đạn dược của Nhật để tranh bị đầy đủ cho quân lính của mình. Hễ nghe thấy ba chữ tên Lang Thiên Cẩu, quân Nhật lớn bé đều đã rụng rời chân tay, tuy chẳng ai thấy con người ấy mà nó trở nên một nhân vật huyền bí.

Lang Thiên Cẩu được tin tình báo, đường sắt BẮc Ninh thường kéo theo một toa hàng ở sau toa khách để áp tải súng ống đạn dược và đồ dùng cần thiết. Ông lại rất thông thuộc địa hình trong vùng, quyết định sẽ ra tay ở chỗ này.

Ông hóa trang thành một nông dân, mang theo hai người giúp việc đến thẳng nhà ga Phụng Thiên để nắm tình hình, biết được tám giwò sáng hôm ấy có một chuyến tàu chạy tới Sơn Hải quan, trong đó có một mẻ súng ống đạn dược chở tới huyện Tuy Trung, Đi theo áp tải là một trung đội Nhật.

Trước đó một ngày, ông báo tin về căn cứ, chri thị cho anh em chuẩn bị. Ông cùng hai người nữa lên tàu trước đó vài ga, lkúc ấy khách rất đông xe rất chật chội.

Đoàn tàu này đi từ CẨm Châu khoảng chừng ba tiếng đồng hồ, bỗng nhiêu dừng lại giữa đường, thì ra dừng theo lệnh của tên thượng uý Nhật và của đội quân áp tải. TẠi sao phải ra lệnh như thế? Thì ra tên sĩ quan àny đã bị khống chế, người đó là ai? CHính là Lang Thiên Cẩu vậy.

Lang Thiên Cẩu lúc này đã cải trang thành một ông già đi buôn, đứng bên cạnh tên sĩ quan Nhật đã uống say la đà, tay phải dí một vật cứng vào lưng tên Nhật, tay trái cầm một vật đuỡ bọc bằng chiếc khăn bông trắng, dùng tiếng Nhật nói với tên sĩ quan:

- Đứng im, cựa quậy thì sẽ chết, phải theo lệnh tao!

TÊn sĩ quan run run hỏi:

- Ong bảo tôi phải làm gì?

Lang Thiên Cẩu nói:

- Phải lệnh ngay cho tàu dừng lại, sau đó lệnh cho binh lính của mày hạ vũ khí, xuống tàu , tập hợp ở dưới đất - nhìn đây, tay phải tao là súng gngắ, tay trái là lựu đạn ,hkhông nghe tao thì cùng chết!

- Vâng, tôi xin nghe lệnh của ông - Tên sĩ quan vội vàng trả lời.

Tầu quả nhiên dừng lại, bọn lính Nhật vốn quen phục tùng tuyệt đối cũng được tập hợp xuống dưới đất.

Lang Thiên Cẩu đi sát bên tên sĩ quan chẳng thấy sơ hở chỗ nào, cả hai cùng ra khỏi toa tàu. Tên sĩ quan nói với bọn lính tráng mấy câu, thấy bọn chúng lũ lượt hạ vũ khí , n goan ngoãn đặt vào một chỗ, bước lên mươi bước, cả lũ đứng nhìn thao láo.

Giữa lúc gay go căng thẳng này, ở những vùng lân cận hàng đoàn người với nhiều sắc áo đằng đằng sát khí cưỡi ngựa xông về phía đoàn tàu, hành khách đi tàu lại ngỡ bọn cướp "râu đỏ" đến cướp tàu.

Bỗng nhiên, ông già đứng sau tên sĩ quan Nhạt hô lớn:

- Anh em ơi! Hãy nhặt hết số vũ khí trên mặt đất đi và khuân hết tất cả đồ quân nhu ở hai toa xe cuối cùng. Tuyệt đối không được lấy gì của hành khách.

Những người khách không dược mời này nghe theo lời ông già, hành động nhành chóng. Có sáu chàng trai trẻ đã nai nịt gọn gàng chạy đến bên ông già, giám sát chặt chẽ tên đại úy.

TẤt cả hàng hóa cần chở đi đã được chở đi hết, ông già tức là Lang Thiên Cẩu, đứng ở trước mặt tên sĩ quan cho hắn xem khẩu "súng ngắn" nguyên là mẫu cành cây, quả "lựu đạn" bên tay trái chính là cái nậm sành, còn cười, nói:

- Anh ngoan lắm, p hối hợp rất ăn ý, tôi không giết anh, anh có thể lái tàu về. Sau này chúng ta sẽ gặp nhau trên chiến trường, nhưng cần phải nói cho anh biết tôi là "Lang Thiên Cẩu" Trịnh Quế Lâm của nghĩa dũng quân.

LSB-KỳCôngKỳThủ
06-07-2003, 19:41
[center:bb5e9acb9a]Kế 9[/center:bb5e9acb9a][center:bb5e9acb9a]Ném Đá Hỏi Đường[/center:bb5e9acb9a]
[center:bb5e9acb9a]Dùng Thơ Họp Bạn, Trần Tử Ngang Có Mẹo Tiến Thân;
Ném Đá Hỏi Đường, Trương Lương Vạch Kế Cướp Hàm Dương[/center:bb5e9acb9a]
Câu "ném đá hỏi đường" thường được giải thích rất dễ dàng nông cạn, nhưng lại được dùng rất rộng rãi, có trường hợp là thiện chí, nhưng cũng có khi là ác ý. Thông thường nhất là đến trước mắt người khác hỏi thăm tình hình gần đây của một nguời bạn, cũng được coi là ném đá hỏi đường. Nhưng khi đã được gọi là kế thì không còn là thiện chí nữa, mà nó đã trở thành chuyện rắp tâm toan tính với người khác ta, "hỏi đường" là quyết định hành động của mình. Hay dùng kế này nhất là cái bọn hay ăn đêm, thậm thụt vụng trộm, khi muốn vào nhà người ta, thì ném trước một viên đá, nghe xem có phản ứng gì không , nếu như thế có tiếng chó sủa hay người hỏi thì biết ngay được rằng lối này khó vào, không cẩn thận không xong.

Ở thành phố San Fransisco đã từng xảy ra một vụ cướp thế này:

Trên một đoạn đường phố vắng vẻ, có một gã vẻ mặt hốt hoảng hỏi một chàng trai qua đường:

- Ông ơi! Ông thấy gần đây có cảnh sát không?

Người đi đường đáp:

- KHông, dọc đường tôi chưa từng gặp một cảnh sát nào. Có chuyện gì không hay xảy ra sao? Có cần tôi giúp gì không?

Nghe nói thế, gã nọ điềm nhiên rút súng ngắn ra chỉ mặt người khách đi đường nói:

- Thế thì hay lắm, xin ông hãy bỏ ví tiền và đồng hồ của mình ra đây!

Kế "ném đá hỏi đưòng" đã được vận dụng mới khéo làm sao, thằng ăn cướp này cũng có thể nói là loại "cướp khéo". Lại còn có những loại dùng điện thoại để dò xem chủ có nhà không để mà tính chuyện cướp bóc, chuyện đó đã không còn là điều mới lạ ở các thành phố lớn nữa.

Néu nói thế, kế này có phải như một thứ tài vặt không? Không p hải! Phàm đã là dùng kế, thì không kể gì lớn nhỏ, có thể dùng rìu mổ trâu để giết gà, cũng có thể lấy kiến để dọa voi, tranh bằng văn, đấu bằng võ, chẳng có gì mà không làm được, lớn có hiệu quả lớn, nhỏ có ích lợi nhỏ. Trong lịch sử cũng không ít chuyện dùng kế "ném đá hỏi đường" mà thu được thắng lợi.

Thời Chiến quốc, TẦn Huệ vương muốn chinh phạt nước Thục, nhưng đường sang nước Thục còn khó đi hơn là lên trời, không có lối nào mà đi. Nghe nói nước Thục có năm "đại lực sĩ", có sứ ckhỏe như thần, bởi vậy mới vắt óc để tìm cách đánh bằng mưu kế. Tức thì đúc năm con trâu sắt, đem đặt ở những ngã ba đường, rồi tung tin rằng, mỗi con trâu này một ngày ỉa ra năm đấu cứt vàng, sở dĩ nước Tần giàu chính nhờ có năm con trâu ỉa ra vàng này. Tin này đã truyền đến tai của chúa nước Thục, cho rằng có thật, bèn lệnh cho năm vị lực sĩ đi khai sơn phá thạch thông tới nước Tần, tính mang trộm năm con trâu đó về. Khi đường núi đã được mở ra, quân của nước Tần cứ thế thuận đường mà tới, chỉ một trận đã chinh phục xong nước Thục.

Tô Tần được sáu nước phong làm tướng, sau khi chính sách "hợp chủng" bị phá sản, trốn sang nước Tề. Lớp quí tộc nước Tề có người ghen với Tô TẦn, mua chuộc bọn hung thủ chờ lúc Tôn Tần vào triều, lén đâm vào bụng Tô TẦn rồi quay lưng trốn đi. Tô Tần lấy tay ôm bụng chạy vào triều tố cáo với Tề Mẫn Vương. Mẫn Vương nổi giận hạ lệnh cho đi bắt hung thủ, Tô Tần liền nói:

- KHông cần thiết, chờ tới khi thần chết đến đón hạ thần, xin đại vương hãy cắt lấy đầu thần ra lệnh đem bêu đầu, nói Tô TẦn là gian tế, muốn sang nước ta thi hành kế phản gián. Nay may mắn giết được hắn , nếu ai biết và vạch được âm mưu của hắn, đến báo với triều đình, sẽ được thưởng ngàn nén bạc, như thế hung thủ sẽ tự ra. Nói xong mới rút lưỡi dao ra , máu chảy tràn ra đất mà chết. Mẫn Vương làm như lời Tô Tần, đem cắt lấy đầu bêu ở ngoài cửa thành. Chưa đầy một ngày, có người ngang qua, thấy có treo thuởng, bèn khoe khoang rằng:

- Người giết Tô TẦn , chính là mỗ đây. Lính canh thấy thế liền tóm cổ người ấy vào trình Mẫn Vương. Mẫn Vương ra lệnh nghiêm hình xét hỏi, khai ra kẻ chủ mưu và giết bằng hết.

Nhạc Phi khi thảo phạt bọn cướp Dương Ma ở Động Đình Nam, cũng tiến áp tới đại bản doanh ở Hạ Thành trại, trại này ba mặt giáp sông lớn, sau lưng là núi đá cheo leo. Nếu tiến công bằng đường bộ, giặc sẽ lùi ra mé hồ, nếu đánh đường thủy, chúng sẽ rút lên núi cao, đánh giáp công bằng cả thủy cả bộ thì không đủ quân số và sẽ tạo kẻ hở cho giặc. Nhạc Phi thăm dò thấy bên ngoài trại có một nơi nước chảy cũng rất nông, bèn nghĩ ra một kế, chọn một ít quân lính to mồm, đến tối ra bờ hồ TÂy vừa réo vừa chửi, đồng thời có người ở phía thượng lưu chuẩn bị thật nhiều rơm cỏ. Khi quân lính đấu võ miệng lớn tiếng "tụng kinh", bọn giặc hết sức bực mình lũ lượt lấy đá ném ra, quân của Nhạc Phi cũng dùng gạch ngói trả đũa lại, quân ở thương lưu đứng phía trên dòng lập tức đẩy những bó rơm xuống sông cho trôi tới nơi nước cạn, rồi lấy gạch ngói vỡ đổ trùm lên, chỉ nửa đêm đã lấp nên một con đê. Nhạc Phi bèn ra lệnh tiến công, mỗi người lính phải mang theo một túi đất, vừa đi vừa lấp, bởi vậy dài mãi tới trại lớn dẹp tan bọn giặc.

Ném đá hỏi đường rất được dùng phổ biến trong kế sách, ngwuời nào cũng có thể dùng được, làm tướng có thể dùng nó mà dò tin cướp trại, chính khách dùng nó mà tung hoành đây đó, thậm chí thư sinh trói gà không chặt cũng có thể dùng nó để làm mưa làm gió. Tay hãy xem chuyện thành danh sau đây của Trần Tử Ngang.

Trần Tử Ngang Có Mẹo Tiến Thân

Trần Tử Ngang là một văn học sĩ, người ở Hồng Xá, Tứ Xuyên thời Đường Cao Tông, sinh ra ở một nhà giàu, hết sức thông minh đĩnh ngộ, tự biết những điều đã học để ứng phó thế là vào kinh để cầu công danh.

Khi đến Trường An, lạ đất lạ người, không có ai quyền quý để nhờ cậy nâng đỡ, thơ văn của Trần Tử Ngang cũng chẳng được ai để ý nên bỗng thấy lẻ loi và không được đắc chí.

Tử Ngagn không hổ thẹn là một bậc thông minh, cho rằng ở vào nơi môi trường mới lạ này không còn ai khác hơn là tự mình phải mở ra cục diện.

Một hôm, magn theo mấy bài thơ nhỏ đi dạo phố, thấy một người bán đàn, hỏi giá nói giá tới hàng triệu đồng. RẤt nhiều bậc đệ tử văn nhân giàu có đều bàn tán xon xao về giá trị thứ nhạc cụ cổ này, nhưng chẳng ai mua cả. Tử Ngang bỗng nhiên bước tới, sau người hầu mua cây đàn, trả đúng giá tiền, mọi người đều kinh ngạc, tranh nhau hỏi về gốc gác cây đàn này. Trần Tử Ngang lớn tiếng đáp lại:

- Cây đàn này quí lắm, tôi lại thạo chơi cho nên không quản ngại giá cao đã mua nó.

Có người hỏi:

- Anh có thể chơi một bài cho mọi người nghe được không?

Tử Ngang nói:

- Tất nhiên là được thôi, nếu các vị thích nghe, ngày mai xin mời đến ngõ Tuyên Dương, tuy vụng về tôi cũng xin hầu một khúc.

Trưa hôm sau, rất nhiều văn nhân tài tử giàu sang đều kéo đến ngõ Tuyên Dương, đã thấy bày sẵn cổ bàn để chờ đón khách. Trong trường hợp đó, Trần Tử Ngang đã quen biết nhiều bạn bè mới và mọi người cũng thấy may mắn đã làm quen với một văn sĩ hào hoa lạ mặt. Sau phút chén tạc chén thù, Trần Tử Ngang ôm đàn ra, nói với mọi người:

- Tôi là TRần Tử Ngang, văn sĩ người nước Thục, viết được khá nhiều thơ văn, tự cho rằng đó là những sáng tác viết ra bằng tâm huyết, nhưng chẳng có nơi nào mà ngâm vịnh. Nay vừa mới tới vùng ta, chưa quen biết ai, lòng còn chưa vui, nay trước lúc dạo đàn, tôi xin đọc thử để các bạn nghe một vài bài thơ.

Vì văn tài của ông nổi trội, vừa đọc lên đã được mọi nguời kính phục. Bỗng dưng ông ngừng đọc, chuyển sang lời than vãn:

- Ôi! Đàn nhị chẳng qua chỉ là thứ trò tiêu khiển mua vui không phải là con đường để văn sĩ chúng ta dốc sức vào nó, không phải là mục tiêu để ta giành giật lấy. CÂy đàn này tuy quý, nhưng với tôi phỏng có ích lợi gì? Nói xong, ông đập ngay cây đàn tại chỗ. Ngay sau đó, đem thơ văn in sẵn của mình tặng hết lượt bạn bè.

Bởi vậy, tiếng tăm về văn tài và lối chơi hào phóng của Tử Ngagn chỉ một ngày đã lan khắp Trường An, cũng từ đó mà thơ văn của Tử Ngang mới bắt đầu được người đời chú trọng.

Trương Lương BÀy Kế Chiếm Hàm Dương

Lưu Bang tiến công vào Hàm Dương, đã đánh tới Hiểu Quang. ĐÂy là một cửa ải quan trọng, là yết hầu của Hàm Dương, do tướng nhà Tần là Hàn Vinh, Chu Khoái và Cảnh Bái canh giữ.

Lưu Bang định tiến quân vào đánh, nhưng mưu sĩ là Trương LƯơng đã hiến kế và khuyên nên dùng mưu mà chiếm, nói tướng TẦn là con của Đồ Giả, dễ dùng vật chất để mua chuộc. Bèn cho người cắm cờ xí trên cửa ải và trên núi để nghi binh, sai mưu sĩ là Lục Giả và Lệ Thực Kỳ mang theo vàng bạc hối lộ cho bọn lính canh để vào thành, gặp được chủ tướng Hàn Vinh, Chu Khoái. Lệ Thực Kỳ bắt đầu nói đến điều lợi hại:

- Nay Tần triều vô đạo, làm khổ cho muôn dân, thiên hạ đã hợp quân cùng nhau chống lại, không chỉ riêng Bái Công ta (tức Lưu Bang) , nếu tướng quân cũng thương đến sinh linh của muôn dân đang thống khổ, thì hãy nên mở thành đầu hàng, Bái Công cũng sẽ cảm kích bởi việc làm đó của tướng quân và vẫn để nguyên chức vị.

Hàn Vinh đáp:

- Tôi hưởng lộc của nhà Tần đã lâu, làm như vậy xem ra không được đạo nghĩa cho lắm có thể để cho tôi ba ngày, bàn kỹ lại với chư tướng, đánh hay hàng là do mọi người quyết định, tiên sinh hãy lui quân ra ngoài quan ải, đến lúc ấy xin hãy quay lại.

Lệ Thực Kỳ lui quân về trại, kết quả cuộc bàn bạc của các tướng trên ải là người thì muốn đánh đến cùng, người thì muốn mở thành ra hàng, hai bên đều dùng dằng chưa dứt khoát, đương nhiên là cũng vì thế mà không tích cực chuẩn bị chiến đấu.

Đến ngày thứ ba, Lệ Thực Kỳ lại đến, hỏi ý Hàn Vinh thế nào. Hàn Vinh nói rằng ý kiến của mọi người không giống nhau. Lệ Thực Kỳ bèn nói:

- TƯớng quân và mọi người có lòng trung với chúa, thật đáng kính phục, hoàn cảnh của tướng quân. BÁi Công cũng rất thông cảm. Nay có dâng lên mọt ngày lạng vàng, gọi là thể hiện tấm lòng tôn kính. Bái Công cũng đã ra lệnh lui quân, để chờ quân ở hướng khác tới, rồi sẽ khu xử.

Hàn Vinh từ chối:

- Tôi với Bái Công là người hai nước đối địch, làm sao có thể nhận vàng bạc?

Lệ Thực Kỳ nói:

- Nếu tướng quân kh ông nhận lễ này, tức là muốn dứt tình với Bái Công , đến ngày quân của các chư hầu kéo đến, hợp lực đánh vào, nghĩ rằng cửa ải này cũng khó mà giữ nổi, đến lúc bấy giờ tướng quân còn mặt mũi nào mà gặp Bái Công, chi bằng giữ nhận lấy lễ, để thể chút tình sau này khi gặp mặt, xin tướng quân hãy nghi cho chín.

Hàn Vinh nói:

- Nếu đã như thế, thì tôi nhận lễ, nhưng tôi vẫn mong hai bên hãy giải hòa và bãi binh, để cho sinh linh khỏi lầm than, nhờ tiên sinh hãy chuyển ý này tới BÁi Công và tỏ lời cảm tạ.

- Đương nhiên tôi nhất định sẽ chuyển lời này tới các chư hầu, Bái Công là nguời đứng đầu, tất nhiên sẽ đồng ý.

Lệ Thực Kỳ nói xong, xin cáo từ ra về.

Khi về gặp Bái Công, Lệ Thực Kỳ đã kể lại mọi chuyện, Trương Lương liền khuyên một mưu:

- Đã có dịp để thừa cơ, vừa đúng lúc để ta dùng kế. Thế là vội điều binh khiển tướng, lệnh cho Tiết Âu, Trần Bái mang theo hơn chục người, cải trang làm dân thuwòng, mỗi người gánh một gánh củi, trong ngầm đặt hỏa pháo, đi đường tắt vòng ra phía sau quan ải, châm lửa đốt núi, lại lệnh cho bọn Phàn Khoái phất cờ dóng trống tiến lên đánh thẳng về phía trước.

Sau khi nhận lễ cả ngàn lạng bạc, tướng giữ quan ải Hàn Vinh cho rằng tiền tuyến không thể có chiến tranh, suốt ngày rượu chè, chẳng hề phòng bị chút gì. Bỗng thấy quân địch tới trước cửa ải, vọi vàng định lên ngựa ra đón đánh, thì lại có người cấp báo rằng phía sau lửa cháy lan tràn trên núi, tiếng súng, tiếng pháo nổi liên hồi, một đội quân lớn đã vào trong ải.

Hàn Vinh luống cuống, không kịp ra trận, bọn Phàn Khoái đã tranh được vào ải, ra sức giết quân Tần. Hàn Vinh thấy thế đã bị giáp công, bèn đang đêm trốn chạy, rút về Hàm Dương. Lưu Bang thừa thắng đuổi đánh, một cơn gió lốc cuộn lá vàng cuối cùng đánh vào được Hàm Dương bắt sống được TẦn Vương là Tử Anh.

LSB-KỳCôngKỳThủ
06-07-2003, 20:25
[center:689ff6a7ed]Kế 10[/center:689ff6a7ed][center:689ff6a7ed]Dời Hoa Tiếp Cành[/center:689ff6a7ed]
[center:689ff6a7ed]Già Chơi Trống Bỏ, Lã Bất Vi Dùng Mưu Giành Thiên Hạ;
Dời Hoa Tiếp Cành, Võ Tắc Thiên Bàn Kế Nắm Trung Cung[/center:689ff6a7ed]
Sách xưa có chép: "Những việc tất không có trên đời, lại có cái lẽ tất có, đã có cái lẽ tất có, thì có gì ngăn việ cnghĩ rằng nó có". Sự diễn biến của ý nghĩ rằng nó có, tức là bịa đặt ra, bỗng dưng gây nên mâu thuẫn, rồi dùng quyền thụat, với phương thức ngấm dần từ bên ngoài, làm cho những việc đã thành bỗng dưng thay đổi, thủ đoạn đó gọi là "dời hoa tiếp cành".

Dời hoa tiếp cành tức là đã có mục đích nhất định, đã chủ trương một ý đồ, cần phải tiếp cận người có lợi và lại có tác dụng cho mình, bất kể là phải luồn cúi hay phải đề cao, miễn là đạt mục đích, không kể là thủ đoạn gì. Như hoàng đế Thuận Trị đời Mãn Thanh, năm ấy muốn khuyên tướng nhà Minh là Hồng Thừa Trù ra hàng, chẳng ngại ngần đưa cả vợ là hoàng hậu ra lôi kéo, để đưa được vào vòng. Lưu Bị chịu đựng đội mưa tuyếtn, ba lần đến lều cỏ để thăm Gai CÁt Lượng chẳng có gì khác là để cá tìm thấy nước, giúp mình giành lại giang sơn. Đó đều là kế dời hoa tiếp cành để đạt ý đồ chính trị.

Nói đến dời hoa tiếp cành, mọi người thường hay nghĩ tới đâu đâu, mà phổ biến là nghĩ đến chuyện giăng hoa trai gái. Như tiểu thư Thôi Oanh Oanh trong Tây sương ký, nửa đêm gà gáy ôm gối đi tìm gặp Trương Sinh. Hồng Phật Nữ đang đêm đi gõ cửa phòng Lý Tĩnh, nhất là màn kịch đầy hương sắc của cuộc tình vụng trộm giữa Lý hậu chúa với cô em dì "hoa tỏ trong mờ bay sương nhẹ, đêm nay muốn tới được bên chàng. Chân trần bước thềm ngọc, tay trái xách giày thêu hoa, nam phòng tranh ngó thấy, đã ngây ngất cả người, giận sao ra thật khó, để mặc chàng lả lơi". Cái kiểu "một dạ đinh ninh người đẹp đến, sắp sẵn gối ra để mà chờ", rốt cuộc cũng chỉ ăn may ngẫu nhiên chứ không cầu mong được, chi là tạm thời ch ứ không thể thường xuyên. Cái bọn trai gái lăng nhăng bậy bạ tuy rằng tối tối là trăng mật, đêm đêm là mộng lành, cũng đã là thứ lửa để gần rơm, khá là nguy hiểm , không thể coi là "dời hoa tiếp cành" một cách trong sạch được.

Trong sử sách từng đã có bậc hoàng đế phong lưu, nhờ kế "dời hoa tiếp cành" mà đã toại nguyện. Vị đầu tiên là Vệ Tuyên Công thời Xuân Thu. Vệ Tuyên Công khi còn là công tử đã dâm dục quá đà, tư thông với cả người tì thiếp của Tráng Công cha mình tên là Di Khương, đẻ ra một đứa con tên là Cấp Tử phải đưa nhờ dân nuôi. Đến ngày Tuyên Công lên ngôi, nguyên phi là Hàn Kỷ không có con, nên chỉ yêu quí người tình cũ là Di Khương như vợ với chồng, và người con riêng ấy cũng đuợc yêu lây, được lập làm công tử để sau này nối ngôi. Đến năm Cấp Tử mười sáu tuổi mới hỏi con gái lớn của công tử Hỷ ở nước Tề là TỀ Khương và cưới làm vợ. Nhưng khi sứ giả sang nước Tề làm lễ hỏi trở về, nghe nói người con dâu này có sắc đẹp tuyệt vời, trong lòng bỗng nghĩ điều bậy bạ, nhưng không hề hé răng, bèn nghĩ ra một kế, lệnh cho thợ giỏi, dựng một tòa tân đài hoa lệ trên sông Kỳ Hà ở biên giới hai nước. Sau đó lại mượn cớ sang mời nước Tống, cử Cấp Tử làm đặc sứ ngoại giao, sai sang nước Tống, sắp đặt đâu vào đấy, rồi cho người snag nước Tề đón nàng dâu về. Khi tới Kỳ Hà, lão dê già này đã chờ sẵn ở Tân ĐÀi, mỡ béo sao qua được miệng mèo, cha nối nghiệp con, gạo đã nấu thành cơm, cây khô thì mọc mầm còn con dâu đã thành vợ bé. Đến khi Cấp Tử trở về, thấy cái cảnh xấu hổ đó chỉ đành ngậm đắng nuốt cay, ngoan ngoãn gọi vợ chưa cưới của mình bằng dì ghẻ.

Kế "dời hoa tiếp cành" phải đưa lên trước , như đạo quân đánh tiên phong và phải kết hợp với kế khác mới thành công, bởi vậy khi dùng kế hãy nên mềm mà không nên cứng, làm mềm tức là quyến rũ, mà cái tài quyến rũ kkhông phải là người đẹp thì còn ai làm nổi.

Lã Bất Vi Khéo Dùng Kế Lấy Thiên Hạ

Thời Chiến Quốc, Lã Bất Vi người ở Dương Trác (nước Tần) là một tên lái buôn, hàng ngày đi từ nước này sang nước khác buôn bán, mua rẻ bán đắt, tích góp nên rất giàu. Một hôm, ở Hàn Đan kinh đô nước Triệu, Lã BẤt Vi tình cờ gặp một chàng trai đi trên đường, vẻ mặt rất đàng hoàng, quần áo quy xuyềnh xoàng nhưng vẫn ra vẻ quí phái nên lấy làm lạ, hỏi những người bên cạnh, đáp rằng:

- Đấy là người con thứ của An Quốc Thân, Thái tử của vua Tần tên là Dị Nhân, đến nước này làm con tin. Vì quân Tần nhiều lần xâm lấn biên cương, vua nước Triệu chúng tôi muốn giét đi, nhưng được Bình Nguyên Quân khuyên ngăn rằng có giết người này cũng vô ích , chỉ tổ để cho người Tần mượn cớ. Nay tuy tha chết, nhưng lại giam lỏng ở Tùng Đài và cử đại phu Công Tôn Càn kèm riết bên mình, ra vào bị coi giữ không cho kinh phí, ra không có xe có ngựa, muốn dùng gì không có tiền mua, chẳng khác chi kẻ nghèo hèn.

Lã Bất Vi nghe nói vậy, bèn thốt lên:

- Món hàng lạ này có thể kiếm được đấy!

Bèn quay về hỏi cha mình:

- Làm ruộng lãi mấy lần?

- Mười lần.

Lại hỏi:

- Buôn bán châu báu lãi gấp mấy lần?

- Một trăm lần!

- Nếu như dựng một người lên làm vua, nắm quyền cả giang sơn, thì lãi gấp mấy lần?

Người cha cười đáp:

- Làm gì có dịp, nếu phò tá một người lên làm vua, thì món lãi đó gấp muôn vạn lần.

Lã BẤt Vi nghe và nhớ trong lòng, bèn suy nghĩ tìm cách dùng kế "dời hoa tiếp cành", trước hết dùng tiền bạc để làm quen với Công Tôn Càn, đi lại nhiều lần cho quen thân, chẳng khác gì anh em, khhi thấy Dị Nhân thì làm như không biết, hỏi lai lịch, Công Tôn Càn mới nói ra.

Một hôm, Công Tôn Càn mời Lã BẤt Vi uống rượu, Lã BẤt Vi nói:

- Bữa tiệc này không ngoài ai khác. Vương Tôn của nước Tần đã có mặt ở đây, sao không mời cùng đến dự?

Công Tôn Càn nghe vậy, bèn cho mời Dị Nhân đến gặp Lã Bất Vi, cùng ngồi uống rượu. Rượu được vài tuần, Công Tôn Càn rời bàn tiệc đi ra nơi tiểu tiện, Lã Bất Vi liền thừa dịp này hỏi nhỏ Dị Nhân:

- Tần Vương nay tuổi đã già, người mà Thái Tử yêu vì là Hoa Dương phu nhân, nhưng lại không sinh đẻ, trong hai mươi mấy anh em của người, còn chưa có ai được chọn làm thừa kế, sao người không quay về nước Tần vào lúc này, tìm Hoa Dương phu nhân xin làm con của bà, sau này còn có hy vọng chờ kế vị.

Dị Nhân rưng rưng mắt than:

- Lại còn mong có dịp ấy sao? Nhắc đến cố quốc mà lòng đau như dao cắt, chỉ giận là không sao tìm ra kế thoát thân.

Lã BẤt Vi lại nói thêm:

- Nhà tôi tuy nghèo, nhưng tôi cũng quyết dốc hết của để đến Hàm Dương, đặng trần tình với Thái tử và mọi người thân thích, cứu người về triều, vậy ý người thế nào?

Dị Nhân nghe thế, mừng hết chỗ nói:

- Nếu may có ngày ấy, ta với ông cùng chung phú quí. Nói xong thấy Công Tôn Càn trở lại bèn im bặt, đêm ấy ba người vui vẻ chia tay.

Từ đó về sau, Lã Bất Vi và Dị Nhân thường gặp nhau, Lã Bất Vi ngầm cho Dị Nhân năm trăm lạng vàng để mua chuộc bọn tả hữu gây cảm tình với chúng, còn đi giao du nhiều khách lạ làm ơn làm đức với họ, bởi vậy người của Công Tôn Càn từ trên xuống dưới, đều chịu ơn của Dị Nhân, cũng coi nhau như người nhà không còn nghi ngờ gì nhau.

Lã Bất Vi tiến thêm bước nữa, mang theo vàng bạc đến họat động ở Hàm Dương và bắt tay từ chỗ người em của Hoa Dương phu nhân, rồi dùng bạc vàng để tấn công, gặp được Hoa Dương phu nhân, giãi bày mọi đường hơn thiệt, nói cho Hoa Dương phu nhân phải phục trong lòng mà nghe theo, tỉ tê với Thái tử An Quốc Thân, đồng ý nhận Dị Nhân là con thừa kế và khắc phù để nhớ. Sau đó lại thông qua quyền thần Dương Tuyên Quân, có lời tân lên Thái hậu, Chiêu Quả Vương bèn quyết tâm đòi cho Dị Nhân về nước, nhưng p hải chờ sau khi hai nước giảng hòa rồi mới tiến hành.

Thái tử An Quốc Quân hỏi Lã Bất Vi có kế gì hay để Dị Nhân về nước được. BẤt Vi trả lời ngay:

- Thái tử đã định lập Dị Nhân làm người thừa kế, tiểu nhân chẳng tiếc gì gia tài tới ngàn vàng, đem hối lộ bọn đương quyền, tất sẽ cứu được về nước, xin Thái tử hãy cứ yên lòng.

Thế là mọi người đều vui mừng, đem rất nhiều vàng bạc ra để Lã BẤt Vi chi dùng trong khi hoạt động và tôn Bất Vi làm thái truyền của Dị Nhân.

Bất Vi là người giỏi đầu cơ, bèn nghĩ: "Sau này Dị Nhân về nước, tất sẽ kế lập ngôi vua, nếu việc dời hoa tiếp cành mà thành công, thiên hạ giành được, không khó gì mà không được họ Lã này tiếp nhận". Thế là nghĩ ngay ra một kế, mua một người con gái đẹp ở Hàn Đan để làm thị tì, đặt tên là TRiệu Cơ, khi Triệu Cơ có mang hai tháng, bèn mời Dị Nhân và Công Tôn Càn tới nhà uống rượu trong bữa tiệc đủ sơn hào hải vị, múa hát vui vầy đến mức nào khỏi cần phải nói.

Rượu được vài tuần, BẤt Vi lên tiếng:

- Bỉ nhân mới có một tiểu cơ, rất giỏi múa hát, muốn gọi ra chúc hai vị vài chén lại sợ là đường đột quá.

Ngay sau đó, lệnh cho Triệu Cơ bước ra chào hai quí khách. Triệu Cơ nhẹ cất gót sen, cúi chào hai lần, Dị Nhân và Công Tôn Càn vội khoanh tay đáp lễ. Triệu Cơ bưng rượu, bước lên chúc rượu. Dị Nhân ngẩng mặt lên nhìn, tưởng là tiên giáng thế, không cầm lòng được là thấy hồn xao xuyến dạ bâng khuâng. Triệu Cơ ca hát xong rồi, BẤt Vi lại lệnh cho ra chúc rượu, hai người từng hơi uống cạn. Mời rượu xong Triệu Cơ trở vào trong. Chủ và khách lại từ mời nhau, vui cho hết mức. Lúc ấy Công Tôn Càn đã say gục trên ghế. Dị Nhân tuy say cũng còn tỉnh hơn, nhân hơi men bèn hỏi Lã BẤt Vi:

- Hãy thương ta một mình ở đây, chiếc thân nơi quán khách cô đơn, muốn xin ông cho nàng cơ này về làm vợ, để thoả nguyện bình sinh, không hiểu đáng giá bao nhiêu để xin dâng nộp.

Bất Vi nghe vậy, vờ làm ra ngạc nhiên và tức giận:

- Ta có lòng tốt mời mọi người, đưa cả vợ ra để mua vui, cốt để tỏ lòng kính mến, không ngờ điện hạ lại có ý nghĩ oái oăm, muốn cướp cả tình yêu của ta, thế là lý gì?

Dị Nhân luống cuống chân tay, lập tức quỳ xuống, nói:

- Tôi chỉ vì nỗi cô đơn trên đất khách, muốn tiên sinh chia sẻ tình yêu, đó thực là lời nói xằng khi quá chén, thật là không biết tội.

Bất Vi vội vàng đỡ dậy, nói:

- Tôi lo cho điện hạ được trở về Tần đã bỏ hết cả cơ nghiệp, còn chẳng tiếc gì, nay làm sao nỡ tiếc một người con gái. Nhưng nay nó còn ít tuổi, thẹn thùng, sợ nó không ưng, nên chăng hãy để tôi khuyên bảo thêm. Nếu nó đồng ý, thì xin dâng lên hầu điện hạ, chứ tính gì giá với cả bao nhiêu?

Dị Nhân nghe nói, chuyển buồn thành vui vái chào cảm tạ đợi cho Công Tôn Càn tỉnh rượu, cùng lên xe ra về.

Đêm hôm đó Lã BẤt Vi nói với TRiệu Cơ rằng:

- Tần Vương Tôn rất yêu mến nàng, muốn lấy nàng làm vợ, ý nàng ra sao?

Triệu Cơ nói:

- Thân tôi đã theo hầu chàng, nay đã mang thai , nỡ nào lại chuyển sang với người khác?

Bất Vi ghé tai nàng nói nhỏ:

- nàng có theo ta suốt dời, giỏi lắm cũng không ngoài một bà mệnh phụ, nhưng bbậc vương tôn này đang có dịp sẽ làm Tần Vương, nếu nàng được yêu mến, tất sẽ là hoàng hậu, cái thai trong bụng nếu là con trai, nó sẽ là thái tử, đó là giọt máu chung giữa ta với nàng, thì chúng ta sẽ là bố mẹ của vua, sẽ vô cùng giàu sang. Nếu nàng còn nghĩ đến tình vợ chồng thì đừng gây khó khăn, hãy chịu nghe theo kế của ta, và xin chớ có để ai biết chuyện.

Bàn bạc với nhau mãi, nói điều hơn thiệt, cuối cùng TRiệu Cơ cũng bằng lòng.

Hôm sau Lã BẤt Vi tới chỗ Công Tôn Càn, sau khi hai bên tạ lời nhau, Dị Nhân cũng vừa tới, BẤt Vi công khai nói với hai người:

- Nay điện hạ không chê gì tiểu thiếp xấu xí, muốn lấy làm người nâng khăn sửa túi, tôi đã bàn đi tính lại với nàng, nàng đã nghe ra và tuân lệnh. Nay nhân ngày lành tháng tốt, tôi tính đưa ngay nàng tới làm bạn với điện hạ.

Dị Nhân mừng đến nỗi rưng rưng nước mắt, vòng tay vái tạ Bất Vi:

- Nghĩa cả của titên sinh, dẫu có tan xương nát thịt cũng chẳng dám quên.

Công Tôn Càn cũng nói:

- Đã có mối duyên lành này, tôi xin đứng ra làm ông mối.

Nói rồi lệnh cho tả hữu bày tiệc rượu. Bất Vi ra về, đến tối, đã đóng xe loan, đưa TRiệu Cơ đến làm vợ Dị Nhân.

Dị Nhân được nàng Triệu Cơ, như cá được nước, yêu quí hết mức. Khoảng hơn một tháng, Triệu Cơ bảo với Dị Nhân rằng mình đã có mang. Dị Nhân không biết chuyện gì, cứ tưởng rằng đấy là dòng giống của mình nên càng vui mừng.

Cái thai ấy vừa tròn mười hai tháng, mới sinh ra được một đứa con trai. Đứa con trai ấy, chính là TẦn Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ. Bởi con người này có bẩm tính khác thường, sau lấy họ mẹ, gọi là TRiệu Chính.

Khi Triệu Chính lên ba tuổi, đúng lúc quân Tần vây Hàn Đan rất cấp, Lã Bất Vi thấy tình hình nguy cấp quá, bèn đến chỗ Dị Nhân nói:

- Triệu Vương đang giận dữ điện hạ, tai họa sẽ giáng xuống đầu, chi bằng thừa cơ trốn sang nước Tần, để khỏi phải vạ cá nằm trốc thớt.

Dị Nhân đồng ý, nói:

- Mọi việc hãy nhờ tiên sinh sắp đặt.

Bởi vậy Lã BẤt Vi tích cực tiến hành công việc, bỏ ra hẳn sáu trăm cân vàng, lấy ba trăm cân hối lộ cho quan giữ cổng thành phía Nam, nói thác đi rằng:

- Cả nhà tôi từ TRác Dương đến đây buôn bán, chẳng may chiến sự xảy ra, vây thành đã lâu ngày, lòng tôi rất nhớ quê hương, nay có ít vốn liếng giành dụm được, tôi xin biếu hết các ngài, chỉ mong được điều thuận tiện, thả cho cả nhà tôi được ra khỏi thành để về quê quán, tôi xin hết sức cảm ơn.

Tướng giữ cửa thành đồng ý, Bất Vi mang hàng trăm cân vàng cho Công Tôn Càn, nói đến việc mình muốn về Trác Dương, nói với Công Tôn Càn và tướng giữ cửa nam thành hãy nể tình. Vì các tướng giữ thành đều đã được hối lộ, nên để cho thuận nước đẩy thuyền.

Bất Vi trước hết cho người đưa mẹ con TRiệu Thị trốn tới nhà mẹ đẻ, chờ lệnh ra đi. Đến ngày ấy, mở tiệc rượu chia tay với Công Tôn CÀn, trong tiệc ép cho Công Tôn Càn say gục, quân sĩ tả hữu cũng say bí tỉ. Đến nửa đêm, Dị Nhân được hóa trang trà trộn trong đám người hầu, đi đón vợ con rồi nhập bọn với cha con Lã BẤt Vi, đi đến cửa nam thành, tướng giữ thành không biết thật giả thế nào, bèn trộm mở cửa thành, để cho đoàn người này ra thoát. Đến khi Công Tôn Càn tỉnh rượu biết tin Dị Nhân đã trốn mất, Lã BẤt Vi đã đến được doanh trại quân Tần và quay về Hàm Dương, Công Tôn Càn sợ vì tội thất chức, đành rút gươm tự tử.

Dị Nhân làm TẦn Vương, được hết sức quý trọng, chẳng bao lâu, Tần Chiêu Nhượng qua đời, thái tử An QUốc Quân nối ngôi, chẳng bao lâu rồi cũng băng hà, Dị Nhân kế thừa đại thống tức là giọt máu của nhà họ Lã là TRiệu Chính lên nối ngôi, kiêm luôn sáu nước, đó chính là TẦn Thủy Hoàng.

Lúc đó, đúng như Lã BẤt Vi từng ước đoán, thiên hạ nhà Tần đã bị họ Lã thống trị.

LSB-KỳCôngKỳThủ
07-07-2003, 19:41
[center:4cb68183d6]Kế 11[/center:4cb68183d6][center:4cb68183d6]Mở Cửa Đón Trộm[/center:4cb68183d6]
[center:4cb68183d6]Đông Ít Khó Địch, Vào Chỗ Bí Thạch Đạt Khai Ở Bước Đường Cùng;
Mở Cửa Đón Trộm, Dẫn Hạng Vũ Vào Tròng Tự Vẫn Ở Ô Giang[/center:4cb68183d6]
Câu "mở cửa đón trộm" có từ chuyện TAm Quốc. Khi Tôn Sách ở Đông Ngô chết, em là Tôn Quyền khóc lăn khóc lộn bên giuờng. Trương Chiêu nói bây giờ không phải là lúc để tướng quân khóc lóc, khuyên rằng hãy nên một mặt lo tang chế một mặt lo việc quân việc nước. TRương Chiêu nói:

- Ngày nay kẻ xấu đâu cũng có, sài lang đầy đường, nay muốn thương người thân, chỉ chú tâm vào lễ nghi, là mở cửa đón trộm, không thể cho là nhân đức được.

Ý muốn nói là mở cửa để đón kẻ xấu, kẻ ác vào nhà, rước hoạ từ bên ngoài, cũng như nói "cõng rắn cắn gà nhà", "rước sói đến cửa".

Nhưng khi "mở cửa đón trộm" được dùng vào mưu kế, ý nghĩa hoàn toàn trái lại, giải thích một cách đơn giải là dẫn cho kẻ địch vào cạm bẫy của mình, trong tục ngữ cũng thường nói là "đào sẵn hầm sâu nhằm bẫy hổ, móc miếng mồi thơm cá cắn câu".

Kế "mở cửa đónt rộm" phối hợp với "đóng cửa bắt cướp" phải sử dụng lẫn nhau mới thấy tác dụng. Nếu chỉ mở cửa đón địch không thôi mà không đóng cửa lại để bắt nó, thì cũng bằng phí công và nguy hiểm vô cùng. Bởi vậy đón trộm vào là một thứ thủ đoạn, đóng cửa lại là mục đích.

Trong lịch sử có hai chuyện khá nổi bật, nói lên rằng "mở cửa đón trộm" trước, mà không "đóng cửa bắt cướp", hoặc là cửa đóng không chặt, để cho địch chạy mất, cuối cùng thì tự mình gánh chịu hậu quả.

Chuyện thứ nhất là "Hồng Môn YẾn". Khi LƯu Bang đánh vào Hàm Dương, nhận với Hoàng Tử Anh hàng Tần rằng: "Ai vào quan ải trước thì được là Vương". Quân của Hạng Vũ ngay sau đó đã đến Tân Thành, đây là giờ phút quyết định ai là vương ai là đế, quân sư của Hạng Vũ là Phạm Tăng nói:

- Lưu Bang là mối họa tâm phúc, nếu nay không sớm giết đi, sớm muộn sẽ hậu hoạ vô cùng.

Thế là bày ra kế "mở cửa rước trộm", mời LƯu Bang đến Hồng Môn (nay là phía đông huyện Lâm Động, tỉnh Thiểm TÂy Trung Quốc) để dự tiệc.

Lưu Bang thừa biết chuyến đi này lành ít dữ nhiều, nhưng mình thì tướng ít quân mỏng, không phải là đối thủ của Hạng Vũ, bèn liều mạng cùng Trương LƯơng đến dự tiệc. Lúc ấy Hạng Vũ cũng đã muốn ngay trong bữa tiệc giải quyết Lưu Bang bằng một nhát kiếm, nhưng "lòng nhân của đàn bà", vừa nhìn thấy vẻ mặt đáng thương của LƯu Bang, lại vừa nghe mấy lời hoa mỹ của Trương Lương, nên không nỡ nhẫn tâm ra tay. Bởi vậy, Lưu Bang mới thừa cơ thoát nạn trở về với quân mình ở Bá Thượng. Sau này chính Hạng Vũ lại tự rước lấy hậu quả, bị LƯu Bang ép phải tự vẫn ở Ô Giang.

Từ câu chuyện trên, thấy rằng tác dụng liên hoàn giữa việc đóng và mở cửa quan trọng đến mức nào. Kế này khá phổ biến, bất kể là sự việc lớn hay nhỏ, bất kể ai và bất cứ ở đâu đều có thể dùng, mà thường thường khiến người ta lọt vào vòng mà không biết. Những câu tục ngữ như: "TỰ dấn thân vào lưới", "lừa người vào bẫy", "dụ người mắc tội" chính là chỉ điều đó. Lại nói đến chuyện Tôn Trung Sơn "lánh nạn ở London", bị một người Trung Quốc quen biết ở đó đưa đi thăm bạn bè và đã lọt vào đại sứ quán của Mãn Thanh. Khi chuẩn bị bí mật áp giải về nước, rất may có một người Anh đi đưa than giúp ông mang mảnh giấy của ông gửi giáo sư Khang Đức Lê, Khang Đức Lê mới nêu hết mọi chuyện ra trên báo chí Chính phủ Anh yêu cầu sứ quán lập tức thả người. Mới hay, cái cửa đó mở cũng đã đúng lúc, đóng cũng đóng chặt và kịp thời, mà lại phải hết sức chu đáo, sơ hở là hỏng việc.

Tục ngữ Trung Quốc có câu: "Chồn tuyết thương hại người, người không thể thương hại chồn tuyết". Câu này muốn nói: Chồn tuyết là những con thú nhỏ từ bi và không có khả năng tự vệ, chúng sống trên núi tuyết. Da của nó làm áo lông rất ấm và quý. Nguời đi săn muốn bắt được nó, khi thấy dấu chân của nó thì đến đêm giả làm mệt lả, nằm rên rỉ trên tuyết, chuột chồn nghe tiếng, nó sẽ đến gần, lấy thân mình áp gần tim ngwưòi cho ấm, người đi săn sẽ thừa cơ mà bắt lấy.

Nếu lấy chuyện "Hồng Môn Yến" mà nói, "lòng nhân của đàn bà" không giết Lưu BAng là chuột chồn thương hại người: Lưu Bang sau này ép Hạng Vũ phải chết, tức là người không thương hại chồn chuột.

Trên chiến trường, kế "mở cửa đón trộm" rất phổ biến, binh pháp cũng có nói "giặc cùng chớ đuổi", đã chỉ ra "giặc cùng" có tác dụng "mở cửa", "chớ đuổi" là sợ bước nhầm vào bẫy. Sở bá vương Hạng Vũ ngang dọc một thời, bình thường không ai địch nổi, không có đâu không đánh được, ấy thế mà chỉ gặp Hàn Tín "không đánh bằng sức, phải lấy bằng mưu" nên đã lôi thôi, mỗi lần bị thất thố, đều bởi tại cái mưu "mở cửa đón trộm" kia. Việc tự vẫn ở Ô Giang cũng chính là thua như vậy, đến chết vẫn còn chưa tỉnh ngộ, còn nói những gì là "trời đã quên ta, tội là ta không đánh" cho nên Thái sư công Tư Mã Thiên đã bình phẩm một lời: "làm sao mà không lầm!".

Trong lịch sử, người dùng kế này cao tay nhất là Hàn Tín, đánh đẹp nhất là trận Cai Hạ ép Hạng Vũ phải tự vẫn.