PDA

View Full Version : Điển Tích Truyện Kiều


LSB-Sun
06-03-2010, 12:21
Ả Lý

Dâng thư đã thẹn nàng Oanh
Lại thua ả Lý bán mình hay sao ?

Sách "Sưu Thần ký" có chuyện nàng Lý Ký:

Thời Hán Vũ Đế, ở quận Mân Trung đất Đông Việt., trong một cái hang sâu có con rắn khổng lồ; dân chúng trong vùng rất kinh hãi, gọi là thần rắn. Hàng năm phải cung cho thần rắn một người con gái đồng trinh thì dân mới yên ổn làm ăn. Nhưng dần cũng hết, tìm đâu ra con gái.

Bấy giờ ở huyện Tương Lạc, có nàng Lý Ký, nhà nghèo xơ xác, cả cha mẹ đều bệnh năng không tiền thuốc thang. Nàng Lý đã trốn cha mẹ, đến cửa quan tự nguyện bán mình nộp mạng cho rắn, rồi nhờ chuyển tiền về cho cha mẹ.

Nàng xin quan lệnh ban cho một cây gươm bén và một con chó dữ. Vào bên trong hang, nàng thả chó dữ ra chiến đấu với rắn, và dùng gươm chém rắn từng khúc.

Dư Thiện là cháu lâu đời của Việt Câu Tiễn được Hán Vũ Đế phong vương ở đất Đông Việt. Biết được chuyện người con gái hiếu thảo, can trường, Đông Việt vương đã đón ả Lý về làm vợ.

LSB-Sun
06-03-2010, 12:22
Ả Tạ

Khen tài nhả ngọc phun châu
Nàng Ban, Ả Tạ cũng đâu thế này.

Ả Tạ là Tạ Đào Uẩn, con gái quan Thái úy Tạ Công đời nhà Tấn, có nhan sắc tuyệt trần lại thông minh nhất mực. thơ phú hay lừng tiếng.

Trong cùng một vùng, có họ Vương cũng dòng giỏi gia phong, con cháu cũng thuộc vào bậc vọng tộc. Họ Tạ và họ Vương bắt thông gia với nhau, con trai con gái hai họ chỉ kết duyên vói nhau, không lấy người ngoài họ.

Khi Tạ Đào Uẩn đến tuổi cập kê, Tào Công nhờ em la Tạ An sang hà họ Vương kén rể. Được tin, tất cả nho sinh nhà họ Vương người nào cũng áo quần tươm tất, ăn nói đoan trang, muốn phô diễn mình là bậc tài hoa thế phiệt. Tạ An hồi giờ để ý từng người nhưng chưa để mắt người đàn ông nào. Một hôm, Tạ An qui tụ các nho sinh họ Vương lại để thử tài đối đáp văn chương. Mọi người đang thi thố tài năng thì Tạ An nhìn thấy về phía đông, một chàng trai tuấn tú, mặc áo để trật bụng ra ngoài, đang nằm vắt vẻo chân chữ ngũ trên giường. Tạ An hỏi dò:

- Công tử nằm ở giường phía đông tên là gì vậy?

- Chàng tên là Vương Ngưng Chi, tự Vương Hưu Quân có tiếng ham học, thông minh.

Tạ An ưng ý, về báo với Tạ Công. Quan Thái úy vỗ tay:

- Người đó mới là rể tốt của ta đó.

Vài hôm sau, Tạ Công gọi Vương Ngưng Chi đến, gả nàng Tạ Đào Uẩn. Chàng trai lơ đãng chuyện kết duyên rước nàng dâu tài sắc về rồi, thuờng ngày hay ra bờ sông Lan Chữ (tỉnh Triét Giang) ngâm vịnh, viết thư pháp, nét chữ tuyệt đẹp, người đời sau gọi là Thiếp Lan Đình. Trong Kiều còn có câu:

Khen rằng bút pháp đã tinh
So vào với Thiếp Lan Đình nào thua.

Chàng trai tuấn tú thông minh nằm vắt chân chữ ngũ trên giường phiá đông (đông sàng) mà lại được vợ đẹp. Người đời sau dùng điển tích Đông sàng là ý muốn nói chàng rể quí, xứng đôi với gái thuyền quyên.

LSB-Sun
06-03-2010, 12:22
Ba Đào

Gặp cơn bình địa ba đào
Vậy đem duyên chị buộc vào duyên em.

Các văn nhân xưa có câu đối:
Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách.
Sắc bất ba đào dị nịch nhân.

Gió mưa không có then khóa mà giữ được khách.
Nhan sắc không phải sóng lớn mà dìm chết người.

Điển tích "Ba đào"- sóng lớn - trong sách Dị Văn lục: Triều Huệ Đế đời nhà Minh, tại huyện Tề Hàng, tỉnh Sơn Nam, có hai vợ chồng Trần Hoá Chiêu, Lương Tiểu Ngạ Tiểu Nga là con một gia đình thúc nho lễ giáo, nổi tiếng là một trang quốc sắc thiên hương; thuở nhỏ được cha mẹ cho theo đòi bút nghiên, mười hai tuổi đã biết làm thơ phú, đọc thông các sách thánh hiền. Hoá Chiêu là học trò của cha Tiểu Nga; cậu học trò nghèo, mồ côi cha, thông minh, ham học, mặt mày khôi ngô, được thầy thương, gả con gái và cho ở rể. Sống chung với nhau được ba năm, thì bố mẹ vơ, lần lượt qua đời, để lại cho vợ chồng một căn phố và ít vốn liéng để mở một tiệm tạp hóa.

Đời sống cũng được êm đềm. Trong vùng, các văn nhân thỉnh thoảng đến mua hàng và cùng vợ chồng Trần Hóa Chiêu xướng họa ngâm thơ. Cũng không ít khách lai vãng thường xuyên đến đó vờ vĩnh mua hàng, để được dịp chiêm ngưỡng dung nhan Tiểu Nga; có phú hộ Trát Hiếu Sắc cũng thuộc loại khách này.

Nhưng không như những mối tình câm kia, đến nhìn để rồi thầm yêu trộm nhớ, Hiiếu Sắc đã manh tâm chiếm hữu người đàn ba này cho được. Phú hộ tìm hiểu, biết vợ chồng vì ham thích thơ văn , nên buông lỏng chuyện mua bán, vốn liếng cụt dần. Phú hộ ra tay hào hiệp, cho mượn vàng bạc để gầy dựng lại. Ngại ngùng lần đầu, nhưng rồi tiếp những lần sau, Hoá Chiêu cầm vàng bạc mượn đi buôn bán xa, chuyến nào cũng lời khẫm. Lần nào, vợ chồng cũng nài nỉ hoàn lại vốn và trả lời, nhưng Hiếu Săc đều từ chối lấy lãi.

Cứ vậy, hai năm họ trở thành bạn thâm giao. Hiếu Sắc luôn tỏ ra mình là người đàng hoàng, nghiêm túc, không bao giờ đến nhà bạn trong lúc vắng mặt Hoá Chiêu; những lúc tiếp chuyện với Lương Tiểu Nga, luôn luôn giữ thái độ đứng đắn. Vợ chồng Hoá Chiêu vui mừng có được người bạn hiền, hào phóng. Khi tự xét lý lịch "nằm vùng" của mình đã đến lúc kết nạp được, Hiếu Sắc đề nghị chung vốn làm ăn lớn. Vợ chồng Hóa Chiêu hoàn toàn tin tưởng, hớn hở nhận lời ngay.

Việc buôn bán phất lên nhanh, nhưng Hiếu Sắc vẫn cương quyết không bao giờ nhận chia lãi, nại lý do để giúp vợ chồng bạn.

Một lần, Hiếu Sắc bàn với Hóa Chiêu phải đi buôn một chuyến lớn ở Hàng Châu xa xôi và thuê thuyền xong, cả hai cùng lên đường. Ròng rã cả tháng trời thuyền mới đến Hàng Châu vào một đêm trăng thanh gió mát. Hai người đem rượu ra mũi thuyền đối ẩm tâm sự Hoá Chiêu, tình thật, ngâm một câu thơ, lại ngậm một chén rượu ; Hiếu Sắc thì cứ làm động tác giả, hắt rượu qua vai. Quá nửa đêm, Hoá Chiêu rụng, người mềm nhũn. Lúc bấy giờđám gia nhân dưới thuyền cũng đã ngủ saỵ Hiếu Sắc lôi Hóa Chiêu, xô xuống sông. Đôi ba lần Hoá Chiêu ngoai ngóp trồi đầu lên, Hiếu Sắc lại dùng sào dìm xuống cho đến khi mặt nước không còn sủi bọt nữa.

Không cần phải buôn bán chi, Hiếu Sắc cho thuyền quay về Tề Hàng ngay. Mẹ Hoá Chiêu và Tiểu Nga đau lòng với nỗi bất hạnh, nhưng vần cảm kích Hiếu Sắc đã bỏ cả chuyến hàng lớn để vội vàng trở về báo hung tin.

Rồi sau đó, đều đều, Hiếu Sắc lui tới thăm viếng và cấp dưỡng cho mẹ Hoá Chiêu và cô vợ góa trẻ. Và lần nào nước mắt phú hộ hào phóng cũng đầm đìa.

Người đời càng nể trọng hơn khi thấy Hiếu Sắc ân cần chăm sóc mẹ của Hoá Chiêu chu đáo hơn vợ bạn, khiến mẹ già cũng có phần đăm chiêu\

Ba năm sau, mãn tang. Hiếu Sắc cho người đến thưa chuyện với mẹ Hóa Chiêu xin cưới Tiểu Nga lam vợ. Bà mẹ đã đăm chiêu nhiều, nên thuận tình ngay, khuyên nhủ con dâu nên bước thêm bước nữa.

Lương Tiểu Nga vốn là gái hiền thục, vẫn còn thương yêu người chồng vắn số, nhưng vẫn phải vâng lời mẹ chồng, tái giá.

Cưới được Lương Tiểu Nga rồi, Hiếu Sắc vẫn một mực chăm sóc mẹ Hoá Chiêu; bà cũng an lòng nghĩ rằng con dâu mình có được bóng mát cho cuộc đời còn lại.

Vợ chồng ăn ở vơi nhau được mười năm, sinh được hai mụn con. Đời sống an nhàn. Một đêm trăng vào hạ, vợ chồng ra ngồi hóng mát bên ao sen. Hiếu Sắc nhấm rượu, và ngấm rượu; Đương lúc đó, có con ếch nhảy lên một lá sen. Tiểu Nga đưa cây sào thọc cho con ếch nhảy đi. Sào thọc xuống thì con ếch lặn, cất sào lên, nó lại trồi lên. Tiểu Nga phải thọc vào con ếch mấy lần nữa, nó mới chịu lặn chìm mất.

Bất giác, Hiếu Sắc buột miệng ngâm:

"Hồi ức thập tam niên tiền sự
Huyên tợ hà mô lục thủy thờị.
Nhớ chuyện mươi ba năm trước đây
Mường tượng ngày nay ếch ngóp ngoai

Nghe lời thơ lạ, Tiểu Nga bảo chồng lập lại để mình họa theo. Hiếu Sắc lè nhè đọc lại rồi cao hứng nói vợ lấy giấy bút cho mình chép lại làm thủ bút. Thôi rồi, kẻ hào hiệp chung chăn gối với mình mười năm nay, thì ra là một kẻ nham hiểm thâm độc.

Không thể để cho Hoá Chiêu chết oan, Tiểu Nga đã nắ lấy vật chứng là hai câu thơ thủ bút của Hiều Sắc, đem đi trình quan.

Bị bắt tra vấn, Hiếu Sắc khai hết sự thật câu chuyện hơn mười ba năm trước, vì đã cuồng si nhan sắc của Lương Tiểu Nga nên đóng trò đạo đức, rồi bày mưu giết chồng đoạt vợ Trát Hiếu Sắc bị xử tội tử hình.

Đúng là sắc bất ba đào dị nịch nhân, nhan sắc đâu phải là sóng lớn mà cũng dìm chết người, hai người chồng đều phải tức tưởi lìa đời.

Sắc đẹp là tội lỗi, nàng đã đến công đường, xin xử tội cái nhan săc nàỵ Nhưng luật pháp có bao giờ lại tử hình một hồng nhan. Có chăng thì lạ gì bỉ sắc tư phong, hồng nhan phải tự mang lấy cái nghiệp chướng đa truân.

LSB-Sun
06-03-2010, 12:23
Băng Nhân

Sự lòng ngỏ với băng nhân
Tin sương đồn đại, xa gần xôn xao

Băng nhân, người mối lái chuyện cưới hỏi, gả bán, từ một điển tích đời Tấn:

Văn nhân Linh Hồ Sách nằm mơ thấy mình đứng trên băng tuyết nói chuyện với một người lạ nằm dưới băng tuyết. Linh Hồ Sách đem chuyện năm mơ của mình thuật lại cho Sách Thẩm, một người rất giỏi về thuật số. Sách Thẩm giải mộng:

- Băng thượng nhân ngữ băng hạ nhân, tức là dương nói chuyện với âm. Điềm này tất có chuyện mai mối đây. Vậy nếu có ai nhờ tiên sinh se duyên, thì cứ nhận lời. Đến khi băng tan, thì lương duyên thành.

Mấy hôm saụ Linh Hồ Sách đưọc Điền Báo nhờ làm mối lái xin hỏi cưới con gái của Trương Công Vị. Linh Hồ Sách nhận làm mai và được Trương Công Vi đồng ý. Quả đúng, đến mùa xuân, khi băng tan hết thì hôn lễ của Điền Báo với con gái Trương Công Vi được cử hành.

LSB-Sun
06-03-2010, 12:24
Bảy Chữ, Tám Nghề

Này con thuộc lấy làm lòng
Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề
Chơi cho liễu chán hoa chê
Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời
Khi khóe hạnh, lúc nét ngài
Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa
Điều là nghệ - nghiệp trong nhà
Đủ ngần ấy nết mới là làng chơi
Theo truyện Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc): Tú bà hỏi Kiều: Tiếp khách thế nào mới lưu được khách?. Kiều trả lời: ngủ với ngươì ta chớ gì?; Tú bà giẫy nẫy: con này mới ngu làm sao ! Nếu con gái nhà thổ cũng như con gái nhà lương gia thì ai buồn chơi. Nghề chơi ở trong còn lắm điều hay, khi khách lên giường, thì mày nhường khách nằm trong, mày nằm ngoài, ngoảnh mặt lại chầu khách; tay khách tất sờ vào mình mày, mày phải sờ hạ thể khách..

Bảy chữ vành ngoaì là:

1. Khốc: khóc lóc giả bộ thương yêu, khách quyến luyến không rời được

2. Tiễn: cắt tóc mày và tóc khách, se vào nhau; mỗi người buộc vào cánh tay như thề nguyện kết tóc se tơ.

3. Thích : khi đã thỏa thê tình dục rồi, lấy kim chích tên của khách lên cánh tay hay đùi mày, lấy mực xoa vàọ Khách sẽ trút hết tiền vì nghĩ rằng mày đã chết mê chết mệt nó, mới xăm tên nó lên thân thể mày như vậỵ Khách sau đến, trông thấy ắt phải nghĩ rằng: không biết người đi trước đãi mày thế nào mà mày yêu đến thế. Tất nhiên sau đó sẽ hậu đãi mày để được lòng mày, yêu hơn người trước. Nhân thể phải biết chau mày, nói: khách đi trước đã tiêu phí không biết bao nhiêu tiền mới được lạc thú tuyệt đỉnh, do đó mới xăm tên, nay muốn được thích thú hơn, tất nhiên phải quăng tiền cho mày.

4. Thiêu: là khổ nhục kế, hai đứa đều chích máu trong người ra để thề, phỏng gặp thằng ngu, mày cùng nó đốt huơng thề, như thế thì nó táng gia bại sản cũng đáng đời.

5. Giá: dùng mẹo để lừa, cứ như mong được làm vợ, suốt ngày chỉ nói chuyện mơ ươc về nhà chồng và các điều thề thốt. Hễ nó đã mê, tự nhiên bỏ của ra; tiền đã hết rồi, nó muốn cưới, mày giả đau không dậy, thế thì chẳng phải đợi mày đuổi, nó tự động cũng cút xéo.

6. Tẩu: khách chơi đã hết của, mày phải đuổi nó ra khỏi cửạ Nếu nó vẫn đeo, thì vờ hẹn nó đến một nơi nào đó, rồi nắm áo lại, dọa sẽ tri hô lên cho quan đến bắt kẻ lưu manh có ý cưỡng bức màỵ Tự khắc nó phải bỏ mày.

7. Tử: dẫu biết nó có vợ có hầu, mày vẫn thế thốt sống chết nếu không được sống chung thì tự vẫn; vậy nó có tiêu pha hết của cho mày thì cũng phải.

Bảy chữ mới chỉ là mánh khóe bên ngoài để dụ dỗ khách. Còn khi hành lạc, thì vành trong phải đủ tám nghề:

1. Với khách có hạ thân nhỏ thì dùng phép "đánh trống giục hoa" (kích cổ thôi hoa).

2. Với khách có hạ thân lớn thì dùng phép "sen vàng khóa xiết" (kim liên song tỏa).

3. Nếu khách hối hả, lụp chụp thì dùng phép "mở cờ đánh trống" (đại chiến kỳ cổ)

4. Nếu khách khoan thai thìdùng phép "đánh chậm gõ sẽ" (mạn đả khinh sao)

5. Với người mới " vỡ lòng "thì dùng phép "ba bậc đổi thế" (khẩn thuyên tam trật).

6. Gặp khách sành sỏi thì dùng phép "tỏa tâm truy hồn"

7. Gặp khách tay ngang tì dùng phép "tả chi hữu chì"

8. Đối với khách đam mê nhan sắc thì dùng phép "dềnh dàng hớp vía" (nhiếp thần phiến tỏa).

LSB-Sun
06-03-2010, 12:24
Bể Dâu

Mở đầu Truyện Kiều:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng

Bể dâu là biển cả và bãi dâu, dịch nghĩa từ câu Thương hải tang điền , nói về những biến động đổi thay trong vũ trụ, trong đời sống con người.

Nhân sanh bách tuế chi kỳ. đời sống con người hữu hạn trăm năm, Nguyễ n Đu đã diễn ra thơ nôm :
Trăm năm trong cõi người ta.

Trong Thần tiên truyện có viết: tam thập niên vi nhất, thương hải biến vi tang điền nghĩa là cứ ba mươi năm một lần vũ trụ lại chuyển hóa, biển cả hóa thành nương dâu, nương dâu hóa thành biển cả . Chu kỳ 30 năm một lần. biển cả còn biến thàn h ruộng đất huống chi con người chỉ là hạt bụi trong vũ trụ của tạo hóa, thì sự chuyển dịch từ cõi này qua cõi khác, vận này qua vận kia là chuyện bình thường, sông có khúc, người có lúc.

LSB-Sun
06-03-2010, 12:25
Bố Kinh

Đã cho vào bậc Bố kinh
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu
Bố kinh là hai chữ thu ngắn, Bố quần là chiếc quần bằng vải, kinh thoa là cái trâm cài đầu bằng gaị Bố kinh lấy từ chuyện Lương Hồng Mạnh Quang trong sách Di Uyển của Trung Quốc:

Lương Hồng là một hàn sĩ ơ Giang Nam, nhà nghèo xơ xác, hiếu học, trọng đạo đức nhân nghĩạ Nhiều người rất cảm phục nhân cách của chàng , trong đó có một phú hộ thật tâm muốn tìm cách giúp đỡ . Lần đầu tiên tìm đến gặp Lương Hồng, phú hộ muốn tặng chàng hai gói chè quí ngọn hái từ đỉnh núi Vũ Di . Lương Hồng nhẹ nhàng thưa:

- Nếu có gì cần dạy bảo xin ngài vui lòng chỉ giáo, còn lễ vật ngài cho tôi xin được phép từ chối.

Phú hộ đành cầm lễ vật ra về, trong lòng nghĩ hay là chàng nho sĩ kia vì nghĩ phận mình nghèo hèn không dám giao tiếp với người giàu sang như ta. Nghĩ vậy nên ít ngày sau, phú hộ lại tìm đến, chân đi giày cỏ, cẩn thận buộc ngưa từ ngoài xa. Trong lều tranh, Lương Hồng vẫn mải mê đọc sách; phú hộ kiên nhẫn chắp tay đứng đợi ngoài sân. Sau mấy canh giờ, Lương Hồng chợt gấp sách, nhìn ra ngoài, trông thấy vị khách đang đứng chờ. Chàng cung kính mời vào. Lần này phú hộ chỉ xin tặng một gói trà ngang, nhưng bên trong lại có mấy nén vàng, gọi là chút tiền độ nhật cho hàn sĩ. Lương Hồng nhất mực từ chối:

- Nếu ngài có ý coi trọng kẻ hèn nay thìhãy cư xử nhau bằng tình nghĩa; xin bảo trọng tình nghĩa trong sáng này, đừng để lễ vật làm hoen ố đi.

Phú hộ lại phải đem lễ vật về và vẫn không nghĩ ra cách gì để giúp đỡ con ngươì liêm khiết này. Và không những chỉ có phú hộ này, nhiều danh gia khác cũng nghe tiếng thơm Lương Hồng, muốn muốn đem gả ái nữ chọ Trong số này, có nhà họ Mạnh, giòng dõi nho gia, giàu có mấy đời, có tiểu thư Mạnh Quang, sắc nước khuynh thành, vương tôn công tử gần xa đều ngấp nghé. Nhà họ Mạnh chủ động muốn nhận Lương Hồng làm rể. Lương Hồng cũng nghe tiếng gia đình họMạnh tuy giàu có, nhưng nổi tiếng mấy đời lương thiện, nên bằng lòng kết nghĩa trăm năm với nàng Mạnh Quang.

Ngày hợp hôn, Mạnh Quang muốn làm đẹp lòng chồng, trang điểm má phấn tô son, xiêm y lộng lẫy, vàng ngọc sáng ngờị Nào ngờ, trông thấy tân nương rực rỡ như vậy, tân lang lại tiu nghỉu, suốt bảy ngày đêm ủ ê không buồn động phòng hoa chúc. Thoạt đầu, Mạnh Quang đã quá lo âu, không hiểu mình đã lời ăn tiếng nói như thế nào để chàng phải phật ý; cuối cùng thì nàng cũng nghĩ ra và đã vất bỏ hết các xiêm y, trang sức sặc sỡ đó, mà chỉ mặc quần áo vải và đầu cài thoa gai đến bên chồng. Đến đây, Lương Hồng mơi bật lên mừng rỡ, ôm chầm lấy tân nương:

- Đây mới thật là vợ của Lương Hồng. Trong phú quý', giàu sang, thường người ta không giữ được nhân nghĩạ Ta chỉ muốn sống trong thanh bần, tự mình cày ruộng mà ăn, dệt vải mà mặc, cuộc sống đạm bạc nhưng vợ chồng luôn có nhau, tương kính nhau.

Người đời sau lấy chữ Bố kinh trong điển tích này để nói đến các bà vợ hiền thục.

Trong truyện Kiều, khi giai nhân vượt thành lễ giáo tìm đến thư phòng Kim Trọng trong đêm. Đã có lúc, chàng Kim ra chiều lả lơị Kiều khoan nhặt ..

Thưa rằng: đừng lấy làm chơi
Giả chưa hết một lời đã nao
Vẻ chi một đóa yêu đào
Buồng hồng chi dám ngăn rào chim xanh
Đã cho vào bậc Bố Kinh
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu
Ra tuồng trên bộc trong dâu
Thì con người ấy ai cầu làm chi.

LSB-Sun
06-03-2010, 12:26
Cầm Đài (Bá Nha Tử Kỳ)


Rằng nge: Nổi tiếng cầm đài
Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ

Cầm đài: cái đài để Tư Mã Tương Như ngồi gảy đàn. Tri âm: hiểu biết nhau qua tiếng nhạc; từ chuyện Tử Kỳ tri âm Bá Nha thời Chiến Quốc, tri âm đã là nghĩa chung của một tình bạn thiết thân, thông hiểu được ý nhau.

Theo sách Lã thị xuân thu: "Bá Nha cổ cầm, Chung Tử Kỳ tại ngoại thiết tính chi viết: nguy nguy hồ như thái sơn, dương dương hồ như lưu thủy" (Bá Nha gảy đàn, Chung Tử Kỳ ở ngoài nghe trộm , khen rằng: ngun ngút như núi Thái Sơn, cuồn cuộn như dòng nước chảy.

Vào lúc Tấn, Sở đang giao hảo nhau. Bá Nha là người nước Sở, nhưng lại làm quan đến chức Thượng đại phu của nước Tấn. Bá Nha nổi tiếng là một khách phong lưu văn mặc, lại có ngón đàn tuyệt diệu nhất đời; ngày liền đêm, Bá Nha không bao giờ rời cây Dao cầm thiết thân của mình.

Năm ấy, trên đường từ Sở về lại Tấn sau sau chuyến công cán, Bá Nha cho thuyền đỗ lại bến Hàm Dương vào một đêm trăng thanh gió mát. Bá Nha cho đồng tử đốt lư trầm trước thuyền, rồi lấy Dao cầm ra so phi'm thử dâỵ Dưới ánh trăng trong, tiếng đàn quyện lấy hương trầm đang cất vút lên cao giữa đêm thu thanh vắng, bỗng một tiếng " bựt " khô khan, dây tơ đồng đứt. Bá Nha nghĩ dây đàn đứt ắt có quân tử nào nghe lén đây, bèn sang sảng cất tiếng:

- Có cao nhân nào trên bờ lắng nghe tiếng đàn của tại hạ, xin vui lòng ra mặt.

Từ trên vách núị có tiếng vọng xuống:

- Xin đại nhân thứ lỗi cho, tiểu dân này đi kiếm củi về muộn, đi ngang qua đây, nghe tiếng đàn tuyệt diệu quá, nên cất bước đi không đành.

Bá Nha cười lớn:

- Tiều phu nào mà lại dám nói chuyện nghe đàn với ta?.

Tiếng nói từ trên núi lại đáp lại:

- Đại nhân nói vậy, kẻ hèn này trộm nghĩ là không đúng. Há đại nhân không nhớ câu nói của người xưa: "Thập nhất chi ấp tất hữu trung tín" (Trong một ấp có mười nhà ắt có người trung tín). Hễ trong nhà có quân tử thì ngoài cửa ắt có người quân tử đến...

Bá Nha có vẻ ngượng khi nghe câu nói của người tiều phu. Biết mình lỡ lời, ông tiến sát đến mũi thuyền nói lớn:

- Nếu thật là người trên bờ biết nghe đàn, thì xin cho biết lúc nãy tại hạ đã đàn khúc gì?.

Giọng trên bờ bình thản vọng xuống:

- Đó là Khổng Vọng Vi, Đức Khổng Tử khóc thầy Nhan Hồi. Hồi nãy, đại nhân đang đàn thì đứt dây, nên còn thiếu mất câu chót.

Nghe xong, Bá Nha thấy lòng phơi phới lạ, vội sai tùy tùng lên bờ rước người tiều phu xuống thuyền. Bá Nha trân trọng đón tiếp:

- Quý hữu biết nghe đàn, vậy chắc cũng rõ được xuất xứ của cây Dao cầm?

Tiều phu không ngập ngừng:

- Nghe nói, thuở xưa vua Phục Hy tình cờ trông thấy có năm sắc sao rơi xuống cụm ngô đồng và chim phượng hoàng đến đó đậụ Vua biêt cây ngô đồng là thứ gỗ quý, hấp thụ tinh hoa của trơi đất, có thể dùng để làm nhạc khí được, liền cho người hạ cây, cắt làm ba đoạn Đoạn ngọn, tiếng quá trong và nhẹ, đoạn gốc tiếng đục và nặng, chỉ có đoa,n giữa tiếng vừa trong vừa đục. có thể dùng được. Nhà vua cho ngâm đoạn giữa thân cây giữa dòng nươc, đúng bảy mươi hai ngày đêm, vớt lên phơi trong mát cho thật khô rồi gọi người thợ giỏi Lưu Tử Kỳ đẻo thành cây Dao cầm. Dao cầm dài ba thước sáu tấc, một phần án theo ba trăm sáu mươi mốt độ chu thiên, mặt trước rộng tám tấc, án theo tám tiết, mặt sau rộng bốn tấc án theo bốn mùa, bề dày hai tấc án theo lưỡng nghị Đàn gồm mười hai phi'm, tượng trưng cho mười hai tháng trong năm , lại có thêm một phi'm phụ tượng trưng cho tháng nhuận. Đàn có năm dây án theo ngũ hành tượng trưng cho năm âm: cung, thương, giốc, thủy, vũ. Xưa, vua Thuấn gảy đàn Ngũ huyền, thiên hạ thái bình. Khi vua Văn Vương bị ngồi tù nơi DũLý, Bá Âp Khảo thêm một dây oán, gọi là văn huyền (dây văn). Về sau, khi VũVương đánh nước Trụ, thêm môt dây nữa gia tăng kích động gọi là vũ huyền (dây vũ). Do đó, Dao cầm lúc đầu có năm dây, sau có bảy dâỵ Dao cầm có bốn điều kỵ là: rét lớn, nắng lớn, gió lớn và tuyết lớn; và bảy điều không nên là: không đàn ở đám tang, không đàn lúc lòng rối loạn, không đàn lúc lòng không thanh bạch, không đàn lúc bận rộn nhiều việc, không đàn lúc y trang không chỉnh tề, không đàn lúc không có trầm hương và không đàn lúc không có bạn tri âm.

Bá Nha nghe nói, biết tiều phu là bậc kỳ tài, đem lòng kính thương:

- Hiền hữu quả là người tinh thông nhạc lý. Xưa kia, Khổng Tử đang gảy đàn, thầy Nhan Hồi bước vào, nghe thanh âm sao mà u trầm, biết là trong tâm Khổng Tử đang giao động . Hỏi ra, mới hay là trong khi Khổng Tử đàn, thấy con mèo đang bắt chuột, nên tâm tư đã chùng tiếng tơ đồng. Trước kia, Nhan Hồi nghe tiếng đàn mà biết được lòng học trò, còn ngày nay, nghe tiếng đàn Bá Nha này , hiền hữu có biết lòng ta đang tư lự gì không?

- Xin đại nhân cho nghe một vài khúc nhạc nữa
Bá Nha thay dây đàn, gảy khúc Ý tại non cao.

Tiều phu ngẩng mặt mỉm cười:

- Tuyệt thay, ý chí cao vút. Ý tại non cao.

Bá Nha giật mình ngưng đàn. Một lúc sau gảy thêm khúc Ý tại lưu thủy.

Tiều phu khua tay xuống dòng nước:

- Trời nước bao lạ. Ý tại lưu thủy.

Bá Nha thất kinh, nhìn người tiều phu không ngớt mắt, sao lại có người cảm thấu được tiếng đàn của minh như vậỵ Ông sai nguời hầu dẹp trà, bày tiệc rưọụ Xong, ông đứng lên trước mặt người tiều phu, kính cẩn hỏi:
- Dám hỏi tiên sinh quý danh và quê quán.

Tiều phu vội đứng lên, chắp tay thi lễ:

- Tiện dân họ Chung, tên Tử Kỳ, người thôn Tập Hiền gần núi Mã Yên nàỵ Còn đại nhân, chẳng hay cao danh quý tánh là gì, hiện đi trấn nhậm nơi đâu mà ghé thuyền lại đây vãng cảnh.

- Tại hạ họ Du tên Thụy, là Đại phu nuớc Tấn, nhân đi sứ nước Sở về, thấy cảnh Hàm Dương trăng thanh gió mát, nên ghé thuyền thưởng lãm. Tại hạ chỉ là một kể tài hèn đức bạc mà thôị Còn như tiên sinh đây học thức uyên bác cớ sao không xuất thân lập công danh, phò vua giúp nước, mà lại sống ẩn dật chốn núi non hẻo lánh này.

- Tôi còn cha mẹ già, không có anh em, phận làm con phải lo tròn chữ hiếu, dẫu cho công hầu khanh tướng cũng không thể đổi được một ngày báo hiếu của tại hạ

Tử Kỳ hai mươi bảy tuổị Bá Nha trân trọng nói:

- Tiện chức hơn tiên sinh những mười tuổị Nếu tiên sinh không chê tôi đức mọn tài hèn thì xin kết làm anh em để khỏi phụ duyên tri âm.

Chung Tử Kỳ khiêm nhượng đáp:

- Đại nhân là bậc công khanh nơi triều đình, tại hạ là kẻ áo vải chốn sơn lâm thì làm sao kết bạn với nhau được, xin đại nhân miễn cho.

- Giá trị con người đâu ở chỗ giàu sang phú quý, mà ở đức hạnh tài năng. Nay nếu tiện sinh chịu nhận làm anh em thì thật là vạn hạnh cho tiện chức.

Bá Nha đã có thành tâm, Tử Kỳ không từ chối nữa.. Bá Nhà sai người hầu đốt lò hương mới, lập hương án trước thuyền, cùng Tử Kỳ lạy trời đất tám lạy, nhận nhau làm anh em khác họ Rồi hai bạn cùng đối ẩm chuyện trò với nhau rất chi là tương đắc.

Đến lúc ánh trăng nhạt nhòa, tiếng gà eo óc gọi ánh nắng mai, đoi bạn đành phải chia taỵ Bá Nhà giọng run run, nhìn Tử Kỳ:

- Lòng huynh quá cảm mộ, chưa nỡ rỡi hiền đệ Hiền đệ có thể cùng huynh đi thêm một đoạn đường để thêm đước một khúc chuyện trò cho thỏa mối tâm tình.

Chung Tử Kỳ cũng không dấu được xúc động:
- Theo lễ, tiểu đệ phải tiễn hiền huynh vài dặm đường mới phải, ngặt vì song thân của tiểu đệ đang trông ngóng ở nhà, xin hiền huynh thứ lỗi.

- Vậy thì hiền đệ về nhà xin với song đường qua nước Tấn thăm chơi, chắc là sẽ được nhận lời.

"Phụ mẫu tồn , bất khả viễn du", làm sao Tử Kỳ có thể rời cha mẹ để vui chơi cùng bạn đươ+.c. Cuối cùng, Bá Nha nắm tay Tử kỳ, giọng khẩn thiết:

- Sang năm, cũng vào giờ này, xin hẹn hiền đệ tại đây.

Rồi lấy ra hai nén vàng, hai tay dâng cao lên trước mặt:

- Đây là món lễ vật mọn của ngu huynh làm quà cho bá phụ, bá mẫu, đã xem nhau là cốt nhục xin hiền đệ chớ từ chối.

Cảm tình tri ngộ, Tử Kỳ không từ chốị Lưu luyến chia tay, đôi bạn bịn rịn không thốt lên nỗi lời tạm biệt.

Thấm thoắt một năm qua, ngọn gió heo may từ phương Bắc về đem mùa thu đến. Bá Nha vào triều kiến vua Tấn xin được phép về Sở thăm quê nhà. Thuyền đến bến Hàm Dương, Bá Nha cho dừng lại dưới núi Mã Yên. Lòng bồn chồn trông ngóng. Vừng kim ô đã ngả bóng xuống lòng sông, khói sóng dâng lên nghi ngút, sao mãi vẫn không thấy bạn tri âm. Bá Nha cho đồng tử đốt lò hương, rồi lấy Dao cầm đàn một khúc. Trong cơn gió nhẹ đầu thu, Bá Nha bỗng nghe tiếng đàn của mình sao mà ai oán, não nùng. Bá Nha thất kinh, ngừng tay đàn, tâm thần rối bời ; cung thương bỗng nghe sầu thảm như thế này thì chắc là Chung Tử Kỳ gặp nạn lớn rồị Cả đêm, Bá Nha trăn trở, nhớ thương và âu lo cho bạn. Trời chưa sáng, Bá Nha đã khoác cây Dao cầm lên lưng, bỏ vào túi mười nén vàng ròng rồi cùng vài tên hầu tìm đến chân núi Mã Yên . Dọc đường. gặp một ông lão, tay xách giỏ mây, tay cầm gậy trúc. Bá Nha lễ phép thưa:

- Xin lão trượng chỉ đường đi đến Tập Hiền thôn.

- Có Tập Hiền thông thượng, Tập Hiền thôn hạ. Tiên sinh cần đến thôn nào ?
- Thưa lão trượng, ngư+ời Tử Kỳ họ Chung ở thôn nào?

Vừa nghe nhắc đến tên Chung Tử Kỳ, lão ông sa sầm nét mặt, đôi mắt trũng sâu chảy dài hai hàng lệ. Lão ông sụt sùi, giọng ngắt đoạn:

- Chung Tử Kỳ là con lão. Năm ngoái cũng vào ngày này, nó đi củi về, gặp một vị quan nước Tấn tên là Bá Nha và kết nghĩa huynh đệ vì chỗ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Lúc chia tay, vị quan có tặng cho vợ chồng lão hai nén vàng. Ở nơi núi non heo hút thế này, vợ chồng lão chưa cần đến số vàng đó, nên con lão đã dùng đổi lấy sách, đọc bất kể ngày đêm, giờ giấc , ngoài việc đốn củi mưu sinh. Có thể vì quá lao nhọc, con lão đã lâm bệnh mà qua đời...

Chưa kịp nghe hết lời, Bá Nha đã bật òa khóc, ôm chầm lấy ông lão, hậu sinh này chính là người bạn kết giao của Chung Tử Kỳ đây. Ông lão thảng thốt, trời ơi:
- Mang ơn đại nhân không chê trách cảnh bần cùng, đã cùng con lão kết nghĩa tâm giao. Lúc lâm chung, con lão đã trối trăn lại: " Sống không trọn đạo làm con, chết xin được chôn dưới chân núi Mã Yên để trọn đạo nghĩa với bạn, nằm bên triền dốc chờ đúng lời hẹn mùa thu này" Con đường mà đại nhân vừa đi quạ phía bên phải có nấm đất nhỏ là ngôi mộ của Tử Kỳ. Hôm nay đúng một trăm ngày mất, lão vừa đi viếng mộ con về thì gặp đại nhân.

Trước mộ Tử Kỳ, Bá Nha vừa lạy bạn xong, truyền đem đàn đến, ngồi trên tảng đá tấu khúc "Thiên thu trương hận". Tiếng đàn đang réo rắt bỗng trầm hẳn xuống. Tiếng gió ngàn rít mạnh, bầu trời trở màu tối sẩ?m và tiếng tiếng chim từ xa vọng vềnghe u uất não nùng. Bá Nha ngưng đàn. Gió ngừng rít, trời trong sáng trở lại, chim ai oán lặng tiếng. Bá Nha nhìn Chung lão thưa:

- Tử Kỳ đã về đây chứng giám cho lòng thành của tiểu sinh. Cháu vừa đàn khúc đoản ca để viếng người tri âm tài hoa mệnh yểu, và xin đọc thành thơ đoản ca này:

Ức tính khi niên xuân
Giang thượng tằng hội quân
Kim nhật trùng lai phỏng
Bất kiến tri ân nhân
Đản kiến nhất phân thổ
An nhiên thương ngã tâm
Bất giác lệ phân phân
Lai hoan khứ hà khổ
Giang ban khởi sầu vân.
Tử Ky, Tử kỳ hề !
Nhĩ, ngã thiên kim nghĩa
Lịch tận thiên nhai vô túc ngữ
Thử khúc chung hề bất phụ đàn
Tam xích Dao cầm vị quân tử
(Từ nhớ đến muà thu năm trước
Bến trường giang gặp bạn cố nhân
Năm nay lại đến Giang Tân
Giòng sông lạnh ngắt cố nhân đâu rồi
Buồn chỉ thấy nấm mồ bên núi
Cõi ngàn năm chia cắt đau lòng
Ôi thương tâm, ôi thương tâm
Sụt sùi lai láng bao hàng lệ rơi
Mây sầu thấp thoáng chân trời
Đêm vui đổi lấy một đời khổ đaụ
Tử Kỳ ơi, Tử Kỳ ơi
Ngàn vàng khôn chuộc được bầu tâm can
Thôi từ nay, thôi phi'm đàn
Ngàn thu thôi hết mơ mòng cố nhân...)

Lời thơ vừa dứt, Bá Nha nâng Dao cầm lên cao, đập mạnh xuống tảng đá. Dao cầm vỡ tung từng mãnh, trụ ngọc, phi'm đồng rơi lả tả. Lão ông hoảng kinh, sao đại nhân lại đập vỡ đàn quí. Bá Nha đáp lời bằng bài thơ tứ tuyệt:

Thốt đoái Dao cầm phượng vĩ hàn
Tử Kỳ bất tại, hướng thùy đàn ?
Xuân phong mãn diện giai bằng hữu
Dục mịch tri âm, nan thượng nan
(Dao cầm đập nát đau lòng phượng
Đã vắng Tử Kỳ đàn với ai
Gió xuân bốn phía bao bè bạn
Khó thay tìm được bạn tri âm

Bốn câu thơ là bài văn tế cho bạn. Bá Nha quay lại phía lão ông, sụp quỳ xuống:

- Bá Kỳ Tử Nha đã y lời hẹn đến đây rồị Nay tiểu sinh có đem theo ít nén vàng, xin thành tâm dâng lên bá phụ cùng bá mẫu để cung dưỡng tuổi già và tạo mươi mẫu ruộng làm tự cho Tử Kỳ. Bốn năm nữa hạ quan sẽ dâng biểu từ quan, về đây chung sống với bá phụ bá mẫu, với người bạn tri âm.

Chung lão không từ chốị Bá Nha lạy Chung lão, lạy tạ từ bạn rồi quay xuống cho thuyền nhổ sào, trở về nước Tấn.

LSB-Sun
06-03-2010, 12:27
Chàng Tiêu

Có điều chi nữa mà ngờ
Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu
Hững hờ chàng Tiêu chuyện được ghi trong sách Tình sử Trung Quốc:

Thời Khai Nguyên nhà Đường, có chàng Tú tài Thôi Giao, văn tài trác tuyệt, nhưng thế cô, nhà lại nghèo xơ xác nên khó bề lập thân. Tuy vậy chàng Tú vẫn thiết tha yêu đời vì có người yêu Lục Châu, một dung nhan kiều diễm đang tuổi trăng tròn, giỏi thi phú, đàn ca xướng hát.

Gia cảnh Lục Châu cũng vào thuộc loại bần hàn, nên nàng phải làm thị tỳ cho người cô của Thôi Giao. Cũng là một cơ may để cho đôi lứa có nơi chốn mà tình tự. Bà cô cũng có ý muốn tác hợp cho hai trẻ, nên cô gắng buôn bán vài chuyến lớn kiếm lãi, tổ chức hôn lễ đàng hoàng và cho đôi tân hôn chút của hồi môn.

Chẳng may, chuyến buôn này rồi chuyến buôn khác cứ bị lỗ lã nặng. Gia sản bà sa sút quá nhanh chóng, rồi sinh nợ chồng chất. Đường cùng, để khỏi bị con nợ tịch biên nhà cửạ bà cô phải bán Lục Châu cho quan Liên súy Vũ Địch, giá bốn mươi vạn tiền.

Vậy là từ đó, đôi uyên ương như chim cụt cánh, như cây cụt cành.

Quan Vũ Địch đưa nàng Lục Châu vào dinh nhưng vẫn không làm điêù chi sỗ sàng quá đáng. Còn chàng Thôi Giao thì lang thang thất thểu đó đây, tự đặt tên cho mình là Tiêu Lang. Nhưng dù có nghêu ngao ở đâu, sáng nào chàng ta cũng đứng ngấp nghé ngoài cổng dinh phủ, mong được nhìn thấy người yêu. Nhưng mỗi lần may mắn gặp mặt, Tiêu Lang lại phải nén lòng, quay mặt đi nơi khác, làm ra vẻ hờ hững. Lục Châu cũng bị xé nát tâm cang, cắn răng cúi đầu, lẫm lũi bỏ đi. Giọt châu lã chã khôn cầm.

Một hôm, vào tiết hàn thực trời rét như cắt, Lục Châu có việc ra ngoài, phải mặc đến hai áo bông; nàng chợt trông thấy Tiêu Lang đứng dưới gốc liễu rũ, thân thể gầy gò run rẩy trong trong chiếc áo rách mỏng manh. Không cầm lòng được, nàng chạy đến ôm chầm lấy chàng. Thôi thì tha hồ mà khóc, kể lễ nỗi nhớ thương. Lâm ly lắm rồi cũng phải ngậm ngùi chia tay. Lục Châu choàng áo bông ôm ấp hơi ấm cho chàng. Thôi Giao cỡi chiếc áo rách lổ chổ, viết lên đó mấy câu thơ tặng nàng:
" Công tử vương tôn trực hậu trần
Lục Châu thúy lệ thấu la cân
Hầu môn nhất nhập thâm như hải
Tòng thử Tiêu Lang thị lộ nhân "
Ngô Tất Tố dịch:
Theo chân bao kẻ ngộp mùi hương
Tầm tã khăn the lệ mấy hàng
Một tới cửa hầu sâu tợ biển
Chàng Tiêu từ đó khách qua đường.

Lục Châu ôm thơ về, đêm đêm gối đầu chờ mộng.

Trong phủ Liên Súy Vũ Địch có một tên hầu, ngày trước đã từng rắp' tâm bắn sẻ Lục Châu, nhưng đâu được toại nguyên, nên sinh thù ghét. Gặp dịp may đưa đến, hắn trộm chép bài thơ, dán gần cửa thư phòng Vũ Địch. Quan đọc được thơ, tra hỏi kẻ hầu người hạ, biết được tác giả là Tiêu Lang Thôi Giao. Vũ Địch cho lính truy tìm, đưa được Thôi Giao vào phủ đường. Tiêu Lang nghĩ rằng mạng sống sắp tiêu tùng, nhưng dù có được chết vì tình, cũng không khỏi run sợ. Nhưng khi tiếp kiến Vũ Địch, quan không bắt quì chịu tội, mà lại chỉ ghế mời ngồi. Quan bước lại gần, cầm lấy tay Tiêu Lang, cười độ lượng:

- Một tới cửa hầu sầu tợ biển, Chàng Tiêu từ đó khách qua đường. Hai câu thơ này hẳn làcủa Tiêu Lang rồi. Từ lâu ta vẫn nghe danh Tú tài Thôi Giao tài hoa. Nhưng chỉ vì tội nghèo mà không tiến thân được, lại không giữ được người yêu. Sá gì bốn mươi vạn tiền mà ta phải làm tan nát một mối tình.

Vũ Địch cho người hầu chuẩn bị một số tiền bạc, nữ trang và mộ t cổ xe ngưa, rồi cho mời Lục Châu:

- Nay ta ban tặng cho người con gái thủy chung chút vốn liếng và lễ vật. Nàng hãy lên xe cùng với Thôi Giao, về quê cũ xây tổ ấm.

LSB-Sun
06-03-2010, 12:28
Đào Nguyên

Chào mừng , đón hỏi dò la
Đào Nguyên lạc lối đâu mà đến đây

Đào nguyên là gốc đào, có người còn gọi là động đào nguyên hoặc động bích (động xanh).

Đời nhà Tấn có nhà thơ Đào Tiềm, tức Nguyên Lượng Đào Uyên Minh. Trong những bài thơ của ông, được truyền tụng nhất là hai bài Quy khư lai từ và Đào Nguyên ký, được kể thành chuyện:

Đời nhà Tấn , tại huyện Võ Lăng có một lão chài, đánh cá dọc theo khe núị Một hôm đang chèo thuyền đánh cá, ông thấy một đóa hoa đào trôi từ khe núi rạ Ông nghĩ:

- Hoa đào trôi ra từ nơi phát nguyên, chứng tỏ ở đầu nguồn có dân cư và nơi ấy có trồng nhiều hoa quí, nhất là anh đào.

Ông lão chèo thuyền ngược dòng nước để tìm chốn đào nguyên. Thuyền đi mãi, chỉ thấy rừng núi xanh mướt, lão ông không nản. Sau cùng cũng tìm đến được một nơi dân cu khá đông, đời sống an nhàn và có trồng nhiều loài hoa quí, nhất là hoa đào.. Lão ông đi sâu vào xóm thì thấy ở đây vườn đào san sát, đúng là một động đào. Dân sống trong các vườn đào đều ăn mặc theo y phục kiểu nhà Tần, thời Chiến quốc. Thật là một điều lạ, ở nơi rừng sâu núi cao lại có một vùng dân cư, cuộc sống đã có từ lâu đời mà không ai biết. Hỏi ra mới hay: họ vốn là những người nước Tần, nhưng không chịu được chế độ hà khắc của Tần Thủy Hoàng và tướng Ly Tư nên kéo nhau di cư lên đây đã mấy đời. Con ngườ sống ơ" đây thật khả ái, thanh thản. Lão ngư ông lưu lại ít ngày, rồi xuôi dòng trở làng cũ, thuật lại mọi điều mình đã trông thấy nơi đào nguyên.

Thời gian sau, lão ông rời bỏ quê mình, ngược dòng tìm đến đào nguyên. Những đào nguyên trước, không còn tìm thấy đâu nữa.

Hay đây là cảnh tiên. Từđó người đời sau dùng chữ đào nguyên để chỉ nơi tiên cảnh .

LSB-Sun
06-03-2010, 12:28
Đỉnh Giáp Non Thần

Bâng khuâng đỉnh Giáp, non Thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.


Đỉnh Giáp là núi Vu Giáp; non Thần là núi Thần Châu.

Thời Chiến quốc, một hôm vua Sở Tương Vương cùng Tống Ngọc đến vãng cảnh vùng Cao Đường, ở đó có đầm Vân Mộng dưới chân núi Vu Giáp. Nhà vua nhìn lên lưng núi thấy mây ngùn ngụt luôn thay đổi hình dạng, lúc dồn dập dày đặc, khi tan loãng như mây trời. Nhà vua hỏi Tống Ngọc:

- Khi gìvậy?

Tống Ngọc thưa:

- Tâu Chúa công, đó là mây sớm. Ngày trước , tiên đế một hôm đến chơi Cao Đường, giữa ban ngày ngủ quên. Tiên đế nằm mơ thấy một người con gái tuyệt sắc, xưng là thần núi Vu Giáp, rồi bày cuộc ái ân với tiên đế. Đến khi từ biệt, nàng nói: "Thiếp' ở trên núi Vu Giáp, nơi cao sơn, sớm làm mây, tối làm mưa; sớm ở Vu Sơn, tối ở Dương đài.

Từ điển tích này, người đời sau, giao hoan giữa gái trai còn nói là vu sơn, hay chuyện "mây mưa".

LSB-Sun
06-03-2010, 12:29
Đoạn Trường

Làm cho sống đọa thác đày
Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi

Đoạn trường nghĩa là đứt từng khúc ruột. Khi chịu sự đau khổ cùng cực, nỗi đau có thể làm cho người đứt từng khúc ruột hay có thể lìa đời.

Sách "Đường thi kỷ sự" đã chép chuyện nàng Mạnh Tài Nhân của vua Đường Vũ Tông:

Khi lâm chung. biết mình không qua khỏi, Đường Vũ Tông nắm chặt tay Mạnh Tài Nhân mà rằng:

- Ta chết đi cũng đành, nhưng thương cho người rồi sẽ ra sao..

Mạnh Tài Nhân nấc từng tiếng, chỉ vào chiếc túi vải đựng ống sáo:

- Thần thiếp xin lấy chiếc túi đó để tự vẫn, theo cùng quân vương.

Vũ Tông bật khóc. Mạnh Tài Nhân thưa:

- Xin bệ hạ hãy nghe thiếp ca bài Cung từ của Trương Hộ để tiễn đưa thiêp cùng bệ hạ xa lìa cõi đời này.

Tiếng hát cất lên cao vút, cao vút nghe quá i ai, đến hết bài thì nàng đứt hơi, đứng bất động trước vua. Nhà vua gọi ngự y khám và được tâu lại: Mạch của tài nhân vẫn còn ấm, nhưng nàng đã đứt ruộ t màchết rồi.

Vua thương xót quá đỗi và rồi cũng theo nàng đi luôn.

Đến khi di quan, thì linh cữu nhà vua như trì xuống quá nặng, đội quân khiêng không nhắc lên nỗị Hay là Hoàng thượng còn muốn đợi tài nhân? các quan bèn sai đưa quan tài của Mạnh Tài Nhân rạ Quả nhiên, quan tài của hai người được khiêng đi rất đằm.

Cảm kích cho mối tình thắm thiết , Trương Hộ viết bài thơ, đề tựa: "Tài nhân vì lòng thanh nên đứt ruột mà chết, nhà vua vì lòng thành mà mệnh chung; những kẻ khích liệt ngày trước vì nghĩa mà chết cũng không hơn được." Thơ rằng:

" Ngẫu nhiên ca bãi vịnh kiều tần
Truyền xướng cung trung nhị thập xuân
Khước vị nhất thanh Hà Mãn Tử
Hạ tuyền tu điếu cựu Tài nhân "

(Ngẫu nhiên tàn tiệc vịnh đôi vần
Truyền tới trong cung hai chục xuân
Lại bởi một câu Hà Mãn Tử
Tuyền đài phái điếu bậc Tài nhân)

LSB-Sun
06-03-2010, 12:29
Đồng Tước

"Thanh minh trong tiết tháng Ba" chị em Kiều trên đường đi tảo mộ về, chợt trông thấy nấm mồ hoang đầy cỏ dại, lạnh không chút khói hương. Trong lúc lòng Kiều đang xót xa cho thân phận Đạm Tiên, thì Kim Trọng, trên lưng ngựa trắng, theo sau lẻo đẻo hai tiểu đồng, cũng tình cờ đi ngang qua đấỵ Lần đầu tiên được diện kiến giai nhân, tâm trạng vui mừng của chàng thư sinh được diễn tả bằng hai câu thơ:

Trộm nghe thơm phức hương lân
Một nền Đồng Tước khoá xuân hai Kiều.

Đồng Tước, tên của một đền đài nguy nga tráng lệ thời Tam Quốc, nay không còn nữạ Khi qua sông Xích Bích, Đỗ Phủ đã có bài thơ hoài cổ, trong đó có câu:

Đông phong bất dữ Châu Lang tiện
Đồng Tước thâm xuân tỏa nhị Kiềụ
(Gió đông chẳng giúp thuận chiều
Trong đền Đồng Tước hai Kiều khóa xuân)
(Trần Trọng Kim dịch).

Trở lại thơì Tam Quốc . Tào Tháo tự Mạnh Đức, là Ngụy Võ Đế cho xây đài Đồng Tước trên sông Chương Giang, tỉnh Hà Nam. Trong lễ tiệc khánh thành, Tào Thực, con của Tào Tháo, đã làm bài phú vịnh Đồng Tước đài, có câu:

Liên nhị kiều ư Đông Tây hề
Nhược trường không chi nhuế đống.
(Bắc liền hai cầu ở Đông Tây như các cầu vồng nổi lên giữa lưng trời).

Vào lúc này, thế của Lưu Bị đã suy yếu hẳn; quân sư Khổng Minh phải vận dụng mưu lược mong khôi phục nhà Hán, bằng cách phải tạo mối thù nghịch giữa Tôn Quyền và Tào Tháọ Ở Giang Đông, tuy Tôn Quyền là chúa tể , nhưng mọi binh quyền đều thuộc về tay Châu Dụ Châu Du và Tôn Sách, chúa của Đông Ngô là hai anh em cột chèo, rể của Kiều Công. Tôn Sách lấy người chị là Đại Kiều, Châu Du, lấy người em là Tiểu Kiềụ Cả hai chị em đều là giai nhân tuyệt sắc.
Khổng Minh lặn lội vào Đông Ngô, tìm đến Châu Du:
- Trong lúc thế chiến đang căng thẳng, dân gian đang mong đợi thanh bình, vậy mà Tào Tháo vẫn lấy uy quyề của vua để ức hiếp mọi nơị Lại còn lấy của kho, xây đài Đồng Tước tốn kém biết bao nhiêu mà kể, mục đích làm gì, tướng quân có biết không ?.
Châu Du chưa trả lời, thì Khổng Minh đã tiếp:
- Tào Tháo xây Đồng Tước đài là muốn gây chiến vơi Đông Ngộ
- Muốn chiến tranh với Đông Ngô thì xây đài Đồng Tước làm gì ?
- Thật tình tướng quân không biết sao ?.
Châu Du lắc đầụ Khổng Minh tiế'p ngay:
- Chẳng lẽ việc Tào Tháo luyện tập thủy binh ngày đêm, tướng quân không biết saỏ
Châu Du ngậm ngự:
- Việc đó tôi có nghe
Khổng Minh bồi thêm:
- Cùng với việc luyện tập thủy binh, Tào Tháo còn cho xây cất Đồng Tước đài, để sau chiến tranh, chiếm cứ được Đông Ngô, Tào Tháo sẽ bắt Đại Kiều và Tiểu Kiều về Đồng Tước đài mà hoan lạc.
Châu Du mặt đỏ gay, thét to:
- Dựa vào đâu mà ông dám nói Tào Tháo xây Đồng Tước đài để bắt Nhị Kiều đem về hành lạc.
Khổng Minh thong thả đáp:
- Xin tướng quân hãy nguôi giận. Vậy thì tướng quân không biết bài phú của Tào Thực vịnh Đồng Tước đài à. Nguyên văn như thế này....

Nhưng đến hai câu:
Liên nhị kiều ư Đông Tây hề
Nhược trường không chi nhuế đống...thì mưu sĩ Khổng Minh lại đọc là:
Lãm nhị Kiều ư Đông Nam hề
Lạc triêu tịch chi dữ cộng
(Bắt hai nàng Kiều ở Đông Nam về để sớm tối chung vui).
(nhị kiều của Tào Thực là hai cây cầu; nhị Kiều cuả Gia Cát Lượng làvợ của Tôn Sách và vợ của Châu Du)..

Châu Du, tươ"ng hữu dõng vô mưu đã trúng kế độc của Khổng Minh. Sau đó, tướng này đã dàn trận hỏa công trên sông Xích Bích, thiêu rụi mười vạn quân Tào, Ngụy Võ Đế đại bạị Lợi dụng thời cơ, Lưu Bị xua quân chiếm Kinh Châu, chiếm' vào Lưỡng Xuyên, hình thành thế chân vạc thời Tam Quốc.

LSB-Sun
06-03-2010, 12:30
Gieo Thoi

Gieo thoi trước chẳng giữ giàng,
Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?

Gieo thoi, ý muốn nói người con gái ném con thoi của khung dệt để bảo toàn tiết hạnh.

Trong tích Tây Sương ký cũng có lời nàng Thôi Oanh Oanh "gợi ý" cho Trương Quân Thụy vì có tình ý cùng chàng: "Quân tử hữu viện cầm chi khiêu, bỉ nhân vô đầu thoa chi cự (quân tử có ôm đàn mà bỡn cợt, bỉ nhân này không dám quăng thoi mà cự tuyệt).

Theo chuyện đời nhà Tấn, Tạ Côn có cô hàng xóm họ Cao nhan sắc khó ai bì, chuyên nghề dệt cửi. Tạ Côn thường hay tìm qua nhà cô gái thả lời ong bướm. Có lần, cô gái ngưng dệt, cầm con thoi ném vào mặt Tạ Côn, làm chàng ta gãy mất hai cái răng. Từ đó hết lời trêu ghẹo.

LSB-Sun
06-03-2010, 12:31
Giọt Hồng

Nhìn càng lã chã giọt hồng
Rỉ tai, nàng mới giãi bày trước sau:
Hổ sinh ra phận thơ đào
Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong ?

Trong sách thuốc có viết: Nhân hữu vựng uất, hốt hôn mê bất tỉnh nhân sự (người có chứng vựng uất thường hay bị ngất).

Giọt hồng, giọt nước mắt có màu hồng như máu, người đời còn gọi là huyết lệ khóc cho nổi đau khổ cùng cực trong những hòan cảnh khốn cùng. Điển tích Giọt hồng có trong trong Ngụy Thư:

Đời vua Ngụy Văn Đế có vị quan Tiết Hằng tuổi già về quê ở huyện Lộc Nam cùng với vợ và con gái Tiết Linh Vân. Linh Vân đang tuổi trăng tròn, nổi tiếng là một trang thiên hương quốc sắc, học giỏi, lại rất hiếu thảọ Hai năm sau khi Tiết Hằng về quê, trong vùng Lộc Nam nạn cướp bóc hoành hành, giáp biên giới giặc giã lại nổi lên. Triều đình sai Trương Bá Sanh, một vị quan trẻ kiêu ngạo, tham lam, về dẹp loạn. Tình hình tạm yên; Bá Sanh được bổ nhiệm làm tri huyện Lộc Nam.

Nghe tiếng nhan sắc Linh Vân, quan huyện mon men tìm đến. Khi trở về, tức tốc huyện ta cho người mai mối. Cha con Linh Vân từ chối. Bá Sanh sinh thù. Nhân lúc giặc giã lại nổi lên, Bá Sanh lập mưu vu cáo lão quan về hưu tư thông giặc rồi sai nha quân đến nhà bắt Tiết Hằng dẫn lên huyện đường, giam vào ngục, nói là chờ ngày xét xử nhưng thật ra để ép duyên Linh Vân. Linh Vân quá đau đớn vì nỗi hàm oan của cha, đánh liều gởi thư về triều kêu oan. Làm sao thư đến được tay vua. Linh Vân lại thư cầu cứu đến vị quan thứ sử họ Huỳnh, là một người bạn cũ của cha nàng. Huỳnh Thứ sử vào chầu vua xin chiếu chỉ, phái Mạnh Quang, một viện sĩ Hàn Lâm giỏi văn chương thi phú, về huyện Lộc Nam tuần tra.

Hai tháng về Lộc Nam thanh tra, hồ sơ kêu oan của người dân đã chất cao ngất, vậy mà hàn sĩ Mạnh Quang không hề ngó ngàng tới. Suốt này quan thanh tra chỉ thơ thới với gió núi mây ngàn, chẳng buồn quan tâm đến chuyện thế sự.

Một hôm Mạnh Quang lang thang xuống đường. Phố chợ sao mà đìu hiu, dân tình xơ xác. Mạnh Quang ghé vào một quán nước chè, bỗng gặp một giai nhân, áo quần xốc xếch, không chút phấn son, đang ngồi khóc tấm tức. Mạnh Quang hỏi dò bà lão chủ quán, mới hay người đẹp là Tiết Linh Vân đang khóc cho nỗi oan khiên của cha. Bấy giờ Mạnh Quang mới chợt nhớ nhiệm vụ của mình là về đây giải oan cho gia đình người con gái hiếu thảo này.


Mạnh Quang đi thẳng đến huyện đường Lộc Nam, vào nhà tù thăm các phạm nhân. Mạnh Quang đòi quan huyện Trương Bá Sanh trình những hồ sơ của các phạm nhân có quan hệ với giặc. Xét xong hồ sơ, Mạnh Quang chỉ thị phóng thích hết các tù nhân loại này vì không đủ chứng cứ buộc tội.

Huyện quan chấp hành lệnh quan triều đình. Ít hôm sau, Mạnh Quang lại xuống chợ, ghé lại quán nước chè của bà lão, lại vẫn thấy nàng Tiết Linh Vân ngồi khóc tức tưởi. Hỏi ra mới hay, nhiều tù nhân đã được về đoàn tụ gia đình, nhưng phụ thân của nàng bị hàm oan, vẫn chưa được cứu xét. Mạnh Quang hộc tốc quay về nha phủ gặp quan huyện:

- Ta được chiếu chỉ về huyện Lộc Nam này xét lại các vụ án kêu oan. Nay, ta muốn thẩm tra hồ sơ của Tiết Hằng, người bị kết tôi tư thông với giặc.

Thì ra, Bá Quang đã dấu nhẹm hồ sơ của Tiết lão. Bây giờ quan khâm sai của triều đình đã gọi đích danh thì phải trình rạ Bá Quang đem hồ sơ về, ngày sau trả lại cho Bá Sanh với lời phê: không nhân chứng, không vật chứng sao lại kết tội người ta, lệnh phải tức tốc phóng thích nghi can.. Bá Sanh hận vô cùng, nhưng đành cắn răng chấp lệnh của quan khâm sai.

Hai ngày sau, Bá Quang tìm đến thăm gia đình Tiết Hằng. Một già một trẻ, mới gặp nhau lần đầu mà đã tâm đắc, văn chương thi phú đối đáp đến sáng đêm. Tiết Hằng ngỏ ý muốn gả con gái mình cho Bá Quang. Quan khâm sai hân hoan nhận lời. Bá Qung cáo từ phải về kinh trình tấu kết luận thanh tra và xin hẹn tháng sau sẽ trở lại lam lễ thành hôn cùng Tiết Linh Vân.

Phần quan huyện Bá Sanh, vì oán thù cha con Tiết Hằng, nay lại được tin tình địch của mình là Bá Quang sắp ẵm nàng Tiết Linh Vân đi, đâu được, ta phải cho chúng bây tan tác. Trương Bá Sanh liền thư về triều đình, dâng lên vua, xin đề cử tiế'n cung một nhan sắc tuyệt trần chim sa cá lặn. Vua Ngụy Văn Đế thích ý, liền ra chỉ dụ, triệu Tiết Linh Vân nhập cung.

Ôi thôi, lại một kiếp hồng nhan. Ngày phải bước lên kiêu về cung, Tiết Linh Vân đã khóc như mưa, nước mắt uớt cả xiêm y. Lòng quặn đau thương cha . nhớ mẹ, nặng tình quê hương. Hai tì nữ theo hầu, phải dùng một bình sứ để hứng nước mắt cho nàng. Khi về đến kinh thành, bình sứ đã đầy quá nửa nước mắt hồng, cô đặc lại như máu, gọi là huyết lệ.

LSB-Sun
06-03-2010, 12:32
Gương Vỡ Lại Lành

Bây giờ gương vỡ lại lành,
Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi
Còn duyên may lại còn người
Còn lời trăng bạc, còn lời nguyền xưa
Quả mai ba bảy đương vừa
Đào non sớm lựa xe tơ kịp thì

Thời Nam Bắc triều, Trần Hậu Chủ là một hôn quân, ham mê tửu sắc, không màng chi việc triều chính. Trong lúc đó, nước Tùy ở phương Bắc đang trổi dậy, thanh thế lớn nhanh; Từ Văn Đế Dương Kiên ngấp' nghé mưu toan diệt Trần.

Em gái Trần Hậu Chủ là quận chúa Lạc Xương, một giai nhân tuyệt sắc, có chồng là nho sĩ Từ Đức Ngôn. Tuy sống trong phú quí hoàng cung, nhưng vợ chồng TừĐức Ngôn cứ phập phồng lo sợ, một ngày nào đó ngoại xâm sẽ giày xéo giang sơn nhà Trần.

Ngày đó không xa, quân Tùy đã tràn vào như thác lũ. Đức Ngôn vội vàng thu quén ít tiền bạc, định đưa cả gia đình bỏ trốn khỏi kinh thành. Nhưng Lạc Xương đã ngăn lại:

- Chàng là bậc nam nhi, gặp lúc loạn ly, phải xả thân cứu quốc. Thiếp sẽ luôn ở bên chàng, thà chết vinh hơn là sống nhục.

- Đúng, ta phải ở lại góp sức diệt giặc. Nhưng nàng, một nhan sắc không khỏi bị nhục khi giặc tràn vàọ Vây nàng hãy vâng lời ta, một mình trốn đi.

Lạc Xương thuận theo lời chồng, rồi cầm lấy chiếc gương hàng ngày mình vẫn soi bóng, đập vỡ làm đôi:

- Chàng hãy cầm lấy nửa mảnh gương này, thiếp giữ một nửa. Nước sẽ mất, nhà sẽ tan, nhưng tình đôi ta không có gì có thể chia cắt được. Chúng mình phải sống cho nhau; hẹn chàng, đến ngày thượng nguyên, không được năm nay, thì qua năm khác, qua năm nữa..., vợ chồng mình đem mảnh gương này ra chợ Tràng An bán. Nếu trời thương cho vợchồng mình còn gặp nhau, thì hai mảnh gương sẽ đuợc ghép khít vào , gương vỡ lại lành, đôi ta sum vầy.

Vợchông bùi ngùi chia tay.

Chưa đầy một tháng, kinh thành nước Trần thất thủ, vua tôi lưu lạc tán loạn. Tướng Tùy là Việt Công xua quân, tha hồ càn quét. Lạc Xương, từ ngày chia tay chồng đã chạy thoát gần đến biên giới an toàn, nhưng vì lo âu cho chồng, nên lại quay trở về kinh thanh dò la tin tức, không may lọt vào vòng vây của giặc. Một nhan sắc giữa rừng gươm, hỏi ra lại là dòng dõi trâm anh thế phiệt, thì làm sao Việt Công lại không rúng động. Tên tướng Tùy liền giành lấy cánh hoa này, đem về ép làm hầu thiếp. Lạc Xương kháng cự mãnh liệt, hoặc là giữ được tiết hạnh hoặc chọn lấy cái chết. Cũng may, Việt Công không phải là tên võ biền háo sắc, hạ tiện nên đã không cố ép liễu nài hoa. Nghĩ rằng rồi thời gian, giai nhân sẽ xiêu lòng nên cho nàng cấm cung, có đàn cung nữ hầu hạ, canh giữ ngày đêm.

Rồi xuân đến, lơi hẹn hò Tết nguyên tiêu hãy tìm đến nhau, nhưng giờ này đôi uyên ương lưu lạc nơi nào. Phần nàng, bị vây trùng trong cung cấm, làm sao đem mảnh gương tìm ra chợ đây?.

Phần Từ Đức Ngôn, từ khi kinh thanh thất thủ, bôn ba chạy đi khắp nơi; kịp lúc xuân về, chàng hồi hộp đem mảnh gương vỡ ra chợ, giả vờ bán.

Trong cung cấm. Lạc Xương may mắn đã thuyết phục được một nàng hầu, nên đúng ngày rằm tháng giêng nàng đã nhờ hầu nữ này cầm mảnh gương ra chợ Tràng An tìm Đức Ngôn. Đến chợ, hầu nữ thấy đám đông đang đứng vây quanh một anh chàng, trêu chọc thằng điên đang đòi bán một tấm gương vỡ với giá ngàn vàng.

Biết là gặp đươc người đang tìm, cô hầu đưa ngay nửa mảnh gương cho thằng điên. Hai mảnh gương ghép khít vào nhau, Từ Đức Ngôn bật khóc như đứa trẻ. Chàng hôn hít tấm gương rồi viết vào mặt sau, bài thơ gởi người tình:

Ảnh dữ nhân câu khứ
Ảnh qui nhân vị qui
Vô phục hằng nga ảnh
Không lưu minh nguyệt huỵ
Theo người gương vỡ mắt sâu
Gương đà về đó, nhưng đâu thấy nàng
Chị Hằng cũng quạnh tâm cang
Vầng trăng sầu muộn úa vàng năm canh.

Nàng hầu lật bật đem gương về. Lạc Xương đọc được thơ, ôm lấy hai mảnh gương vào lòng mà khóc tức tưởị Việt Công tình cờđi vào, trông thấy, gạn hỏi sự tình. Lạc Xương phải tình thật, kể lại hết chuyện tình của mình. Nghe xong chuyện, Việt Công giả vờ nghiêm giọng thét to:

- Gương đã vỡ..

Lạc Xương hoảng hốt:

- Nhưng...

Sắc diện của Việt Công bỗng hiền hòa, đôn hậu:

- Nhưng ..giờ nay lại lành. Ta cảm phục mối tình của hai ngườị Dù lòng dạ lang sói cũng phải động lòng...

Rồi Việt Công sai quân hầu lập tức chạy ra chợ rước Từ Đức Ngôn vào thành, đãi đằng trọng thể, trao trả hạnh phú c cho tình yêu.

LSB-Sun
06-03-2010, 12:32
Hán Sở Chiến Trường

So dần dây vũ dây văn
Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương.
Khúc đâu Hán Sở chiến trường
Nghe ra tiếng sắt , tiếng vàng chen nhau
Khúc đâu Tư mã Phượng cầu
Nghe ra như oán, như sầu phải chăng ?
Kê Khang này khúc Quảng Lăng
Một rằng Hoa nhạc, hai rằng Qui vân
Quá quan này khúc Chiêu Quân
Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia
Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời
Tiếng khoang như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưạ.
Đây là chuyện Hán Sở tranh hùng, đoạn kết oan nghiệt của mối tình Hạng Võ Ngu Cơ:

Với mưu lược của Hàn Tín, quân Hán của Lưu Bang đã chiếm được Bành Thành, cứ điểm cuối cùng của quân Sở. Hạng Võ phải kéo quân về thủ trại trên bờ sông Ô Giang. Tuy tình hình đã nguy khốn, nhưng quân số Sở vẫn còn kháđông. Hạng Võ lại là một dũng tướng phi thường, trong một ngày đánh lui hơn 60 viên tướng Hán mà đao không nhụt, ngựa không lùị Vì vậy quân Hán chỉ bao quanh trại quân Sở reo hò inh ỏi, nhưng không có thêm tướng nào dám vào nghinh chiến với Hạng Võ.

Tướng sĩ tâu trình với Hạng Võ:

- Cả ngày hôm nay, Đại Vương thân không rời giáp , ngựa chẳng hở yên. Bây giờ tướng Hán đã khiếp sợ, án binh bất động. Vậy xin Đại Vương cho đóng dinh để Hoàng hậu nghỉ tạm qua đêm.

Hạng Vũ đồng ý và cho mời Ngu Cơ đến:

- Quân Hán đã cướp thành. Đêm nay ái hậu cùng ta qua đêm bên giòng sông Ô Giang này, màn trời chiếu cỏ kể cũng thi vị. Ngày trước ta đánh Chương Hàm, phải mất chín ngày mới thắng được. Nay chỉ một sớm chiều đã đánh bạt được hàng chục tướng Hán, chỉ vì muốn kết trận sớm để về với nàng.

Trong lúc ấy, quân sư Hàn Tín của Lưu Bang đang đứng ngồi không yên, suy mưu tính kế. Các tướng Hán đã hợp sức giao tranh với Hạng Võ mà vẫn thua chạy dài, thì không dùng thế cương mà thắng được. Hàn Tín cho mời Trương Lương đến vấn kế:

- Luôn mấy ngày ác chiến với Hạng Vương, các tướng Hán không ai địch nổị Nếu để tình hình này kéo dài, Hạn Vương sẽ thoát được vòng vây, kéo về Giang Đông mà dưỡng binh, thì chiến sự sẽ khó phân bề thắng bạị Xin tiên sinh chỉ giáo một mưu chước mới hòng đánh bại được Sở vương.

Một chút trầm ngâm, Trương Lương trả lời:

- Việc đó không khó. Bây giờ cứ làm cho các tướng sĩ của Hạng Võ phân lỵ Khi Sở vương đã bị cô thế rồi, thì ta bằ't sống dễ dàng. Từ nhỏ, tôi có học được khúc tiêu của một dị nhân. Nghe khúc tiêu này, lòng người xao động mãnh liệt tình hoài hương, đang vui thì sẽ hân hoan khó tả, đang buồn thì lại càng da diết nhớ quệ Nay đang lúc vào thu, gió heo may về, cây cỏ xao xác lá vàng, kẻ chiến chinh chắc không thể nào không thổn thức nhớ quệ Tối nay, tôi sẽ vào vách núi Kê Minh, trong canh vắng, tiếng tiêu vọng lên thì quân tướng Hạng Võ chẳng còn lòng dạ nào mà nghĩ đến chuyện binh đao.

Đêm về khuya, làn gió se lạnh, ánh trăng thu nhạt nhòa trong màn sương. Tiếng tiêu trỗi lên réo rát, sầu thảm như lòng cô phụ, mênh mang như lòng mẹ nhớ con, thỏ thẻ như tiếng trẻ mong cha về... lòng ai có sắt đá đến đâu bỗng chốc cũng yếu mềm như cánh liễu non trước cơn gió lốc. Tiếng tiêu lại còn cách đoạn bằng lời ca bi ai:

Đêm thu mù mịt trời sương
Có người thiếu phụ quê hương lạnh lùng
Sa trường vó ngựa
Trẩy gót binh nhung
Con thơ nheo nhóc mịt mùng dặm xa
Cơ hàn đau đớn mẹ cha
Canh khuya vò võ tuổi già đợi con
Chí trai vạn dặm
Hồ thỉ bốn phương
Nhưng con đi đã lầm đường
Giúp người tàn bạo không thương dân tình
Mơ mang giữa nửa giấc ba sinh
Một đi một nhớ một mình canh thâụ

Tiế'ng địch trên sông Lô dẫn theo lời ca nỉ non đã mau chóng làm mềm lòng tướng sĩ của Sở vương. Họ buông gươm giáo, cỡi bỏ chiến bào, lặng lẽ đào ngũ. Chỉ còn lại hai tướng trung kiên là Chu Lan và Hoang Sở đã cưỡng lại đước cái âm thanh mê hoặc đó. Cả dinh trại trong phút chốc bỗng rơi vào cái tĩnh lặng đáng sợ. Chính cái tĩnh lặng này đã đánh thức dũng tướng Hạng Võ. Sở vương vùng đứng đậy, quay mặt về phía núi Kê Minh, nơi đang vọng ra tiếng tiêu não nùng. Sở vương ngửa mặt lên trời than:

- Ôi cơ đồ của ta, trong thoáng chốc đã tiêu tan vì tiếng tiêu này.

Hai vị tướng quân đang quì dưới trướng, cúi đầu không nói nên lờị Hạng Võ truyền hai tướng bày ti^ẹc rượu, rồi cùng Ngu Cơ đối ẩm:

Tấm thân lấp biển vá trời
Thanh gươm yên ngựa một đời dọc ngang
Giờ đây mưa gió phũ phàng
Anh hùng mạt lộ giang sơn tan tành.

Ngu Cơ nhắp tiếp mây chung rồi đáp:

Cát đằng nương bóng cội tùng
Bấy lâu khăng khít thủy chung một lòng
Tả tơi vì ngọn gió đông
Cội tùng ngả bóng cát đằng bơ vơ.

Mặc cho trời đổ, đất nghiêng, như đôi tình nhân đang say men tình, Hạng Võ Ngu Cơ vẫn ngồi bình thản uống rượu ngâm thơ. Đến lúc trời rạng ánh mai, Chu Lan và Hoàng Sở mới rón rén bước vào:

- Trời sắp sáng rồi, xin quân vương lên đường bôn tẩu.

Ngu Cơ cũng hối thúc:

- Xin lang quân hãy nhanh chóng lên đường, đừng vì tình mà lụỵ Cả một cơ đồ lang quân hãy phục hưng lại Xin một lạy tạ từ phu quân. Thiếp không thể theo phu quân làm vướng bận bước chân người.

Hạng Võ hiểu ý người yêu, rút đoản đao ra trao cho nàng. Ngu Cơ cầm lấy, đâm vào cổ tự vẫn, vĩnh biệt tình lang . Hạng Võ nước mắt đầm đìa, thét lớn: Ngu Cơ tình ơi !. Cùng lúc ấy, quân Hán kéo vào vây phủ. Hạng Võ một thân một ngựa phá được vòn g vây, thoát ra bờ sông Ô giang. Giang sơn giờ nay đã tan mờ sương khói, không thể nào khôi phục được. Hạng Võ quay nhìn giòng sông, rút gươm tự kết liễu một đời vẫy vùng dọc ngang. Người đời sau có thơ:

Sức mạnh kinh thiên vạn cổ truyền
Vẫy vùng yên mã đoạt giang yên
Hạ thành ai luận anh hùng sự
Mãnh hổ sa cơ cũng phải hèn

LSB-Sun
06-03-2010, 12:33
Hoa Tàn Mà Lại Thêm Tươi

Hoa tàn mà lại thêm tươi
Trăng tà mà lại hơn mười rằm xưa

Hoa tàn mà lại thêm tươi điển tích trong sách Tam ngôn truyện.

Thời Tống Nhân Tông có chàng Thu Tiên uyên bác, nhưng không màng công danh, sống ẩn nhẫn cùng hoa thơm cỏ lạ.

Vợ mất sớm, không có con, từa tự được mấy mẫu đất, chàng không canh tác màu, mà chỉ trồng hoa. Cơm không đủ ăn, áo không có mặc, được đồng nào chàng dành để mua những giống hoa quí. Vườn hoa của Thu Tiên đẹp nổi tiếng ở đất Giang Nam.

Bấy giờ trong thành Bình Giang có tên Trương Ủy ngang tàng, độc ác, chẳng coi ai ra gì. Một hôm hắn ta cùng bọn thủ hạ đi ngang qua nhà của Thu Tiên, nhìn thấy vườn hoa quí bạt ngàn màu sắc rực rỡ. Trương Ủy chẳng cần hỏi han chủ nhân, sai bọn thuộc đạp đổ hàng giậu, xông thẳng vào trong tha hồ bẻ, ngắt hoa. Thu Tiên quá đau lòng, nhưng càng van xin thì tên Trương Ủy và thuộc hạ càng làm tới:

- Mày không biết ta là ai à? Hôm này có ta đây đặt chân đến vườn hoa này là vinh hạnh cho mày đấy. A kìa, loại hoa mẫu đơn kia mới đẹp làm sao. Thật là uổng phí loài hoa quí phải yên phận trên mảnh đất của tên ngốc nghếch này. Khu vườn này phải thuộc về ta.

Nói xong, tên côn đồ lại giang tay bứt hết những cánh hoa mẫu đơn. Vì quá thương yêu hoa, Thu Tiên đã phải chắp tay van xin:

- Xin công tử hãy nương tay, đừng hủy hoại hoa tội nghiệp. Loài mẫu đơn này đơn này tôi đã phải ngày đêm chăm sóc, nâng niu.

Trương Ủy cười ha hả, bóp nghiến cánh hoa trong tay:

- Mày yêu hoa, mày chăm sóc nâng niu. Ta yêu trăng hoa ta thích dày vò tan nát. Vườn hoa này phải là của ta. Ta cho mày ít thời gian để lo cuốn gói đi ở nơi khác. Ta sẽ trở lại đây sau hai ngày nữa, không để tao phải trông thây các mặt thằng yêu hoa ngu si như mày.

Bọn Trương Ủy bỏ đị Thu Tiên nằm vật xuống lăn lộn, người xác xơ còn hơn cả những cánh hoa tơi tả trên đất. Chàng khóc tức tưởi như chàng thư sinh đánh mất mối tình đầu. Bỗng có ai đó khẽ động trên vai. Thu Tiên quay lại; một tiểu thư kiều diễm đang nhìn chàng ngời thương cảm.

- Xin hỏi tiểu thư từ đâu đến đây?

- Thiếp ở cach đây không xa. Nghe chàng khóc thương cho loài hoa , thiếp xin đến đây được chia sẻ nỗi niềm. Hoa đã rơi rụng hế t rồi. Nhưng xin chàng chớ quá âu sầu. Chàng đã yêu hoa như thế thì muốn hoa tàn mà lại thêm tươi cũng chẳng khó gì...

Đang lúc buồn bã , người đẹp lại nói chuyện phong thần, Thu Tiên càng rầu rĩ thêm. Tiểu thư biết Thu Tiên không tin, cũng chẳng phân giải; nàng nói Thu Tiên hãy thu nhặt nhữ`ng cánh hoa tàn gom lại, rồi đi gánh nước. Thu Tiên miễn cưỡng làm theo. Khi đôi thùng nước quay lại, thì kỳ diệu thay cả vườn hoa bừng sống lại, nở rộ hương sắc. Người đẹp đã biến mất.

Thu Tiên quá đỗi mừng rỡ, chàng đưa tay nựng từng cánh hoa mà cứ tưởng như trong mợ Nàng ấy chăc hẳn là từ cõi trần tiên về đây ban phép lành cho chàng.

Lòng thành , Thu Tiên thắp nén hương, quỳ xuống van vái:

- Xin tạ ơn tiên nữ giáng trần thương cho kẻ trần gian này....

Lâng lâng với niềm vui dào dạt, chàng nằm xuống giữa hai luống hoa, kê đầu bên một gốc mẫu đơn rồi ngủ thiếp đi giữa áng mây chiều. Chập chùng trong giấc mơ, Thu Tiên thấy mình đang gối đầu trên chân một thiếu nữ; đúng là tiểu thư lúc ban ngày. Nàng cúi xuống thủ thỉ bên tai chàng... thiếp nào đâu phải là tiên nữ, mà chỉ là một kiếp hoa. Cảm ơn chàng đã nâng niu đời hoa. Từ đây thiếp sẽ mãi ở bên chàng. Sẽ không có kẻ phàm phu nào đến quấy nhiễu chàn g nữa. Chàng nặng tình với hoa, thì thiếp mãi bên chàng, mãi bên chàng....

Tiếng noí nhỏ nhỏ dần, nhỏ dần rồi cùng với hình dáng yêu kiều hút vào lòng đất

..Thu Tiên chợt tỉnh giấc mơ hoa; đầu chàng đang kề sát một gốc mẫu đơn, thoang thoảng tỏa hương thơm dìu dặt. Trên cao xa lắc, ánh sao hôm đang lấp lánh.

LSB-Sun
06-03-2010, 12:35
Hồ Cầm

Cung thường làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương.

Nàng Chiêu Quân, húy danh là Vương Tường, còn gọi là Minh Phi, là một cung phi của vua Hán Nguyên Đế. Có quá nhiều cung nữ được tuyển, đến nỗi vua không sao thấy mặt hết. Có nhiều hồng nhan , từ khi tuyển vào cung cho đến lúc vua băng hà, chưa một lần được diện kiến long nhan. Để tiết kiệm thời gian vàng ngọc, vua truyền nội thần Mao Diên Thọ cho họa sĩ vẽ chân dung từng cung phi trưng bày tại nội điện, để cho vua chọn mỗi ngày.

Các cung phi muốn hình của mình đẹp mới mong được ơn mưa móc, phải đút lót cho các hoạ sĩ trổ tài phượng múa rồng bay. Nàng Chiêu Quân, nhan sắc hoa nhường nguyệt thẹn, lại có tài đàn ca giỏi, thi phú hay; nàng không thèm mua chuộc nên các họa sĩ gieo họa, đã không vẽ hình nàng. Vua nào hay biết đến nàng.

Ngày tháng Chiêu Quân chìm sâu trong cung cấm. Một hôm tiếng đàn lâm ly tỉ tê của nàng đến tai Lâm Hoàng Hậu; bà cho vời Chiêu Quân đến mới hay Hán Đế đã bỏ rơi một quốc sắc thiên hương. Hoàng hậu tâu lại với vua. Vua nổi giận, a thì ra bọn thợ vẽ quả là khi quân. Đám họa sĩ bị đem ra chém đầu; Mao Diên Thọ bị khiển trách nặng.

Tìm gặp Chiêu Quân, nhà vua giật mình, ôi đúng là một tiên nga, mắt sáng sao, mày xanh lá liễu, da tuyết mịn màng. Mấy ngàn cung nữ đã tuyển chọn nay lùi sau mộ t khoảng cách quá xa đối với nhan sắc, tài nghệ Chiêu Quân. Hán Đế phong cho Chiêu Quân làm Tây Phi; từ đó ngày đêm vua say đắm ở tây phòng.

Bấy giờ, Hung Nô là nước lân bang nhưng thường xuyên cứ đem quân quấy nhiễu biên cương. Thời đại Tần Thủy Hoàng đã cho xây vạn lý trường thành để ngăn giữ rợ Hung Nô, nhưng nay chúng vẫn vượt qua cướp' bóc. Biên ải Nhạn Môn Quan nhiều phen cấp báo về triều xin cứu viện.

Nội thần Mao Diên Thọ từ ngay bị vua quở trách, đâm ra oán hận Chiêu Quân. Y đánh cắp chân dung Chiêu Quân, lén đem nạp cho vua Hung Nô là Thiền Vụ Chỉ mới nhìn chân dung mà rúng động cả lòng, Thiền Vu liền cất quân sang đánh, buộc vua Hán phải gả nàng Chiêu Quân thì mới bãi binh. Giao tranh xảy ra ác liệt Hán Đế thất trận đành phải, hoặc nước mất nhà tan dưới sức xâm lược vũ bão Hung Nô hoặc phải đem nàng Tây Phi yêu dấu của mình cống Hồ. Phải có cuộc chia tay, quá não nùng. Chiê Quân gạt lệ:

- Một chút huy hoàng được quân vương sủng ái, còn hơn suốt đời bị lãng quên trong cung cấm. Thôi cũng đành, thần thiếp hy sinh vì việc nước. Nay xin vĩnh biệt bệ hạ để rồi sẽ chết trên đất rợ Hồ, thay cho cái chết muôn vạn quân binh ngoài biên ảị Tình duyên kiếp này vắn số, xin hẹn quân vương kiếp saụ Thần thiếp còn song thân, hiện chưa đền đáp được hiếu đạo nay xin gởi lại song đường, mong bệ hạ chu toàn sớm hôm.

Hán Đế đã bật khóc:

- Ái khanh đã nén tình riêng để cứu lấy muôn dân; lòng trẫm xót xa dường nào, nhưng cũng đành. Ta sẽ thay nàng chu toàn hiếu đạo với song đường.

Sau chén rượu ly bôi, Hán Đế cho gọi Lưu Văn Long - một quan văn trẻ, có tài vào cung, căn dặn:

- Nay việc đi Phiên quốc sẽ gặp nhiều gian khổ. Trẫm cho ngươì theo phò tá Tây cung. Nhà ngươi sẽ được cải thành họ Vương để làm người em của Tây hậụ Vương Long tuân lệnh, phò tá nàng Vương Tường Chiêu Quân lên đường.

Sách Hán Thư cũng đầm đìa nước mắt theo buổi biệt ly sầu thảm này.


Sau gần cả tháng trời vất vả đường trường mới đến được ải Nhạn Môn Quan, cửa khẩu Hán - Phiên. Đêm đó, nơi quan ải, Chiêu Quân đánh đàn tì bà ca khúc tạ từ dưới ánh trăng:

Ai ơi xin chứ sai lời
Sai lời thề nguyện
Duyên nợ ba sinh
Giấc mộng năm canh
Trách hẳn trời xanh
Sao khéo vô tình
Bâng khuâng nhớ thuở tơ đào
Ra vào dưới gối
Duyên cớ vì đâu dần đến cách xa
Ôi, đau đớn lòng ta
Tự cổ hồng nhan bạc mệnh
Mong sao sông núi an hòa.

Trong cơn sầu muộn sâu thẳm, nàng chỉ biết gởi gấm tâm sự trong tiếng đàn tì bà của mình; vì vậy tì bà của Chiêu Quân còn gọi là hồ cầm.

LSB-Sun
06-03-2010, 12:36
Kết Cỏ

Rằng: Tôi bèo bọt chút thân,
Lạc đàn mang lấy nợ nần yến anh
Dám nhờ cốt nhục tử sinh
Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau

"Kết thảo, hàm hoàn" là nói sự đền ơn đáp nghĩa.

Kết thảo - kết cỏ lấy điển tích từ thời Chiến quốc Xuân Thu. Vua Cảnh Nông nước Tấn sai Tuần Lâm Phủ làm đại tướng, Ngụy Khỏa là phó tướng đem quân đánh Lộ, là nước nhỏ. Nước Lộ khồng chống cựnổi, chúa là Anh Nhi bị bắt giải về nước Tấn. Ngụy Khỏa được lệnh ở lại trị vì nước Lộ Cảnh Nông không giết Anh Nhi, nhưng lại đối đãi tử tế, xây một lâu đài riêng cho Anh Hi ở.

Chúa nước Tần là Tần Hoàng Công hay tin Tấn đánh chiếm nước Lộ, bắt Anh Nhi về, cho ở riêng một lâu đài, còn cho Ngụy Khỏa ở lại giữ thành Lộ, đang thu phục nhân tâm, tính việc dài lâụ Hoàng Công lo ngại nếu Tấn thống trị được nước Lộ, dân tình Lô, quy phục nước Tấn thì uy thế nước Tấn sẽ vượt hẳn nước Tần. Hoàng Công vội sai đại tướng Đỗ Hồi đem binh cứu Lộ. Đỗ Hồi là một vị tướng có sức mạnh muôn người, chuyên dùng vũ khí là cái búa lớn năng 120 cân; nước Tần nhờ có Đỗ Hồi mà giữ an được bờ cõi, không nước nào dám dòm ngó cả.

Đỗ Hồi đem quân đến nước Lộ, chỉ một mình một ngưa xông lên phía trước như thế chẻ tre. Ngụy Khỏa không địch nổi phải đóng cửa thành cố thủ, chờ binh cứu viện. Tấn Cảnh Nông tiếp' được thư cầu cứu của Ngụy Khỏa, tức tốc sai tướng Ngụy Ý, là em của Ngụy Khỏa đem binh tiếp viện. Hai cánh quân hợp sức, trong thành đánh ra, viện binh đánh vào những cũng không đẩy lui được quân của Đỗ Hồị Hai anh em lại phải kéo quân vào thành cố thủ.

Đêm đó, Nguỵ Khỏa nằm mơ thấy một lão ông râu tóc bạc phơ đến nói nhỏ vào tai: "Thanh thảo pha, thanh thảo pha...". Ngụy Khỏa giật mình thức giấc, không hiểu giấc mơ là điềm gì, đến hỏi em. Ngụ Ý suy nghĩ hồi lâu chợt nhớ ra:

- Cách đây năm dặm, gần đất Phu Thi có một địa danh tên là Thanh thảo pha. Có lẽ thần linh mách bảo cho anh em chúng ta phải đánh quân Tần tại đó.

Hai anh em đồng ý. Nửa đêm hôm đó, Ngụy Ý lặng lẽ đem quân đến mai phục vùng Thanh Thảo pha. Sáng sớm, Ngụy Khỏa ào ạt kéo quân ra khỏi thành khiêu chiến, rồi bỏ chạy cho quân Đỗ Hồi đuổi theo đến chỗ phục binh. Mặc dù bị rơi vào ổ phục kích, vòng trong, vòng ngoai đều bị vây kín, nhưng Đỗ Hồi vẫn tả xung hữu đột rất dũng mãnh, giết địch vô số kể. Anh em Ngụy Khẩn kinh hãi, toan thu góp tàn quân chạy về thành, thì thấy Đỗ Hồi đang mãnh liệt vung búa, bỗng nhiên người ngựa đều té lăn xuống đất. Con ngựa hí vang, đứng dậy đi ít bước lại ngã xuống. Đỗ Hồi cũng gượng đứng thẳng nhưng rồi cũng lảo đảo quị gốị Quân lính của Ngụy Khỏa, Ngụy Ý hè nhau bắ t trói được dũng tướng của nước Tần. Sau đó Nguỵ Khỏa truyền chém đầu Đỗ Hồi , cho đem thủ cấp về dâng cho Tấn vương và đại tướng Tuần Lâm Vũ.

Đêm đó, Ngụy Khỏa lại nằm mợ thấy lão ông trở lại, nói:

- Lão ông chúc mừng tướng quân thắng trận.
Ngụy Khỏa vòng tay thưa:

- Có phải lão trượng đã giúp anh em ta thắng Đỗ Hồi ở trận Thanh thảo pha không?

- Quả đúng như vậỵ Lão đây đã kết cỏ ở Thanh thảo pha lại, quấn lấy vó ngựa, làm tướng Tần sa chân, người và ngựa không xoay trở được thì phải thúc thủ.

Ngụy Khỏa bái tạ lão ông:

- Mạc tướng này chưa được biết lão trượng, sao lại được giúp' đỡ hết lòng..

Nguỵ Khỏa chưa nói dứt, thi lão ông đã cắt lời:

- Lão phu này là người hàm ơn nặng với tương công. Việc kết cỏ vừa rồi, lão phu chỉ mong đền ơn đáp nghĩa phần nàọ Lão đây chính là cha của Tố Cơ, cảm ơn tướng quân ngày trước đã không chôn sống con gái lão, mà lại cho kết duyên vớ một người xứng đáng. Ơn ấy, dù nay đã ở suối vàng, lão cũng không quên.

Nói xong, hình ảnh ông lão tan biến mất.

Tỉnh giấc, Ngụy Khỏa tìm đến em. Hai anh em hồi tưởng lại dĩ vãng...

Cha Ngụy Khỏa là Ngụy Lê, một tướng tài ba của nhà Tấn, có một hầu thiếp trẻ đẹp là Tố Cơ, nhan sắc mặn mà, nết na đoan chính, thật là một giai nhân quốc sắc. Tướng già, có được hầu thiếp trẻ đẹp, Ngụy Lê vô cùng thương yêu Tố Cợ Sinh thời, lúc còn cầm quân xông pha trận mạc đó đây, Ngụy Lê thường căn dặn con:

- Nếu chẳng may cha có bỏ thân nơi chiến trường, thì con nên tìm nơi tử tế mà gả Tố Cơ, đừng để nàng bơ vơ chếch bóng, làm sao cho nàng được hạnh phúc thì cha mới ngậm cười nơi chín suối.

Nhưng về sau, Ngụy Lê không da ngựa bọc thây ngoài trận địa, mà lại chết già tại gia. Lúc lâm chung, ông lại "trở chứng", dặn dò Ngụy Khỏa:

- Ta sắp ra đi rồị Đến hết đời, cha chỉ có Tố Cơ là người yêu quí nhất. Vậy khi cha chết đi, con hãy chôn nàng theo ta để chim liền cánh, cây liền cành.

Cha chết rồi, Ngụy Khỏa không làm theo lời trăn trốị Ngụy Ý hỏi:

- Sao anh không chôn dì Tố Cơ theo di mệnh của phụ thân?

Ngụy Khỏa đáp:

- Lúc thân phụ còn là một tướng dũng mãnh, đem quân đi chinh phạt đó đây, có dặn nếu có mệnh hệ nào, thìphải tìm nơi tử tế gả chồng cho dì Tố Cơ, để mong nàng an vui hạnh phúc. Lời dặn dò đó là một "chân mệnh". Nhưng bây giờ, trước khi mất, tâm thần mê sảng, ý chí không còn minh mẫn thì di mệnh của thân phụ trong lúc lâm chung là "loạn mệnh", chúng ta phận làm con cho tròn chữ hiếu thì không nên theo những lời đó.

Ba năm sau, khi đã mãn tang cha, Ngụy Khỏa làm chủ hôn, gả dì Tố Cơ cho một nho sĩ danh tiếng; cuộc đời nàng được an nhàn hạnh phúc.

Thân phụ của Tố Cơ, cho đến chết vẫn ghi lòng tạc dạ người cứu mạng con gái mình, nên đã hiển linh hiện hồn về, kết cỏ nơi trận địa Thanh thảo pha để đền ơn đáp nghĩa.

LSB-Sun
06-03-2010, 12:38
Khúc Quảng Lăng

Kê Khang này khúc Quảng Lăng
Một rằng Hoa nhạc, hai rằng Qui vân

Kê Khang là một trong nhóm bảy người bạn chí thân người nước Ngụy: Kê Khang, Nguyễn Tịch, Lưu Linh, Nguyễn Đàm, Vương Mậu, Sơn Đào và Hương Tú.

Khi Tư Mã Viêm diệt nhà Ngụy, lập nên nhà Tấn, thì bảy người này không hợp tác với tân triều, bỏ thị thành vào rừng trúc ở, nên người đời gọi là "Trúc lâm thất hiền". Mỗi người đều có cá tính và nét độc đáo riêng của mình, nhưng nổi bật hơn cả là Kê Khang và Nguyễn Tịch.

Sử nhà Tấn viết rằng Kê Khang là một con người phong nhã, giỏi cầm kỳ thi họa; thường đêm ông ngủ ở đình Hoa dương. Một hôm có người khách tự xưng là người xưa, cảm phục tài hoa của Kê Khang, tặng cho chàng khúc Quảng Lăng, nhưng bắt thề là không được truyền lại cho ai. Sau khi Quảng Lăng chết, khúc nhạc ấy xem như mất. May mắn về sau có nàng Ngọc Nữ khi gảy khúc nhật cung, nguyệt cung, đã dẫn khúc Hoa nhạc và Qui vân đúng âm điệu của Khúc Quảng Lăng còn sót lại.

LSB-Sun
06-03-2010, 12:39
Lam Kiều

Tình riêng tưởng ít nhớ nhiều
Xăm xăm dè nẻo Lam Kiều lần sang.

Kim Trọng đã mang nặng sầu tương tư Thúy Kiều, thương nhớ dẫn lối cho chàng thư sinh xăm xăm dè nẻo Lam Kiều lần sang.

Lam Kiêù là cây cầu trên sông Lam, thuộc tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Chuyện xưa viết: đời nhà Đường, có chàng nho sĩ Bùi Hằng dáng người khôi ngô tuấn tú, tài cao học rộng, lại đủ tài cầm kỳ thi họạ Thành danh xong, một mình trên lưng ngựa trắng, chàng lên đường dong ruổi đó đây , áo xanh Tư Mã Giao Châu, túi thơ bầu rượu. Tiêu dao với danh lam thắng cảnh và cũng mong tìm được ý trung nhân, nhưng mãi chàng vẫn chưa gặp được người trong mộng.

Một hôm chàng đi về phía tây bắc thành Thiểm Tây, chợt thấy một thiếu phụ trạc tứ tuần, nhưng dung nhan vẫn còn lưu lại nét thanh xuân tuyệt sắc. Không đừng được, Bùi Hằng xuống ngựa, lân la tiến gần đến làm quen. Người đàn bà đẹp, như có ý đợi chờchàng từ trước; nàng tự giới thiệu tên là Vân Kiều và đã biết chàng nho sĩ đa tình từ lâu đang cố tâm tìm người xe duyên kết tóc. Nàng bước vào nhà, viết mấy câu thơ lên một mảnh giấy rồi sai người nhà đem ra cho Bùi Hằng:

Nhầ't ẩm quỳnh tương bách cảnh sanh
Huyền sương đáo tận kiến Vân Anh.
Lam Kiều bổn thị thần tiên chốt
Hà tất khi khu thưởng ngọc kinh
(Uống chén quỳnh tương bách cảnh sanh
Huyền sương giã thuốc thấy Vân Anh
Lam Kiều vốn chỗ thần tiên ở
Hà tất đi tìm đến ngọc kinh).

Theo bốn câu thơ dẫn lối chỉ đường của Vân Kiều, thì chàng phải tìm đến Lam Kiều, chốn thần tiên ở, sẽ gặp Vân Anh, đó duyên trăm năm của chàng. Nhưng Vân Kiều là ai nhỉ, có là giai nhân tuyệt sác như người thiếu phụ này không ?. Chàng cảm nhận Vân Kiều có ý giúp đỡ mình, nên bái biệt giai nhân. lên đường dò hỏi tìm đến Lam Kiều. Đi suốt ngày cho đến lúc bóng đêm đen chùm xuống. Buì Hằng phải dắt ngựa vào một quán trọ bên đường, xin nghỉ tạm . Chủ quán là một bà lão phương phi, trông có dáng tiên phong đạo cốt. Suôt đêm, chàng trăn trở không ngử được, hình bóng Vân Anh như nhẹ nhàng từVân Kiều bước ra, đứng ngồị Sáng sớm, Bùi Hằng từ giả chủ quán; vừa đi được dặm đường, khi ngoảnh lại thì quán lá đã biến đâu mất, mà chỉ là một rừng cây rậm rạp. Trước mặt, một con sông lớn, có chiếc cầu bắc ngang. Có phải Lam Kiều đây không?. Nao nao hồi hộp, chàng lần bước đến bên cầụ Gần đó có một quán nhỏ nằm lọt thõm giữa vườn dâu xanh ngắt. Chủ quán cũng là một bà lão tóc bạc phơ, tướng mạo uy phong. Chàng xuống ngựa, đi vào quán xin nước uống. Từ nương dâu xanh mướt, bước ra một nhan sắc tuyệt trần. Giai nhan hai tay bưng chén nước mờị Ôi thế gian này sao lại có người đẹp như vậy. Đã bao năm tìm kiếm, từnay ta đã có nàng. Bùi Hằng trình lá thư của Vân Kiều cho bà lão xem:
- Ta có hai người con gáị Vân Kiều đã thành gia thất; còn lại Vân Anh sớm hôm hầu hạ mẹ già. Nhưng nay, rõ ràng là duyên trời định cho đôi lứa, ta nào dám trái ý. Nhưng muốn cưới con tạ thì phải nạp sính lễ. Sính lễ không phải là vang bạc châu báu, mà là một vật quí. Đó là chiếc chày ngọc để giã thuốc huyền sương; chiếc chày ngọc đó phải khít với cái cối ngọc này.

Bà lão đưa cho Bùi Hằng xem cái cối ngọc. Cối ngọc làm bằng thứ ngọc quí, xanh biếc. Biết tìm đầu ra chày ngọc. Bùi Hằng đăm đăm nhìn Vân Anh, rồi như sợ sẽ tan mất người trong mộng, chàng đứng vụt dậy, quyết tâm đi tìm cho bằng được vật quí đem vềlàm sính lễ.

Ngày tháng qua quá ê chề, một mình một ngựa bôn ba khắp nơi chân trời góc biển, làm sao tìm được trong dân gian cái chày ngọc để giã thuốc huyền sương. Chút già nua cùng đã ẩn hiện trên dáng dấp phong tú của chàng thư sinh. Rồi một hôm, cũng có một quán bên đường cho chàng dừng chân lại nghỉ qua đêm. Chủ quán, lại là một bà lão, tay cầm chiếc chày bằng ngọc, hát nghêu ngao:

Chày sương ta có
Ai muốn cần dùng
Duyên thắm chỉ hồng
Cầu sương đợi khách.

Vừa trông thấy chày ngọc trên tay bà lão, Bùi Hằng quá mững rỡ, vội vàng khấu đầu thi lễ:

- Bao nhiêu năm gian khổ, tiểu nhân đã lặn lội cố tìm cho được chày ngọc giã thuốc huyền sương để làm sính lễ sánh duyên cùng giai nhân bên Lam Kiềụ Xin lão bà thương tình giúp cho tiểu nhân toại ước.

Bà lão cười hiền hậu :

- Đây là báu vật chỉ trao tặng cho người kiên nhẫn, thành tâm với duyên phận. Công tử xứng đáng nhận sính vật này để thành gia thất với Vân Anh.

Tờ mờ sáng hôm sau, Bùi Hằng tạ từ bà lão, hối hả lên đường tìm về lại Lam Kiềụ.Bao năm tháng qua đi, nhưng thời gian ở đây như dừng lạị Vân Anh, ôi nhan sắc yêu kiều đang ngồi xe tơ dệt lụa như ngóng trông đợi chàng trở về. Chày ngọc ướm thử vào cối ngọc, vừa khít. Lão bà vui vẻ cho đôi trẻ làm lễ tơ hồng.

Lam Kiều là điểm hẹn cho duyên lành và là nơi trao đổi sính lễ xe duyên cầm sắc cho tình đôi lứa.

LSB-Sun
06-03-2010, 12:40
Lá Thắm Chỉ Hồng

Lúc tình đến độ, Kim Trọng ướm chuyện trăm năm. Thúy Kiều thỏ thẻ thưa:

Dẫu khi lá thắm chỉ hồng
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.

Lá thắm, theo điển tích là thư từ qua lại của đôi lứa trong ngày con thơ . Nước Sở có thành Tây Độ Quan trấn thủ là Kiều Công Di có aí nữ là Kiều Nga, một giai nhân tuyệt sắc. Bấy giờ, tình hình trộm cướp như rươị dân tình không được an cư lạc nghiệp. Nội thành dành cho người quyền quí; ngoại thành cho thứ dân. Cửa thành luôn được canh phòng nghiêm ngặt, thường dân ra vào bị xét hỏi rất ngặt.

Giai nhân Kiều Loan đã thầm yêu trộm nhớ chàng nho sinh mạc rệp Kim Ngọc. Nhà chàng ở ngoại thành, nghèo rớt mồng tơi. Cậu học trò không dễ gì qua được cổng thành, nói chi đến chuyện lọt được nha môn để gặp gỡ người yêu. Bên này bên kia thành quách mà tưởng như núi non nghìn trùng. Không gặp nhau được, mỗi người chỉ biết nhìn giòng sông thở vắn than dài. Sông kia, mỗi ngày hai lần triều lên xuống, con nước từ ngoại thành đi vào rồi lại chảy rạ Theo triều lên xuống, đôi gái trai đã viết thơ trên lá, thả xuống sông, nhờ giòng nước mà trao đổi tâm tình cho thỏa nhớ thương. Giòng sông đã trở thành giòng lá thắm.

Những câu nói trong dân gian như lá thắm, tơ hồng vươn vấn hoặc nguyệt lão xe tơ đều lấy trong điển tích ông tơ bà nguyệt. Theo Thần tiên tuyện , thời Nguyên Hòa nhà Đường rất thái bình, có quan đại thần Chung Thôi rất giàu sang, thuộc vào hàng danh gia vọng tộc. Quý tử của Chung Thôi la Chung Hạo thông minh đĩnh ngộ; mới 12 tuổi đa ~ văn hay chữ tốt, quan lại trong triều ai cũng khen ; các vị có con gái đều mong muốn kết sui gia với Chung Thôi.

Ngoài thời gian vui thú cùng cầm kỳ thi họa, Chung Hạo cũng thường theo cha đi săn bắn. Một hôm đi săn, mải đuổi theo con thỏ, Chung Hạo lạc vaò rừng sâu, quanh co cả ngày không tìm được lối rạ Đêm xuống lạnh giữa rừng hoang, Hạo bắt đầu thấy sợ Dưới ánh trăng bỗng nghe tiếng suối róc rách. Chàng lần đến tìm nước uống. Bên bờ suối, trong hang đá, một bà lão đang ngồi xe chỉ, màu chỉ đỏ thắm. Chung Hạo khẽ bước lại gần, kính cẩn thưa:

- Tiểu nhân đi săn, bị lạc đường. Xin hỏi nơi đây là đâu, sao lão bà lại ngồi một mình xe chỉ đỏ

- Đây là động tiên. ta đang ngồi xe duyên cho những đôi tình yêu nhau dưới trần gian. Chỉ này là dây tơ hồng. Ta xe nhiều hay ít thì trai gái cũng theo đó mà thương yêu nhau nhiều hay ít. Ta muốn đôi trai gái nào nên vợchồng thì ắt chúng sẽ kết duyên, không xa lìa nhau được.

- Vậy thưa lão bà có thể cho tiểu nhân biết sau này sẽ được sánh duyên cùng ai ?.

Lão bà đưa mắt nhìn vào bên trong động. Ở đó có một ông lão đang cúi gầm trên một cuốn sách dày cộm.

- Kià là ông tợ Công tử muốn biết thì hỏi ông ấỵ

Ông lão hỏi tên tuổi Chung Hạo rồi lật từng trang sách ra tra cứu:

- Sau này công tử sẽ được xe duyên với Tố Lan, con gái một mụ ăn mày ở chợ Đông, gần kinh thành.

Laõ ông chưa dứt lời, Chung Hạo đã đùng đùng nổi giận. Đường đường là một quí tử của quan đại thần, tài nghệ, văn hay chữ tốt khó ai bì kịp mà sau này lại kết duyên cùng vơi con gái mụ ăn mày. Tức tối, chàng quay bước đi, không một lời chàọ Ông tơ vẫn chúi đầu trong sổ bộ, bà nguyệt vẫn bình thản xe xe chỉ hồng.

Chung Hạo chaỵ thụt mạng suốt đêm trong rừng sâụ May mắn, sáng sớm mai, gặp được quân lính triều đình đang tỏa đi tìm kiếm. Trở về dinh, sau ngày đó, chàng công tử đâm ra biến ăn lười nóị Lời tiên tri của ông tơ như cứ lởn vởn rít ra trong đầu. Đến một hôm, không không dìm được sự thôi thúc, Chung Hạo cùng một gia đồng tìm xuống chợ Đông. Vừa đến đầu chợ, đã gặp ngay một đứa bé gái chừng 9 tuổi mặt mày lem luốc, áo quần rách bươm, dắt theo một bà ăn xin mù lòa. Tên gia đồng dọ hỏi thì biết được tên của con bé là Tố Lan. Chung Hạo thất kinh, ù té chạy về dinh, tâm thần hoảng loạn. Không được, không thể nào, ta lại chịu khuất phục số mệnh, để làm chồng một con bé ăn mày bẩn thỉu như vậy được. Làm thế nào đâỵ Suy nghĩ cạn nước, chỉ còn cách làdiệt trừcái mầm định mệnh khắc nghiệt đó đi..

Với rắp tâm sẵn, một buổi sáng Chung Hao một mình tìm xuống chợ Đông. Anh ta đứng nấp sau một thân cây lớn. Cô bé dắt mẹ đi qua. Chàng ta cầm hòn đá, liệng ngay vào đầu con bé rồì ù chạỵ Sau đó, dò hỏi tin tức thì được biết con bé bị thương tích quá nặng, e không sống được; và rồi bà lão mù cũng không còn thấy ăn xin giữa chợ Đông nữa.

Bảy năm saụ Chung Hạo đã nên danh phận. Nghe tin thiên hạ bàn tán ở huyện Trúc Giang có con gái quan Thái úy nổi danh là một giai nhân sắc nước hương trời, tên là Thảo Nương. Vương Tôn công tử gần xa, ngày đêm đến cầu thân, nhưng chưa ai được kén chọn. Chung Hạo tìm đến, thuê một phòng trọ trước phủ đường. Mới một lần tình cờ nhìn thấy Thảo Nương, Chung Hạo chao động cả lòng. Chàng vội quay trở về nhà, xin phụ thân Chung Thân tính đường mai mốị Hai gia đình là môn đăng hộ đối, nên việc kết hôn sớm viên thành . Đôi uyên ương nên vợ chồng yêu nhau mặn nồng.

Một hôm, Chung Hạo âu yếm gội đầu cho Thảo Nương. Thấy vợ mình có mộ t cái thẹo lớn đàng sau gáy, chàng hỏi:

- Vì sao có cái thẹo này ?

- Nguyên, thiếp là con một bà ăn mày mù ở chợ Đông. Lúc nhỏ, một hôm đang dắt mẹ đi ăn xin, không hiểu sao lại có một kẻ xấu cầm đá ném vào đầu. thiếp, thương tích nặng, tưởng đã lìa đời. May nhờbà con tận tình cứu chữa. Và sau đó, may mắn được quan Thái úy có lòng từ tâm, lại hiếm muộn , nên đem hai mẹ con thiếp' về nuôi dưỡng. Thiếp' được nghĩa phụ dạy dỗ, cho ăn học. Mẹ thiếp qua đời. Thiếp được giúp việc bút nghiên cho nghĩa phụ nơi công đường. Đã rất nhiều đám đến dạm hỏi, nhưng đều bị từ chối. Lạ thay, bên nhà chàng vưa ngỏ , thì dưỡng phụ bằng lòng ngay. Chúng ta đẹp duyên ngày nay chắc là có duyên nợ

- Không, Thảo Nương nàng ơị Nếu là định mệnh thì nàng phải là...

- Tố Lan. Tố Lan là tên của thiếp lúc còn bé. Sau khi được đưa về dinh, nghĩa phụ đã xin ý mẹ, đổi tên này.

Thiên Hạo đã tin hẳn duyên giai ngẫu là do thiên định. Chàng say đắm ngắm nhìn cái duyên số Tố Lan của mình và khẽ ngâm:
Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ
Vô duyên đối diện bất tương phùng

(Có duyên ngàn dặm xa vẫn gặp
Không duyên tận mặt vẫn cách lòng)

LSB-Sun
06-03-2010, 12:41
Liễu Chương Đài

Khi về hỏi liễu Chương đài
Cành xuân đã bẻ cho người chuyền tay

Đời vua Đương Huyền Tông có chàng tú tài Hàn Hủ, nổi tiếng là danh sĩ, lên kinh đô Trường An chuẩn bị thi tiến Sĩ. Chàng ta thuê phòng trọ ở phố Chương đài, phía Tây kinh thành.

Cạnh bên nhà trọ Hàn Hủ là nhà Liễu thị, một ca kỹ tài sắc đã làm đắm say lắm tao nhân mặc khách, nhưng không ai dám ngỏ tình, vì giai nhân đã có vị tướng quân họ Lý bảo bọc. Mỗi lần tướng Lý đến thăm Liễu thị, đều có mời Hàn Hủ sang chơị Hai người đối ẩm trong giọng ca tiếng đàn nàng Liễụ Phần Liêũ thi, những lúc ở nhà một mình, lại thường nhìn qua kẽ vách dòm sang nhà Hàn. Liễu thị thấy Hàn Hủ tuy nghèo khó, nhưng lại rất phóng khoáng, hiếu khách. Nhìn trộm lâu ngày, thấy thương, rồi thầm yêu chàng tú tàị Hôm đó, Lý tướng quân đến, Liễu thị đánh bạo, thưa:

- Hàn Tú tài là người có hoàn cảnh khó khăn nhưng lại rất hào sảng. Tương quân đã kết thân với chàng ta, thì thiếp nghĩ cũng nên tìm cách giúp đỡ.

Tướng Lý gật gù, cười độ lượng, truyền Liễu thị bày tiệc, rồi mời Hàn Hủ sang nói chuyện:

- Hàn Tú tài là bậc danh sĩ ; Liễu thị là kỹ nữ tài sắc. Danh sĩ mà sánh duyên cùng tài sắc chẳng phải là xứng đôi lắm sao?. Ta đứng chủ hôn cho đôi lứa.

Cả hai người được gá duyên đều ngây người trước thái độ bao dung của tướng quân. Qua hồi xúc động, đôi lang nương lạy tạ ơn vị tướng quân " fair play " nàỵ Sau đó, Lý tướng quân từ biệt , hai người sống chung với nhau như vợ chồng, tình yêu tha thiết.

Tú tài Hàn Hủ tuy là người lỗi lạc, nhưng thi tiến sĩ lại không đỗ. Vợ chồng không lấy thế làm điều khổ tâm, vẫn thương yêu nhau trong cuộc sống hàn vị Bốn năm sau, có quan Tiết độ sứ Thanh Châu là Hầu Di Dật, từ lâu ngưỡng mộ tài năng của Hàn Hủ, đã tâu với vua xin chàng về làm tòng sự Hàn Hủ phải về Thanh Châu nhận chức, hẹn với Liễu thị khi cuộc sống ổn định, sẽ trở về lại kinh đô rước nàng.

Nhưng rồi công việc tất bật, sau ba năm Hàn Hủ không về kinh được, gởi cho nàng lá thư với nỗi phập phồng nàng kỹ nữ đã ôm cầm sang thuyền khác:

"Chương đài Liễu, Chương đài Liễu
Tích nhật thanh thanh kim tại phủ
Túng sử trường điều tự cửu thùy
Dã ưng phan chiết ta nhân thủ ".
(Liễu Chương đài, Liễu Chương đài
Còn chăng thuở trước dáng xanh tươi
Thướt tha vẫn giống như năm nọ
Vin bẻ đành tay kẻ khác rồi!

Đọc thơ, Liễu thị hiểu là chồng âu lo mình phụ bạc. Nàng đáp thư:

"Dương liễu chi, phương chi tiết,
Khá hận niên niên tặng ly biệt.
Nhất diệp tùy phong hốt báo thu
Túng sử quân lai khởi kham chiết ".
(Nhành dương liễu, trạc xuân xanh
Đeo nặng bao năm nỗi biệt tình
Chiếc lá gió đưa, thu đà tới
Chàng về chưa chắc được vin cành.

Sau đó, Liễu thị xuống tóc vào nương cửa Phật, tránh lũ bướm ong quấy nhiễu.

Thương cho nàng. đã vào chùa mặc áo nâu sồng mà vẫn không yên câu kinh tiếng mõ. Phiên tướng Sa Tra Lợi đang tại chức Xạ Kỵ tướng quân của vua Đường Huyền Tông, xông vào thiền môn, bắt Liễu thị về làm thiếp.

Thời gian cũng qua đị.

Mươì hai năm sau, Tiết độ sứ Hầu Di Dật về kinh công cán, Hàn Hủ tháp tùng. Về đến Tràng An, Hàn Hủ thăm dò tin tức mới biết vợ mình đã sa vào tay kẻ khác. Thế cô, phận nhỏ đành im tiếng. Một hôm, đang tảng bộ trên phố thì gặp một cổ xe ngựa thong thả đi quạ Trên xe chợt có giọng đàn bà vọng ra:

- Có phải Hàn viên ngoại ở Thanh Châu đó không ?.
Nghe giọng nói, Hàn Hủ rúng động, ấp úng chưa kịp trả lời, thì người trên xe tiếp:

- Ngày mai, thiếp cũng sẽ qua đường này. Xin chàng hãy đến đây cho thiếp trông thấy lần cuối.

Hôm sau, y hẹn, Hàn Hủ đứng chờ đợi tình. Chiếc xe đến, từ trên đó ném xuống chiêc khăn hồng bọc ngoài một hộp sáp thơm. Giọng đàn bà thổn thức:

- Cảm ơn chàng, em đã trông thấy tình lần cuốị Vĩnh biệt phu quân.

Xe vụt chạy nhanh mất hút. Đêm đó, Hàn Hủ phải dự tiệc với hàng quan chức ở kinh thành nơi một tửu lầu sang trọng. Trong tiệc, mọi ngươì đều cười nói vui vẻ chỉ có mình Hàn Hủ mặt ủ mày ệ Có người gạn hỏi nguyên nhân; Hàn Hủ phải đem chuyện mình kể trong bàn tiệc. Hàn vừa dứt lời, viên tướng trẻ Hứa Tuấn ném mạnh chén rượu xuống đất, đánh "xoảng", cất giọng oang oang:

- Giữa kinh thành này mà cũng có quan triều đình làm loạn vậy sao ? Tiểu nhân này, tu y tài hèn sức mọn nhưng cũng xin được ra tay, đưa phu nhân về cho Hàn viên ngoạị Xin Hàn viên ngoại hãy viết ít chữ để làm tin với phu nhân.

Hàn Hủ chép lại bài thơ Liễu thị đã gởi cho mình mười lăm năm trước khi vào qui y cửa Phật. Hứa Tuấn nhận thư, phóng ngựa đến tư dinh của Sa Tra Lợị Tướng Phiên này đang vắng nhà. Hưá Tuấn lớn tiếng với đám gia nhân:

- Tướng quân bị ngã ngưạ, thương tích nặng, e khó qua khỏị Ngài bảo ta về rước phu nhân cho ngài gặp mặt.

Hứa Tuấn phóng ngựa chạy thẳng vào dinh. May mắn, Liễu thị đang sắp sửa nhờ ba thước lụa kết liễu đời mình., thì nhận được bài thơ tình của mình đã viết cho tình lang. Hứa Tuấn đỡ bà lên mình ngựa, phóng như bay trở về tửu lầụ Có ai đang hồi hợp chờ đợi, lồng ngực thình thịch liên hồị Rồi, hai trái tim cùng chung nhịp đập.

LSB-Sun
06-03-2010, 12:41
Mạt Cưa Mướp Đắng

Tình cờ chẳng hẹn mà nên
Mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường
Chung lưng mở một ngôi hàng
Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề

Hàn sĩ Thúc Thôi được hưởng gia tài cha mẹ để lại. Học hành chẳng ra gì, lại biếng nhác, nên thi mãi vẫn trượt. Chán nản bút nghiên, chàng ta bán hết gia tài, ăn tiêu rồi cũng hết, không có gì để sống. Bà con lối xóm không nỡ để một nho sinh chết đói nên tìm cách mai mối cho nàng Lưu Di, một thiếu phụ trẻ góa chồng, đảm đang.

Sống chung được thời gian ngắn, Thúc Thôi lại quen thói lười biếng, cả ngày chỉ nghêu ngao, không chịu làm lụng, ăn bám vợ đến hết cả vốn liếng của Lưu Di đã dành dụm được. Lưu Di cắn răng chịu đựng, nhưng đến lúc cùng cực quá, nàng phải thưa với chồng:

- Lang quân cam chịu cảnh nghèo đói này mãi sao?

- Ta chỉ sống với văn chuơng chữ nghĩa, từ nhỏ đến lớn chỉ biết đọc sách ngâm thợ Nay ta phải biết làm chi cho ra tiền đây?

Lưu Di e dè:

- Văn chương chữ nghĩa không bằng ai thì thôi cũng phải kiếm việc khác làm ăn sinh sống chứ.

Thúc Thôi cười khẩy:

- Hiền thê ơi, đừng quá âu lo. Hôm nay ta là hàn sĩ, ngày mai đỗ đạt, thì tha hồ phú quí vinh hoa. Thôi được, trong lúc đợi bảng vàng đề tên, ta sẽ nghĩ ra một cách gì đó, không cần phải làm lụng cực nhọc, ma vẫn hái ra tiền.

Rồi mấy ngày sau, người ta thấy Thúc Thôi lẩn quẩn đây đó, lúc ra chợ, lúc vào xóm, như một học giả suy tư. Cuối cùng, chàng ta đem về một thúng mạt cưa, khoe vợ:

- Món hàng này không vốn mà bán được tiền. Mạt cưa này thợ cưa vất đi, ta lấy về đem ra chợ bán, giả làm cám heọ Sẽ có khối người bị lừa.

Lưu Di ngăn cản:

- Sao lại làm việc gian dối như vậy, thật là bất nhân.

Thúc Thôi dạy khôn:

- Miễn sao được tiền thì thôi! Đời mà! khôn sống, dại chết.

Không kể lời khuyên can của vợ, sáng sớm hôm sau, Thúc Thôi bưng thúng mạt cưa ra chợ, rao bán cám. Nhưng cho đến chiều tối vẫn chưa có ai bị lừa. Hôm sau, Thúc Thôi lại bưng thúng cám dỗm ra chợ lần nữa. Đến chạng vạng, thì may thay, có một nàng đội thúng mướp trái xanh mởn đi ngang qua. Cô nàng mời:

- Tôi đang muốn bán thúng mướp tươi này để lấy tiền mua cám heo. Chúng ta thỏa thuận hàng đổi hàng nhé.

Thúc Thôi mưng rỡ, ỌK ngay, phen này trúng mánh, nhẫm tính thúng mướp cũng bán được bộn tiền. Chàng ta hí hửng bưng thúng mươp về khoe vợ Lưu Di bật cười:

- Trời đất! Đây là loại mướp đắng, loại trái mọc hoang trên núi, không ăn được. Ừ mà thôi , như vậy cũng hay, cùng là một phường lừa phỉnh nhau, mướp đắng đổi ấy mạ t cưa, không ai thua ai!

LSB-Sun
06-03-2010, 12:43
Nàng Ban

Khen tài nhả ngọc phun châu
Nàng Ban, Ả Tạ cũng đâu thế này.

Ban Chiêu tự là Huê Cơ là người đàn bà hay chữ đời Đông Hán. Năm mười lăm tuổi Ban Chiêu đã biết làm thơ và làu thông Tứ Thư, Ngũ kinh. Lấy chồng là Tào Thế Thức, một danh nho của Đông Hán. Sống chung được mười năm thì Tào Thế Thức qua đời vì bệnh; Ban Chiêu thủ tiết thờ chồng.

Đời vua Hoà Đế, Ban Chiêu được triệu vào cung để dạy học cho các hoàng tử và các phi tần. Lúc bấy giờ cha của bà là Ban Bưu đang tại chức Đông các đại học sĩ, chịu trách nhiệm soạn thảo bộ Hán Thư. Công việc đang còn dang dở thì ông qua đời. Anh của ban Chiêu là Ban Cố được nhà vua chỉ định tiếp tục công trình của cha. Nhưng chẳng bao lâu, Ban Cố cũng qua đời vì bạo bệnh, trong khi bộ Hán thư vẫn chưa xong. Ban Chiêu tâu với vua cho bà được tiếp nối công trình. Vua Hòa đế chấp thuận và bà được sung vào Đông các tàng thư tiếp tục soạn bộ Hán thư cho đến hoàn tất.

Trong thời gian ở Đông các tàng thư, Ban Chiêu đã trước tác tập Nữ Giới, gồm bảy thiên. Từ đó lẫy lững tài danh Ban Chiêu.

LSB-Sun
06-03-2010, 12:55
Nàng Oanh

Dâng thư đã thẹn nàng Oanh
Lại thua ả Lý bán mình hay sao ?

Đời nhà Hán có Thuần Vu Ý làm quan đất tề ; nhà không có con trai, chỉ sinh được 5 con gái, Đề Oanh là gái út.

Thuần Vu Ý mắc tội lớn phải thọ hình. Khi bắt giải tử tội về kinh , Đề Oanh đi theo cha. Đến kinh thành, nàng dâng thư lên Hán Văn Đế tâu rằng, nếu cha chết đi, cũng không mảy may đền được chút tội; nay thân gái này khẩn thiết xin vua được cho vào cung làm cung nhân thô (người làm sạch sẽ cho vua sau mỗi lần vua đi vệ sinh), để chuộc tội một phần nào cho cha. Hán Văn Đế đọc thư của nàng Oanh, cảm động vì lòng hiếu hạnh của nàng nên tha tội cho Thuần Vu Ý.

LSB-Sun
06-03-2010, 12:56
Phiếu Mẫu

Nghìn vàng gọi chút lễ thường,
Mà lòng Phiếu Mẫu, mấy vàng cho cân
Bà Phiếu Mẫu, nhànghèo khó, đã giúp Hàn Tín trong cơn đói cơm rách áo. Thuở hàn vi, Hàn Tín nghèo rớt mồng tơi, ngày ngày câu cá, nhưng cũng không kiếm đủ miếng ăn. Tuy vậy, Hàn Tín lại rất ham mê đèn sách, nghiên n cứu binh thư; lại muốn ra oai như mình là con nhà võ, đi đâu cũng lè kè mang theo cây kiếm. Bà Phiếu Mẫu ở cạnh nhà, kiếm ăn bằng nghề giặt thuệ Tuy miếng cơm vẫn thiếu trước hụt sau, nhưng thấy Hàn Tín quá đói khát, bà thường dẫn chàng dở hơi này về nhà cho cơm. Hàn Tín cảm động thưa:

- Xin cảm on bà đã quá tử tế với tôi. Sau này công thanh danh toại tôi nguyện sẽ không quên ơn bà.

Phiếu Mẫu cười hiền hậu:

- Ta thấy ngươi đói khát, nên chia sẻ miếng cơm giọt nước với ngươi, chứ đâu cần ngươi sẽ trả ơn sau này. Đàn ông gì như ngươi , tự nuôi thân không nổi thì noí chi đến quyền cao chức trọng sau này.

Hàn Tín hỗ thẹn vì lời chê trách, nên không dám tìm qua nhà Phiếu Mẫu kiếm cơm nữa. Bà già vẫn thương người cùng khổ, ngày ngày đem cơm đặt trước căn lều của Hàn Tín. Người trong làng xóm biết chuyện, gọi đó là "Bát cơm Phiếu Mẫu".

Một hôm ở ngoài chọ có gã bán thịt to lớn, trông thấy Hàn Tín bước đi xiêu vẹo nhưng vẫn lòng thòng thanh kiếm bên lưng. Gã trêu tức:

- Này tên ma đói kia, nam nhi như mày mà không kiếm ăn được, hằng bữa phải nhờ đến bát cơm Phiếu Mẫu, không biết nhục à? Có giỏi thì rút kiếm ra đấu, ta tay không. Thắng được ta thưởng cho cái đầu heo. Bằng không dám đấu, thì luồn dưới trôn của ông nội mày đây.

Sắc mặt Hàn Tín đã xanh này càng xanh hơn. Tần ngần một lúc, Hàn Tín khúm núm lòn qua trôn gã hàng thịt. Cả chợ nhốn nháo chê cười Hàn sĩ. Nhưng có một tiều phu là Hứa Phụ, tình cờ qua đó, dừng lại trước Hàn Tín:

- Huynh là người có tướng vương hầu; tuy nay khốn khổ nhưng hậu vận lại vinh hoa phú quí.

Hàn Tín trở vềtúp lều, ngày đêm vẫn miệt mài dùi mài kinh sử. Lúc Hạng Lương nước Sở khởi binh đánh Tần, Hàn Tín đứng chống gươm bên bờ sông Tứ Thủy, tự tìm cơ hội tiến thân. Trông thấy Hàn Tín ngoại hình xanh xao vàng vọt, Hạng Lương "dội" ngay. Nhưng quân sư Phạm Tăng vội khuyên:

- Tuy nhìn bề ngoài yếu đuối, nhưng chân tướng là người thao lược, ngài chớ nên bỏ

Hạng Lương miễn cưỡng nhận lời, cho Hàn Tín làm chấp kích lang, tức là vác giáo theo hầu.

Trong thơi gian này, Lưu bang đang dựng nghiệp đế ở Hán Trung, nhờ Trương Lương, giả lam lái buôn, đi chu du thiên hạ để chiêu hiền. Khi đến đất Sở, gặp được Hàn Tín, Trương Lương nhận ra ngay đây là một chân tài nhưng Sở không biết dùng người. Trương Lương bèn làm quen, và trao cho Hàn Tín một thanh kiếm báu, đề thơ tặng:

Kiếm báu lập lòe tay dũng sĩ
Non sông một giải chí hiên ngang.
Máu hồng, men rượu say băng tuyết
Muông dặm sơn hà một tấc gang.

Hàn Tì'n đang còn ngỡ ngàng, thì Trương Lương đã tiếp:

- Tại hạ biết được huynh là đấng hào kiệt nên đem kiếm báu tặng chứ không bán. Nay có chút quà mọn, xin huynh chớ từ chốị Hãy cùng nhau nhấp chén rượu mừng buổi sơ kiến. Hẹn ngày hội ngô trên đất Hán.

Sau chầu rượu, Trương Lương thuyết phục Hàn Tín nên bỏ Sở, về phò Lưu Bang, là người nhân đức biết trọng lương thần, xứng danh thiên tử. Hàn Tín thuận tình, nên bỏ trốn khỏi Sở. Mấy ngày lạc trong rừng không tìm đường để lần đến Hán Trung, đói khát lả người. May thay, gặp được một lão tiều, cho ăn uống và hướng dẫn đường đi nước bước chu đáọ Hàn Tín sụp lạy cảm ơn cứu tử, rồi nhanh nhẹn lên đường. Nhưng vừa qua được một khúc quanh, Hàn Tín chợt nghĩ:

- Ta đang bị Sở Bá Vương truy nã. Nếu chẳng may quan quân Sở cũng lần ra dấu vết đến đây, hỏi lão tiều phu này, thì tính mạng ta khó thoát. Lão già suốt ngày lẫm lũi trong rừng sâu, rồi cực khổ cũng chết khô xương , còn ta, cả cơ đồ sáng lạng trước mắt. Thôi thì, ta đành làm người vong ơn bội nghĩa..

Hàn Tín quay trở lạị Kiếm vung lên, thân lão tiều phu đứt làm đôị Hàn Tín đem xác vùi bên sườn núi.

Khi đến Hán Trung, Hàn Tín được Tiêu Hà - cận thần của Hán Vương tiếp kiến, liền tiến cử với Hán Vương. Vừa nghe đến tên Hàn Tín, Hán Vương đã cười khẩy:

- Khi còn ở huyện Bái, ta đã nghe tiếng người này lòn trôn Đỗ Trung, xin cơm Phiếu Mẫu, làng nước ai cũng khinh bỉ. Con người như vậy thì làm sao mà làm được việc lớn?.

Tiêu Hà bào chữa:

- Xin Chúa công hãy suy xét, nhiều người bần tiện thuở thiếu thời nhưng sau vẫn dựng nên sự nghiệp, như Y Doãn là người sơn dã, Thái Công là kẻ đi câu ở sông Vị, Ninh Thích là gã buôn xe, Quản Trọng là kẻ tội đồ, đến lúc gặp thời đều làm nên đại sự. Hàn Tín tuy đã lòn trôn mưu sống, xin cơm cứu đói, giết ân nhân để trừ hậu hoạn..nhưng đó vẫn là người uyên bác, mưu lược; không dùng, tất hắn sẽ bỏ đi tìm nơi khác trọng dụng.

Nể lời tấu trình của cận thần, Hán Vương giữ Hàn Tín lại, cho làm thủ kho lương thực. Tiêu Hà không đồng ý vì cho rằng Hàn Tín là người trí dũng, đem dùng vào việc nhỏ không xứng với tài năng. Phần Hàn Tín cũng chán nản; nấn ná một hai hôm lại trốn đi, để lại ít câu thơ, thảo trên vách:

Anh hùng lỡ vận bước long đong
Thà chịu an thân khỏi thẹn lòng
Vó ngựa xa vời trông cố quận
Công danh chán ngắt mộng anh hùng.

Tiêu Hà hay tin Hàn Tín đã bỏ đi, dậm chân kêu trời, tiếc thay người tài không có đất dụng võ. Không nản lòng, Tiêu Hà đem theo ít quân hầu lần theo dấu tích Hàn Tín. Khi tìm gặp được, Tiê Hà cầm tay Hàn Tín ân cần:

- Cổ nhân có câu: Sĩ vị tri kỷ giả tử (kẻ sĩ có thể chết theo người tri kỷ). Tại hạ hiểu huyng là người tài, đã quyết tâm tiến cử, nhu8ng Chúc công vần chưa tin dùng. Nay nếu một lần tiến cử nữa, mà Chúa công vẫn không nhận, thì Tiêu Hà này cũng từ chức mà lui về vườn.

Hàn Tín cảm kích lòng thành của Tiêu Hà, nên lại lên ngựa quay trở về Hán Trung. Nghĩ đến số phận mình còn long đong, Hàn Tín đề thơ:

Mây gió phôi pha bóng nguyệt tà
Vận thời chưa gặp khó bôn ba
Nghèo hèn phận bạc đơì dang dở
Con tạo trêu ngươi mãi thế à!

Chợt, Hàn Tín nhớ mấy câu thơ của "anh lái buôn " Trương Lương đã đề tặng mình. Lúc đó, Trương Lương vẫn còn chu du chiêu hiền chưa về đến. Hàn Tín đưa thơ cho Tiêu Hà xem. Tiêu Hà mừng rỡ:

- Trời đất, thư giới thiệu của Tử Phòng, sao tướng công đã không trình cho Chúa công.

Khi xem thơ của Trương Lương, Hán Vương giật mình:

- Ôi chao, thì ra người của Trương Tử Phòng tiến cử. Ta thật không biết nhìn người.

Theo đề cử của Tiêu Hà, Hán vương phong Hàn Tín làm Đại Nguyên Soáị Hàn Tín đã đem tài năng mình phò Lưu Bang, tóm thâu thiên hạ, dựng nên nhà Hán.

Trong khi danh vọng ngất trời, Hàn Tín vẫn hãnh diện vì cái quá khứ bát cơm Phiếu Mẫu của mình và cũng từ đó, lưu truyền trong dân gian điển tích này.

Chỉ tiếc khi tài - danh lên tột đỉnh, Hàn Tín vẫn không hượm chân, nên đã chết thảm dưới tay Lữ Hậu.

LSB-Sun
06-03-2010, 12:56
Quạt Nồng Ấp Lạnh

Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Tích quạt nồng ấp lạnh có trong sách "Nhị thập tứ hiếu" của Quách Cự Nghiệp đời nhà Nguyên.

Đời Hậu Hán có đứa trẻ lên 9 tên là Hoàng Hương. Mẹ mất quá sớm, Hoàng Hương ở vơi cha; cậu bé thờ cha một mực hiếu đễ.

Vào muà hạ, thời tiết về đêm nóng nực oi bức, Hoàng Hương thường xuyên quạt màn chiếu, chăn đệm cho thoáng mát trước khi cha ngủ. Muà đông, tiết trời lạnh lẽo, đêm đêm trước khi cha đi ngủ, Hoàng Hương vào giường cha nằm lăn qua trở lại rất lâu, để mền chiếu ấm hơi người cho cha già được ngon giấc.

LSB-Sun
06-03-2010, 12:57
Sâm Thương

Nàng rằng: Nghĩa trọng nghìn non
Lâm Truy người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân
Sâm Thương, tên gọi trong dân gian là sao Hôm, sao Mai, là hai vì sao chẳng bao giờ trông thấy nhau, một đằng Đông buổi tối, một phía Tây ban sáng.. Truyện Thần tiên kể rằng:

Hàng năm, tại Thiên đình có hội Bàn Đào, tiên ông tiên nữ tề tựu dâng lễ vật, hái đào tiên chúc tụng Ngọc Hoàng. Tiên đồng Bảo Sâm theo hầu một tiên ông, ngọc nữ Thanh Thương theo hầu một tiên cô. Hai trẻ tình cờ, gặp gỡ , quen biết nhau rồi sinh tình. Trước ngày mở hội, đôi trẻ có chút thời gian bên nhau tình tự.

Một nhân vật thứ ba, tiểu đồng Trường Quang, cũng tình cờ gặp gỡ Thanh Thương, nhưng tình chỉ sinh một hướng, Thanh Thương đã yêu đậm Bảo Sâm mất rồi. Bị tình lờ, Trường Quang sầu thảm.

Đến ngày Bàn Đào khai hội, đàn ca xướng hát rộn ràng. Các tiểu đồng, ngọc nữ nhịp nhàng như vũ điệu, tay bưng khay, tay nâng chén ngọc hầu rượu các tiên ông tiên bà.

Thanh Thương, là ngọc nữ hát hay múa đẹp nhất, nên được chọn dâng chén cho Ngọc Hoàng. Nhưng tâm hồn nàng để lạc đâu đâu, đôi mắt cứ dõi tìm Bảo Sâm, nên sẩy tay đánh rơi cả khay ngà chén ngọc. Thanh âm ngọc vỡ tan hoang. Từ bàn dưới nhìn lên, Bảo Sâm thấy tai hoạ đang giáng xuống cho người yêu cũng sửng hồn, khay chén trên tay cũng đánh xoảng rơi xuống đất. Đàn ca xướng hát thanh thoát, bỗng nín bặt.,

Ngọc Hoàng xử tội ngay đôi trẻ:

- Đôi tiên đồng, ngọc nữ còn non tuổi mà lại dám bày trò yêu đương nơi cõi, tội đáng đày xuống trần gian cho làm một kiếp thú, sống trong núi thẳm rừng sâu, kiếp sau mới được đầu thai làm người ở luôn dưới cõi trầ.n...

Trường Quang không phạm lỗi chi cũng run lập cập khi Ngọc Hoàng đang xử tội người yêụ. một chiều; khi vưa nghe lơì kết tội đày xuống trần gian làm thú, không nén được đau thương, Trường Quang đã thét lớn: "Thanh Thương ơi, Thanh Thương ơi, ta nguyện theo nàng xuống trần gian. Ngọc Hoàng thêm giận, ừ thì muốn theo thì ta cho thỏa ước mơ, truyền cho đày tiểu đồng tình dại này đi chung một chuyến.

Các tiên ông tiên bà, thương cho ba trẻ tình si, chỉ vì thương yêu mà chuốc họạ Họ đồng thanh xin Ngọc Hoàng nương tay, chớ đày xuống trần gian, mà hãy cho ở lưu lạc đâu đó trên trời.

Lời câu xin của các tiên, Ngọc Hoàng nguôi ngoai cơn giận, phán lại lần cuối cho chúng làm hai ngôi sao, tuy ở chung cùng trời, nhưng không bao giờ được gặp nhau.

Nàng Thanh Thương làm sao Thương, là sao hôm, chỉ mọc lên ở hướng đông lúc về đêm; Bảo Sâm trở thành sao Sâm, là sao mai, mọc ở phía tây lúc trời hửng sáng.

Còn Trường Quang, sẽ được như ý, suốt đời tìm kiếm tình yêu, thì biến thành sao "vượt", bay đi xẹt lại trọn kiêp mà kiếm tìm.

Ca dao Việt Nam ta có câu:
Sao hôm chờ đợi sao mai
Trách lòng sao vượt nhớ ai băng chừng.

Sao vượt (sao băng) muôn đời vẫn mang theo điều mơ ước.

Ngày nay, có ai mong mỏi điều gì, hãy ngước nhìn lên trời đón ánh sao băng, điều ước mơ sẽ được toại nguyện. Nhưng còn sao Sâm, sao Thương, theo phán xử của Ngọc Hoàng phải ngàn nghìn trùng xa cách, đông tây, đêm ngày đuổi bắt nhau mà không gặp được.

LSB-Sun
06-03-2010, 12:59
Sân Hoè

Sân hòe đôi chút thơ ngây
Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình

Sân hòe đôi chút thơ ngây. Cây hòe, loại cây gỗ quí, được trồng trước mặt các vị Tam công (Thái Sư, Thái Phó và Thái Bảo) đứng chầu, trong sân Ngoại triều của vuạ Tam triều của vua: Yến triều, Nội triều và Ngoại triều.

Đời nhà Tống, có Vương Hựu, tự tay trồng ba cây Hòe trong sân nhà và nói rằng:

- Con cháu ta sau này sẽ có đứa làm đến chức Tam công.

Quả đúng về sau, con của Vương Hựu là Vương Đán làm đến Tam Công

Trân cam, ai kẻ đỡ thay việc mình. Trân cam là vị ngon vị ngọt, ý nói sớm tối chiều hôm trông nom thức ăn hầu cha mẹ.

LSB-Sun
06-03-2010, 12:59
Sân Lai

Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Tích Sân Lai cũng có trong "Nhị thập tứ hiếu".

Lai Tử người nước Sở thời Đông Châu liệt quốc, bảy mươi tuổi vẫn con cha mẹ già.

Để làm trò cho cha mẹ vui, ông thường mặc áo ngũ sắc sặc sỡ, giả làm trẻ nhỏ, múa may đùa giỡn. Có khi làm bộ vấp bực thềm, té lăn ra đất rồi nhại tiếng khóc con nít cho cha mẹ cười.

Có khi nhìn đứa trẻ thơ 70 tuổi, cha mẹ tuổi đã tròn thế kỷ bỗng quay về thuở trung niên.

LSB-Sun
06-03-2010, 13:00
Sông Tương

Kim Kiều chỉ cách nhau bức tường hoa, nhưng chàng nàng đã cho rằng lễ giáo như thành lũy đã chia loan rẽ phượng:

Từ phen đá biết tuổi vàng
Tình càng thắm thiết, dạ càng ngẩn ngơ
Sông Tương một giải nông sờ
Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia.

Sông Tương hay Tương Giang, còn gọi là Tiêu Tương, thuộc tỉnh Ninh Lăng, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc.

Sử viết, khi vua Thuấn mất, hai bà phi là Nga Hoàng và Nữ Anh thương tiếc không nguôi, hết vật vã thảm thiết trong cung, lại ra bờ sông Tương khóc than đêm ngày. Nước mắt hai bà nhỏ xuống bờ trúc, làm cho trúc ở đây nổi lên những đường vân đẹp như mây sóng ẩn hiện. Người đơì sau thường tìm đến bờ sông Tương mua loại trúc này về làm mành. Nước mắt của cuộc tình vắn số đã nhỏ xuống để tạo nê n những đường vân tản mạc, nên mành tương là một tượng trưng cho một số phận đoạn nỗi. Chuyện tình của Kiều cũng tang tác, nên có câu: Mành tương phảng phất gió đàn.

Trúc Tiêu Tương không những làm mành đẹp mà sáo trúc Tương giang cũng mang một âm thanh có sức truyền cảm lạ lùng. Chuyện hai bà Phi khóc chồng bên bờ sông Tương thuộc đời Nghiêu Thuấn; đến đời nhà Châu, sông Tương lại chứng minh một tình buồn nữạ Chàng là nho sĩ Lý Sanh; nàng thôn nữ Lương Ý Nương. Đôi trẻ yêu nhau tha thiết đã nặng lời hẹn ước. Sau khoa thi sẽ làm hôn lễ; nàng quay tơ dệt vải đờ.i chờ; đêm đêm nàng cũng chịu khó chong đèn, chút chữ nghĩa có văn thơ với người yêu. Nhưng rồi giặc giã nổi lên khắp nước, thân trai phải xếp bút nghiên lên đường đao binh. Chén rượu ngày hợp cẩn xin là chén ly bôi bên bờ sông Tương. Đây sầu ly biệt của nàng chinh phụ trong Chinh phụ ngâm :

Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương
Nơi Hàm Dương cách Tiêu Dương mấy trùng
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xa xa những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.

Nhà Ý Nương ở mạn hạ lưụ Chiều chiều lại nhớ chiều chiều, nàng ra đứng bên bờ sông trông về phía thượng lưu ngóng đợị Vừng kim ô lặn xuống trời tây, mặt nước sông Tương còn vương lại chút nắng vàng rồi trở bạc; đàn chim trong khóm trúc xạc xào bay về tổ ấm. Chinh phụ chinh phu, như đầu sông cuối sông. Nàng đã viết bài thơ cho môi tình mòn mỏi bao năm đơi chờ:

Nhân đạo Tương giang thâm
Vị để Tương giang bạn
Giang thâm chung hữu để
Tương tư vô biên ngạn
Quân tại Tương giang đầu
Thiếp tại Tương giang vĩ
Tương tư bất tương kiến
Cộng ẩm Tương giang thủy

(Tương giang người bảo sâu
Chẳng bằng lòng thương nhớ
Sông sâu còn có đáy
Tương tư không bến bờ
Chàng ở đầu sông Tương
Thiếp ở cuối sông Tương
Nhớ nhau mà không thấy
Cùng uống nước sông Tương)

LSB-Sun
06-03-2010, 13:01
Tất Giao

Một lời gắn bó tất giao
Mái sau dường có xôn xao tiếng người.

Tất giao nghĩa là sơn và keo, dính chặt vào nhaụ

Theo truyện Truyền kỳ Trung Quốc, xưa có hai người bạn học tên là Lôi Nghĩa và Trần Trọng chơi thân với nhau. Cả hai cùng ứng thí. Lôi Nghĩa thi đậu, nhưng Trần Trọng lại trượt.

Lôi Nghĩa thương bạn còn gia cảnh ngặt nghèo, muốn nhường tên bảng vàng cho Trần Trọng, nhưng không được quan trường chấp thuận. Lôi Nghĩa bèn giả điên để khỏi bị bổ làm quan.

Đến khoa thi sau, cả hai lại cùng đi thi và đều đỗ. Bấy giờ cả hai mới nhận áo mão triều đình cùng ra làm quan.

Người đời đã có câu ca ngợi tình bạn Lôi Nghĩa và Trần Trọng :
Tất giao vi kiên, bất như Lôi dữ Trần
(Keo sơn bảo là bền, chẳng bằng Lôi với Trần).

LSB-Sun
06-03-2010, 13:02
Thang Mây

Thang mây dón bước ngọn tường,
Phải người hâm mộ rõ ràng, chăng nhe

Thang bằng mây dùng để leo thành cao.

Theo điển tích thời Chiến Quốc, lúc Sở Kinh Vương chuẩn bị đánh Tống, bèn cho lệnh Công Thâu Ban, người thợ mộc giỏi nhất nước, chế tạo loại thang mây để công hãm thành trì nước Tống.

Mặc Tử biết sắp có chuyện đao binh, vội đến ngăn vua Sở:

- Nước Sở lớn, nước Tống nhỏ. Nay Chúa công lấy lớn hiếp nhỏ thì phỏng hay ho gì?.

Sở Kinh Vương chưa kịp trả lời thì Mặc Tử đã tiếp:

- Nước Sở giàu, nước Tống nghèo. Chúa công đánh nước Tống thì được lợi lộc gì.

Vua Sở hăm hở:

- Nhưng ta đã chế tạo được thang mây thì phải đi công phá thành chứ.

Mặc Tử cười khẩy:

- Có thang mây đâu phải là chiếm được nước Tống.

Vua Sở bực tức:

- Công Thâu Ban là thợ giỏi nhất thiên hạ, chiến cụ của ông ta chế tạo ra há không công phá được thành nước Tống ư?

Mặc Tử đáp:

- Vậy hãy thử để tôi thủ thành, cho quân dùng thang mây của Công Thâu Ban tấn công, thử xem có thể phá thành được không?

Vua Sở đồng ý cho thử trận.

Đúng như lời Mặc Tử, quân lính đã dùng thang mây, khí cụ mới sáng chế, nhưng không sao công phá được thành.

Sở Kinh Vương cả giận, nói vo('i Mặc Tử:

- Dù vậy, ta đây vẫn có cách để thắng được.

Mặc Tử hiểu ý vua Sở, trả lời:

- Cách của nhà vua là giết chết tôi chứ gì? Nhưng cũng chẳng có lợi gì đâu. Tôi chết đi còn có đám học trò, chúng đã học được cách thủ thành của tôi và làm vô hiệu hoá cái thang mây sáng chế của nhà vua rồi.

Sở Kinh Vương đành phải nghe theo lời của Mặc Tử, bỏ ý định đánh Tống.

LSB-Sun
06-03-2010, 13:05
Thôi, Trương

Gẫm duyên kỳ ngộ xưa nay
Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi, Trương

Thôi, Trương tên của Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thụy. Theo chuyện "Hội Chân ký " đời Đường, Trương Quân Thụy gặp Thôi Oanh Oanh ở chùa Phổ Cứu đang lúc nàng thọ tang cho cha. Vậy mà tình yêu cũng nẩy lộc, đêm đêm hai người hẹn nhau ra mái phía Tây của chùa mà tình tự.

Tình yêu đã thắm đậm, nhưng sau đó hôn nhân không thành, chàng lấy vợ và nàng cũng đi lấy chồng...

"Hội Chân ký" kết thúc khi mối tình tan vỡ.

Đến đời Nguyên, nhà văn Vương Thực Phủ đã phóng tác, viết thành tuồng Tây Sương ký. Theo đánh giá của Kim Thánh Thán, nhà phê bình văn học lừng danh cuối đời Minh, đầu đời Thanh, thì Tây Sương ký là một trong " Lục tài tử thư " của Trung Quốc, gồm có:
1. Nam Hoa kinh của Trang Tử
2. Sử ký của Tư Mã Thiên.
3. Thơ Đỗ Phủ đời Đường
4. Ly Tao của Khuất Nguyên
5. Thủy Hử của Thi Nại Am
6. Tây Sương ký của Vương Thực Phủ.
Tóm tắc tuồng "Tây Sương ký":

Góa phụ Thôi tướng quốc cùng ái nữ là Thôi Oanh Oanh xin trú ngụ mái Tây chùa Phổ Cứu để cư tang cho Thôi Tướng quốc.

Trên đường về kinh đô thi Hội, thư sinh Trương Quân Thụy ghé lại tham quan cảnh chùa và gặp gỡ Thôi Oanh Oanh. Diện kiến nhan sắc tuyệt trần , chàng Trương bèn xin trọ lại chùa để có dịp tỏ tình với giai nhân.

Gặp lúc có giặc Tôn Phi Hổ vây chùa và bắt nàng Thôi Oanh Oanh đem đi. Mẹ nàng không biết cầu cứu ai, chỉ biết hứa là ai cứu nguy được cho gia đình thì gả con gái. Trương Quân Thụy cấp tốc gởi thư cho một người bạn học cũ là tướng quân Đỗ Quân Thực đem binh đuổi giặc, cứu nạn cho gia đình Thôi Oanh Oanh.

Nhưng sau khi tai qua nạn khỏi, bà mẹ Oanh Oanh thất hứa, không cho đôi trẻ kết hôn mà chỉ cho kết nghĩa anh em. Trương Quân Thụy phẫn uất, buồn bã rồi sinh trọng bệnh. Thị nữ của Thôi Oanh Oanh là Hồng Nương hay tin, về báo cho cô chủ. Thôi Oanh Oanh đang đêm, cùng Hồng Nương tìm đến thăm chàng. Thị nữ đứng trông chừng bên ngoài, trong thư phòng đôi lứa đã ..gẫm duyên kỳ ngộ, đẹp tày Thôi Trương.

Chuyện " tiết trăm năm, nỡ bỏ đi một ngày " của nàng Thôi bị đổ bể. Mẹ nàng đành phải chấp thuận cho đôi trẻ se duyên, nhưng buộc Trương Quân Thụy phải lên đường về kinh ngay cho kịp kỳ thi Hội, khi bảng vàng có tên rồi hãy quay về làm lễ thành hôn. Trên đường tiến kinh, chàng Trương ghé lại một quán trọ qua đêm. Trong giấc ngủ, chàng mơ thấy Thôi Oanh Oanh...

Theo Hội Chân ký, thì khi giấc mơ qua rồi cũng là lúc cuộc tình ra đi. Nửa đường đứt gánh, chàng theo đường chàng lấy vợ, nàng theo đường nàng lấy chồng.

Nhưng trong tuồng Tây Sương ký thì tình duyên hai người không đứt đoạn, Trương Quân Thụy thi đỗ Thám Hoa, vinh qui trở về cưới nàng Thôi Oanh Oanh. Kim Thánh Thán đã đặt nghi vấn, cho rằng 4 hồi sau của Tây Sương ký không phải do Vương Thực Phủ viết, mà có thể do Quan Hán Khanh, một nhà văn cùng thời với Vương Thực Phủ. Bản dịch của Nhượng Tống cùng chỉ dịch 16 hồi, đến lúc tan vỡ mối tình Thôi Trương thì kết thúc.

LSB-Sun
06-03-2010, 13:06
Tiểu Lân

Còn chi nữa, cánh hoa tàn
Tơ lòng đã dứt dây đàn Tiểu Lân

Nàng Tiểu Lân, tài sắc vẹn toàn, đàn giỏi hát hay , là ái phi của vua Trần Hậu Chủ, đời Nam Bắc triều.

Hai nước Trần, Chu giao tranh. Trần thua. Chu Vũ Đế bắt được Tiểu Lân đem về, gả cho Đại vương Đạt. Đạt thương yêu lắm, nhưng biết Tiểu Lân vẫn một lòng thủy chung với Hậu Chủ, nên không nỡ ép duyên.

Một hôm, Đạt muốn nghe Tiểu Lân đàn; tỳ bà, nửa chừng đứt dây, nàng tiếp lời thơ:

Thiết thừa kim nhật sủng
Do ức tích thơì duyên
Dục tri tâm đoạn tuyệt
Ưng khán tất thượng huyền.

Thánh thượng có lòng thương
Nhưng tình cũ đong đầy
Thiếp tơ lòng đứt đoạn
Như dây đàn đứt ngang

LSB-Sun
06-03-2010, 13:07
Tống Ngọc

Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Tràng Khanh.

Nói về Tống Ngọc, tình sử Trung Quốc viết: Vuơng Trung là một đại thần của nước Sở. Một lần vua cho lĩnh ấn tiên phong đi dẹp loạn, bị thất trận. Vương Quân bị giáng chức, được bổ làm thiên hộ vệ quân tại Nam Dương. Ái nữ là Vương Kiêù Loan cũng theo cha về nhiệm sở mới.

Kiều Loan là một giai nhân tuyệt sắc đang độ tuổi trăng tròn, bản chất thông minh, lại được cha mẹ cưng chìu, từ nhỏ đã thông làu kinh sử, văn hay chữ tốt. Năm tháng nàng chỉ quẩn quanh chốn khuê phòng. Tài sắc vẹn toàn, lại là con nhà trâm anh thế phiệt, nên khó mà tìm cho được người môn đăng hộ đối. Nàng có một người cô là Tào Di, góa chồng. Mẹ nàng đưa bà vềsống chung với gia đình để sớm hôm bầu bạn với Kiều Loan.

Một hôm, trong tiết thanh minh, hai cô cháu cùng đám thị nữ tản bộ đến hoa viên thưởng ngoạn. Đang mải ngắm hoa xuân, Kiều Loan linh cảm có ai từ bên kia bức tường đang đăm đăm nhìn mình. Chỉ đôi mắt ai đó thôi, Kiều Loan đã thẹn thùng đỏ mặt, đôi chân líu quíu không dời bươc được. Nàng níu lấy áo bà cô, giục đưa về phòng; các thị nữ cũng líu ríu về theo.

Vườn hoa đã vắng bóng giai nhân, nhưng hương thơm còn đọng lại. Đôi mắt, chàng trai lần bước ra, tẩn ngẩn như mất hồn; chợt trông thây chiếc khăn tay của ai còn vướng trên cành hoa, chàng cầm lấy áp vaò môi. Một thị nữ của Kiều Koan quay trở lại tìm chiếc khăn cho chủ. Chàng trai tư giới thiệu tên là Tống Ngọc và biết tên của thị nữ là Minh Hà và dò được quí danh của cô chủ. Tống Ngọc không trả lại khăn, mà chỉ năn nỉ nhờ thị nữ trao lại cho chủ một tấm hoa tiên, bài thơ vừa mới viết:

Phạ xuất quí nhân phận ngoại hương
Thiên công giao phó hữu tình lang
Ân cần ky thủ tương tư cú
Nghi xuất hồng ty xuất động phòng
(Khăn rơi mỹ nữ đượm hơi hương
Tạo hóa khiến xui kẻ vấn vương
Gởi khúc tương tư tình tha thiết
Chỉ hồng buộc chặt mối lương duyên)

Từ tuổi dậy thì vừa chớm, giai nhân chỉ ẩn mình phòng the, chỉ biết vui cùng đèn sách. Nay nhận được lời tỏ tình tuy quá đường đột nhưng chao ôi là tình. Trong lòng như sóng dậy, Kiều Loan không chợp mắt, cuối cùng không nén được rộn ràng, tấm hoa tiên đề thư phúc đáp:

Thiế'p thân nhất điểm ngọc vô hà
Linh thi hầu môn tướng tướng gia
Tinh lý hữu thân đồng đối nguyệt
Nhàn trung vô sự độc khán hoa
Biết ngô chi hứa lại kỳ phương
Thúy trúc nang dung nhập lãi nha
Kỳ dữ dị hương cô lãnh khách
Mặc tướng tâm sự loạn như ma

(Thân em như khôi ngọc trong lành
Khuê các ẩn mình kín cửa quan
Ngày vắng dạo xem hoa dưới mái
Đêm thanh bầu bạn trăng bên mành.
Một mình ngắm hoa nào ai tỏ
Cành ngô phượng vĩ chen màu biếc
Khóm trúc ô môn đượm mảnh tình
Nhắn nhủ phượng xe người lữ khách
Đừng trao tâm sự rối ren lòng.)

Tống Ngọc nhận được thơ từ tay Minh Hà, chàng lại phúc đáp. Từ đó , tỳ nữ Minh Hà là chim xanh, thơ đi tình về cho đôi lứạ Thời gian qua, đến lúc yêu đương đã chín mọng rồi, vậy mà Tống Ngọc vẫn phớt lờ chuyện mai mối, Kiều Loan phải thúc giục. Chàng trai viện cớ này , cớ nọ để trì hoãn. Rồi một chiều, Tống Ngọc lén đến bên tường đông, tỏ ý muốn vào tận sâu khuê phòng. Nàng từ chối; nhưng khi Tống Ngọc tiu nghỉu ra về, thì Kiều Loan lại sai Minh Hà đem đến một tấm hoa tiên:
Ám tương tế ngữ ký anh tài
Thảng hướng nhân tiện mạc loạn khaị
Kim dạ hương khuê xuân bất toả
Nguyệt di hoa ảnh, ngọc nhân lai

(Đôi lời xin ngỏ cùng ai
Nỗi riêng chớ để người ngoài thị phi
Phòng xuân mở rộng đêm nay
Trăng đưa hoa bóng gót lài rẽ sang

Vầng trăng vừa ló đầu núi, Tống Ngọc đã vội vàng nhẹ bước đến tường đông. Tỳ nữ Minh Hà đứng đợi ở cửa phòng. Lúc được đưa vào gặp, Kiều Loan cho mời bà cô Tào Di đến, rồi quay lại nhỏ nhẹ cùng Tống Ngọc:

- Thiếp là người đoan chính, chàng đâu phải là kẻ phàm phu. Chúng ta đã yêu nhau là do tài sắc, đã thành keo sơn gắn bó. Yêu chàng, thiếp đâu còn tiếc lấy thân, nhưng chỉ sợ vườn xuân cánh bướm, biết rồi có giữ được nguyện ưó+c hay không. Vây chúng ta hãy nguyện lời thề thủy chung đầu bạc răng long. Nếu không, chẳng hóa ra vì ham mê muội ái ân mà chúng ta quên nghĩa đá vàng.

Đôi uyên ương nhờ bà cô đứng ra chứng dám lời thề nguyền. Làm chứng xong, bà cô rút êm, để lại phòng the cho gió trăng. Ngoài phòng, Minh Hà ngồi canh cửạ Sáng tinh mơ, Kiều Loan đã đánh thức tình lang dậy, thủ thỉ bên tai chàng:

- Đời con gái, thiếp' đã trao trọn cho chàng rồị Thiếp chỉ mong chàng giữ trọn lời thề, sống chết có nhau đến trọn kiếp.. Từ đây về sau, khi nào có thể gặp nhau được, thiếp sẽ sai bảo Minh Hà đến đón chàng.

Từ đó, đôi trai gái không còn kín đáo trao cho nhau những vần thơ tình ủ ấp' hương , mà chỉ cách khoảng một hai hôm, lại được sự dẫn dắt cuả cô thị nữ Minh Hà, để tìm gặp nhau trong ái ân hoan lạc. Tường đông rộn ràng hoa bướm, nào đâu ngờ càng rộn ràng hơn trong lòng thiếu nữ Minh Hà, đang xuân thì phơi phới, cứ phải lấp ló trộm nhìn cảnh dập dìu gái traị Và, thời gian không lặng lẽ qua đi , trong suốt ba năm, những khoản hở không gặp Kiêù Loan, Tống Ngọc lại lén lút dan díu với Minh Hà. Sau rồi, Kiều Loan cũng hay chuyện, đau đớn không lường, nhưng chuyện đã rồi, đành ngậm đắng, và hối thúc Tống Ngọc phải làm lễ thành hôn với mình.

Từ lâu, Vương Thiên Hộ đã lợm danh Tống Ngọc, chàng trai khôi ngô tuấn tú, văn chuơng uyên bác, nhưng lại chuyên bề trăng gió , đã làm cho biết bao giai nhân bẽ bàng, nên quyết liệt từ chối lơì cầu hôn. Bị từ hôn, vui hay buồn không biết, Tống Ngọc lặng lẽ ra đi, nối tiếp cuộc sống ngắt hoa bẻ cành. Đau thương cho Kiều Loan, vò võ trông ngóng người yêu quay trởlại, rồi đau tình đến chết. Trước khi lìa đời, nàng đã để lại bản Trường hận ca và ba mươi bài thơ tuyệt mệnh.

LSB-Sun
06-03-2010, 13:08
Trao Tơ

Nuôi con vẫn ước về sau
Trao tơ phải lứa gieo cầu phải nơi.

Có nhiều điển tích trong việc kén chọn kết duyên, trao thân gởi phận giữa đôi trai gáị Trao tơ là trao sợi chỉ tơ hồng , còn gọi là hồng ti, cho người đính ước.

Tích trao tơ có từ đời Đường. Trương Gia Trinh có năm người con gái sắc nước hương trời đều đang đến tuổi cập kệ Vương tôn công tử gần xa đều ngấp nghé muốn xin, nhưng các chàng trai đều hoa mắt, vì các giai nhân trang sức ăn mặc rất giống nhau, đi đứng nói cười như hệt, ngày đêm quanh quẩn khuê phòng như các hằng nga vờn trong mây.

Có chàng nho sĩ tài danh tên là Quách Nguyễn Chấn thương lui tới gia trang đối ẩm với Gia Trinh. Mến mộ tài năng đức hạnh của chàng nho sĩ, ông già ngỏ ý muốn gả một trong năm cô con gái của mình. Nguyễn Chấn mừng khấp khởi, nhưng cả năm cô gái đều đẹp như tiên giáng trần, trông giống nhau quá thì biết chọn ai đây. Gia Trinh nghĩ ra một kế, cho năm ái nữ ngồi sau một bức mành, mỗi người cầm một sợi tơ màu khác nhau. Duyên số cho màu tơ người nào được chọn. Và Nguyễn Chấn đã chọn sợi tơ màu hồng. Từ đó trao tơ hồng có nghĩa là lời đính ước chuyện trăm năm.

LSB-Sun
06-03-2010, 13:10
Tràng Khanh

Phương Tây có Casanova, có Don Juan., nhưng đào hoa, đa tình e còn thua xa Tống Ngọc, Tràng Khanh..Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh. Chỉ một khúc nhạc Phượng Cầu trầm tư để "làm vốn" mà Tràng Khanh đã làm rơi rụng biết bao con tim. Tiếng đàn của Kiều cũng nặng u sầu khúc nhạc này:

Khúc đâu Tư Mã Phượng Cầu
Nghe ra như oán như sầu phải chăng ?.

Trường Khanh, tức Tư mã Tương Như có tiếng đàn tuyệt chiêu, đặc biệt là khi gảy khúc Phượng Cầu, trong lòng thiếu phụ, gái thanh xuân bỗng như sóng trào.

Thời ấy có nàng Trác Văn Quân thuộc hàng quốc sắc thiên hương, con của tri huyện Thiểm Tây Trác Bá Lộc. Nàng được gã cho thư sinh Vương Hàm Tân, đỗ tú tài rồi nhu(ng vẫn tiếp tục việc bút nghiên. Nửa năm hương lửa đang nồng, Hàm Tân bỗng lâm bạo bệnh từ trần. Nửa đời hồng nhan dang dở. Trong suốt thời gian làm tuần , nàng ngồi rũ rượi bên bàn thờ chồng. Bỗng một đêm, văng vẳng từ bên kia sông, tiếng đàn ai theo với lời ca não nùng:

Tình yêu là mối dây oan
Hoa tươi nghĩ lúc hoa tàn tủi thân.
Hoa tàn hoa rụng - Hoa héo đầu cành
Hận ngày xanh - Tủi ngày xanh
Kiếp hoa ngắn ngủi
Mưa gió tan tành
Nguyệt đan mành
Hoa tàn tạ
Cảnh bâng khuâng
Yêu nhau không trọn
Đời bạc như vôi
Tình xưa ai đã phụ rồi
Người xưa như thế thì thôi còn gì
Mối tình si - lệ lâm ly
Thà rằng quen biết nhau chi
Biết nhau như thế ước gì mà mong

Ôi tiếng đàn câu ca như xé tâm can. Trác Văn Quân gọi tỳ nữ Thanh Mai vào thơ phòng , hỏi:

- Tiếng đàn của ai bên sông sao nghe buồn bã quá, lòng ta xao động khôn cùng. Người hãy sang sông tìm thử ai đang réo rắt tiếng tơ trùng này.

Đêm đã khuya, nhưng may con ánh trăng vằng vặc. Thanh Mai vâng lời chủ, gọi đò sang sông. Cô lái đò giải thích cho Thanh Mai:

- Có chàng trai từ phương xa đến đây tên là Tư Mã Tương Như Trường Khanh . Chàng có khúc nhạc mê hồn Phượng Cầu Hoàng, đàn bà con gái không sao cưỡng lại sức quyến rũ, mê mẫn khi nghe khúc nhạc này.

Thanh Mai chỉ hiểu mơ hồ lời giải thích của cô lái đò và tìm đến gần phía trang viên. Bên trong thấp thoáng nhiều bóng hồng đang đùa cợt lả lơi quanh một chàng trai trẻ đẹp. Sửng sờ, cô tỳ nữ bị chôn cứng chân đến gần tảng sáng mới lần bướ ra về, thưa chuyện cho cô chủ:

- Em đã tìm đến trang viên.. Ở đó có vườn hoa đẹp, có chàng trai tên là Trường Khanh, có tiếng đàn làm mê hoặc đàn bà con gái khắp vùng này.

Trác Văn Quân bỗng hở dài, nét hoa thêm phần ủ dột, thảo nào, lòng tạ. Suốt ngày hôm đó, nàng ngồi câm nín bên lan can, vành khăn tang trễ xuống ngang vai, khói hương bàn thờ chồng cũng tắt ngấm. Rồi ngày một ngày hai, tiếng đàn sao im bặt.. Qua đêm thứ ba, Văn Quân không dìm được nỗi lòng, gọi Thanh Mai vào:

- Đa ~ hai đêm ta không nghe được tiếng đàn, trong người khó thở. Người hãy tìm đến chàng, trao thư này cho tạ Thanh Mai ngập ngừng can ngăn:

- Tiểu thư chưa quen biết, sao lại trao thơ cho người tạ Lệnh lang cũng vừa mệnh chung...

Văn Quân như mất hồn, ừ thì thôi vậy, nếu người không trao thư cho ta, thì hãy đưa ta đến tìm gặp người đó . Nói xong. vội vàng Van Quân cởi bỏ tang phục, ăn mặc cực kỳ diêm dúa, kéo xệch Thanh Mai xuống đò, sang ngang. Gần đến trang thanh viên, Văn Quan hối hả bước vộị Nhưng khi đến gần, được Thanh Mai chỉ cho trông thấy dung mạo người trong mộng, Văn Quân bỗng thẹn thùng; con người đàn bà đoan chính, một thoáng chốc ... Nàng run rẩy quay gót chạy trở về. Tràng Khanh cũng biết có nguời đang nhìn trộm mình rồi bỏ chạy, nhưng vướng víu các kiều nữ đang quấn chặt lấy mình, nên không theo đuổi kịp. Sau đó, tuy trễ một chuyến đò, Tràng Khanh cũng tìm đến được bên ngoài phủ quan, biết ngươì thiếu phụ là Trác Văn Quân, góa phụ trẻ đẹp tuyệt tác trần gian. Tràng Khanh nghĩ, ta sẽ có nàng.

Trác Văn Quân về đến thơ phong, vất bỏ xiêm ỵ mặc lại tang phục, đến ngồi lặng yên bên bàn thờ chồng. Nửa đêm về sáng, bỗng tiếng đàn lại vọng lên. Ôi nó réo rắt mời gọị Người góa phụ cố bịt kín lấy đôi tai, nhưng âm thanh lại càng xoáy vào hồn. Nàng dẫy dụa trong dằn vặt nhưng thôi ; ánh trăng mờ dần .. nàng thẩn thờ đứng dậy, lại cởi bỏ tang phục, thay đổi xiêm y sặc sỡ, nhanh bước ra bờsông. Khi đã đưa nàng sang bên kia bờ, cô lái đò hỏi:

- Thưa bà, tiện nữ sẽ đợi đến bao giờ để đưa bà về.

- Không, đừng hoài công chờđợi . Ta đã vào khúc Phượng Cầu, e không có ngày trở lại.

LSB-Sun
06-03-2010, 13:11
Trúc Mai

Kim lang ơi hỡi Kim Lang, khóc chi cho xiết sự tình. Ngày mai, tên lái người Mã Giám Sinh sẽ dắt thiếp đi, như dắt trâu ngựa, về Lâm Trị Chàng đang ở Liêu Dương, nơi xa xôi ngàn dặm, có thấu chăng nỗi lòng nàỵ Một mình, một bóng thiếp đang khóc cho tình đôi ta:

Thề hoa chưa ráo chén vàng
Lỗi thề thôi đã phụ chàng với hoạ
Trời Liêu non nước bao xa
Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà từ tôi
Biết bao duyên nợ thề bồi
Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì
Tái sinh chưa dứt hương thề,
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.

Trong các tranh thủy mạc của Trung Quốc thường vẽ bụi trúc bên cành maị Hai loại cây này, dù trong đông giá vẫn không tàn úạ Đông đi xuân đến, mai lan cúc trúc, 4 muà của trời đất. Chuyện Trúc Mai được chép trong sách Lưỡng ban thư vũ tùy bút:

Huyện Long Môn, tỉnh Quảng Đông có một cái đầm nước rất đẹp.Vào dịp thu sang, lá vàng xào xạc, thân cây trơ trụi, riêng chỉ có hai loài mai và trúc thì lá vẫn xanh tươi. Các gia đình quyền quí, thường đến đó ngoạn cảnh trong tiết thu sang. Trong tình cơ, có hai trai gái quen nhau, rồi yêu nhaụ Đô^i uyên ương đều là con nhà gia phong thế phiệt. Chàng là Lâm Bá Trúc, nàng là Hoàng Kỳ Maị Ngươì xưa, khi nói người con gái có cốt cách cao sang thì được tả là mình hạc xương maị Hai chị em Kiều cũng được cụ Nguyễn chấm phá đôi nét:

Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười

Còn cây trúc được ví với các nho sinh, công tử. Ngày ngày Kỳ Mai, Bá Trúc đều hẹn nhau dạo chơi trên đầm. Những ngày thơ mộng. Nhưng rồi muà thu cũng ra đị Đôi uyên ương trao lời từ biệt. Buổi chiều cuối dạo thuyền trên đầm. Trúc bẻ một cành mai, Mai bẻ nhánh trúc, rồi cùng thành tâm khấn nguyện:

Hai cành trúc mai là đôi chúng tạ Chúng ta ném hai cành cây này xuống nước theo hướng khác nhaụ Nếu là duyên trời định thì giòng nước sẽ đưa đẩy hai cành cây này đến với nhau, thì đó là trúc mai hòa hợp, chúng ta sẽ nên duyên vợ chồng. Xin đất trời chứng giám. Một cơn gió nổi lên, mặt nước đang lặng lờ bỗng gợn sóng. Chỉ một lúc sau, sóng gió đưa đẩy hai cành trúc mai đến gối đầu lên nhau.

Lời nguyện đã linh ứng. Đôi trẻ trở về thưa chuyện với lệnh đường đôi bên. Hai họ cho đó là duyên tiền định, nên hoan hỷ tác hợp cho Trúc Mai thành duyên vợ chồng.

Đời sau, khi nói trúc mai là nói đến tình nghĩa vợ chồng . Kim Kiều chỉ mới thề ước, nhưng đã như phu thê tình nồng. Nay thiếp tròn chữhiếu, biết kiếp nào đền nghì trúc mai, thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây...

LSB-Sun
06-03-2010, 13:12
Tựa Cửa Hôm Mai

Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Tích tựa cửa từ thời Chiến Quốc. Vương Tôn Giả làm quan dưới triều Tề Mân Vương. Tôn Giả mồ côi cha sớm, chỉ còn mẹ già. Gặp cơn chinh chiến, Tề Mân Vương thua trận, bỏ kinh thành mà chạỵ Vương Tôn Giả phò vua, chạy đến nước Tề thì vua tôi lạc mất nhau, nên ông lại quay về quê nhà tìm mẹ
Bà mẹ thấy con về, bèn hỏi:

- Sao con không phò tá chúa công mà lại quay về đây?

Vương Tôn Giảng thưa:

- Thua trận, vua tôi cùng chạy đến nước Vệ thì lạc nhau. Không biết giờ này vua lưu lạc nơi nào.

Bà mẹ nổi giận:

- Mày sớm đi chiều về, ta tựa cửa trông; mày chiều đi mà tối không về thì ta vẫn tựa cửa mà ngóng đợi. Vua trông đợi bề tôi chẳng khác chi mẹ mong con. Mày là phận làm tôi, mà vua lạc đi đâu mất không hay lại bỏ về nhà ư?. Có phải là ta có đứa con bất trung không?

Vương Tôn Giả nghe lời mẹ dạy, không dám bịn rịn tình mầu tử, liền lên đường tìm vuạ Khi biết tin Tề Mân Công đã bị giết, Vương Tôn Giả qui nạp dân chúng lại, tìm giết được kẻ giết vua, báo thù cho Tề Mân Công.

LSB-Sun
06-03-2010, 13:12
Tú Khẩu Cẩm Tâm

Xem thơ nức nở khen thầm
Giá đành tú khẩu, cẩm tâm khác thường

Tú khẩu, cẩm tâm; miệng thêu, lòng gấm ý nói người có tài văn chương, lời hay ý đẹp. Trong văn học Trung Quốc, bốn người văn chương trác tuyệt được đời xưng danh là "tú khẩu, cẩm tâm" là Hàn Dũ, Liễu Tôn Nguyên, Âu Dương Tu và Tô Tuân.

Hàn Dũ (768 - 824) tự là Thoái Chi, người đơi sau thường gọi là Hàn Xương Lê, quê quán Nam Dương, tỉnh Hồ Nam, mồ côi sớm, học rất giỏị Năm 25 tuổi đỗ tiến sĩ, làm Giám sát Ngự sử, Sử quán Tu soạn rồi Hình bộ Thị Lang. Hàn Dũ là người tôn sùng giáo lý Khổng Mạnh, nhưng vua Đường Hiến Tông lại sùng đạo Phật. Hàn Dũ làm sớ khuyên vua bài xích đạo Phật và đốt xương Phật. Vua giáng chức làm Thứ sử Triều Châu, nhưng rồi sau đó cũng được triệu về kinh phục chức.

Liễu Tôn Nguyên (773 - 819) tự là Tử hậu, quê quán Hà Đông, người cùng thời với Hàn Dũ và cũng chủ trương tôn Khổng Mạnh, bài triết lý Phật. Ông đỗ Tiến sĩ và Bác học Hoằng từ, làm quan đến Giám sát ngự sử. Sau bị tội, nên bị giáng xuống làm Tư mã Vĩnh Châu, rồi Liễu Châu thứ sử.

Âu Dương Tu (1007 - 1072) tự Vĩnh Thúc, quê quán đất Tô Lăng đời Tống, đỗ Tiến sĩ, học rộng, văn tài trác tuyệt, làm quan đến Binh bộ Thượng thư. Tính tình ngay thẳng, nên quan Dương Tu bị nhiều người ghét. Ông thuộc phái "Cựu đảng" của Tư Mã Quang chống "Tân pháp" của Tể tướng Vương An Thạch, nên phải lui về vườn sớm khi chưa tới tuổi hưụ Ông là tác giả bô Tân Ngũ Đại Sử và biên soạn chung với Tống Kỳ bộ Tân Đường thi.

Tô Tuân (1009 - 1066) tự Minh Doãn, quê ở My Sơn
đời Tống. Tô Tuân không xuất thân khoa bảng nhưng ông lại là một danh sĩ. Năm 27 tuổi ông mới bắt đầu học, năm 37 tuổi có đi thi một lần, không đỗ. Buồn, đi ngao du đây đó mấy năm mới chịu quay về nhà và từ đó không thi cử gì nữa. Ông là thân phụ của Tô Thức (Tô Đông Pha) và Tô Triệt. Năm 1059, ông được triều đình đặc cách chức Hiệu Thư lang, chuyên chép chuyện các đời vua nhà Tống, nhưng chỉ được khen chứ không chê. Ông tỏ ra không thích công việc này, nên được đổi làm Chủ Bạ huyện Văn An. Ở đó ông soạn bộ Thái thường nhân cách lễ, gồm một trăm quyển. Sách vừa soạn xong thì ông qua đời.