PDA

View Full Version : spam


Lăng Độ Vũ
11-01-2011, 22:11
Quê nội
Phần 1 - Chương 1

Nguồn: vnthuquan

Thằng Cù Lao theo anh Sáu ra ở ngoài Đà Nẵng để học tập. Nhưng Đà Nẵng lại không yên. Hết bọn lính của Tưởng Giới Thạch đến đóng, lại đến lính Pháp đến kiểm soát việc rút lui của quân đội Nhật. Chúng có nhiều âm mưu đen tối. Anh Sáu phải cho thằng Cù Lao về lại Hòa Phước ở với anh Bốn Linh để tiếp tục việc học tập. Chú Năm Mùi gặp nó cười hì hì:
- Về đó hả? Hay lắm! Đang cần có chú!
Chú Năm Mùi nhìn sang phía tôi:
- Cả thằng Cục nữa, cũng đang cần mày. Cách mạng đổi đời, chúng mày thăng chức mau đã dữ! Trước đây là chăn trâu, sau được thăng chức làm học trò. Sẽ được thăng làm thầy! Sướng chưa!
Trước đây bốn tháng, tôi chăn con trâu Bĩnh. Mọi người gọi tôi bằng thằng, thằng Cục. Sau đó, tôi được đi học , mọi người gọi tôi bằng trò, trò Nguyễn Văn Cục. Nay lại được làm thầy, thầy Nguyễn Văn Cục! Tôi ngờ ngợ, không tin ở lỗ tai mình. Tôi hỏi chú Năm Mùi:
- Thầy chi chú ?
Chú Năm Mùi nói lơ lửng :
- Thầy, chớ còn thầy chi nữa ! Thôi biết vậy cái đã . Tao đang búi xồm xồm ! Còn phải đi họp, còn phải xuống lò rèn, còn phải lên xã... đi cái đã...
Nói xong, chú Năm Mùi vội vàng rút cái xắc quàng lên vai, quày quả bước ra ngõ.
Thằng Cù Lao cũng không tin mình có thể tiến bộ một cách vượt bậc như vậy. Ở ngoài hải đảo nó đi bắt cá. Mọi người gọi nó bằng thằng. Về làng nó được đi học. Mọi người gọi nó bằng trò, trò Cù Lao. Nay được làm thầy ! Tôi và thằng Cù Lao không dám nghĩ được làm thầy dạy học, một vinh dự quá lớn ! Muốn được làm thầy dạy học, phải hiểu nhiều biết rộng, đi đứng phải nghiêm trang. Thằng Cù Lao hỏi tôi :
- Không biết bọn mình làm thầy chi ? Ở ngoài cù lao Chàm cũng có người làm thầy. Ông lang làm cao đơn hoàn tán được gọi bằng thầy...
Tôi cố nhớ những người làm thầy :
- Ở đây cũng có nhiều thầy. Thầy bói xem quẻ biết được tiền của, vợ con, công danh, tôi tớ thế nào. Thầy tướng xem mặt mũi biết được người nói láo hay không nói láo. Thầy cúng đuổi được ma quỷ. Thầy đồng làm vong hồn người chết được nhập cốt. Nhưng tất cả đều láo toét ! Ủy ban sẽ cấm hết, cả mấy ông thầy kiện hay đâm thọc cũng phải bỏ nghề. Chúng ta không làm những thầy đó !
Tôi chợt nhớ đến mấy ông thầy chùa vẫn còn tụng kinh gõ mõ. Các ông thầy chùa phải bị cạo trọc. Nhớ đến cái đầu trọc là tôi hoảng kinh. Chính con dao cạo của ông Bảy Hóa đã gây cho tôi biết bao đau khổ ! Ông Bảy Hóa có cái thú được cạo trọc đầu người khác, hoặc ông không thích người ta có tóc. Thỉnh thoảng, ông đi ngang qua nhà tôi, nói thật to, cốt để mẹ và chị Ba tôi nghe rõ :
- Ơ kìa ! Cái tóc của thằng Cục tốt như rừng rậm kìa !
Mẹ và chị Ba cũng kêu lên :
- Tóc mày tốt rồi đó , để ông Bảy cạo đi !
Tôi vùng vằng :
- Không cạo đâu !
Ông Bảy Hóa cười khẹc khẹc :
- Có cạo thì tốt cho mày chớ có tốt cho tao đâu. Để vậy cũng được ! Nhưng cái gương đây, soi thử coi.
Ông Bảy Hóa móc trong hầu bao ra một cái gương tí xíu chìa cho tôi. Tôi soi gương. Tóc của tôi có dài, nhưng chưa dài lắm. Tôi tản đi nơi khác, giả vờ bận đưa trâu Bĩnh ra sông uống nước.
Lần sau gặp tôi, ông kêu to hơn :
- Tóc mày búi được rồi đó ! Búi lên một cục như đứa con gái ! Cạo hay không cạo kệ mày . Nhưng cái gương đây cho mày soi thử, coi !
Cái gương chỉ thẳng tôi thấy tóc đã phủ xuống cổ. Tóc dài nom kỳ quá ! Tôi đành ngồi xuống. Ông Bảy Hóa cười hì hì, lấy nước vỗ vào đầu tôi. Ông rút con dao cạo trong bao, liếc liếc vài cái vào ống quần rồi bắt đầu cạo. Mỗi nhát dao cạo làm tôi cứ tưởng mỗi miếng da đầu của tôi bị lóc. Xót quá, tôi co rúm người lại.
Ông Bảy ngừng tay :
- Thằng nhát như cáy !
Tôi nghiến răng, ngồi yên. Nhưng xót quá, tôi đẩy tay ông Bảy ra, đứng dậy. Ông Bảy cười to nắm chắc phần thắng :
- Mặc kệ mày ! Để vậy cũng được ! Tao cũng chẳng muốn cạo nữa đâu. – Ông vừa nói vừa xếp con dao cạo.
Tôi lấy gương dòm vào. Còn lại một mảng tóc ở ngay bên tai, nom kỳ quặc quá ! Tôi đành ngồi lại để ông Bảy cạo nốt. Cái đầu tôi trắng hếu.
Sau ngày cướp chính quyền, một hôm, chị Ba tôi nói với mẹ :
- Thằng Cục cạo trọc, thấy nó hóa dữ . Cách mạng lên rồi. Phải đi cúp tóc để ngó cho văn minh mới được !
Tôi được đến hiệu để cắt tóc. Thằng Cù Lao bảo nó cũng được cách mạng giải phóng, khỏi bị cạo trọc đầu. Khi cạo trọc xong, nó xuống biển tắm. Nước mặn dưới biển ngấm vào nghe xót như cắt.
Tôi và thằng Cù Lao đến nhà chú Năm Mùi để hỏi thăm về việc làm thầy. Nhưng anh Bốn Linh và thầy Lê Hảo đã ngồi ở đó. Chú Năm Mùi tiếp tục câu chuyện đang trao đổi:
- Anh Bốn là chỉ huy tự vệ. Đã là quân sự thì phải lo dẹp cho hết các thứ giặc. Nay Cụ Hồ chỉ cho dân thấy có ba thứ giặc: giặc dốt, giặc đói, giặc xâm lăng. Giặc xâm lăng chiếm nước ta tám mươi năm, giặc đói cũng vậy. Riêng giặc dốt chiếm nước ta đã nghìn năm. Vua chúa ngày trước đều bó tay, nay cách mạng về mới dám cử đại binh để tiêu diệt.
Thầy Lê Hảo gật gù:
- Chí lý! Chí lý!
Anh Bốn Linh hỏi:
- Vậy đánh đâu trước? Đánh thế nào đây?
Chú Năm Mùi quả quyết:
- Đánh hết và đánh mạnh! Ở đất này mọi người đều dốt đặc, nhưng lại làm biếng nổ trời.
Làm biếng kiếm chuyện nói quanh. Bà Bảy Đá hỏi tôi: Học để làm chi? Chữ nghĩa không làm no bụng. Lắm người, dạ đầy chữ, bụng lại đói meo. Chỉ có tiền! Tiền mới làm no bụng. Tiền là ông chủ, có tiền mới sai khiến được thiên hạ. Bà nói tiền là cái địa bàn, hết tiền là mất phương hướng. Ông Kiểm Lài lại nói khác. Cái gì cũng không qua cái số. Được cái số thì không học cũng giỏi. Không được cái số thì học mấy cũng u mê. Thánh nhân giỏi từ trong bụng mẹ. Cái số ông dốt, ông đành chịu dốt.
Anh Bốn Linh tiếp theo:
- Chín người mười cuống họng!
Ông Nguyên dạy thế võ cho đội tự vệ lại nói:Đã là thầy thì cái chi cũng phải hơn trò. Thầy dạy cho ông học phải giỏi võ, vì ông Nguyên giỏi võ. Văn võ kiêm toàn mới làm thầy ông được. Thầy dạy lớp bình dân ở thôn ông chỉ là thằng con nít. Như vậy chướng quá, ông không thèm học!
Mọi người cười hà hà. Thầy Lê Hảo cắt nghĩa:
- Cũng vì ta chưa nói cho bà con nghe rõ sự lý. Phải khai thông cái "trí" thì tai nghe mới thuận. Nghĩ vậy, tôi có làm bài thơ, nói sự lý đó.
Thầy Lê Hảo đã xuất khẩu là thành thơ. Thầy nói đọc ê a : " Nay Cách mạng thành công, sông núi xuất anh hùng, giang sơn liền một mối. Ống thiên lý xa soi nghìn dặm, muôn trí khôn dồn lại một bầu. Vậy nên già trẻ nghèo giàu, ai cũng phải diệt loài giặc dốt"!
Chú Năm Mùi và anh Bốn Linh đề chép miệng khen hay. Chỉ có câu " Muôn trí khôn dồn lại một bầu", nghe chưa sướng. Vì khi cách mạng đã thành công, phải để trí khôn tỏa ra, không nên bắt trí khôn dồn lại.
Anh Sáu đã giảng giải: nước ta trước đây là một nhà tù lớn. Mọi người đều bị giam hãm trong dốt nát, trong áp bức, trong nghèo nàn, trong mê tín dị đoan. Nay cách mạng đã về, cách mạng phải mở rộng ra, phải giải phóng, không nên dồn lại. Anh Bốn xin bỏ câu" Muôn trí khôn dồn lại một bâù" và thế vào bằng câu" Mang trí khôn mở rộng cuộc đời", thay chữ " dồn" bằng chữ " mở".
Chú Năm Mùi, cả thầy Lê Hảo đều gật gù khen chữ " mở" đã làm cho bài thơ càng tuyệt diệu.
Anh Bốn Linh ra dáng suy nghĩ:
- Nhưng còn thầy dạy, lấy đâu cho đủ?
Chú Năm Mùi như đã sắp xếp từ trước:
- Thầy giỏi đã có anh Bảy Hoành. Anh có cả một thùng sách. Thầy xóm dưới đã có thằng Tân, nó là đội viên, vừa siêng năng vừa thông thái...
Chú Năm Mùi nhìn về phía tôi và thằng Cù Lao:
- Ta đã sẵn hai chiến sỹ diệt dốt kia. Chú Cù Lao học đã thành tài, nay sung vào đội quân diệt dốt là đúng! Chú Cục kia nữa, đã tốt nghiệp lớp ba tháng. Hai chú đều văn hay chữ tốt. Địa lý, lịch sử, cái chi cũng đều giỏi cả. Nay được thăng làm thầy là phải.
Anh Bốn Linh nhìn thẳng vào tôi và thằng Cù Lao:
- Đánh giặc ngoại xâm thì chưa đến tuổi tòng quân. Đánh giặc đói thì cầm cày chưa vững. Đưa đi đánh giặc dốt là đúng lập trường!
Chú Năm Mùi như sực nhớ một việc quan trọng:
- Còn như bà Hiến, ban đêm cứ thấy một bóng đèn thành hai bóng đèn, đến lớp không được. Hoặc ông Bốn Rị ban đêm phải làm thịt chó. Phải có thầy đến dạy tại nhà, làm vậy mới diệt được hết ổ giặc.
Anh Bốn Linh kêu lên:
- Phải! Rất phải! Tôi cứ quến Bà Hiến suốt đời đói khổ, ông Bốn Rị cực chẳng đã mới bán thịt chó. Chú Năm nói phải! Cách mạng phải nhớ đến họ... Ta phải cử thày đến dạy...
Anh Bốn Linh nói xong vội vã cùng thầy Lê Hảo ra về. Chú Năm Mùi ngồi lại phân công ngay cho thằng Cù Lao ban ngày phải đến dạy bà Hiến học, còn tôi ban ngày phải đến dạy ông Bốn Rị học. Vừa nghe chú Năm phân công tôi phải dạy ông Bốn Rị, tôi giật nảy:
- Ối! Cái ông Bốn Rị...
- Ông Bốn Rị, thì sao?
- Người ta cười tôi đó! Tôi đi dạy một lão bán thịt chó!
Tôi khịt mạnh:
- Lão nghe hôi lắm!
Chú Năm Mùi nhìn thẳng vào mắt tôi:
- Lạ hè! Tao ngồi gần ông, tao chẳng nghe có hôi hám chi cả, nghe thơm là khác. Mày đến bên ông hít hút vài cái thử coi. Người ta tưởng bậy đó thôi. Mày đã là chiến sỹ diệt dốt. Đã là chiến sỹ thì dù giặc dữ cũng phải xông vào, sợ chi cái hôi hám!
Tôi đang phân vân, chợt thằng Cù Lao cười nói:
- Cục không quen mùi thịt chó, cứ để ông Bốn Rị tôi lo. Còn Cục lo cho bà Hiến.
Tôi thở phào.

Lăng Độ Vũ
11-01-2011, 22:12
Quê nội
Chương 2

Nguồn: vnthuquan

Vùng tôi trước đây không ai thèm ăn thịt chó, không phải vì có nhiều thịt. Không ăn thịt chó vì một thành kiến, thành kiến đó sau ngày Tổng khởi nghĩa còn khá nặng nề. Người ta có thể ăn thịt rắn, thịt chuột, thịt cóc, ăn cả những gì dạ dày không cho phép, cũng chẳng ai dị nghị gì cả. Nhưng nếu ăn thịt chó thì, ôi thôi, tất cả uy tín đều tiêu tan! Người đó bị xem là đứa phàm ăn. Mọi người đều tin thịt chó là loại thịt ô uế. Thịt chó vào bụng sẽ làm mất hết cái tinh khiết của con người. Nguy hại nhất là lúc chết! Người ăn thịt cho khi chết phải xuống địa ngục, phải qua mười cửa điện Diêm Vương, phải chịu những nhục hình ghê rợn. Chỉ một lát thịt cho trôi vào bụng thì cửa ngõ chốn âm ty đã sẵn sàng chờ đón, dù lòng từ bi của Phật tổ có rộng như biển cũng không phương cứu xét. Có người thoáng nghe mùi thịt chó đã nổi nôn ọe, cơm canh đã nuốt vào bụng đều tuôn ra hết. Những người như vậy được xem như có cốt tiên cốt Phật, sau này chết đi sẽ được lên ở cõi thần tiên vô cùng sung sướng.
Làng tôi trước kia có ông Bốn Rị làm nghề bán thịt chó, ông ăn thịt chó, lại còn giết chó lấy thịt đem đi bán. Lũ chó bị ông giết biến thành ma chó quay lại báo thù.
Ông Bốn sống thui thủi một mình. Mọi người tin ở ông toát ra một mùi thịt chó rất lợm. Tôi và lũ chăn trâu trong làng khi gặp ông Bốn Rị liền tránh xa ra một bên. Khi ông vừa đi qua, chúng tôi ù té bỏ chạy, vừa chạy vừa khạc nhổ: Ôi! Hôi lắm! Hôi lắm!
Bọn chó đánh mùi ông Bốn Rị rất giỏi, ông vừa đến đầu làng, chó giữa làng đã nổi sủa. Ông đến giữa làng, cho cuối làng nổi sủa. Tiếng chó sủa dấy lên từ xóm này sang xóm khác. Chúng tru tréo, gào thét, cố khạc cho hết mật đắng vào người ông. Từ những con chó chỉ biết yêu thương, chỉ biết trả lại những gậy suýt chết bằng những cái ngoắc đuôi đầy tình nghĩa, cho đến những con chó siêng năng suốt ngày đêm để lo giữ trộm, hễ nghe tăm ông Bốn đều nhảy xổ ra sủa. Từ những chó già gầy guộc, rụng lông, giơ xương, cả rận và bọ chét cũng không thèm ở chung với chúng, cho đến những con chó tròn trĩnh, béo tốt, khi đánh hơi có ông Bốn đều nổi giận, nhảy xổ qua rào, vừa phóng vừa sủa. Những con chó sủa không đâu, những con chó biết giấu kín sự căm giận, biết nép mình trong xó bụi để cắn trộm tất cả, khi đánh hơi biết có ông Bốn Rị đều vụt chạy, sủa toáng lên như bị gậy nện vào đít. Con Mốc nhà bác Úc biết ngủ có chỗ, biết sủa có lúc, bác Úc thường nói: "Con Mốc nhà tao đã sủa thì nhất định có trộm", khôn ngoan đến vậy, khi nghe có ông Bốn Rị cũng hóa điên, phóng cả vào cọc, ngã lăn kềnh, ra sức chạy để sủa. Con Mun nhà ông Kiểm Lài, suốt ngày sục sạo tìm kiếm, khi nghe tăm hơi ông Bốn đều vứt hết, phóng qua bờ tre gai, đuổi cho kỳ được ông Bốn. Con Vá nhà bà Hiến, chăm đuổi gà, không gây sự, khi có chó lớn chạy đến, nó ngoắc đuôi nằm rạp len lén bỏ đi, khi có ông Bốn bỗng hóa mãnh liệt, chân choãi về trước, đuôi kẹp vào chân sau, gào rống. Tất cả rượt đến, vây quanh ông Bốn, như muốn ngoặm cổ, xé xác ông ra mới hả dạ. Chúng nhảy tới, thụt lui, lồng lộn tru tréo làm náo động cả làng. Ai cũng lầu bầu:
- Lại ông Bốn Rị bán thịt chó!
Bọn trẻ con đang chăn trâu ngoài bãi cũng vụt chạy:
- Lão Bốn Rị bay ơi! Mau đến coi!
Tôi gọi thằng Cù Lao cùng thả trâu vụt chạy. Tất cả vừa chạy vừa nhặt đất. Chúng tôi nép vào một bụi kín. Ông Bốn từ xa tiến đến, tay cầm một roi tre, tay xách một rổ thịt chó. Ông bước thủng thỉnh, vẻ im lìm như một bóng ma. Tôi với mấy thằng mất dạy tung đất. Đất rơi ào ào. Ông thét to:
- Ôí, ối! Bể đầu tao rồi, chúng bay ơi!
Tôi và lũ trẻ bỏ chạy. Tôi chạy đến nép sau cây duối đứng nhìn lại. Ông Bốn vứt rổ, ngồi bệt xuống đất, hai tay ôm lấy trán. Thằng Cù Lao chạy lại bên ông. Nó đang nói gì với ông. Nó cúi nhìn vào trán, vào mặt của ông, lấy tay phủi phủi. Tôi gọi to:
- Cù Lao ơi!
Nhưng thằng Cù Lao đã cúi xuống xách rổ thịt. Nó cùng ông Bốn đi về một phía.
Theo sự phân công của chú Năm Mùi, tôi dạy cho bà Hiến là chính, thằng Cù Lao dạy cho ông Bốn Rị là chính, nhưng hai đứa phải giúp nhau.
Ai cũng biết tôi và thằng Cù Lao sẽ đi dạy học, sẽ làm chiến sỹ diệt dốt. Chị Ba, anh Bốn gặp chúng tôi đều có lời khuyên bảo, nhất là chị Ba. Chị dạy:
- Em của chị đã làm cán bộ rồi đó! Không còn là con nít nữa đâu. Từ nay đi đứng phải nghiêm trang, nói năng phải từ tốn. Chưa nói đã cười, chưa đi đã chạy là không làm thầy được đâu. Phải nói cho bà Hiến hiểu về chủ trương diệt dốt. Phải biết tuyên truyền giải thích, tập làm cán bộ cho quen. Nói như thế này: Kẻ không học cũng như người mù. Kẻ mù khi đi phải bị vấp ngã, có lúc rơi tõm xuống sông chết nhăn nanh!
Nói đến đây, chị Ba thấy cách giải thích như vậy nghe hơi quá, chị chữa lại:
- Hay nói thế này: Học một chữ đáng nghìn vàng, dù không chức phận cũng nhàn tấm thân!
Chị Ba chỉ vào tôi, vẻ quan trọng:
- Nhớ phải dọn dẹp nhà cửa, gánh nước nấu cơm cho bà Hiến và ông Bốn Rị nghe chưa? Đó gọi là "làm công tác quần chúng". Còn phải biết kể chuyện thời sự để làm cho họ nhìn xa thấy rộng, nghe chưa? Phải làm cho họ không còn bị "giam hãm" như trước đây, nghe chưa?
Về chuyện thời sự, chuyện ở năm châu bốn bể, anh Bốn Linh và chú Năm Mùi rất quan tâm, vì chính những chuyện đó là những "ống thiên lý xa soi nghìn dặm, mang trí khôn mở rộng cuộc đời" như lời thơ của thầy Lê Hảo đã nói. Chị Ba nhìn tôi một loạt từ đầu đến chân:
- Mặt mày phải nhớ rửa cho sạch. Này cái gương đây, chị cho mượn. Mặt bị vết nhọ phải soi gương mới biết.
Chị Ba hồ hởi:
- Phải công tác cho giỏi để trở thành cán bộ, đứng giữa hội nghị diễn thuyết làu làu mới thiệt là thích!
Tôi và thằng Cù Lao đã sẵn sàng mọi việc.
Chiều bắt đầu xuống. Ráng chiều làm đỏ ối cả dòng sông Thu Bồn. Về phía tây, cây sung đầu làng như ngập trong lửa. Bãi dâu sẫm lại, ngòa dần vào bóng tối. Tôi vội đánh trâu Bĩnh về chuồng. Còn phải đến nhà bà Hiến để...giải thích và khai giảng. Chú Năm Mùi đã bảo: Phải tập giải thích cho quen.
Thằng Cù Lao tối nay cũng đến gặp ông Bốn Rị. Tôi sang nhà anh Bốn Linh rủ nó cùng đi. Ra đến ngõ gặp chú Năm Mùi. Chú chắp tay chào:
- Chào thầy Cục! Chào thầy Cù Lao! Hai thầy đi khai giảng phải không?
Tất cả cùng cười. Tôi rẽ sang nhà bà Hiến. Bà Hiến đang ngồi kéo vải. Nghe tiếng động, bà ngước lên:
- Ai đó?
- Tôi đây!
Tôi khệ nệ bước vào. Chị Ba đã dặn tôi đi đứng phải nghiêm trang. Trước tiên, phải tuyên truyền giải thích. Tôi định lặp lại lời chị Ba: Bà phải học cho biết chữ, vì " một chữ đáng nghìn vàng, dù không chức phận cũng nhàn tấm thân". Nhưng chợt tôi thấy cách nói như vậy nghe đột ngột và thấy lôi thôi! Tôi nghĩ phải tìm một câu nói hay hơn. Tôi nhớ đến câu của thầy Lê Hảo :" Học hành cũng như cái ống thiên lý xa soi nghìn lối". Nhưng câu đó chợt thấy khó hiểu. Tôi cố tìm một câu khác, nhưng loay hoay mãi không tìm ra. Một phút, rồi năm ba phút trôi qua. Tôi nhìn bà Hiến. Trước mặt tôi là một người học trò già, da bà đã bắt đầu nhăn nheo. Tôi hơi ngượng. Lạ thật! Khi đến chơi nhà bà Hiến để tán phét thì tôi ba hoa đến mấy cũng được. Đến khi có ý đồ, tôi lại ngượng ngập, nói không ra hơi. Mới hay đi làm cán bộ như anh Bốn Linh cũng không phải dễ.
Bà Hiến thấy tôi cứ im lặng mãi, ngước lên hỏi:
- Có việc chi đó?
Đang lúc bí, tôi nói vu vơ:
- Chơi thôi!
Nói xong, tôi mới biết mình nói láo. Tôi không có ý trả lời như vậy. Tôi càng ngượng, cứ ngồi im, đưa mắt nhìn lên trên giàn.
Bà Hiến nhìn theo lên giàn:
- Có mấy trái bồ quân để trên giàn, muốn ăn cứ lấy mà ăn.
Có lẽ bà Hiến tưởng tôi muốn vòi bồ quân, nhưng không dám nói nên cứ ngồi im. Tôi nghe giận, cũng không biết giận bà Hiến hay giận mình. Tôi trả lời gọn lỏn:
- Không thèm ăn đâu!
Bà Hiến ngạc nhiên lại ngước nhìn tôi. Bà nói khe khẽ như chỉ để mình bà nghe:
- Làm lành với nhau thì hơn. Cũng bạn bè với nhau cả. Rủi có bị nện, cũng nên xí xóa!
Thì ra bà Hiến tưởng tôi vừa bị bọn chăn trâu đánh đau nên vẻ mặt sa sầm. Quả thật dạo đó tôi hay vật lộn với bọn chăn trâu. Khi nổi khùng có tặng nhau những đấm đá.
Tôi và thằng Cù Lao gặp chú Năm Mùi nói tất cả những việc vừa xảy ra: Nào là bà Hiến biết đến ba ngàn chữ, đọc một lèo. Nào là bà Hiến thuộc hết sách vở thánh hiền, nghĩa lý vô cùng thâm thúy. Bà còn nói tiếng Tây như bắp rang...
Tôi và thằng Cù Lao càng trầm trồ bao nhiêu thì chú Năm Mùi càng phớt lờ bấy nhiêu.
Chú nói:
- Có chi đâu lạ! Bà Hiến ở đợ cho nhà giàu, nhà giàu rước thầy dạy chữ nho cho con cháu học. Nghe học trò ê a đọc sách, bà nhớ hết. Bà nhớ tài lắm. Trước đây bị đói bà mò ra ngoài Đà Nẵng kiếm ăn. Đi lang thang bị lính cu-lít bắt nộp thằng cò. Chúng nó nói tiếng Tây, bà cũng nhớ được. Bà nói như thế này chớ chi:" Ma-đam vớ-nê đờ Hòa Phước. Ma-cà-bông. Moa xi-nhan me-xừ lơ côm-mít-xe". Bà chưa chịu học là vì bọn bay chưa biết cách nói. Chỉ nói thế này:- Nay mai, người ta sẽ ngăn cổng vào chợ. Người nào biết đọc chữ quốc ngữ họ mới để vào. Nói vậy là bà học ngay. Việc dễ như chơi, sao rối lên vậy?
Tôi và thằng Cù Lao lại đến nhà bà Hiến. Tôi cho ra ngay câu nói của chú Năm Mùi:
- Nay mai người ta ngăn chợ. Ai biết chữ quốc ngữ mới được vào chợ!
Bà Hiến ngừng xa kéo sợi:
- Ai nói đó?
- Lệnh trên đó! Chú Năm Mùi cho biết. Ai dám nói sai. Bà cứ hỏi chú Năm coi.
- Người không đọc được chữ quốc ngữ thì răng?
- Thì đứng ngoài cổng rồi về thôi! Lệnh nghiêm lắm!
Bà Hiến ngồi thừ ra. Môn thuốc của chú Năm đã công phạt. Tôi hỏi dò:
- Bà đi chợ không?
Tiếng bà Hiến nhỏ hẳn:
- Đi chợ để mua đồng mắm, đồng muối... Thôi bà phải học! Tội chi không học. Kiếm vài chữ bỏ bụng cũng sướng!
Tôi và thằng Cù Lao bật dậy reo lên, phóng một mạch chạy gặp chú Năm Mùi. Vừa gặp chú, tôi thét to:
- Bà Hiến chịu phép rồi! Sao chú tài vậy chú?
Chú Năm Mùi vẻ thản nhiên:
- Tại bọn bay không biết bắt mạch. Tao bắt mạch biết bà Hiến mê đi chợ. Không một xu nhỏ cũng mò đến chợ. Bà đi chợ một vòng còn thích hơn xem hát bội. Cũng như mày mê vật lộn, thằng Cù Lao mê lội bơi, tao trước đây, tao mê hát bội. Ở đời ai cũng có cái mê cả!
Tôi hỏi thằng Cù Lao về ông Bốn Rị. Ông có biếng học như bà Hiến không? Ông có hôi lắm không? Nhà của ông thấy có rợn không?
Tôi với ông Bốn Rị ở cùng làng, tôi ở đầu xóm trên, ông ở xóm giữa. Thỉnh thoảng, tôi đi qua nhà, nhưng chưa bao giờ ghé lại. Nhà ông có bức rèm tre che trước cửa, đằng sau có bóng người thập thò. Có tiếng cốc, cốc như mõ khua và tiếng kêu ăng ẳng. Nhưng lái làm tôi rợn nhất là tiếng rú của chó bị cắt tiết. Tiếng rú vang dội, đâm thủng màn sương, át tiếng gọi đò và tiếng gàu khua ở các giếng nước. Mỗi khi tiếng rú vang lên, lũ chó trong làng nổi lên sủa rộ. Ông Bảy Hóa ngồi trước cửa chùa, đập đập cái quạt mo vào chân:
- Lại một con chó hóa kiếp! Mong mày đầu thai trở lại làm người. Làm người không xong thì phải hóa kiếp trở lại làm chó!
Thằng Cù Lao cho tôi biết ông Bốn chẳng có mùi hôi thối gì cả. Ông sạch sẽ như mọi người. Ở ngoài cù lao Chàm, cũng có người bán thịt chó, người đó cũng không hôi thối. Cũng chẳng nghe ai nói ăn thịt chó sẽ xuống địa ngục, sẽ bị rút lưỡi moi gan. Nhà ông Bốn không có gì rùng rợn cả, nhà rất mát mẻ, có cây bông trang, có con bướm đậu. Ông Bốn có nuôi nhiều chó, nhưng toàn là chó con. Ông xin chúng ở đâu về, nhốt sau chuồng. Chúng kêu ăng ẳng. Có con chưa biết ăn, ông phải vạch mồm tọng nước hồ vào họng. Có lúc một chó mẹ đến gào rống sau vườn đòi con. Ông xách gậy ra đuổi. Cuối cùng, chó mẹ bỏ đi nơi khác. Thằng Cù Lao còn cho biết khi ông Bốn mổ xong một con chó, ông cắt một miếng thịt ở chóp đùi đem xào. Mùi thơm bay ra ngào ngạt.
Tôi kêu lên:
- Ôi! Thịt chó thơm răng được? Thịt chó làm tao nôn ọe. Thôi kể tiếp đi, rồi ông Bốn làm chi nữa?
- Sau đó, ông nướng bánh tráng có rải mè, múc thịt đặt lên mâm, mời tôi ngồi lại.
- Mời ai?
- Mời tôi!
- Ấy! Mời mày? Thế mày nói sao?
- Tôi nói tôi không ăn.
- Ừ, được đó!
- Nhưng... ông mời mãi. Ông nói hễ tôi không ăn thì ông không học. Với lại cái mùi thịt bay thơm, tôi cầm lòng không đậu...
- Làm sao?
- Tôi ăn.
- Ối! Trời ơi! Nguy to rồi! Mày ăn đồ ô uế rồi! Có nôn ọe không?
- Vừa nói tôi vừa ọe lên mấy cái.
Thằng Cù Lao lặng thinh. Tôi lên giọng:
- Ở đây đưa phàm phu mới ăn thịt chó. Đã ăn thịt chó, khi chết phải xuống địa ngục. Bọn chó đánh hơi, xông ra cắn mày chết!
Thằng Cù Lao hạ thấp giọng:
- Hôm kia đến nhà ông Bốn, tôi thấy chú Năm Mùi ở đó.
- Chú Năm đi kiểm tra học tập. Chú có hỏi chi không?
- Không hỏi chi cả. Chú đang ăn...
- Ăn chi?
Thằng Cù Lao nói khẽ vào tai tôi:
-Ăn một đĩa nấu nhừ.
Tôi giật thót:
- Thiệt không?
- Chú khen đĩa nhừ nấu khá! Chú còn bảo giống thịt chó thế mà mát, ăn thịt chó ngủ ngon.
Tôi không ngờ chú Năm Mùi lại ăn thịt chó! Từ ngày cách mạng thành công, chú tiến bộ rất nhanh. Chú không còn mê cô đào hát bội, không hát bài chòi. Chú vừa nhận chân lãnh đạo tự vệ xã, kiêm chính trị viên tiểu đội dân quân của thôn, phụ trách đội thiếu niên. Nay lại đi ăn thịt chó!
Thằng Cù Lao lấy tay che mồm, nói chỉ vừa đủ tôi nghe:
- Cả ông Bảy Hóa nữa!...
Tôi suýt ngã ngửa, nổi cười to. Thằng Cù Lao cũng nổi cười. Chính trước kia ông Bảy Hóa cho mình có cốt tiên cốt phật. Đã là tiên phật thì hít mùi hương hoa cũng đủ sống, không cần ăn. Nếu có ăn cũng chỉ ăn tương cà dưa muối. Ai nói đến thịt chó thì ông nôn ọe.
Tôi hỏi:
- Thế ông có mắc cỡ không?
- Chẳng mắc cỡ chi hết. Ông tréo chân ngồi giữa nhà, húp rất to. Ông khen ông Bốn Rị bán rẻ thịt chó. Có vậy mới đông khách, nhiều người sẽ khỏe ra. Nay ông đã nhập bạch đầu quân, ông cũng muốn khỏe thêm; luyện tập quân sự càng dai sức, đánh thằng giặc. Như vậy mới gọi là tu. Ông thét to: Phật là cái tâm của ta. Cái tâm ta ngay thẳng, trung thực, đó là Phật. Cái tâm ta gian nịnh xảo trá, đó là ma quỷ. Tôi coi làng mình mọi người trở nên tốt. Trộm cắp bỏ nghề, thuế chợ, thuế đò đều bãi bỏ, đâu có phải vì không ăn thịt chó, mà vì có người làm cách mạng.
Tôi hỏi thêm:
- Thế ông có bị nôn ọe không? Chị Ba nghe mùi thịt chó cứ bị buồn nôn, không phải chị giả đò đâu!
Thằng Cù Lao cho biết cả đội tự vệ cũng có ăn thịt chó. Thỉnh thoảng, ông Bốn Rị mang một nồi bún với thịt đem thết toàn đội ở chòm đa Lý.
Bà Hiến có một trí nhớ rất tốt. Tôi nói gì bà nhớ nấy, nhớ rành mạch, chính xác. Không ngờ dưới lớp da nhăn nhúm lại giấu một đầu óc minh mẫn. Đầu óc của bà không phải như cái rổ lủng như bà nói. Bà nhớ giỏi bằng mười tôi, nhưng tôi cứ chê. Tôi chê bà viết tồi, đọc chậm. Khi tôi còn làm học trò, tôi thích được khen. Nhưng khi làm thầy tôi cứ thích chê. Tôi viết lia lịa một loạt chữ O bảo bà Hiến bắt chước kẻ theo. Bà méo mồm cố kẻ theo thật đúng. Tôi bắt bẻ:
- Viết bằng tay, sao mồm lại méo xệch?
Bà Hiến vừa viết vừa thở hổn hển. Tôi uốn nắn:
- Chớ thở ào ào! Bay mất sách vở! Thở vậy nên chữ viết như gà bới.
Tôi bảo gì bà cũng vâng theo. Tôi nhận rõ bà Hiến nể tôi. Bà không còn gọi tôi là thằng Cục, mà gọi là chú Cục. Trước mắt bà, rôi không còn là thằng chăn trâu bị bọn trẻ đánh u trán. Theo thầy Lê Hảo, khi làm thầy sẽ được học trò kính nể. Tôi bắt chước thầy Lê Hảo ăn nói nghiêm trang, khuyên cái này răn cái nọ. Có lúc tôi quát chơi một cái cho sướng miệng. Bà Hiến không lấy thế làm mất lòng. Bà nói trước kia các thầy phải đánh học trò bằng roi mây, có thế mới nên. Nay cách mạng lên rồi, thầy không đánh học trò, sướng quá!
Tôi sực nhớ chị Ba và chú Năm Mùi dặn phải làm công tác quần chúng. Lập tức, chúng tôi vứt sách, xông vào buồng bà Hiến. Chúng tôi khênh hết những thúng đựng khoai ra ngoài, quơ hết giẻ rách vứt ra sân rồi lấy chổi quét. Tĩn còn đầy nước uống, thằng Cù Lao cũng đổ đi, quảy tĩn ra sông múc nước. Sau đó, tôi vo gạo, quơ củi, nhóm bếp. Bà Hiến van nài, tôi cũng giật lấy, giúp bà cho kỳ được. Trước nhà bà, có những tĩn sứt, chum vỡ, tôi và thằng Cù Lao khuân hết đi nơi khác lấy chỗ để trồng cây bông trang. Bà Hiến chạy ra ngăn lại, không hiểu trồng cây bông trang để làm gì. Tôi níu bà lại, bảo phải trồng cây bông trang cho đẹp mắt. Chúng tôi đảo lộn tất cả, sắp xếp mọi thứ theo ý muốn chúng tôi.
Tôi giảng giải:
- Cách mạng lên rồi. Nhà nào cũng phải có hòn non bộ, có dăm cây cảnh. Có cây bông trang chưa đủ, phải trồng thêm bông lài, bông lý nữa.
Thằng Cù Lao quả quyết:
- Không lèm nhèm nữa đâu. Bà già cũng phải đánh phấn tô môi, phải mặc áo màu, phải đi giày cao gót. Rồi đây, bà phải đi uốn tóc, phải sắm một cái ví và một chiếc dù đầm. Đi đâu phải cầm trên tay cho sang trọng.

Lăng Độ Vũ
11-01-2011, 22:12
Quê nội
Chương 2 (tt)

Nguồn: vnthuquan

Tiếng đồn làng trên xã dưới ông Bốn Rị có một thằng con trai giống ông như đúc. Da nó cũng đen, người nó cũng gầy, khuôn mặt giống hệt như bố. Trước đây, gặp năm mất mùa ông Bốn phải đem đợ thằng con trai đó cho một nhà giàu ngoài Đà Nẵng. Nay làm ăn khá, ông Bốn đã chuộc nó về. Thằng nhỏ siêng năng lắm. Nó băm thịt giòn tan, nấu xào rất giỏi. Tôi biết đó là tin đồn về thằng Cù Lao. Nó giúp ông Bốn làm nhiều việc để dạy ông học., Nó còn đi bắt chó với ông. Ông Bốn kéo lê một con chó bị tròng. Thằng Cù Lao thủ một chiếc roi theo sau. Tất cả bọn chó gào rống đến sủi bọt mép quanh ông Bốn. Thằng Cù Lao không chút nao núng, phóng mắt nhìn quanh tìm đứa hung hăng nhất. Chợt chiếc roi mây bay vút. Chó bị roi kêu ăng ẳng, cúp đuôi vụt chạy. Những chó khác chạy tán loạn. Thằng Cù Lao nhặt đất ném theo, phá gãy vòng vây, giải thoát cho ông Bốn Rị. Dẹp xong lũ chó, nó đứng chống nẹ nhìn quanh.
Tôi gọi to:
- Cù Lao ơi! Mày đi bắt chó cho ông Bốn hả? Làm chi bậy bạ rứa? Thiên hạ cười đó! Họ đồn mày là con trai ông Bốn đó!
Miệng tuy nói vậy nhưng bụng tôi nghĩ khác. Thực bụng tôi phải nói: Mày đuổi chó giỏi lắm! Tao đang phục mày đấy! Tao cũng muốn được như mày.
Tôi hỏi bâng quơ:
- Mày mượn đâu chiếc roi mây tốt quá?
Thằng Cù Lao chìa chiếc roi:
- Ông Bốn cho tui đó.
Tôi nói cho có chuyện:
- Roi to thì sướng hơn.
- Roi nhỏ quất khỏi gãy chân. Ra oai thôi mà!
Tôi hỏi:
- Thế... tao xin ông Bốn một cái roi được không?
- Cục xin đi. Ông Bốn ông tốt bụng lắm! Ông cho liền liền.
Thằng Cù Lao nói nhỏ vào tai tôi:
- Thảo ăn lắm! Hôm nào cũng đãi ổi, đãi bồ quân. Ổi và bồ quân của ông ngọt lịm! Ăn nhiều ông càng thích!
- Nhưng mà tao sợ ma chó! Chúng kéo về từng đàn, ông Bốn Rị phải đặt câu thần chú mới đuổi được.
- Làm chi có!
- Tao đến xin ông cái roi. Rồi... đi bắt chó với mày được không?
Thằng Cù Lao reo lên:
- Ông thích còn phải nói! Ông bảo tui đến ở với ông, tui cứ việc đi chơi, ông làm nuôi tui cũng được
Tôi và thằng Cù Lao cùng cười. Không ngờ sự việc lại như vậy.
Trước Tổng khởi nghĩa có ba nơi làm tôi cứ sợ. Đó là chòm đa Lý âm u, đại bản doanh của quỷ Năm Nanh có đầu tóc xõa đến đất. Ddó là miếu Bà Tằm im lìm nép dưới chòm sung, nơi làm ăn của quỷ Bạch Thố. Sau cách mạng, quy Bạch Thố và quỷ Năm Nanh đã cuốn gói đi nơi khác. Chỉ riêng nhà ông Bốn tôi vẫn thấy bí hiểm. Tiếng băm thịt ở nhà ông nghe như tiếng mõ kêu cứu. Tiếng rú của chó bị cắt tiết nghe rùng rợn. Tuy thằng Cù Lao đã cho biết nhà ông Bốn Rị cũng như nhà chú Năm Mùi, có hai chái, tám cột. Đồ đạc cũng là giường ghế, nồi niêu, rổ rá. Mọi vật đều bình thường, chẳng có gì ghê rợn cả. Tôi biết vậy, nhưng khi đến trước nhà ông Bốn tự nhiên tôi dừng lại. Tôi vừa sực nhớ trước đây tôi với mấy đứa mất dạy đã ném đất vào đầu ông. Nay gặp tôi ông lại chẳng trả thù, nện cho tôi một trận. Nghĩ đến đây tôi chỉ dám nhìn qua hàng rào. Ông Bốn tay cầm con dao phay, đứng trong nhà trông quá dữ tợn. Tôi định rút lui. Nhưng nhớ lại việc chú Năm Mùi bắt buộc tôi phải đến giúp thằng Cù Lao dạy cho ông Bốn học, tôi phải dừng lại. Đợi ông Bốn đi khuất vào bếp, tôi nhón chân gọi khẽ:
- Cù Lao ơi! Cù Lao ơi!
Thằng Cù Lao như biết tôi đang lảng vảng ngoài rào, chạy ra gọi:
- Ông Bốn đợi Cục đó!
- Đợi để chi?
- Để dạy ông học. Ông thích lắm!
Tôi hơi vững dạ rón rén bước vào. Ông Bốn đang ngồi lóc thịt. Vừa thấy tôi, ông vung con dao sáng quắc, nhưng ông lại cười:
- Chú Cục đó hả? Hay lắm!
Rõ ràng ông Bốn đã làm tôi yên tâm. Ông đứng lên đi đẩy lửa. Ông vừa lóc thịt vừa đun lửa trong bếp. Đó không phải là một cái bếp bình thường như thằng Cù Lao nói, mà là một cái bếp bất thường. Bếp có đến ba bộ ông táo. Tất cả đang cong lưng đội một cái chảo và hai cái nồi to bự. Ngoài ra, còn có ba bộ ông táo khác sắp thành một hàng sẵn sàng nhận việc. Tất cả chảo nồi đều sôi sùng sục và tỏa khói thơm. Quanh bếp còn úp không biết bao nhiêu nồi đất, đủ loại to nhỏ. Thằng Cù Lao ở trần, xắn quần đến tận bẹn, chạy rút con dao phay, lật chiếc thớt, bê một đùi thịt chó đặt lên thớt, chặt lia lịa. Nó tỏ ra thông thạo như đã lâu năm làm nghề băm thịt. Tôi bật cười. Nó cười theo rồi băm càng nhanh, càng chính xác.
Tôi nhìn vào nhà trên. Ở Hòa Phước, nhà trên thường nhìn ra ngõ. Đằng này, nhà trên của ông Bốn lại xây lưng ra ngõ, mặt úp vào vườn. Sau vườn, ông Bốn trồng cây chanh, cây ổi, cây bồ quân có bóng râm mát. Lại có khóm bông trang, có hoa nở, có bướm bay chấp chới. Quanh nhà sạch bóng. Nhà bếp nhiều khói, ồn ào. Nhà trên tĩnh mịch. Nắng trưa nằm ngủ trên giàn thiên lý. Tiếng thái thịt vào đến hiên bỗng lu mờ. Ông Bốn cũng thờ tiên thờ phật. Bốn bức tranh treo trên vách vẽ bốn ông tiên. Một ông râu dài mắt xếch đầy vẻ ung dung cưỡi một con hạc đang sải cánh trên rừng tùng. Một ông bụng to đang nghểnh cổ trút nậm rượu vào mồm, đầy vẻ khoan khoái. Ông thứ ba râu rậm cưỡi con ngựa trắng khoan thai đi vào rừng mai nở rộ. Ông thứ tư râu tóc bạc phơ phóng cần câu trầm ngâm câu cá. Bên trên bàn thờ, ở chỗ cao nhất đặt một cái khám. Trong khám có đức Quan âm ngồi trên tòa sen, mười ngón tay chắp vào nhau đang tụng niệm.
Tôi cứ nhìn nhìn. Có tiếng thằng Cù Lao gọi:
- Cục ơi!
Tôi bước xuống nhà bếp. Ông Bốn đang xào thịt. Ông múc một đĩa đặt lên bàn. Và rất lạ, tôi nghe mùi thịt chó thơm thơm. Ông lấy bánh đa có rải vừng đem nướng. Ông hốt một đĩa rau thơm, gọi tôi và thằng Cù Lao:
- Ngồi lại đây các chú!
Tôi trả lời tôi không ăn.
Ông Bốn lại mời.
Tuy bụng đói meo, nhưng nhớ lời chị Ba dặn, tôi lắc đầu:
- Mới ăn no quá, không ăn được nữa!
Thằng Cù Lao cãi lại:
- Ăn từ mai sớm, no quá sao được?
Ông Bốn năn nỉ:
- Không ăn nhiều thì ăn một miếng cho bác vui bụng.
Thằng Cù Lao họa theo:
- Phải rồi. Không ăn, ông Bốn không học đâu!
Thằng Cù Lao vừa nói vừa kéo tôi vào bàn.
Tôi định bụng chỉ ăn một miếng bánh đa.
Thằng Cù Lao chỉ vào chiếc nồi đang sôi trên bếp.
- Nồi nhừ nâú cho đội tự vệ kia. Ban chỉ huy ăn được thịt chó, Cục ăn thử một miếng coi.
Thằng Cù Lao vừa nói vừa gắp một miếng xào gì đó ngay trước lỗ mũi tôi. Rõ ràng một mùi thơm của thịt của hành xông lên. Ông Bốn gắp một miếng xào, bẻ đôi miếng bánh đa kẹp lại giúi vào tay tôi:
- Không ăn thì bác giận lắm!
Nể quá, tôi cầm kẹp bánh cắn một miếng. Thịt chó xào nghe thơm chẳng khác gì thịt lợn. Tôi nhai vài cái, thịt với bánh đa rơi vào bụng. Tôi tưởng thịt chó đã trèo lên cổ lộn ra, nhưng nó vẫn nằm yên trong bụng.
Thầy Lê Hảo thường nói: Dạy không nghiêm, đó là thầy dở. Đối với bà Hiến tôi phải thật nghiêm. Tôi cố tránh hỏi bà chuyện vu vơ hoặc tán phét. Tôi vạch một vòng tròn lên giấy rồi đọc cho bà nghe, o...o...
- Đây là chữ o, như quả trứng gà, thấy chưa? Nhớ chưa?
Bà Hiến liền nói theo:
- O, o, như con gà trống, nó gáy o o. Gà gáy o, o! Đi chưa tới chợ đã lo ăn hàng!
Tôi dạy thêm:
- Phải ngó cho kỹ, chữ o thêm một cái mũ đội lên đầu đó là chữ ô.
Bà Hiến liền đọc:
- Ô rô gai góc, nó móc ruột gan, đói rách giàu sang, ô rô móc tuốt.
- Nói gai ô rô làm chi? Xem này. Chữ o mang thêm một cái râu thành chữ ơ.
- Còn phải kẻ mày kẻ mặt đội mũ mang râu. Còn phải đôi hia...
Bà Hiến vừa nhớ đến hát tuồng. Trước khi ra sân khấu, kép hát phải kẻ mặt, mang râu, đội mũ.
Tôi xẵng giọng:
- Kệ họ! Đào kép muốn làm trời cũng được. Đó là chuyện của họ. Còn ta là phải ngó kỹ. Đây là chữ t, thấy chưa? Nay ghép chữ t với chữ o, là to.
- To! Nói nhỏ nói to, không bằng nện cho cái đấm.
Tôi định bảo im. Nhưng cách nói bắt vần của bà nghe cũng vui vui.
- Ngó cho kỹ này! T ghép với ô thành tô này.
Bà Hiến nói ngay:
- Tô son điểm phấn, đánh lấn ngãi thơm.
Tôi tiếp:
- Chữ t ghép với chữ ơ là tơ.
Bà Hiến đọc liền theo:
- Rối tơ rối chỉ gỡ xong. Rối đầu có lược, rối tấm lòng khó phân. Tơ tưởng, tưởng tơ, nằm mơ là thấy bạn!
Tôi chỉ cho bà Hiến đọc chữ m.
Bà liền cho ra:
- Chằng lờ mờ, giấy tờ minh bạch.
Đến chữ n, bà nói họa theo:
- Chi rứa bạn nờ? Trăng đã mờ, sông đã cạn!
Cứ như vậy, học mỗi chữ bà đọc một câu. Nếu bảo bà đọc thêm bà cũng có thể đọc.
Tôi và thằng Cù Lao dần dần hóa thích. Gặp những câu vui, tôi bảo bà cứ đọc tiếp. Bà thuộc hàng chục bài vè, đủ loại vè: vè con cuốc, vè các thứ hoa, thứ quả, thứ cá, thứ chim, vè nói láo, vè hát bội, vè thằng nhác, vè cúp tóc, vè xin sưu, vè đám ma...
Mỗi khi học xong, tôi và thằng Cù Lao bắt bà hát một bài cho vui.
Bà Hiến hỏi?
- Bài chi?
- Bài hố hụi hay một bài vè, vè thằng Lía hay vè Thông Tằm cũng được.
Tôi và thằng Cù Lao rất mê vè thằng Lía. Thằng Lía nhà nghèo mồ côi cha, rất yêu mẹ. Không ai thuê làm, Lía phải đi xin ăn để nuôi mẹ. Lía bắt trộm vịt về cho mẹ ăn để mẹ khỏi đói. Sau Lía vào rừng tụ tập lâu la, chống lại vua quan. Tôi thích những đoạn tả Lía bị chó đuổi phải rúc bụi. Lía bắt chước con cá lóc tập nhảy, tập mãi nhảy phóc qua được nhà cao. Lúc bị bao vây nhờ nhảy qua được mái nhà, đã thoát chết.
Ai hỏi vì sao bà Hiến nhớ nhiều như vậy, bà nói: Nhớ nhiều vì đói. Khi đói, chữ nghĩa vào bụng không bị cơm canh lấp mất, chữ nào còn nguyên chữ ấy.

Lăng Độ Vũ
11-01-2011, 22:12
Quê nội
Chương 3

Nguồn: vnthuquan

Tôi tắm cho trâu Bĩnh xong mặt trời đã lặn. Trên bãi dâu mọi người gọi nhau về nhà. Phải về sớm một tý, còn phải nâú cơm ăn để kịp đi học. Ở các xóm tiếng gàu và vào thành giếng nghe lanh canh. Tiếng bát đĩa bị lật nghe xủng xoảng. Tiếng phèng la chợt vang động. Gìơ tựu lớp đã đến, chị Ba, chị Bốn ăn xong, thắp cây đèn chai, gọi nhau đi học. Tôi vả thằng Cù Lao sẽ đến dự lễ khai giảng lớp học buổi tối tổ chức ở chợ. Chúng tôi vừa được chú Năm Mùi đề bạt làm "trợ giảng" của lớp. Vừa bước ra sân, một ngọn đèn đã thấy trôi theo bờ rào của nhà bác Úc. Có tiếng gọi:
- Ba ơi! Mau lên!
- Bảy hả? Đợi chút!
Ngọn đèn chị Ba trôi nhanh ra ngõ. Hai ngọn đèn gặp nhau cùng cất cao, nhập lại, tách ra, nhún nhảy trôi theo con đường dọc xóm. Ra đến đầu làng, ngọn đèn chi Ba và chị Bảy nhập vào nhiều ngọn đèn khác trôi dọc đường làng. Tôi và thằng Cù Lao không xách đèn cứ rảo bước. Chợt một ngọn đèn từ trong hẻm trôi ra. Có tiếng hoảng hốt:
- Ối! Làm tôi hết hồn ! Ai đó?
Tôi nhận ra bà Bảy Đá. Chú Năm Mùi cho biết bà Bảy cũng đến dự lớp. Trước đây, bà bảo không biết học để làm gì. Chữ nghĩa không làm no bụng, chỉ có một cái làm được tất cả, đó là tiền. Nhưng có đứa độc mồm bảo bà có nhiều tiền nhưng bà lại u mê. Nay thấy mọi người đi học, bà mới chịu đi. Tôi và thằng Cù Lao vượt lên trước. Một ngọn đèn sáng lóa từ phía đồng bay ra. Đó là ngọn đèn của anh Bảy Hoành.
Tất cả những ngọn đèn lồng từ trên xuống, từ dưới lên chảy dồn vào chợ. Lớp học là cái điếm canh được nới rộng. Ba ngọn đền lồng tỏa sáng. Mọi người đã có mặt. Chú Năm Mùi, anh Bốn Linh ăn mặc chỉnh tề. Bà con cô bác kéo đến đông đủ. Chợt anh Bốn Linh đứng lên dọn giọng tuyên bố lễ khai giảng. Anh long trọng nói lên ý nghĩa phong trào diệt dốt, một trận đánh vô cùng ác liệt. Hiện nay, cả nước có hàng triệu người không kể lớn bé đang dùi mài học tập. Hòa Phước là đất thanh danh văn vật, không thể lơ là việc diệt dốt. Nói xong, anh Bốn Linh vỗ tay. Mọi người vỗ tay theo.
Đến lượt thầy Lê Hảo nói về sự màu nhiệm của học vấn. Con người ta" hễ ở bâù thì tròn, ở ống thì dài". Học vấn như cái " ống thiên lý xa soi nghìn dặm". Mọi người phải biết dòm vào cái ống thiên lý để nhìn ra bốn bể năm châu. Thầy Lê Hảo nói xong, chú Năm Mùi bước lên. Chú đưa ra những gương học tập đáng làm bà con suy nghĩ. Chú mời ông Bốn Rị và bà Hiến lên bảng viết những chữ đã học. Bà Hiến viết chữ Hiến nguệch ngoạc. Ông Bốn Rị viết một chữ Rị như gà bới. Cả lớp ngồi nhìn, nổi cười, nổi ho loạn xị. Chú Năm Mùi giới thiệu thầy giáo mới của lớp. Đó là anh Bảy Hoành, là một người đã đi chu du khắp thiên hạ, đã từng sống ở lục tỉnh Sài Gòn, từng đọc một kho sách đông tây kim cổ, một người văn võ kiêm toàn, chỉ có Lục Vân Tiên mới bì kịp. Đã có một vị thầy như vậy, nếu không mở một lớp đặc biệt để cô bác học hành chữ nghĩa thì chẳng khác như đã nhìn thấy một cục vàng mà lại bỏ lơ không thèm nhặt. Lớp còn có hai cán bộ giúp việc: đó là chú Cù Lao và chú Nguyễn Văn Cục. Chú Cù Lao từng vượt biển về làng, ra Đà Nẵng học đã "bảng vàng danh yết". Nguyễn Văn Cục có nhiều kinh nghiệm, từng dạy cho bà Hiến học giỏi. Hai cán bộ này sẽ giúp các thím các bác những chữ bị quên, kiêm việc quét dọn trụ sở. Nếu cô bác người nào có cây đèn bị mờ thì cứ giao cho họ khêu ngọn. Nói xong, chú Năm Mùi mời thầy Bảy bắt đầu dạy.
Anh Bảy Hoành đứng phắt dậy, giở chiếc mũ phớt đang đội trên đầu, vứt mạnh xuống ghế, nói như sấm động. Anh Bảy cho biết là ở xứ lục tỉnh Dầu Dây, tất cả già trẻ lớn bé đều học hết. Sau ngày cướp chính quyền, vẻn vẹn chỉ trong ba tháng mà tất cả đều biết đọc biết viết. Những ông già, bà già đều đỗ đạt hết. Vì sao vậy? Vì ở xứ Dầu Dây hễ nói là làm. Dân xứ đó hiểu mình bị nô lệ chỉ vì dốt! Nói đến đây, anh Bảy Hoành thu nắm đấm nện một đấm thẳng cánh vào cây cột làm mái nhà rung lên. Anh thét to:
- Quyết trừ loài giặc dốt!
Anh Bảy đứng chống nẹ quắc mắt nhìn quanh, gõ vào bảng đen trên vách, nói tiếp:
- Tôi chỉ dạy cho bà con hai chữ. Học xong hai chữ này thì mọi sự đều biết tuốt. Đây, tôi viết chữ t, tôi viết thêm chữ ư, ghép lại thành chữ tư, thêm cái chấm dưới đít, thành chữ tự. Đây tôi viết thêm một chữ nữa là chữ d, một chữ nữa là chữ o. Chữ d ghép với chữ o thành do. Đó là hai chữ tự do.
Cả lớp cười to khoan khoái. Tất cả đều công nhận là chú Năm Mùi đã nói rất đúng: Chỉ có một người thông kim bác cổ, văn võ toàn tài mới có thể có một cách giảng dạy hay đến thế và mới có thể nện một nắm đấm vào cây cột làm cả nhả rung lên như thế!
Tôi và thằng Cù Lao lên làm thầy dạy cho bà Hiến viết được chữ Hiến và ông Bốn Rị viết được chữ Rị giữa sự vui sướng của mọi người. Việc đó có làm cho tôi phổng to lỗ mũi. Chị Ba, anh Bốn dặn còn phải làm công tác quần chúng. Chúng tôi đã xông vào buồng của bà Hiến, dọn dẹp tất cả cho bà. Lại còn gánh nước, nấu cơm. Nhưng để xứng đánh danh hiệu làm thầy, chúng tôi còn phải làm xong một việc thứ ba, việc nầy anh Bốn cho là rất quan trọng. Đó là phải biết nói chuyện thời sự, chuyện ở bốn bể năm châu để làm cho bà Hiến và ông Bốn Rị biết nhìn xa thấy rộng, không bị giam hãm mà đã trở thành những ống thiên lý xa soi nghìn dặm như trong câu thơ của thầy Lê Hảo. Đối với nhiệm vụ nầy, riêng tôi, tôi thấy rất khó thực hiện. Thỉnh thoảng tôi cũng có nghe những chuyện bàn tán của các chú cán bộ về chuyện thời sự nước ngoài. Tôi chỉ nghe được lõm bõm, không đầu không đuôi, nên tất cả hiện lên càng rắc rối hơn tơ vò. Còn việc đi xa để được thấy rộng thì tôi mới chỉ đi đến chỗ chợ. Nhưng cũng may có được thằng Cù lao. Nó ở ngoài biển, nhìn xa có hơn vạn dặm. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại nó cũng thấy bí. Nó bảo nó đã bao lần ra khơi. Nhưng ở đó nó chẳng thấy chuyện thời sự mà chỉ thấy có nước với trời, hai cái nầy thôi thì mênh mông vô tận. Nhưng chợt nó quay lại, nói nhỏ vào tai tôi:
- Thôi, Cục đừng lo! Tôi sẽ kể chuyện ở Đà Nẵng. Nghĩ lại Đà Nẵng cũng là chuyện ở xa. Đà Nẵng cách ta đến ba mươi cây số. Nếu chú Năm bảo Đà Nẵng chưa xa thì ở đó có những ông Tây, ông Tàu, ông Mỹ cũng là người ở bốn biển năm châu vừa đến ở Đà Nẵng.
Thằng Cù Lao nói nghe rất có lý. Chúng tôi chạy vụt đến nhà bà Hiến. Tôi giải thích cho bà Hiến nghe vì sao bà phải nghe những chuyện thời sự ở xa. Sau đó thằng Cù Lao bắt đầu kể:
- Tôi ra Đà Nẵng ở một ngôi nhà bốn tầng. Ồ rộng lắm, to lắm. Tôi theo anh Sáu bước lên những bậc đá bằng cẩm thạch, đi dọc những hàng hiên cao, có không biết bao nhiêu cửa chớp! Anh Sáu dừng lại mở cửa. Một căn phòng vô cùng lộng lẫy hiện ra. Tôi lóa mắt! Sàn bóng như gương, dưới sàn lại còn trải thảm. Giữa phòng là một chiếc giường to, bọc vải trắng toát. Một giường nhỏ hơn bọc toàn nhung xanh. Mỗi giường có hai chiếc gối bọc lụa thêu hoa. Một chiếc gối đầu, một chiếc gác chân. Dọc tường nào rèm, nào tủ, nào gương to! Một anh Sáu bước vào phòng, gương chiếu bốn bên, thấy năm anh Sáu. Có đến chục phòng như vậy. Mỗi phòng chưng diện mỗi cách: Bàn ghê giường tủ bóng lộn. Cốc chén toàn bằng thủy tinh. Mâm đĩa mạ vàng mạ bạc.
Tôi hỏi:
- Nhà chi mà sang trọng rứa?
- Đó là dinh lão sứ, còn gọi là tòa thị chính. Nay ta dùng tầng trên để ở, tầng dưới để làm trụ sở của Ủy ban Đà Nẵng.
Thằng Cù Lao kể tiếp:
- Một tên thống sứ không chỉ có một ngôi nhà ở Đà Nẵng, mà còn có nhà ở Bà Nà, gọi là biệt thự. Nó còn có biệt thự ở Bạch Mã, Đà Lạt. Mùa hè, lên đó ở để cho mát.
Ở lớp huấn luyện, một hôm anh Sáu nói:" Hòa Phước là làng tôi ở. Ở đó có một bà già tên là bà Hiến. Bà ở trong một cái lều, lều không có cột, chỉ làm bằng hai mái tranh ghép lại. Muốn vào lều phải quỳ xuống bò bốn chân. Nếu ta xếp lại bên nhau cái lều của bà Hiến và ngôi nhà này của tên sứ thì sẽ thấy một sự thật mỉa mai. Dân ta có hàng triệu người như bà Hiến. Anh Sáu nói tiếp:" Lịch sử cho phép chúng ta ngày nay so sánh những việc như vậy. Người còn sống phải nhớ những việc đó. Cách mạng đã cho phép bà Hiến đến Đà Nẵng không bị bắt bớ. Chúng ta sẽ mời bà đến dinh lão sứ ở chơi vài hôm!".
Bà Hiến hỏi:
- Vậy chỗ đó là của ta rồi hả?
Bà Hiến phải công nhận là những chuyện thời sự của thằng Cù Lao kể đã làm cho cái" ống thiên lý của bà đã xa soi đến xứ Đà Nẵng".
Tôi nhấn mạnh thêm:
- Nhà lão sứ là của mình rồi! Thằng Cù Lao được vào ở, sướng chưa?
Thằng Cù Lao lắc đầu:
- Không sướng đâu! Tôi leo lên giường. Cái giường cứ nhún nhảy như bị sóng đánh. Tôi nằm im không dám lăn qua lăn lại. Ngủ trên bãi cát sướng hơn. Cứ lăn tròn đến đâu cũng được. Cái nệm nghe như lửa đốt. Cái giường tre của mình thế mà mát. Anh Sáu còn bảo tôi phải rúc vào một cái buồng trắng toát. Anh vặn cái bông sen, nước tưới lòa xòa. Anh bảo tôi phải tắm. Tắm vậy rất khó chịu! Tắm xong phải mặc bộ đồ mới. Áo phải bỏ vào quần, phải gài hết nút. Nhìn vào gương, mình thấy như một thằng nào lạ hoắc!
Tôi hỏi:
- Diện sang rứa, thế Cù Lao làm chức tước gì?
- Ban đêm, làm anh học trò. Ban ngày, làm tổ viên tổ tiếp liệu, trực thuộc Phòng quản trị. Phòng quản trị đặt dưới chỉ huy của văn phòng. Tôi làm nhiều việc rất quan trọng. Ở đó khách khứa suốt ngày. Tiếp cả khách bên Tàu, bên Tây, bên Mỹ nữa. Một lần gặp Mỹ, hai thằng Mỹ quan tư. Chúng đến Đà Nẵng nói đi tìm xác Mỹ bị Nhật giết trên Tây Nguyên. Chúng đến bằng máy bay, nhờ chính quyền Đà Nẵng giúp đỡ, được ở ngay tại tòa thị chính.
Tôi hỏi:
- Thế Cù Lao có được ngồi ăn không?
- Làm chi! Tôi làm phụ hầu bàn. Một thằng vừa ăn vừa gật gật nói tiếng Mỹ. Anh phiên dịch cho biết là nó khen món ăn Việt Nam rất ngon. Chúng cũng rất mê phong cảnh Việt Nam. Màu xanh Việt Nam đẹp nhất trên địa cầu, không đâu sánh kịp. Học có chương trình đến thăm núi Trà Sơn, thăm Vũng Thùng, thăm mỏ vàng ở Bồng Miêu, mỏ than ở Nông Sơn, mỏ kẽm ở Đức Bố, thăm kho chứa xăng ở Liên Chiểu. Ta tiếp đãi họ cực kỳ trọng thể! Mỗi bữa ăn được bày ra đầy bàn, đủ hết món ngon vật lạ. Chỉ về rượu để nhấm nháp, cũng đã có bốn thứ rượu, bữa ăn có lúc kéo dài đến hai giờ liền...
Tôi kêu lên:
- Ăn nhiều quá!
- Vừa ăn vừa trò chuyện!
Thằng Cù Lao gật gật:
- Nhưng không phải ăn ít!
Thằng Cù Lao cho biết hôm đó, sau bữa ăn, anh Sáu trò chuyện với bạn bè cho biết ở thôn anh có một bà gọi là bà Hiến. Bà đó, với một nải chuối, bà sống được mười hôm - Nạn đói vừa qua đã làm dân ta chết hơn ba triệu- Số đói kinh niên có đến năm bảy triệu người...
Tôi hỏi bà Hiến:
- Bà có bị đói không bà?
Bà Hiến thút thít.
Tôi nói như quát:
- Thút thít cái chi? Bà sẽ được mời ra tòa thị chính, được các anh đãi tiệc, được nằm giường lò xo... Nhớ là trước khi đi Đà Nẵng phải tô son, phải đánh phấn, phải xức dầu thơm! Chớ có lôi thôi, người ta không cho bà vào đó!
Đối với ông Bốn Rị, thằng Cù Lao cũng nói cho ông biết những chuyện thời sự như đã nói với bà Hiến. Ông Bốn Rị tỏ ra rất thờ ơ. Sau đó nó kể cho ông Bốn Rị nghe chuyện lính Tưởng Giới Thạch đến Đà Nẵng, từ đó chuyển sang chuyện nó học việc băm thịt, chặt xương. Nay nó băm thịt được cả hai tay, là nhờ nó được học tập cách băm thịt ở Đà Nẵng.
Tôi lấy làm lạ, hỏi cắt ngang:
- Sao lạ vậy? Cù Lao ra Đà Nẵng được ở nhà bốn tầng, được đề bạt làm tiếp tế, sao lại bị giáng chức xuống làm việc băm thịt, chặt xương?
- Là vì sau nầy, anh Sáu ban ngày làm việc ở tòa thị chính nhưng ban đêm phải đi ngủ nơi khác. Quân Tây và quân của Tưởng Giới Thạch đến đóng ở Đà Nẵng. Tòa thị chính ở sát ngoài biển, nhỡ bị đánh úp, ta không lối thoát. Ta phải đề phòng...
Ông Bốn Rị hỏi:
- Ta thắng rồi mà! Sao đánh ta được?
- Đó là những lính của Tưởng Giới Thạch theo lệnh đồng minh kéo sang ta, lấy cớ là để giải giáp quân Nhật. Ở Đà Nẵng chúng chiếm các đồn trại, cầm đại đao đứng chắn các ngả đường. Buổi tối, tôi và anh Sáu về ngủ ở nhà ông bà Đán, chỗ nầy kín đáo hơn. Hằng ngày, ông Đán gánh một gánh bún bò ra chợ để bán. Bà Đán cũng làm như ông. Nhưng một hôm hai ông bà đã to tiếng. Bà Đán nổi khùng đã cho ông Đán một đá.
Ông Bốn sửng sốt:
- Đàn bà sao dám nện đàn ông một đá?
- Cũng tại lính của Tưởng Giới Thạch đó!
Thằng Cù Lao kể cho ông Bốn Rị biết lính của Tưởng Giới Thạch đứa nào cũng vàng vọt, bủng beo, đứa nào cũng là tướng quỵt, chúng đã làm cho tất cả những gánh bún, gánh mỳ ở chợ đều phải hoảng sợ, khi thấy chúng đằng xa là phải chạy tránh!
- Một hôm ông Đán vì chậm chạp nên chúng đã sà đến. Chúng đưa một xấp bạc ra hiệu cho ông Đán phải bán bún. Ông Đán múc ra năm bát cho năm thằng. Loáng một cái năm bát đã hết sạch. Phải múc thêm năm bát nữa! Lại còn phải múc thêm, múc thêm! Ăn xong chúng đứng dậy bỏ đi. Ông Đán đòi tiên, chúng rút dao vung loang loáng. Nhưng một đứa chợt trợn trừng cặp mắt, lảo đảo, ngã lăn quay. Đồng bào chúng quanh nổi kêu tán loạn:
- Có án mạng! Có án mạng!
Ông Đán hoảng quá, quảy gánh bỏ chạy. Khi chạy ông bị ngã nhào, bát đĩa vỡ gần hết. Việc đó làm cho bà Đán cứ nhăn nhăn nhó nhó. Ông bà cãi lộn. Bà biết thế võ, đã cho ông một đá, ông ngã tênh hênh. Sau đó, khi đi bán bún, ông Đán có nhờ tôi đi gác. Tôi đứng gác ở đầu chợ, khi thấy lính của Tưởng Giới Thạch từ xa, tôi đã chạy báo cho ông biết trước... Sau đó khi rảnh rỗi tôi còn giúp ông làm bún xáo. Ông dạy tôi cách chặt xương, cách băm thịt. Nay tôi băm thịt được cả hai tay là nhờ những buổi băm thịt ở nhà ông Đán.
Ông Bốn Rị nghe chăm chú những chuyện thời sự về lính của Tưởng Giới Thạch, về chuyện băm thịt. Ông Bốn Rị cũng nhất trí là thằng Cù Lao giúp ông chặt xương chó và băm thịt chó rất giỏi!

Lăng Độ Vũ
11-01-2011, 22:12
Quê nội
Chương 4

Nguồn: vnthuquan

Suốt năm 1946 là mùa xuân. Mùa xuân như kéo dài đến tháng Mười. Mùa mía đường đã qua, tôi chưa thấy mía nào ngọt bằng mía năm đó. Ddến mùa tơ tằm, tôi chưa thấy sợi tơ nào mượt bằng sợi tơ năm đó. Ngô nướng có một vị ngọt khác thường. Dọc đường đầy tiếng chim. Tiếng bồ chao vang lừng. Tiếng bồ cát ấm áp. Và thật kỳ diệu! Núi non bỗng sáng lên rời rợi. Cỏ cây dọc đường rung lên, reo vui, trò chuyện. Lúc tôi còn níu áo mẹ theo vào chợ chiều, con đường làng xa xôi như dài đến xứ... Tây Trúc. Con đường ngắn dần, cho dến năm 1946 nó bỗng dài ra thênh thang vô tận. Tôi đi dọc đường gặp toàn những nụ cười thân mến. Chuyện ném đất đá vào đầu ông Bốn Rị hóa xa xôi thành chuyện thời trước. Trong làng, những đứa láo xược nhất không còn gọi tôi bằng thằng," thằng Cục chăn trâu, bị một cục u trên trán". Ông thợ mộc ngoài vạn không còn hỏi tôi có giấu chơi chiếc đục. Ông còn mời tôi uống bát nước chè. Tôi và thằng Cù Lao được cả ông Tư Trai mời nếm món mắm ngon của Đà Nẵng.
- Này Cục, này Cù Lao! Ngồi lại đây ăn thử cho biết. Đây là thứ mắm dãnh. Ông Biện Thành ở Đà Nẵng gởi biếu tao đó!
Tôi bỏ thói vật lộn, chọc chó và đi rông. Tôi làm gì cũng có ý có tứ. Trước kia khi ra sông tắm, tôi cởi phăng hết quần áo, rồi hét tướng:
- Hãy theo ta!
Tôi nhảy tòm xuống sông. Bọn chăn trâu nhảy tòm theo. Chúng tôi chơi trò dìm nước. Đứa này cố dìm đứa kia xuống nước. Chơi rất ác! Đè nhau đến ngạt thở, phải lạy mới chịu tha. Sau này, chúng tôi không tắm vậy nữa. Tôi và thằng Cù Lao mặc cả quần khi xuống tắm. Nếu phải cởi quần, hai đứa phải chạy ra xa, đi khom khom rồi đột ngột phóng xuống nước. Tôi phải cúi sấp về phía trước, đưa lưng cho thằng Cù Lao kỳ cọ. Tôi bắt nó kỳ nách, kỳ hông cho đến hết mùi khét của trâu mới thôi. Tôi bắt thằng Cù Lao đưa lưng cho tôi kỳ. Tôi vừa kỳ vừa ngửi, kỳ cho đến lúc da nó đỏ lên mới thôi. Thằng Cù Lao bắt chước người lớn uống nước chè đặc. Nó uống cạn bát, chép miệng gật gù:
- Chà! Ngon quá!
Tôi bắt chước người lớn ăn cay, nói lớn, nhổ thật xa, vỗ vai tụi nhỏ, sai chúng làm việc này việc nọ. Tôi nói với mẹ nên bán quách con trâu Bĩnh. Nghề chăn trâu chẳng nên danh giá gì. Tất cả bọn chăn trâu dù siêng năng đến mấy cũng bị gọi bằng thằng, bằng bọn, bằng tụi, bằng lũ. Có đứa chăn trâu nào được gọi là thầy chăn trâu đâu!
Đất trời năm 1946 trong veo cho đến tháng Chín. Núi Trường Định, hòn Cà tang vẫn xanh. Đến thu, vài hạt mưa bay. Đến tháng Mười có gió heo may, có mây mù. Mưa lại đổ. Con sông Thu Bồn lại phềnh ra, đổi màu xanh ra màu vàng. Nhưng chỉ hơn một tháng sau nước lại xanh leo lẻo. Vạn Hòa Phước trong veo, thấy được từng hòn sỏi dưới đáy nước. Thuyền qua lại đông hơn. Đến giữa mùa đông, một thuyền mành hai buồm cập bến Hòa Phước. Một cán bộ bước xuống bến, đi thẳng vào làng, trao cho anh Bốn Linh bức thư của anh Sáu ở Đà Nẵng gửi về. Thư viết:
" Chú Bốn.
Đà Nẵng phải chuẩn bị mọi việc sẵn sàng. Bên tư pháp đưa về gửi tạm ở Hòa Phước bốn chiếc rương. Nhờ chú sắp xếp để cất giấu cho chu đáo. Chú có thể tạm cất bốn chiếc rương trong miếu Bà Tằm rồi khóa cửa miếu lại.
Ký : Nguyễn Văn Sáu
Tái bút:" Ngoài nàu có bác sỹ Thụ muốn đưa vợ và cô con gái là Tuyết Hạnh về Hòa Phước ở tạm một thời gian. Họ đi trước như vậy để được yên ổn. Nhân tiện nhờ chú tìm nhà và sắp xếp chỗ ở cho họ. Bà Thụ gốc người làng mình, như chú đã biết".
Người đưa thư cho biết bốn chiếc rương đã cập bến. Anh Bốn Linh phải cho ngay người đưa rương vào làng cất giữ. Anh Bốn theo người đưa thư ra bến. Bốn chiếc rương lớn bằng kẽm chiếm trọn một khoang thuyền. Rương nào cũng khóa kỹ. Anh Bốn gọi chú Năm Mùi đi hạ tre làm một đôi quang mới, gọi ông Kiểm Lài và đội tự vệ đưa bốn chiếc rương lên bờ. Bốn chiếc rương kẽm sắp thành một dãy sáng nhoáng. Trên mỗi rương đều có ghi bốn chữ T.A Quân sự. Nét chữ gân guốc. Tuy không nói nhưng tất cả đều nghĩ đó là những rương vũ khí. Tôi và thằng Cù Lao đoán T.A Quân sự là loại vũ khí vô cùng lợi hại. Từ cổ chí kim, Hòa Phước chưa tiếp những " vị khách" lạ như vậy! Bốn chiếc rương kẽm từ bến sông tiến vào làng uy nghi như bốn cỗ pháo tiến vào trận địa!
Thằng Cù Lao rất toại nguyện được chú Năm Mùi phân công giữ kho vũ khí T.A Quân sự. Giữ vũ khí cũng là công tác quân sự. Cha nó vào công tác trong quân giới, là công tác quân sự, nay nó cũng được làm công tác quân sự. Thằng Cù Lao lúc ở Đà Nẵng từng thấy đoàn quân Nam tiến rầm rập bước vào sân ga, giữa muôn nghìn tiếng hô như sấm động...
Mỗi lúc chiều xuống, trước khi đến lớp bình dân, rôi và thằng Cù Lao đi tuần tra một vòng vào miếu. Sau khi những ngọn đèn từ các lớp học tỏa ra, chúng tôi lại tuần tra một vòng vào miếu. Thằng Cù Lao nắm tay tôi bước lò dò như chui vào hang sâu thăm thẳm. Ngôi miếu nằm giữa những cây đa to, bóng tối đen đặc. Chợt thằng Cù Lao nói khẽ:" Đến rồi". Nó đẩy cửa miếu kéo tôi bước qua ngạch cửa. Tôi khụt khịt muốn ho,. Thằng Cù Lao bóp bóp tay tôi, bảo phải im. Tiếng gió huýt dài. Cả chòm sung xào xạc. Trên nóc miếu như có tiếng chân đi. Chợt một loạt tiếng " tắc, kè" khô khốc, nổ sát bên tai. Tôi giật bắn người. Thằng Cù Lao thì thầm bảo tôi phải bấm tay. Nó đã bày cho tôi cách chống sợ, phải bấm ngón tay cái vào đầu ngón tay trỏ. Thằng Cù Lao đập nhẹ chiếc rương. Roặc! Tắc kè bỏ chạy.
Bay ngày, thỉnh thoảng thằng Cù Lao cũng đi tuần tra chỗ cây sung.
Thằng Cù Lao gạ:
- Này Cục! Tôi là một, Cục là hai, chỉ hai đứa mình biết. Chúng mình trèo lên chỗ cái hốc trên cây sung, ngồi trong đó thấy được bãi dâu, thấy hết. Kẻ gian đằng xa, mình thấy được.
Tôi hùa theo:
- Ngồi trên đó! Rất tuyệt! Cứ để bọn Việt gian vào miếu, bất giác ta nổi la làng. Cả làng ập đến trói gô chúng lại. Lập thành tích vậy, cấp trên sẽ thưởng cho mỗi đứa cái súng lục!
Nhưng khi nhìn lại thấy cây sung trơn tuột, tôi hỏi:
- Sao leo lên được?
- Khó gì! Ngoài đảo chỉ có vách đá. Vách đá dựng đứng trên biển. Có chỗ nào dựng thang được đâu? Bọn chim yến làm tổ trên đó. Người gỡ tổ yến bơi thuyền đến chỗ vách đá. Yến làm tổ trong các hốc, họ đứng dưới thuyền cầm một dây dài, đầu dây có buộc cây cọc. Họ vứt sợi dây lên vách. Cọc bị mắc vào hốc hoặc vào dây. Họ đu dây, trèo gỡ tổ yến. Ta cũng làm vậy.
Tôi và thằng Cù Lao chạy tìm dây. Nhà tôi có nhiều loại dây, nhưng dây nào cũng đang cột. Nếu gỡ những dây giàn bếp, tất cả những nồi niêu bát đĩa sẽ đổ ào xuống. Con trâu Bĩnh có cái dây mũi. Nhưng mất dây mũi nó sẽ bỏ chạy. Dây cột gàu múc nước là loại mỏng manh. Ông Bảy Hóa có cái dây lưng làm bằng cả một khổ thao rất dài. Ông quấn đến hai vòng quanh lưng, buộc hai mối thả xuống thành một cái đùm xòe đến gối. Mượn được cái dây đó thì tuyệt vời. Tôi cứ nhìn nhưng không dám hỏi mượn.
Tôi bàn nên tháo cái dây treo cần xay lúa. Thằng Cù Lao chưa tháo xong thì chị Ba hiện ra trước cửa. Chị Ba bắt phải cột lại cần xay. Chị xúc lúa đổ vào cối bắt tôi và thằng Cù Lao phải xay. Sau đó, anh Bốn Linh cũng biết việc tôi đi tìm dây. Ông Bảy Hóa bảo tôi và thằng Cù Lao dám cả gan cứ nhìn vào lỗ rốn của ông. Thằng Cù Lao thú thật nó muốn trèo lên cây sung tìm cái hốc. Nó sẽ đặt trạm gác trên đó. Anh Bốn không cho phép trèo cây, như vậy rất nguy hiểm. Theo anh Bốn Linh cho biết thì ra những rương T. A Quân sự chỉ chứa toàn sách và giấy. Đó là những hồ sơ ở sở mật thám Pháp ta bắt được, cả những hồ sơ của toà án quân sự của ta. Chữ "T.A Quân sự" có nghĩa là Tòa án Quân sự.