LSB_ Yến Thanh
16-10-2006, 13:58
Thưa các bạn, đây là vườn thơ nơi dành cho chúng ta giao lưu với nhau qua những vần thơ
Để nhằm đáp ứng nhu cầu cho mọi người, và để chúng ta có được những bài thơ hay và y' nghĩa, hôm nay YT xin được để lại đây những luật làm thơ, chúng ta hãy cùng tham khảo
Sự phối trí thanh và âm
Loại thanh ________________ Tên các thanh __________ Dấu chỉ thanh
Bằng _________________ phù bình thanh
_________________ trầm thượng thanh ________ không có dấu dấu huyền
Trắc _________________ phù thương thanh _____ ngã (~)
_________________ trầm thương thanh ________ hỏi (?)
_________________ phù khứ thanh ___________ sắc (')
_________________ trầm khứ thanh ___________ nặng (.)
_________________ phù nhập thanh __________ sắc (')
_________________ Trầm nhập thanh __________ nặng (.)
Bình là bằng phẳng, đều đều, bình thường; trắc là nghiêng lệch. Âm thanh đang ở mức bình thường (bình thanh) chợt bổng lên cao hay đổ xuống thấp hơn (trắc thanh).
Nếu lựa từ sao cho có âm và thanh tương hợp thì khi đọc lên sẽ nghe êm tai, ta gọi lời văn có vần. Hai tiếng vần với nhau khi có âm tương tự và có cùng thanh (hoặc là cùng bình thanh hoặc là cùng trắc thanh). Trong thơ, vấn đề hợp vần là điều cốt yếu. Sự phối trí âm thanh nhịp điệu là yếu tố cơ bản của thơ.
1. Vần có 2 thứ:
a. bình: những chữ không dấu hoặc dấu huyền — hai, hài
b. trắc: những chữ có dấu hỏi, ngã, sắc, nặng — hải, hãi, hái, hại
Tiếng bình không vần với tiếng trắc: hai không vần với hải.
Cùng trông mà lại cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh nhữngmấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng, ý thiếp, ai sầu hơn ai?
Những tiếng "thấy", "mấy" cùng phát ra một âm "ây" cùng gieo trắc thanh. Những tiếng "dâu", "màu", "sầu" có âm "âu" và "au" tương tự, cùng gieo bình thanh. Tất cả từng cặp một như thế gọi là vần với nhau.
2. Vần thể giàu hay nghèo:
a. vần giàu: những tiếng có cùng âm và thanh
Phương, sương, cường, trường — vần trắc giàu
Thánh, cảnh, lãnh, ánh — vần bằng giàu
b. vần nghèo: đồng thanh nhưng với âm tương tự
Minh, khanh, huỳnh, hoành — vần bằng nghèo
Mến, lẽn, quyện, hển — vần trắc nghèo
3. Trong thơ Việt, có 2 cách gieo vần
a. Gieo vần ở giữa câu:
Tiếng cuối của câu trên vần với một tiếng nằm bên trong câu dưới. Như trong thể thơ lục bát, tiếng cuối câu lục vần với tiếng 6 câu bát theo sau.
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không.
Nguyễn Du
b. Gieo vần ở cuối câu:
Các tiếng cuối câu vần với nhau.
Vần tiếp: các cặp trắc bằng xen kẽ tiếp nhau
Bữa nay lạnh mặt trời đi ngủ sớm,
Anh nhớ em, em hỡi! Anh nhớ em.
Không gì buồn bằng những buổi chiều êm,
Mà ánh sáng đều hòa cùng bóng tối.
Gió lướt thướt kéo mình qua cỏ rối;
Vài miếng đêm u uất lẩn trong cành;
Mây theo chim về dãy núi xa xanh
Từng đoàn lớp nhịp nhàng và lặng lẽ.
Không gian xám tưởng sắp tan thành lệ.
Xuân Diệu
Vần tréo: Trong thi đoạn bốn câu, tiếng cuối câu 1 vần với câu 3 và tiếng cuối câu 2 vần với câu 4.
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Vũ Ðình Liên
Nhiều khi chỉ cần tiếng cuối câu 2 vần với câu 4 thôi.
Xa quá rồi em người mỗi ngả
Bên này đất nước nhớ thương nhau
Em đi áo mỏng buông hờn tủi
Dòng lệ thơ ngây có dạt dào?
Quang Dũng
Vần ôm: Trong thi đoạn bốn câu, tiếng cuối câu 1 vần với câu 4 và tiếng cuối câu 2 vần với câu 3. Vần trắc ôm vần bằng, hay ngược lại.
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Ðông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng
Nguyên Sa
Vần ba tiếng: Trong thi đoạn bốn câu, tiếng cuối câu 1, 2 và 4 vần với nhau. Câu 3 khác vần.
Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Thâm Tâm
ST
Các loại thơ khác
Thơ bốn chữ
Nếu tiếng thứ 2 bằng thì tiếng thứ 4 trắc; ngược lại, tiếng thứ 2 trắc thì tiếng thứ 4 bằng.
2 4
trắc bằng
2 4
bằng trắc
Nhưng nhiều khi câu thơ cũng không theo luật đó.
Cách gieo vần
1. Vần tiếp (ít dùng)
Lính đóng ven rừng
Giữa mùa nóng nực
Uống cạn hố nước
Thấy toàn đầu lâu
Thịt rữa đi đâu
Còn xương trắng nhỡn
Trần Đức Uyển
2. Vần tréo
Tôi làm con gái
Buồn như lá cây
Chút hồn thơ dại
Xanh xao tháng ngày
Nhã Ca
Người từ trăm năm
Về ngang sông rộng
Ta ngoắc mòn tay
Trùng trùng gió lộng
Nguyễn Tất Nhiên
3. Vần ôm
Em tan trường về
Ðường mưa nho nhỏ
Chim non giấu mỏ
Dưới cội hoa vàng
Phạm Thiên Thư
4. Vần ba tiếng (ít dùng)
Sao biếc đầy trời
Sầu trông viễn khơi
Ðêm mờ im lặng
Nhìn hạt sương rơi
Khổng Dương
Em là ánh trăng
Vừa biếc vừa xanh
Em là giấc mộng
Ðêm xuân của anh
Huyền Kiêu
Thơ năm chữ
Cũng giống như thơ bốn chữ: nếu tiếng thứ 2 trắc thì tiếng thứ 4 bằng, hay ngược lại. Nhưng cũng có nhiều trường hợp không phải vậy.
Hôm nay đi chùa Hương
Hoa cỏ mờ hơi sương
Cùng thầy me em dậy
Em vấn đầu soi gương
Nguyễn Nhược Pháp
Cách gieo vần
1. Vần tréo
Hôm nọ em biếng học
Khiến cho anh bất bình,
Khẽ đánh em cái thước
Vào bàn tay xinh xinh
Nguyễn Xuân Huy
Trước sân anh thơ thẩn
Đăm đăm trông nhạn về
Mây chiều còn phiêu bạt
Lang thang trên đồi quê
Hàn Mặc Tử
2. Vần ôm
Em không nghe rừng thu,
Lá thu kêu xào xạc,
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?
Lưu Trọng Lư
3. Vần ba tiếng bằng
Tuyết rơi mong manh buồn
Ga Lyon đèn vàng
Cầm tay em muốn khóc
Nói chi cũng muộn màng.
Cung Trầm Tưởng
Đưa em về dưới mưa
Nói năng chi cũng thừa
Phất phơ đời sương gió
Hồn mình gần nhau chưa?
Nguyễn Tất Nhiên
Thơ sáu chữ
Cách gieo vần
1. Vần tréo
Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều
Đỗ Trung Quân
2. Vần ôm
Xuân hồng có chàng tới hỏi:
-- Em thơ, chị đẹp em đâu?
-- Chị tôi tóc xõa ngang đầu
Đi bắt bướm vàng ngoài nội
Huyền Kiêu
Nếu bước chân ngà có mỏi
Xin em tựa sát lòng anh
Ta đi vào tận rừng xanh
Vớt cánh vông vàng bên suối
Đinh Hùng
Thơ bảy chữ
Trong thơ bảy chữ, vần những tiếng 1, 3 và 5 không kể. Tiếng 2, 4 và 6 có thể phân tích như sau:
2 4 6
bằng trắc bằng
2 4 6
trắc bằng trắc
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi!
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận:
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người
Xuân Diệu
Nhiều khi không lại như thế:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc,
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Hàn Mặc Tử
Cách gieo vần
1. Vần tréo (thường dùng)
Nhiều khi trong thi đoạn bốn câu, chỉ cần hai tiếng bình ở cuối câu hai và bốn vần với nhau, hai tiếng trắc cuối câu một và ba không cần:
Vậy đó bỗng nhiên mà họ lớn,
Tuổi hai mươi đến, có ai ngờ!
Một hôm trận gió tình yêu lại:
Đứng ngẩn trông vời áo tiểu thơ.
Huy Cận
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
Tô Thùy Yên
2. Vần ba tiếng bằng (thường dùng)
Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong,
Hôm xưa em đến, mắt như lòng,
Nở bừng ánh sáng. Em đi đến,
Gót ngọc dồn hương, bước tỏa hồng.
Huy Cận
Dĩ vãng nào xanh như mắt em?
Chao ôi! Màu tóc rợn từng đêm!
Hàng mi khuê các chìm sương phủ
Vời vợi ngàn sao nhạt dáng xiêm.
Đinh Hùng
Em ở thành Sơn chạy giặc về
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì
Quang Dũng
Thơ tám chữ
Thể thơ này không có quy luật nhất định, có nghĩa là vần điệu tự do hơn. Thường thì trong câu ở cuối có tiếng trắc thì tiếng 3 trắc, tiếng 5 và 6 bằng; ở cuối có tiếng bằng thì tiếng 3 bằng, tiếng 5 và 6 trắc. Nhưng nhiều lúc cũng không như thế.
Cách gieo vần
1. Vần tiếp
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé,
Tôi sẽ trách -- cố nhiên -- nhưng rất nhẹ;
Nếu trót đi, em hãy gắng quay về,
Tình mất vui lúc đã vẹn câu thề
Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở.
Thơ viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ,
Cho nghìn sau... lơ lửng... với nghìn xưa...
Hồ Dzếnh
2. Vần tréo
Hai đứa kéo nhau chạy vào mộng mị
Giờ tắt thở nằm trên bãi hư vô
Bầy ngựa chứng hàng thùy dương vó bão
Gió đưa trăng lăn vào đá tiếng ru
Tô Thùy Yên
Em sẽ chết với mảnh hồn trống đó
Chúa đứng đón em ở cửa thiên đường
Con trả chúa trái tim hồng lãng mạn
Dưới thế gian con dại dột cho chàng
Trần Mộng Tú
3. Vần ôm
Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc
Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường.
Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương
Tôi thay mực cho vừa màu áo tím.
Nguyên Sa
Không có em, chắc ngày mai anh chết
Anh sẽ buồn, sẽ kết tội trần gian
Nắng sẽ phôi pha, hoa sẽ úa tàn
Cây thành phố hai hàng giăng nước mắt
Vũ Thành
Muốn cho thơ tám tiếng thêm âm điệu, một số nhà thơ thường vần tiếng 8 câu trên với tiếng 5 hay 6 câu dưới:
Sàn gác trọ những tâm hồn bão nổi
Những hào hùng, uất hận gối lên nhau
Cao Tần
* Thơ lục bát *
Thơ lục bát
Lục bát là thể thơ đặc biệt của Việt Nam, mà truyện Kiều là tác phẩm tiêu biểu nhất. Vần thơ lục bát có thể phân tách như sau:
2 4 6
bằng trắc bằng
2 4 6 8
bằng trắc bằng bằng
Tiếng thứ 6 của câu lục vần với tiếng thứ 6 của câu bát. Tiếng thứ 8 của câu bát vần với tiếng thứ 6 của câu lục tiếp theo. Trong câu bát, tiếng 6 và 8 tuy cùng vần bình nhưng một tiếng có dấu huyền và một tiếng không có dấu.
Thôn đoài ngồi nhớ thôn Ðông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Nguyễn Bính
Bỗng dưng buồn bã không gian
Mây bay lũng thấp giăng màn âm u
Nai cao gót lẫn trong mù
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về.
Huy Cận
Có hai ngoại lệ trong thơ lục bát:
1. Tiếng thứ 2 câu lục có thể là trắc, khi ấy nhịp thơ ngắt ở giữa câu.
Người nách thước, kẻ tay đao
Đầu trâu mặt ngựa, ào ào như sôi.
Nguyễn Du
2. Tiếng cuối câu lục có thể vần với tiếng 4 câu bát, khi đó tiếng 2 và 6 của câu bát sẽ đổi ra trắc. Câu thơ sẽ ngắt nhịp ở giữa câu bát, như trong câu ca dao sau:
Đêm nằm gối gấm không êm
Gối lụa không mềm bằng gối tay em.
CÁCH LÀM THƠ TỰ DO ( Bát Ngôn )
Thơ TD có tất cả 4 cách làm , và Luật Bất Luận của thơ TD là ( Nhất Nhị Tứ bất luận ) , (Tam , Ngủ , Bát phân minh ) , nhưng thể thơ nầy ít có nhiều người theo luật lắm và được cải tiến nhiều ( vì nó được gọi là Tự Do ) nên sau nầy chỉ chú trọng khi viết chỉ cần giữ luật NIÊM VẦN là đủ
Cách thứ nhất:
Câu 1 và câu 3 phải giống nhau về luật BT và niêm Vần với nhau ở chữ cuối, Câu 2 và câu 4 cũng thế, nghĩa là chữ cuối phải vần (niêm) với nhau ! khi sang đoạn khác thì cũng như thể Trường Thiên (nhiều đoạn ) mình có thể đổi vần tuỳ thích
Luật Bằng Trắc trong thể thơ TỰ DO
ttTbBBTT (Niêm )
bbBtTTBB (niêm )
ttTbBBTT (Niêm)
bbBtTTBB (niêm )
Lỡ thương bé nên ngày đêm trộm NHỚ
Câu yêu đương anh khó thốt nên Lời
Ôi giấc mộng miên mang đầy nổi sợ
Tình đơn phương cay đắng lệ thầm RƠI
Cách thứ nhì:
Trong cách này thì 2 câu trên Vần Trắc (niêm) 2 câu dưới Vần Bằng và cũng niêm với nhau
ttTbBBTT (niêm )
ttTbBBTT (niêm)
bbBtTTBB (niêm )
bbBtTTBB (niêm)
Đơn bóng lẽ bao năm dài cách biệt
Niềm thầm kín xót xa ai có biết
Tình trái ngang đè nặng nổi thương tâm
Cố nhân ơi... lạnh lẽo bước thăng trầm ....
....
Cách thứ ba:
Cách nầy luật cũng như cách 1 và 2 , tuy nhiên câu 2 và câu 3 bắt buộc phải niêm nhau, còn câu 1 và 4 thì không đòi hỏi , cách nầy thì thường được viết nhiều nhất và khi mình viết nhiều đoạn thì câu 5 phải Niêm Luật và Vần với chử cuối câu 4 , và câu 9 niêm Luật và Vần với chử cuối câu 8 , and so on...
ttTbBBTT
bbBtTTBB (niêm )
bbBtTTBB (niêm)
ttTbBBTT
TD:
Tháng Sáu Tình Xa
Tôi thoáng nhớ một thời yêu màu trắng
Trước cổng trường khi nhạt nắng chiều buông
Từng cánh hoa ngơ ngác mắt nai buồn
Tay cắp sách phất phơ muôn tà áo
Hồi tưởng lại một chuyện tình huyền ảo
Giữa Hạ buồn trong tháng Sáu vàng hanh
Yêu một nàng con gái tuổi xuân xanh
Tà áo lụa nét hiền lành thôn nữ
Dáng bé bỏng mắt thẹn thùng bỡ ngỡ
Cánh Phượng hồng ,xác Ve nhỏ trao nhau
Rồi mỗi khi trông lá đổ khoe màu
Ru nho nho? bài mưa sầu tháng sáu
........
Cách thứ tư :
Luật Bằng
Cách này thì câu 1 và câu 4 là vần BẰNG , câu 2 và câu 3 vần TRẮC và niêm nhau ! khi làm thì phải từ 4 đoạn trở lên và chỉ giữ một vần Bằng trong khi mình viết Nhiều Đoạn...
TD:
bbBtTTBB
ttTbBBTT (niêm)
ttTbBBTT (niêm)
bbBtTTBB
bbBtTTBB
ttTbBBTT (niêm)
ttTbBBTT (niêm)
bbBtTTBB
........
........
TD:
Trái Đắng
Hiểu gì không ý nghĩa của lòng anh
Ôm mật đắng với niềm đau nghẹn Xót
Em có thể ban lời yêu thật Ngọt
Sưởi tim nầy dù chỉ một lần thôi
Để ấm lòng an ũi trái tim côi
Dù xa cách vẫn tràn đầy hạnh phúc
Nầy em hởi có bao giờ thổn thức
Thả hồn mình theo tiếng gọi con tim ....
( theo trường tương tư )
SONG THẤT LỤC BÁT
Cũng như LỤC BÁT, SONG THẤT LỤC BÁT thường được dùng trong
những truyện thơ, và là thể loại thứ hai của hai thể thơ
"chính tông" của Việt Nam.
Song Thất Lục Bát là loại thơ mở đầu bằng hai câu THẤT, rồi tiếp đến hai câu LỤC BÁT, tạo thành một KHỔ với ý từ
trọn vẹn (có nghĩa là trong 4 câu phải trọn vẹn một ý)
Câu THẤT trên (câu số 1), tiếng thứ 3 là chữ TRẮC, tiếng
thứ 5 là chữ BẰNG, và tiếng thứ 7 là chữ TRẮc và VẬN
Câu Thất dưới (câu số 2), tiếng thứ 3 là chữ BẰNG, tiếng
thứ 5 là chữ TRẮC và VẦN với tiếng thứ 7 của câu trên, tiếng thứ 7 là chữ BẰNG và VẬN
Song Thất Lục Bát không giống như Thất Ngôn Luật theo lối Hán văn, vì luật BẰNG TRẮC được áp dụng trong Song Thất ở chữ thứ 3, thứ 5, mà trong Thất Ngôn Luật thì chữ thứ 3 và chữ thứ 5 lại có thể theo lệ BẤT LUẬN
Sau hai câu Thất là hai câu Lục Bát, theo luật của Lục Batchữ cuối của câu LỤC vần với chữ thứ 7 của câu THẤT thứ nhì
Luật của STLB:
b b t t B b T(v)
t t B b T(v) t B(v)
b B t T b B(v)
b B t T b B(v) t B(v)
(v)=Vần
b = bằng ,không nhất thiết
t = trắc ,không nhất thiết
B = BẰNG , theo luật
T = TRẮC ,theo luật
Thí Dụ :
Thuở trời đất nổi cơn gió Bụi
Khách má hồng nhiều nổi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Nào ai gây dựng cho nên nổi nầy
Trống trường Thành lung Laybóng Nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ Mịt khúc Mây
Chín tầng gươm báu trao Tay
Nữa đêm truyền hịch đợi Ngày xuất Chinh
(Chinh Phụ Ngâm Khúc)
Điều ngoại lệ của STLB :
ĐIỀU NGOẠI LÊ.: Thông thường chữ thứ 3 của câu Thắt 1) là vần TRẮC, nhưng trong trường hợp dùng vần BẰNG thì phải có đối ở câu dưới
Thí Dụ đoạn hai của bài trên :
Trống trường Thành lung Lay bóng Nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ Mịt khúc Mây
Chín tầng gươm báu trao Tay
Nữa đêm truyền hịch đợi Ngày xuất Chinh
thì ta thấy hai câu 7 7 trên được đối nhau từng từ từng chữ
Thí dụ thêm về thơ STLB:
Giấc Mơ Viễn Xứ
Non nước ấy bao giờ trở lại
Để con đây được mãi bên người
Mẹ già lệ đẩm đôi ngươi
Ôm con ve vuốt nụ cười điểm môi
Bờ liễu rũ con ngồi kể chuyện
Bao năm dài lưu luyến quê hương
Tấm lòng một kẽ tha phương
Năm canh ,sáu khắc đoạn trường xót xa
Ôi ước vọng ngắm tà dương xế
Thả hồn mình trên bể hoàng hôn
Trông chiều khói phủ làng thôn
Đếm chuông ngân vọng gõ mồn một vang
Bước chân nhẹ bên hàng phượng vĩ
Ngắm trường làng ôn kỹ niệm xưa
Dầm mình nhẹ gót dưới mưa
Nhớ hồi cấp sách sớm trưa thuở nào
Cầu tre ấy biết bao kỹ niệm
Dòng sông kia như mĩm cười rung
Nhăn mày ẩn chiếu linh lung
Lờ mờ đáy nước bóng khung trời già
Chợt tỉnh giấc hồn đà nhập thể
Nghe đâu đây tiếng dế gọi nhau
Thì ra trống điểm canh thâu
Giấc mơ viễn xứ đêm sâu lở làng
Nam Quan kia phải đang lạnh ngút
Bắc Ải nầy đến lúc giá băng
Lòng quê lệ thảm khó ngăn
Mong sao đất Việt vĩnh hằng thiên thu
THƠ ĐƯỜNG LUẬT
. Đường Luật hoặc cận thể là thể thơ đặt ra tự đời nhà Đường (618-907) phải theo niêm luật nhất định.
Thơ tứ tuyệt và thơ bát cú: Theo số câu, thơ Đường Luật chia làm hai lối.
- 1.) Tứ tuyệt, mỗi bài bốn câu;
- 2.) Bát cú, mỗi bài tám câu;
TỨ TUYỆT
Định nghĩa: Tứ là bốn, tuyệt là dứt, ngắt. Lối này gọi thế vì thơ tứ tuyệt là ngắt lấy bốn câu trong bài thơ bát cú mà thành.
Các cách làm thơ tứ tuyệt: Vì một bài thơ bát cú có thể ngắt nhiều cách, nên cũng có nhiều cách làm thơ tứ tuyệt
thơ tứ tuyệt làm theo cấu trúc khai-thừa-chuyển-hợp, mỗi câu bảy chữ, không yêu cầu đối. Chữ cuối của các câu 1, 2, 4 thường là vần bằng. Chữ cuối của câu 3 có thể vần trắc, cách niêm như thơ thất ngôn bát cú. Ngày nay người ta sửa đổi định nghĩa về thơ tứ tuyệt, rằng thơ tứ tuyệt là thơ gì cũng được, miễn là có bốn câu, và vần luật tất nhiên cũng theo đó mà thay
Người ta nói thể thơ này dựa theo cấu Nhất Tam Ngũ bất luận ,Nhị Tứ Lục Phân Minh nghĩa là chữ thứ 1,3,5 trong các câu thì không phải bắt buộc theo luật,còn chữ thứ 2,4,6 thì phải theo qui luật của nó ,
Luật căn bản của TNTT :
( các chử viết thường là không cần phải theo luật , còn các chử In Hoa thì bắt buộc
Bảng 1
b B t T t B B(niêm vần )
t T b B t T B(niêm vần )
t T b B b T T
b B t T t B B(niêm vần )
Thí dụ :
Nhớ
Song thưa gió lộng buốt mây trùng
Chạnh nhớ ai mà mắt lệ rưng
Soi mãi đài gương ngồi dựa bóng
Ba Thu chưa thoả mộng tương phùng
Bảng 2
t T b B t T B niêm
b B t T t B B niêm
b B t T b B T
t T b B t T B niêm
Thí Dụ :
Trong vắt trời non suốt một màu
Trên sông cài lững ánh trăng cao
Làm sao hái được vành trăng ấy
Để tặng cho riêng khách má đào
TTT...
Bảng 3
b B t T b B T
t T b B t T B niêm
t T b B b T T
b B t T t B B niêm
TD :
Đêm tàn lệ gối phai hương sắc
Nến lụn chập chờn gió thoảng qua
Cửa ngọc rèm thưa lay ánh nguyệt
Thầm ngồi soi bóng , bóng soi ta
TTT...
Bảng 4
t T b B b T T
b B t T t B B niêm
b B t T b B T
t T b B t T B niêm
Trời đất vô tình buông lặng lẽ
Núi sông hờ hững nặng nề trôi
Đêm khuya thanh vắng thuyền ai rẽ
Người ở giang đầu có nhớ tôi
TTT...
Chú ý trong bảng 3 va `4 thì hai vần Trắc không đòi hỏi phải niêm nhưng nếu làm được hai vần trắc niêm thì càng hay
Ở trên chỉ là căn bản của phần 1, bây giờ cũng áp dụng
luật căn bản nầy nhưng làm theo vần Trắc nghĩa là lấy vần Trắc làm căn bạn
Bảng 1
t T b B b T T niêm
b B t T b B T niêm
b B t T t B B
t T b B b T T niêm
TD:
Năm tháng buông dần theo đuỗi mãi
Tương tư ảo mộng sao phân giãi
Vào yêu mới rõ được thương đau
Mới hiểu sóng tình cuồn cuộn chảy
TTT...
Bảng 2
b B t T b B T niêm
t T b B b T T niêm
t T b B t T B
b B t T b B T niêm
TD:
Quanh co mấy chử buồn buồn ngũ
Trắc trắc bằng bằng sao khó thủ
Ít nét mà thôi đả hết rồi
Thơ gì viết mãi mà chưa đủ
TTT...
Bảng 3
t T b B t T B
b B t T b B T niêm
b B t T t B B
t T b B b T T niêm
TD :
Gió lộng bên thềm quét lá rơi
Khuya nay bóng nguyệt không thèm ghé
Thương người chốn ấy biệt ngàn khơi
Mắt dõi theo chàng đêm bóng lẽ
TTT...
Bảng 4
b B t T t B B
t T b B b T T niêm
t T b B t T B
b B t T b B T niêm
TD :
Dờn dờn nước biếc gợn mây bay
Lất phất gió lùa lay khóm trúc
Đáy nước lung linh bóng nguyệt cài
Vui say chén rượu bừng hương cúc
* Một số cách ngắt bát cú thành tứ tuyệt
1.) Ngắt bốn câu trên, thành ra bài thơ ba vần, hai câu trên không đối nhau, hai câu dưới đối nhau. Thí dụ:
Con Voi
(So sánh với biểu Thất ngôn bát cú, luật bằng, vần bằng ở trên.)
Xông pha bốn cõi bể chông gai,
Vùng vẫy mười phương bụi cát bay.
Phép nước gọi là tơ chỉ buộc, *
Sức này nào quản búa rìu lay. *
Lê Thánh Tôn (?)
* = đối nhau.
2.) Ngắt bốn câu giữa, thành ra bài thơ 2 vần, cả bốn câu đối nhau. Thí dụ:
Khóm Gừng Tỏi
(So sánh với biểu Ngũ ngôn bát cú, luật bằng, vần bằng ở trên)
Lởm chởm vài hàng tỏi *
Lơ thơ mấy khóm gừng *
Vẻ chi là cảnh mọn #
Mà cũng đến tang thương #
Ôn Như hầu
*, # = đối nhau.
3.) Ngắt bốn câu dưới, thành ra bài thơ 2 vần, hai câu trên đối nhau, hai câu dưới không đối. Thí dụ:
Đề Chùa Vô Vi (So sánh với biểu Ngũ ngôn bát cú, luật bằng vần bằng ở trên)
Vắt vẻo sườn non Trạo, *
Lơ thơ mấy ngọn chùa. *
Hỏi ai là chủ đó?
Có bán tớ xin mua
Vô Danh
* = đối nhau.
4.) Ngắt 2 câu đầu và 2 câu cuối, thành ra bài thơ 3 vần, cả 4 câu không đối. Thí dụ:
Cái Pháo
(So sánh với biểu Thất ngôn bát cú, luật bằng, vần bằng ở trên)
Xác không, vốn những cậy tay người,
Bao nả công trình, tạch cái thôi!
Kêu lắm, lại càng tan tác lắm,
Thế nào cũng một tiếng mà thôi.
Nguyễn Hữu Chỉnh
5.) Ngắt hai câu 1-2 với hai câu 5-6, thành ra bài thơ 3 vần hai câu cuối đối nhau. Thí dụ:
Con Cóc
(so sánh với biểu Thất ngôn bát cú, luật trắc, vần bằng ở trên)
Bác mẹ sinh ra bốn áo sồi,
Chốn nghiêm thăm thẳm một mình ngồi.
Tép miệng năm ba con kiến gió, *
Nghiến răng chuyển động bốn phương trời. *
Lê Thánh Tôn
( Sử dụng tài liệu của Dương Quảng Hàm )
BÁT CÚ
Trong lối thơ Đường Luật, có năm điều này phải xét:
1.) vần; 2.) đối; 3.) luật; 4.) niêm; 5.) cách bố cục.
Vần thơ:
A) Định nghĩa: Vần (chữ nho là vận) là những tiếng thanh âm hòa hiệp đặt vào hai hoặc nhiều câu văn để hưởng ứng nhau.
B) Cách gieo vần:
1.) Thơ Đường: luật thường dùng vần bằng, gián-hoặc mới dùng vần trắc.
2.) Suốt bài thơ Đường Luật chỉ hiệp theo một vần, tức là theo lối độc vận.
3.) Trong một bài bát cú có năm vần gieo ở cuối câu đầu và cuối các câu chẵn.
C.) Lạc vận và cưỡng áp: Gieo vần sai hẳn, không hiệp nhau gọi là lạc vận (lạc: rụng). Nếu vần gieo gượng không được hiệp lắm gọi là cưỡng áp (đặt gượng), đều không được cả.
Phép đối trong thể thơ:
A.) Định nghĩa: Đối là đặt hai câu đi sóng đôi cho ý và chữ trong hai câu ấy cân xứng với nhau.
1.) Đối ý là tìm hai ý tưởng cân nhau mà đặt thành hai câu sóng nhau.
2.) Đối chữ thì vừa phải đối thanh tức là bằng đối với trắc, trắc đối với bằng; vừa phải đối loại của chữ nghĩa là phải đặt hai chữ cùng một tự loại để đối với nhau (như cùng là hai chữ danh từ, hoặc động từ, v.v.)
3.) Những câu phải đối trong một bài thơ bát cú: Trừ hai câu đầu và hai câu cuối, còn bốn câu giữa thì câu 3 đối với câu 4, câu 5 đối với câu 6.
Luật Thơ:
A) Định nghĩa: Luật thơ là cách sắp đặt tiếng bằng tiếng trắc trong các câu của một bài thơ.
B) Tiếng bằng và tiếng trắc: Muốn hiểu luật thơ, phải biết phân biệt tiếng bằng tiếng trắc. Bằng (chữ nho là bình) là những tiếng lúc phát ra bằng phẳng đều đều. Trắc (nghĩa đen là nghiêng, lệch) là những tiếng khi phát ra hoặc tự thấp lên cao hoặc tự cao xuống thấp.
Trong tiếng ta có 8 thanh thì có hai thanh bằng và 6 thanh trắc như sau:
Bằng: Phù bình thanh = không có dấu
Trầm bình thanh = Huyền (`)
Trắc: Phù thượng thanh = Ngã (~)
Trầm thượng thanh = Hỏi (?)
Phù khứ thanh = Sắc (')
Trầm khứ thanh = Nặng (.)
Phù nhập thanh = Sắc (') *
Trầm nhập thanh = Nặng (.)*
* Riêng cho các tiếng đằng sau có phụ âm c, ch, p, t.
C.) Luật bằng và luật trắc: Thơ có thể làm theo hai luật:
1.) Luật bằng là luật thơ bắt đầu bằng hai tiếng bằng;
2.) Luật trắc là luật thơ bắt đầu bằng hai tiếng trắc.
D) Các luật thơ: Ngay liệt kê các luật thơ thông dụng như sau (b = tiếng bằng; t = tiếng trắc; v = tiếng vần; những chữ in lối chữ nghiêng là phải theo đúng luật; những chữ in thường thì theo đúng luật hoặc không theo đúng luật cũng được, theo cái lệ "bất luận" sẽ nói về sau):
I. LUẬT BẰNG II. LUẬT TRẮC
A. Vần bằng A. Vần bằng
1@Ngũ ngôn bát cú 1@Ngũ ngôn bát cú
I : b b t t b (v) t t t b b (v)
II. : t t t b b (v) b b t t b (v)
III : t t b b t b b b t t
IV : b b t t b (v) t t t b b (v)
V : b b b t t t t b b t
VI : t t t b b (v) b b t t b (v)
VII : t t b b t b b b t t
VIII : b b t t b (v) t t t b b (v)
2@ Thất ngôn bát cú 2@ Thất ngôn bát cú
I : b b t t t b b (v) t t b b t t b (v)
II : t t b b t t b (v) b b t t t b b (v)
III : t t b b b t t b b t t b b t
IV : b b t t t b b (v) t t b b t t b (v)
V : b b t t b b t t t b b b t t
VI : t t b b t t b (v) b b t t t b b (v)
VII : t t b b b t t (v) b b t t b b t
VIII : b b t t t b b (v) t t b b t t b (v)
B. Vần trắc B. Vần trắc
Ngũ ngôn bát cú Thất ngôn bát cú
I : b b b t t (v) t t b b b t t (v)
II : t t b b t (v) b b t t b b t (v)
III : t t t b b b b t t t b b
IV : b b b t t (v) t t b b b t t (v)
V : b b t t b t t b b t t b
VI : t t b b t (v) b b t t b b t (v)
VII : t t t b b b b t t t b b
VIII : b b b t t (v) t t b b b t t (v)
E.) Bất luận và khổ độc: Vì sự theo đúng luật bằng trắc như trên đã định là một việc rất khó, nên có lệ bất luận (không kể), nghĩa là trong câu thơ có một vài chữ không cần phải đúng luật.
1.) Trong bài thơ ngũ ngôn thì chữ thứ nhất và thứ ba không cần đúng luật: tức nhất, tam bất luận.
2.) Trong bài thơ thất ngôn thì chữ thứ nhất, thứ ba và thứ năm không cần đúng luật: tức là nhất, tam, ngũ bất luận.
Tuy theo lệ bất luận có thể thay đổi luật mấy chữ trong câu thơ, nhưng đang trắc mà đổi ra bằng bao giờ cũng được, chứ đang bằng mà đổi ra trắc thì trong vài trường hợp sự thay đổi ấy làm cho câu thơ thành ra khổ độc (khó đọc) không được. Những trường hợp ấy là:
1.) Trong bài thơ ngũ ngôn, chữ thứ nhất các câu chẵn và chữ thứ ba của các câu đang bằng mà đổi ra trắc là khổ độc.
2.) Trong bài thơ thất ngôn, chữ thứ ba các câu chẵn và chữ thứ năm các câu lẻ đang bằng mà đổi ra trắc là khổ độc.
F.) Thất luật: Một câu thơ đặt sai luật nghĩa là một chữ đang bằng mà đổi ra trắc hoặc trái lại, thế thì gọi là thất luật (sao mất luật) không được.
Niêm:
A) Định nghĩa: Niêm (nghĩa đen là dính) là sự liên lạc về âm luật của hai câu thơ trong bài thơ Đường Luật. Hai câu thơ niêm với nhau khi nào chữ thứ nhì của hai câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng trắc niêm với trắc.
B) Những câu niêm với nhau trong một bài thơ bát cú: Trong một bài thơ bát cú (xem lại biểu các luật thơ trên) những câu sau này niêm với nhau: 1 với 8. - 2 với 3. - 4 với 5. - 6 với 7. - 8 với 1.
C) Thất niêm: Khi các câu trong một bài thơ, vì sự đặt sai, không niêm với nhau theo lệ đã định; thì gọi là thất niêm (mất sự dính liền) không được.
Cách bố cục: Một bài thơ bát cú có bốn phần.
1.) Đề gồm có phá đề (câu 1) là mở bài và thừa đề (câu 2) là nối câu phá mà vào bài.
2.) Thực hoặc trạng (hai câu 3 và 4) là giải thích đầu bài cho rõ ràng.
3.) Luận hai (câu 5 và 6) là bàn bạc cho rộng nghĩa đầu bài.
4.) Kết (hai câu 7 và 8) là tóm ý nghĩa cả bài mà thắt lại.
* Những dạng thơ Đường Luật ( Theo Bồ Tùng Linh )
1 - Họa Vận
Một người làm một bài xướng lên, một người nữa làm bài khác họa lại mà các vần trong bài họa phải theo y như các vần trong bài xướng, còn ý nghĩa hoặc phụ theo cho rộng,hoặc trái hẳn lại ( phản đề ) :
Hỏi Ả Bán Chiếu
Xướng :
Ả ở đâu nay bán chiếu gon ?
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn ?
Xuân thu nay độ bao nhiêu tuổi ?
Đã có chồng chưa được mấy con ?
Nguyễn Trãi
Họa :
Tôi ở Tây hồ bán chiếu gon .
Nỗi chi ông hỏi hết hay còn ?
Xuân thu tuổi mới trăng còn lẻ ,
Chồng còn chưa có,có chi con !
Nguyễn thị Lộ
2-Thủ nhất thanh ( nhất đồng )
Từ đứng đầu 8 câu đều giống nhau.
Tám Mừng
Mừng đón xuân về, muôn sắc hoa,
Mừng xuân,xuân mới, mới thêm ra.
Mừng nghe nhựa sống, như còn trẻ,
Mừng thấy đời tươi, chửa muốn già.
Mừng khỏe đôi chân, đi đứng vững,
Mừng tinh cặp mắt ngắm nhìn xa.
Mừng nhau tuổi Thọ tăng tăng mãi,
Mừng được trường xuân hưởng thái hòa.
1986 Lạc Nam
3-Song điệp
Tất cả 8 câu đều có 2 điệp từ :
Chuyện Đời
Vất vất vơ vơ, cũng nực cười,
Căm căm cúi cúi có hơn ai .
Nay còn chị chị anh anh đó ,
Mai đã ông ông mụ mụ rồi.
Có có không không, lo hết kiếp
Khôn khôn dại dại, chết xong đời.
Chi bằng láo láo lơ lơ vậy,
Ngủ ngủ ăn ăn nói chuyện chơi.
Nguyễn Công Trứ
4-Song điệp độc vận
Tất cả 8 câu đều có 1 từ và chỉ có 1 vần.
Xuân Và Thơ
Xuân tự ngàn xưa,bạn với Thơ
Tình Xuân là cả vạn lời Thơ
Đẹp duyên hoa bút,Xuân ngời sắc
Rộn khúc Xuân thiều,nhạc ánh Thơ.
Xuân vắng,oanh hờn,dầu dáng liễu
Xuân về hương tỏa ngát lời Thơ
Xuân nương, thi sĩ, đôi người ngọc,
Dệt mộng ngày Xuân, lộng ý Thơ.
Lạc Nam
5-Dĩ đề vi thuû
Lấy 8 từ đầu để mở đầu cho 8 câu thơ :
Xướng (Nam): "Trăm điều hãy cứ trông vào một ta"
Trăm nỗi bâng khuâng góp chuyện lòng
Điều chi mà ngại nghĩa non sông
Hãy buông lá thắm xuôi dòng vắng
Cứ để hoa đào cợt gió đông
Trông nẽo lầu thơ chờ hạnh ngộ
Vào trong giấc mộng đợì tao phùng
Một phen tâm sự hòa theo nhạc
Ta sẽ cùng nhau viết thỉ chung
Họa (Nữ) : "Đi đâu chẳng biết con người sở khanh"
Đi mãi đường xa đã biết lòng
Đâu còn mơ tưởng núi cùng sông
Chẳng đem thơ ấy treo lầu vắng
Biết chọn hoa nào bán chợ đông
Con mắt chưa từng xanh thế tục
Người quen đành tạm trắng tương-phùng
Sở Tần, xin nhắn thà xa cách
Khanh tướng đâu mà nghĩ đỉnh chung !
6-Dĩ đề vi vận
Lấy đầu đề làm vần
Không Chồng Trông Bông Lông
Xướng :
Bực gì bằng gái chực phòng không
Tơ tưởng vì chưng một tấm chồng,
Trên gác rồng mây ngao ngán nhẽ,
Bên trời cá nước ngẩn ngơ trông.
Mua vui lắm lúc cười cười gượng,
Giả dại nhiều khi nói nói bông.
Mới biết có chồng như có cánh,
Giang sơn gánh vác nhẹ bằng lông.
Nguyễn Khuyến
Họa Vận :
Phật rằng sắc sắc không không ,
Sắc sắc không không khó chất chồng.
Ân oán,nhiều người còn có ngóng,
Trải oan,lắm kẻ vẫn chờ trông.
Thế gian,nhân quả nhanh như bóng,
Cõi Phật,nhân duyên nhẹ tựa bông.
Xuân đến hoa xuân tươi đẹp mãi,
Luân hồi ra khỏi,hết bông lông.
Cổ Lai Hy (nhóm Silicon)
7-Toán thi
Cả bài câu nào cũng có từ chỉ con số.
Thân Phận Gái
Một sớm phân vân bước xuống thuyền,
Tưng bừng hai họ,nỗi sầu riêng.
Lặng nhìn ba má,đôi giòng lệ,
Xác pháo bốn bề,nát phận duyên.
Năm tháng rồi đây tùy số kiếp,
Hoài lang sáu nhịp,vọng chim uyên.
Bảy ba chìm nổi,tình nhi nữ,
Đôi tám sang ngang,đạo chính chuyên.
Tùng Linh
8-Liên hoàn
Thể thơ có nhiều đoạn, câu cuối của đoạn trên được chuyển thành câu đầu của đoạn dưới
Thi Lấy Được
Anh Phán nhà ta biết cóc gì
Kỳ thi Tham biện cũng ra thi,
Nhất thì anh đỗ,nhì anh trượt,
Chẳng đậu khoa này, khoa khác đi.
Chẳng đậu khoa này, khoa khác đi.
Nam nhi chi chí, há lo gì,
Một, hai, ba, bốn, năm năm trượt
Nhẵn mặt quan trường, chẳng thẹn chi.
Nhẵn mặt quan trường, chẳng thẹn chi.
Trượt thi, thi trượt, vẫn gan lì.
. . . .
Tú Mỡ
Lính Tập Vinh Qui
Chú đội qua Tây thắng trận về,
Cả nhà đón rước thật mừng ghê !
Ông già, bà lão gồm hai cụ,
Vợ giảnh, con ngoan đủ mọi bề, (1)
Nảy ngực mề đay tiền bạc chói,
Rạng mình khố đỏ áo vàng xuê.
Giang sơn mày mặt càng tươi tốt,
Bộ cất tay lên, ngó cũng nghề. (2)
Bộ cất tay lên ngó cũng nghề,
Miệng cười tróm trém, húi râu dê.(3)
Xông pha trăm trận từng hăm hở
Gánh vác hai vai ghẹo nặng nề ! (4)
Mở mặt Tiên Rồng dòng Đại Việt,
Nổi danh hùng hổ cõi Âu tê (5)
Trong tình cảnh nọ dầu không vẻ,
Văng vẳng dường nghe tiếng ắc-đê ! (6)
N.V.H
Chú thích
1-Vợ đẹp ( tiếng Nghệ)
2-Có vẻ tay nghề
3-Bộ râu xén như râu dê
4-Dù công việc có nặng đến đâu cũng không sợ (tiếng Nghệ)
5-Âu Tây.chữ tây,âm Hán có khi đọc là tê
6-Phiên âm chữ Pháp : un,deux.Tiếng hô đi đều của lính tập.
9-Liên hoàn thuận nghịch vận
Thể thơ như trên, nhưng bài thứ 2 viết ngược vần lại với bài thứ nhất.
Xem Núi Non Bộ
Non nhân, nước trí, điểu muông hiền,
Núi giả mà in dáng tự nhiên.
Một vũng xinh xinh, vươn một ngọn,
Hai cầu nho nhỏ, vắt hai triền.
Thuyền ngư lướt suối dong miền tục,
Cánh hạc trườn mây bổng cõi tiên.
Đối cảnh tâm tư dường nhẹ nhõm,
Lâng lâng chẳng bợn chút ưu phiền.
Lâng lâng chẳng bợn chút ưu phiền.
Bàn đá say cờ đôi lão tiên,
Lã vọng buông câu vờn sóng nước,
Phật đài mở lối lượn ven triền.
Sỏn thanh thủy tú,hồn u nhã,
Sắc lộng hương nùng ,khí hạo nhiên.
Phong cảnh tạo hình như giới thiệu
Chủ nhân đây cũng bậc nhân hiền.
Lạc Nam
10-Ô thước kiều
Thể thơ liên hoàn như trên, nhưng lấy 2 từ cuối, hoặc nhắc lại 2, 3 từ nào đó ở câu cuối của bài trên để mở đầu cho câu 1 của bài dưới.
Chống Tôn Thọ Tường
Lung lay lòng sắt đã mang nhơ,
Chẳng xét phận mình khéo nói vơ.
Người trí mang lo danh chẳng chói,
Đứa ngu luống sợ tuổi không chờ.
Bài hòa đã sẵn in tay thợ,
Cuộc đánh hơn thua giống nước cờ.
Chưa trả thù nhà,đền nợ nước,
Dám đâu mắt lấp với tai ngơ.
Tai ngơ sao đặng lúc tan tành,
Luống biết trách người,chẳng trách mình.
Đến thế còn khoe đàng đạo nghĩa,
Như vầy cũng gọi kẻ trâm anh.
Biển khơi vụng tính dung thuyền nhỏ,
Chuông nặng to gan buộc chỉ mành.
Thân có,ắt danh tua phải có,
Khuyên người ái trọng cái thân danh.
Thân danh chẳng kể, thật thằng hoang,
Đốt sáp nên tro lụy chẳng màng.
Hai cửa trâm anh xô sấp ngửa,
Một nhà danh giá xóa tan hoang.
Con buôn khấp khởi chưa từng ngọc,
Người khó xăng xăng mới gặp vàng.
Thương kẻ đòng văn nên phải nhắc.
Dễ đâu ta dám tiếng khoe khoang.
Phan Văn Trị ( 1830-1910)
11-Tập danh
a- Trong mỗi câu có danh từ gắn với đề tài
Mừng Ông Lão Hàng Thịt Ăn Thượng Thọ
Nay tiết mừng ông mới Bảy mươi,
Cổ hy(1) chưa dễ mấy lăm người.
Răng long nhưng hãy còn tinh mắt
Đầu bạc nhưng mà chửa tắc tai.
Bè bạn bày vai kèo (2) chén Lý (3)
Cháu con dưới gối múa sân Lai. (4)
Xưa nay vẫn giữ lòng chân thực
Chữ đức giả xương máu để đời.
Nguyễn Khuyến
Để nhằm đáp ứng nhu cầu cho mọi người, và để chúng ta có được những bài thơ hay và y' nghĩa, hôm nay YT xin được để lại đây những luật làm thơ, chúng ta hãy cùng tham khảo
Sự phối trí thanh và âm
Loại thanh ________________ Tên các thanh __________ Dấu chỉ thanh
Bằng _________________ phù bình thanh
_________________ trầm thượng thanh ________ không có dấu dấu huyền
Trắc _________________ phù thương thanh _____ ngã (~)
_________________ trầm thương thanh ________ hỏi (?)
_________________ phù khứ thanh ___________ sắc (')
_________________ trầm khứ thanh ___________ nặng (.)
_________________ phù nhập thanh __________ sắc (')
_________________ Trầm nhập thanh __________ nặng (.)
Bình là bằng phẳng, đều đều, bình thường; trắc là nghiêng lệch. Âm thanh đang ở mức bình thường (bình thanh) chợt bổng lên cao hay đổ xuống thấp hơn (trắc thanh).
Nếu lựa từ sao cho có âm và thanh tương hợp thì khi đọc lên sẽ nghe êm tai, ta gọi lời văn có vần. Hai tiếng vần với nhau khi có âm tương tự và có cùng thanh (hoặc là cùng bình thanh hoặc là cùng trắc thanh). Trong thơ, vấn đề hợp vần là điều cốt yếu. Sự phối trí âm thanh nhịp điệu là yếu tố cơ bản của thơ.
1. Vần có 2 thứ:
a. bình: những chữ không dấu hoặc dấu huyền — hai, hài
b. trắc: những chữ có dấu hỏi, ngã, sắc, nặng — hải, hãi, hái, hại
Tiếng bình không vần với tiếng trắc: hai không vần với hải.
Cùng trông mà lại cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh nhữngmấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng, ý thiếp, ai sầu hơn ai?
Những tiếng "thấy", "mấy" cùng phát ra một âm "ây" cùng gieo trắc thanh. Những tiếng "dâu", "màu", "sầu" có âm "âu" và "au" tương tự, cùng gieo bình thanh. Tất cả từng cặp một như thế gọi là vần với nhau.
2. Vần thể giàu hay nghèo:
a. vần giàu: những tiếng có cùng âm và thanh
Phương, sương, cường, trường — vần trắc giàu
Thánh, cảnh, lãnh, ánh — vần bằng giàu
b. vần nghèo: đồng thanh nhưng với âm tương tự
Minh, khanh, huỳnh, hoành — vần bằng nghèo
Mến, lẽn, quyện, hển — vần trắc nghèo
3. Trong thơ Việt, có 2 cách gieo vần
a. Gieo vần ở giữa câu:
Tiếng cuối của câu trên vần với một tiếng nằm bên trong câu dưới. Như trong thể thơ lục bát, tiếng cuối câu lục vần với tiếng 6 câu bát theo sau.
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không.
Nguyễn Du
b. Gieo vần ở cuối câu:
Các tiếng cuối câu vần với nhau.
Vần tiếp: các cặp trắc bằng xen kẽ tiếp nhau
Bữa nay lạnh mặt trời đi ngủ sớm,
Anh nhớ em, em hỡi! Anh nhớ em.
Không gì buồn bằng những buổi chiều êm,
Mà ánh sáng đều hòa cùng bóng tối.
Gió lướt thướt kéo mình qua cỏ rối;
Vài miếng đêm u uất lẩn trong cành;
Mây theo chim về dãy núi xa xanh
Từng đoàn lớp nhịp nhàng và lặng lẽ.
Không gian xám tưởng sắp tan thành lệ.
Xuân Diệu
Vần tréo: Trong thi đoạn bốn câu, tiếng cuối câu 1 vần với câu 3 và tiếng cuối câu 2 vần với câu 4.
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Vũ Ðình Liên
Nhiều khi chỉ cần tiếng cuối câu 2 vần với câu 4 thôi.
Xa quá rồi em người mỗi ngả
Bên này đất nước nhớ thương nhau
Em đi áo mỏng buông hờn tủi
Dòng lệ thơ ngây có dạt dào?
Quang Dũng
Vần ôm: Trong thi đoạn bốn câu, tiếng cuối câu 1 vần với câu 4 và tiếng cuối câu 2 vần với câu 3. Vần trắc ôm vần bằng, hay ngược lại.
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Ðông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng
Nguyên Sa
Vần ba tiếng: Trong thi đoạn bốn câu, tiếng cuối câu 1, 2 và 4 vần với nhau. Câu 3 khác vần.
Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Thâm Tâm
ST
Các loại thơ khác
Thơ bốn chữ
Nếu tiếng thứ 2 bằng thì tiếng thứ 4 trắc; ngược lại, tiếng thứ 2 trắc thì tiếng thứ 4 bằng.
2 4
trắc bằng
2 4
bằng trắc
Nhưng nhiều khi câu thơ cũng không theo luật đó.
Cách gieo vần
1. Vần tiếp (ít dùng)
Lính đóng ven rừng
Giữa mùa nóng nực
Uống cạn hố nước
Thấy toàn đầu lâu
Thịt rữa đi đâu
Còn xương trắng nhỡn
Trần Đức Uyển
2. Vần tréo
Tôi làm con gái
Buồn như lá cây
Chút hồn thơ dại
Xanh xao tháng ngày
Nhã Ca
Người từ trăm năm
Về ngang sông rộng
Ta ngoắc mòn tay
Trùng trùng gió lộng
Nguyễn Tất Nhiên
3. Vần ôm
Em tan trường về
Ðường mưa nho nhỏ
Chim non giấu mỏ
Dưới cội hoa vàng
Phạm Thiên Thư
4. Vần ba tiếng (ít dùng)
Sao biếc đầy trời
Sầu trông viễn khơi
Ðêm mờ im lặng
Nhìn hạt sương rơi
Khổng Dương
Em là ánh trăng
Vừa biếc vừa xanh
Em là giấc mộng
Ðêm xuân của anh
Huyền Kiêu
Thơ năm chữ
Cũng giống như thơ bốn chữ: nếu tiếng thứ 2 trắc thì tiếng thứ 4 bằng, hay ngược lại. Nhưng cũng có nhiều trường hợp không phải vậy.
Hôm nay đi chùa Hương
Hoa cỏ mờ hơi sương
Cùng thầy me em dậy
Em vấn đầu soi gương
Nguyễn Nhược Pháp
Cách gieo vần
1. Vần tréo
Hôm nọ em biếng học
Khiến cho anh bất bình,
Khẽ đánh em cái thước
Vào bàn tay xinh xinh
Nguyễn Xuân Huy
Trước sân anh thơ thẩn
Đăm đăm trông nhạn về
Mây chiều còn phiêu bạt
Lang thang trên đồi quê
Hàn Mặc Tử
2. Vần ôm
Em không nghe rừng thu,
Lá thu kêu xào xạc,
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?
Lưu Trọng Lư
3. Vần ba tiếng bằng
Tuyết rơi mong manh buồn
Ga Lyon đèn vàng
Cầm tay em muốn khóc
Nói chi cũng muộn màng.
Cung Trầm Tưởng
Đưa em về dưới mưa
Nói năng chi cũng thừa
Phất phơ đời sương gió
Hồn mình gần nhau chưa?
Nguyễn Tất Nhiên
Thơ sáu chữ
Cách gieo vần
1. Vần tréo
Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều
Đỗ Trung Quân
2. Vần ôm
Xuân hồng có chàng tới hỏi:
-- Em thơ, chị đẹp em đâu?
-- Chị tôi tóc xõa ngang đầu
Đi bắt bướm vàng ngoài nội
Huyền Kiêu
Nếu bước chân ngà có mỏi
Xin em tựa sát lòng anh
Ta đi vào tận rừng xanh
Vớt cánh vông vàng bên suối
Đinh Hùng
Thơ bảy chữ
Trong thơ bảy chữ, vần những tiếng 1, 3 và 5 không kể. Tiếng 2, 4 và 6 có thể phân tích như sau:
2 4 6
bằng trắc bằng
2 4 6
trắc bằng trắc
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi!
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận:
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người
Xuân Diệu
Nhiều khi không lại như thế:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc,
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Hàn Mặc Tử
Cách gieo vần
1. Vần tréo (thường dùng)
Nhiều khi trong thi đoạn bốn câu, chỉ cần hai tiếng bình ở cuối câu hai và bốn vần với nhau, hai tiếng trắc cuối câu một và ba không cần:
Vậy đó bỗng nhiên mà họ lớn,
Tuổi hai mươi đến, có ai ngờ!
Một hôm trận gió tình yêu lại:
Đứng ngẩn trông vời áo tiểu thơ.
Huy Cận
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
Tô Thùy Yên
2. Vần ba tiếng bằng (thường dùng)
Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong,
Hôm xưa em đến, mắt như lòng,
Nở bừng ánh sáng. Em đi đến,
Gót ngọc dồn hương, bước tỏa hồng.
Huy Cận
Dĩ vãng nào xanh như mắt em?
Chao ôi! Màu tóc rợn từng đêm!
Hàng mi khuê các chìm sương phủ
Vời vợi ngàn sao nhạt dáng xiêm.
Đinh Hùng
Em ở thành Sơn chạy giặc về
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì
Quang Dũng
Thơ tám chữ
Thể thơ này không có quy luật nhất định, có nghĩa là vần điệu tự do hơn. Thường thì trong câu ở cuối có tiếng trắc thì tiếng 3 trắc, tiếng 5 và 6 bằng; ở cuối có tiếng bằng thì tiếng 3 bằng, tiếng 5 và 6 trắc. Nhưng nhiều lúc cũng không như thế.
Cách gieo vần
1. Vần tiếp
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé,
Tôi sẽ trách -- cố nhiên -- nhưng rất nhẹ;
Nếu trót đi, em hãy gắng quay về,
Tình mất vui lúc đã vẹn câu thề
Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở.
Thơ viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ,
Cho nghìn sau... lơ lửng... với nghìn xưa...
Hồ Dzếnh
2. Vần tréo
Hai đứa kéo nhau chạy vào mộng mị
Giờ tắt thở nằm trên bãi hư vô
Bầy ngựa chứng hàng thùy dương vó bão
Gió đưa trăng lăn vào đá tiếng ru
Tô Thùy Yên
Em sẽ chết với mảnh hồn trống đó
Chúa đứng đón em ở cửa thiên đường
Con trả chúa trái tim hồng lãng mạn
Dưới thế gian con dại dột cho chàng
Trần Mộng Tú
3. Vần ôm
Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc
Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường.
Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương
Tôi thay mực cho vừa màu áo tím.
Nguyên Sa
Không có em, chắc ngày mai anh chết
Anh sẽ buồn, sẽ kết tội trần gian
Nắng sẽ phôi pha, hoa sẽ úa tàn
Cây thành phố hai hàng giăng nước mắt
Vũ Thành
Muốn cho thơ tám tiếng thêm âm điệu, một số nhà thơ thường vần tiếng 8 câu trên với tiếng 5 hay 6 câu dưới:
Sàn gác trọ những tâm hồn bão nổi
Những hào hùng, uất hận gối lên nhau
Cao Tần
* Thơ lục bát *
Thơ lục bát
Lục bát là thể thơ đặc biệt của Việt Nam, mà truyện Kiều là tác phẩm tiêu biểu nhất. Vần thơ lục bát có thể phân tách như sau:
2 4 6
bằng trắc bằng
2 4 6 8
bằng trắc bằng bằng
Tiếng thứ 6 của câu lục vần với tiếng thứ 6 của câu bát. Tiếng thứ 8 của câu bát vần với tiếng thứ 6 của câu lục tiếp theo. Trong câu bát, tiếng 6 và 8 tuy cùng vần bình nhưng một tiếng có dấu huyền và một tiếng không có dấu.
Thôn đoài ngồi nhớ thôn Ðông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Nguyễn Bính
Bỗng dưng buồn bã không gian
Mây bay lũng thấp giăng màn âm u
Nai cao gót lẫn trong mù
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về.
Huy Cận
Có hai ngoại lệ trong thơ lục bát:
1. Tiếng thứ 2 câu lục có thể là trắc, khi ấy nhịp thơ ngắt ở giữa câu.
Người nách thước, kẻ tay đao
Đầu trâu mặt ngựa, ào ào như sôi.
Nguyễn Du
2. Tiếng cuối câu lục có thể vần với tiếng 4 câu bát, khi đó tiếng 2 và 6 của câu bát sẽ đổi ra trắc. Câu thơ sẽ ngắt nhịp ở giữa câu bát, như trong câu ca dao sau:
Đêm nằm gối gấm không êm
Gối lụa không mềm bằng gối tay em.
CÁCH LÀM THƠ TỰ DO ( Bát Ngôn )
Thơ TD có tất cả 4 cách làm , và Luật Bất Luận của thơ TD là ( Nhất Nhị Tứ bất luận ) , (Tam , Ngủ , Bát phân minh ) , nhưng thể thơ nầy ít có nhiều người theo luật lắm và được cải tiến nhiều ( vì nó được gọi là Tự Do ) nên sau nầy chỉ chú trọng khi viết chỉ cần giữ luật NIÊM VẦN là đủ
Cách thứ nhất:
Câu 1 và câu 3 phải giống nhau về luật BT và niêm Vần với nhau ở chữ cuối, Câu 2 và câu 4 cũng thế, nghĩa là chữ cuối phải vần (niêm) với nhau ! khi sang đoạn khác thì cũng như thể Trường Thiên (nhiều đoạn ) mình có thể đổi vần tuỳ thích
Luật Bằng Trắc trong thể thơ TỰ DO
ttTbBBTT (Niêm )
bbBtTTBB (niêm )
ttTbBBTT (Niêm)
bbBtTTBB (niêm )
Lỡ thương bé nên ngày đêm trộm NHỚ
Câu yêu đương anh khó thốt nên Lời
Ôi giấc mộng miên mang đầy nổi sợ
Tình đơn phương cay đắng lệ thầm RƠI
Cách thứ nhì:
Trong cách này thì 2 câu trên Vần Trắc (niêm) 2 câu dưới Vần Bằng và cũng niêm với nhau
ttTbBBTT (niêm )
ttTbBBTT (niêm)
bbBtTTBB (niêm )
bbBtTTBB (niêm)
Đơn bóng lẽ bao năm dài cách biệt
Niềm thầm kín xót xa ai có biết
Tình trái ngang đè nặng nổi thương tâm
Cố nhân ơi... lạnh lẽo bước thăng trầm ....
....
Cách thứ ba:
Cách nầy luật cũng như cách 1 và 2 , tuy nhiên câu 2 và câu 3 bắt buộc phải niêm nhau, còn câu 1 và 4 thì không đòi hỏi , cách nầy thì thường được viết nhiều nhất và khi mình viết nhiều đoạn thì câu 5 phải Niêm Luật và Vần với chử cuối câu 4 , và câu 9 niêm Luật và Vần với chử cuối câu 8 , and so on...
ttTbBBTT
bbBtTTBB (niêm )
bbBtTTBB (niêm)
ttTbBBTT
TD:
Tháng Sáu Tình Xa
Tôi thoáng nhớ một thời yêu màu trắng
Trước cổng trường khi nhạt nắng chiều buông
Từng cánh hoa ngơ ngác mắt nai buồn
Tay cắp sách phất phơ muôn tà áo
Hồi tưởng lại một chuyện tình huyền ảo
Giữa Hạ buồn trong tháng Sáu vàng hanh
Yêu một nàng con gái tuổi xuân xanh
Tà áo lụa nét hiền lành thôn nữ
Dáng bé bỏng mắt thẹn thùng bỡ ngỡ
Cánh Phượng hồng ,xác Ve nhỏ trao nhau
Rồi mỗi khi trông lá đổ khoe màu
Ru nho nho? bài mưa sầu tháng sáu
........
Cách thứ tư :
Luật Bằng
Cách này thì câu 1 và câu 4 là vần BẰNG , câu 2 và câu 3 vần TRẮC và niêm nhau ! khi làm thì phải từ 4 đoạn trở lên và chỉ giữ một vần Bằng trong khi mình viết Nhiều Đoạn...
TD:
bbBtTTBB
ttTbBBTT (niêm)
ttTbBBTT (niêm)
bbBtTTBB
bbBtTTBB
ttTbBBTT (niêm)
ttTbBBTT (niêm)
bbBtTTBB
........
........
TD:
Trái Đắng
Hiểu gì không ý nghĩa của lòng anh
Ôm mật đắng với niềm đau nghẹn Xót
Em có thể ban lời yêu thật Ngọt
Sưởi tim nầy dù chỉ một lần thôi
Để ấm lòng an ũi trái tim côi
Dù xa cách vẫn tràn đầy hạnh phúc
Nầy em hởi có bao giờ thổn thức
Thả hồn mình theo tiếng gọi con tim ....
( theo trường tương tư )
SONG THẤT LỤC BÁT
Cũng như LỤC BÁT, SONG THẤT LỤC BÁT thường được dùng trong
những truyện thơ, và là thể loại thứ hai của hai thể thơ
"chính tông" của Việt Nam.
Song Thất Lục Bát là loại thơ mở đầu bằng hai câu THẤT, rồi tiếp đến hai câu LỤC BÁT, tạo thành một KHỔ với ý từ
trọn vẹn (có nghĩa là trong 4 câu phải trọn vẹn một ý)
Câu THẤT trên (câu số 1), tiếng thứ 3 là chữ TRẮC, tiếng
thứ 5 là chữ BẰNG, và tiếng thứ 7 là chữ TRẮc và VẬN
Câu Thất dưới (câu số 2), tiếng thứ 3 là chữ BẰNG, tiếng
thứ 5 là chữ TRẮC và VẦN với tiếng thứ 7 của câu trên, tiếng thứ 7 là chữ BẰNG và VẬN
Song Thất Lục Bát không giống như Thất Ngôn Luật theo lối Hán văn, vì luật BẰNG TRẮC được áp dụng trong Song Thất ở chữ thứ 3, thứ 5, mà trong Thất Ngôn Luật thì chữ thứ 3 và chữ thứ 5 lại có thể theo lệ BẤT LUẬN
Sau hai câu Thất là hai câu Lục Bát, theo luật của Lục Batchữ cuối của câu LỤC vần với chữ thứ 7 của câu THẤT thứ nhì
Luật của STLB:
b b t t B b T(v)
t t B b T(v) t B(v)
b B t T b B(v)
b B t T b B(v) t B(v)
(v)=Vần
b = bằng ,không nhất thiết
t = trắc ,không nhất thiết
B = BẰNG , theo luật
T = TRẮC ,theo luật
Thí Dụ :
Thuở trời đất nổi cơn gió Bụi
Khách má hồng nhiều nổi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Nào ai gây dựng cho nên nổi nầy
Trống trường Thành lung Laybóng Nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ Mịt khúc Mây
Chín tầng gươm báu trao Tay
Nữa đêm truyền hịch đợi Ngày xuất Chinh
(Chinh Phụ Ngâm Khúc)
Điều ngoại lệ của STLB :
ĐIỀU NGOẠI LÊ.: Thông thường chữ thứ 3 của câu Thắt 1) là vần TRẮC, nhưng trong trường hợp dùng vần BẰNG thì phải có đối ở câu dưới
Thí Dụ đoạn hai của bài trên :
Trống trường Thành lung Lay bóng Nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ Mịt khúc Mây
Chín tầng gươm báu trao Tay
Nữa đêm truyền hịch đợi Ngày xuất Chinh
thì ta thấy hai câu 7 7 trên được đối nhau từng từ từng chữ
Thí dụ thêm về thơ STLB:
Giấc Mơ Viễn Xứ
Non nước ấy bao giờ trở lại
Để con đây được mãi bên người
Mẹ già lệ đẩm đôi ngươi
Ôm con ve vuốt nụ cười điểm môi
Bờ liễu rũ con ngồi kể chuyện
Bao năm dài lưu luyến quê hương
Tấm lòng một kẽ tha phương
Năm canh ,sáu khắc đoạn trường xót xa
Ôi ước vọng ngắm tà dương xế
Thả hồn mình trên bể hoàng hôn
Trông chiều khói phủ làng thôn
Đếm chuông ngân vọng gõ mồn một vang
Bước chân nhẹ bên hàng phượng vĩ
Ngắm trường làng ôn kỹ niệm xưa
Dầm mình nhẹ gót dưới mưa
Nhớ hồi cấp sách sớm trưa thuở nào
Cầu tre ấy biết bao kỹ niệm
Dòng sông kia như mĩm cười rung
Nhăn mày ẩn chiếu linh lung
Lờ mờ đáy nước bóng khung trời già
Chợt tỉnh giấc hồn đà nhập thể
Nghe đâu đây tiếng dế gọi nhau
Thì ra trống điểm canh thâu
Giấc mơ viễn xứ đêm sâu lở làng
Nam Quan kia phải đang lạnh ngút
Bắc Ải nầy đến lúc giá băng
Lòng quê lệ thảm khó ngăn
Mong sao đất Việt vĩnh hằng thiên thu
THƠ ĐƯỜNG LUẬT
. Đường Luật hoặc cận thể là thể thơ đặt ra tự đời nhà Đường (618-907) phải theo niêm luật nhất định.
Thơ tứ tuyệt và thơ bát cú: Theo số câu, thơ Đường Luật chia làm hai lối.
- 1.) Tứ tuyệt, mỗi bài bốn câu;
- 2.) Bát cú, mỗi bài tám câu;
TỨ TUYỆT
Định nghĩa: Tứ là bốn, tuyệt là dứt, ngắt. Lối này gọi thế vì thơ tứ tuyệt là ngắt lấy bốn câu trong bài thơ bát cú mà thành.
Các cách làm thơ tứ tuyệt: Vì một bài thơ bát cú có thể ngắt nhiều cách, nên cũng có nhiều cách làm thơ tứ tuyệt
thơ tứ tuyệt làm theo cấu trúc khai-thừa-chuyển-hợp, mỗi câu bảy chữ, không yêu cầu đối. Chữ cuối của các câu 1, 2, 4 thường là vần bằng. Chữ cuối của câu 3 có thể vần trắc, cách niêm như thơ thất ngôn bát cú. Ngày nay người ta sửa đổi định nghĩa về thơ tứ tuyệt, rằng thơ tứ tuyệt là thơ gì cũng được, miễn là có bốn câu, và vần luật tất nhiên cũng theo đó mà thay
Người ta nói thể thơ này dựa theo cấu Nhất Tam Ngũ bất luận ,Nhị Tứ Lục Phân Minh nghĩa là chữ thứ 1,3,5 trong các câu thì không phải bắt buộc theo luật,còn chữ thứ 2,4,6 thì phải theo qui luật của nó ,
Luật căn bản của TNTT :
( các chử viết thường là không cần phải theo luật , còn các chử In Hoa thì bắt buộc
Bảng 1
b B t T t B B(niêm vần )
t T b B t T B(niêm vần )
t T b B b T T
b B t T t B B(niêm vần )
Thí dụ :
Nhớ
Song thưa gió lộng buốt mây trùng
Chạnh nhớ ai mà mắt lệ rưng
Soi mãi đài gương ngồi dựa bóng
Ba Thu chưa thoả mộng tương phùng
Bảng 2
t T b B t T B niêm
b B t T t B B niêm
b B t T b B T
t T b B t T B niêm
Thí Dụ :
Trong vắt trời non suốt một màu
Trên sông cài lững ánh trăng cao
Làm sao hái được vành trăng ấy
Để tặng cho riêng khách má đào
TTT...
Bảng 3
b B t T b B T
t T b B t T B niêm
t T b B b T T
b B t T t B B niêm
TD :
Đêm tàn lệ gối phai hương sắc
Nến lụn chập chờn gió thoảng qua
Cửa ngọc rèm thưa lay ánh nguyệt
Thầm ngồi soi bóng , bóng soi ta
TTT...
Bảng 4
t T b B b T T
b B t T t B B niêm
b B t T b B T
t T b B t T B niêm
Trời đất vô tình buông lặng lẽ
Núi sông hờ hững nặng nề trôi
Đêm khuya thanh vắng thuyền ai rẽ
Người ở giang đầu có nhớ tôi
TTT...
Chú ý trong bảng 3 va `4 thì hai vần Trắc không đòi hỏi phải niêm nhưng nếu làm được hai vần trắc niêm thì càng hay
Ở trên chỉ là căn bản của phần 1, bây giờ cũng áp dụng
luật căn bản nầy nhưng làm theo vần Trắc nghĩa là lấy vần Trắc làm căn bạn
Bảng 1
t T b B b T T niêm
b B t T b B T niêm
b B t T t B B
t T b B b T T niêm
TD:
Năm tháng buông dần theo đuỗi mãi
Tương tư ảo mộng sao phân giãi
Vào yêu mới rõ được thương đau
Mới hiểu sóng tình cuồn cuộn chảy
TTT...
Bảng 2
b B t T b B T niêm
t T b B b T T niêm
t T b B t T B
b B t T b B T niêm
TD:
Quanh co mấy chử buồn buồn ngũ
Trắc trắc bằng bằng sao khó thủ
Ít nét mà thôi đả hết rồi
Thơ gì viết mãi mà chưa đủ
TTT...
Bảng 3
t T b B t T B
b B t T b B T niêm
b B t T t B B
t T b B b T T niêm
TD :
Gió lộng bên thềm quét lá rơi
Khuya nay bóng nguyệt không thèm ghé
Thương người chốn ấy biệt ngàn khơi
Mắt dõi theo chàng đêm bóng lẽ
TTT...
Bảng 4
b B t T t B B
t T b B b T T niêm
t T b B t T B
b B t T b B T niêm
TD :
Dờn dờn nước biếc gợn mây bay
Lất phất gió lùa lay khóm trúc
Đáy nước lung linh bóng nguyệt cài
Vui say chén rượu bừng hương cúc
* Một số cách ngắt bát cú thành tứ tuyệt
1.) Ngắt bốn câu trên, thành ra bài thơ ba vần, hai câu trên không đối nhau, hai câu dưới đối nhau. Thí dụ:
Con Voi
(So sánh với biểu Thất ngôn bát cú, luật bằng, vần bằng ở trên.)
Xông pha bốn cõi bể chông gai,
Vùng vẫy mười phương bụi cát bay.
Phép nước gọi là tơ chỉ buộc, *
Sức này nào quản búa rìu lay. *
Lê Thánh Tôn (?)
* = đối nhau.
2.) Ngắt bốn câu giữa, thành ra bài thơ 2 vần, cả bốn câu đối nhau. Thí dụ:
Khóm Gừng Tỏi
(So sánh với biểu Ngũ ngôn bát cú, luật bằng, vần bằng ở trên)
Lởm chởm vài hàng tỏi *
Lơ thơ mấy khóm gừng *
Vẻ chi là cảnh mọn #
Mà cũng đến tang thương #
Ôn Như hầu
*, # = đối nhau.
3.) Ngắt bốn câu dưới, thành ra bài thơ 2 vần, hai câu trên đối nhau, hai câu dưới không đối. Thí dụ:
Đề Chùa Vô Vi (So sánh với biểu Ngũ ngôn bát cú, luật bằng vần bằng ở trên)
Vắt vẻo sườn non Trạo, *
Lơ thơ mấy ngọn chùa. *
Hỏi ai là chủ đó?
Có bán tớ xin mua
Vô Danh
* = đối nhau.
4.) Ngắt 2 câu đầu và 2 câu cuối, thành ra bài thơ 3 vần, cả 4 câu không đối. Thí dụ:
Cái Pháo
(So sánh với biểu Thất ngôn bát cú, luật bằng, vần bằng ở trên)
Xác không, vốn những cậy tay người,
Bao nả công trình, tạch cái thôi!
Kêu lắm, lại càng tan tác lắm,
Thế nào cũng một tiếng mà thôi.
Nguyễn Hữu Chỉnh
5.) Ngắt hai câu 1-2 với hai câu 5-6, thành ra bài thơ 3 vần hai câu cuối đối nhau. Thí dụ:
Con Cóc
(so sánh với biểu Thất ngôn bát cú, luật trắc, vần bằng ở trên)
Bác mẹ sinh ra bốn áo sồi,
Chốn nghiêm thăm thẳm một mình ngồi.
Tép miệng năm ba con kiến gió, *
Nghiến răng chuyển động bốn phương trời. *
Lê Thánh Tôn
( Sử dụng tài liệu của Dương Quảng Hàm )
BÁT CÚ
Trong lối thơ Đường Luật, có năm điều này phải xét:
1.) vần; 2.) đối; 3.) luật; 4.) niêm; 5.) cách bố cục.
Vần thơ:
A) Định nghĩa: Vần (chữ nho là vận) là những tiếng thanh âm hòa hiệp đặt vào hai hoặc nhiều câu văn để hưởng ứng nhau.
B) Cách gieo vần:
1.) Thơ Đường: luật thường dùng vần bằng, gián-hoặc mới dùng vần trắc.
2.) Suốt bài thơ Đường Luật chỉ hiệp theo một vần, tức là theo lối độc vận.
3.) Trong một bài bát cú có năm vần gieo ở cuối câu đầu và cuối các câu chẵn.
C.) Lạc vận và cưỡng áp: Gieo vần sai hẳn, không hiệp nhau gọi là lạc vận (lạc: rụng). Nếu vần gieo gượng không được hiệp lắm gọi là cưỡng áp (đặt gượng), đều không được cả.
Phép đối trong thể thơ:
A.) Định nghĩa: Đối là đặt hai câu đi sóng đôi cho ý và chữ trong hai câu ấy cân xứng với nhau.
1.) Đối ý là tìm hai ý tưởng cân nhau mà đặt thành hai câu sóng nhau.
2.) Đối chữ thì vừa phải đối thanh tức là bằng đối với trắc, trắc đối với bằng; vừa phải đối loại của chữ nghĩa là phải đặt hai chữ cùng một tự loại để đối với nhau (như cùng là hai chữ danh từ, hoặc động từ, v.v.)
3.) Những câu phải đối trong một bài thơ bát cú: Trừ hai câu đầu và hai câu cuối, còn bốn câu giữa thì câu 3 đối với câu 4, câu 5 đối với câu 6.
Luật Thơ:
A) Định nghĩa: Luật thơ là cách sắp đặt tiếng bằng tiếng trắc trong các câu của một bài thơ.
B) Tiếng bằng và tiếng trắc: Muốn hiểu luật thơ, phải biết phân biệt tiếng bằng tiếng trắc. Bằng (chữ nho là bình) là những tiếng lúc phát ra bằng phẳng đều đều. Trắc (nghĩa đen là nghiêng, lệch) là những tiếng khi phát ra hoặc tự thấp lên cao hoặc tự cao xuống thấp.
Trong tiếng ta có 8 thanh thì có hai thanh bằng và 6 thanh trắc như sau:
Bằng: Phù bình thanh = không có dấu
Trầm bình thanh = Huyền (`)
Trắc: Phù thượng thanh = Ngã (~)
Trầm thượng thanh = Hỏi (?)
Phù khứ thanh = Sắc (')
Trầm khứ thanh = Nặng (.)
Phù nhập thanh = Sắc (') *
Trầm nhập thanh = Nặng (.)*
* Riêng cho các tiếng đằng sau có phụ âm c, ch, p, t.
C.) Luật bằng và luật trắc: Thơ có thể làm theo hai luật:
1.) Luật bằng là luật thơ bắt đầu bằng hai tiếng bằng;
2.) Luật trắc là luật thơ bắt đầu bằng hai tiếng trắc.
D) Các luật thơ: Ngay liệt kê các luật thơ thông dụng như sau (b = tiếng bằng; t = tiếng trắc; v = tiếng vần; những chữ in lối chữ nghiêng là phải theo đúng luật; những chữ in thường thì theo đúng luật hoặc không theo đúng luật cũng được, theo cái lệ "bất luận" sẽ nói về sau):
I. LUẬT BẰNG II. LUẬT TRẮC
A. Vần bằng A. Vần bằng
1@Ngũ ngôn bát cú 1@Ngũ ngôn bát cú
I : b b t t b (v) t t t b b (v)
II. : t t t b b (v) b b t t b (v)
III : t t b b t b b b t t
IV : b b t t b (v) t t t b b (v)
V : b b b t t t t b b t
VI : t t t b b (v) b b t t b (v)
VII : t t b b t b b b t t
VIII : b b t t b (v) t t t b b (v)
2@ Thất ngôn bát cú 2@ Thất ngôn bát cú
I : b b t t t b b (v) t t b b t t b (v)
II : t t b b t t b (v) b b t t t b b (v)
III : t t b b b t t b b t t b b t
IV : b b t t t b b (v) t t b b t t b (v)
V : b b t t b b t t t b b b t t
VI : t t b b t t b (v) b b t t t b b (v)
VII : t t b b b t t (v) b b t t b b t
VIII : b b t t t b b (v) t t b b t t b (v)
B. Vần trắc B. Vần trắc
Ngũ ngôn bát cú Thất ngôn bát cú
I : b b b t t (v) t t b b b t t (v)
II : t t b b t (v) b b t t b b t (v)
III : t t t b b b b t t t b b
IV : b b b t t (v) t t b b b t t (v)
V : b b t t b t t b b t t b
VI : t t b b t (v) b b t t b b t (v)
VII : t t t b b b b t t t b b
VIII : b b b t t (v) t t b b b t t (v)
E.) Bất luận và khổ độc: Vì sự theo đúng luật bằng trắc như trên đã định là một việc rất khó, nên có lệ bất luận (không kể), nghĩa là trong câu thơ có một vài chữ không cần phải đúng luật.
1.) Trong bài thơ ngũ ngôn thì chữ thứ nhất và thứ ba không cần đúng luật: tức nhất, tam bất luận.
2.) Trong bài thơ thất ngôn thì chữ thứ nhất, thứ ba và thứ năm không cần đúng luật: tức là nhất, tam, ngũ bất luận.
Tuy theo lệ bất luận có thể thay đổi luật mấy chữ trong câu thơ, nhưng đang trắc mà đổi ra bằng bao giờ cũng được, chứ đang bằng mà đổi ra trắc thì trong vài trường hợp sự thay đổi ấy làm cho câu thơ thành ra khổ độc (khó đọc) không được. Những trường hợp ấy là:
1.) Trong bài thơ ngũ ngôn, chữ thứ nhất các câu chẵn và chữ thứ ba của các câu đang bằng mà đổi ra trắc là khổ độc.
2.) Trong bài thơ thất ngôn, chữ thứ ba các câu chẵn và chữ thứ năm các câu lẻ đang bằng mà đổi ra trắc là khổ độc.
F.) Thất luật: Một câu thơ đặt sai luật nghĩa là một chữ đang bằng mà đổi ra trắc hoặc trái lại, thế thì gọi là thất luật (sao mất luật) không được.
Niêm:
A) Định nghĩa: Niêm (nghĩa đen là dính) là sự liên lạc về âm luật của hai câu thơ trong bài thơ Đường Luật. Hai câu thơ niêm với nhau khi nào chữ thứ nhì của hai câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng trắc niêm với trắc.
B) Những câu niêm với nhau trong một bài thơ bát cú: Trong một bài thơ bát cú (xem lại biểu các luật thơ trên) những câu sau này niêm với nhau: 1 với 8. - 2 với 3. - 4 với 5. - 6 với 7. - 8 với 1.
C) Thất niêm: Khi các câu trong một bài thơ, vì sự đặt sai, không niêm với nhau theo lệ đã định; thì gọi là thất niêm (mất sự dính liền) không được.
Cách bố cục: Một bài thơ bát cú có bốn phần.
1.) Đề gồm có phá đề (câu 1) là mở bài và thừa đề (câu 2) là nối câu phá mà vào bài.
2.) Thực hoặc trạng (hai câu 3 và 4) là giải thích đầu bài cho rõ ràng.
3.) Luận hai (câu 5 và 6) là bàn bạc cho rộng nghĩa đầu bài.
4.) Kết (hai câu 7 và 8) là tóm ý nghĩa cả bài mà thắt lại.
* Những dạng thơ Đường Luật ( Theo Bồ Tùng Linh )
1 - Họa Vận
Một người làm một bài xướng lên, một người nữa làm bài khác họa lại mà các vần trong bài họa phải theo y như các vần trong bài xướng, còn ý nghĩa hoặc phụ theo cho rộng,hoặc trái hẳn lại ( phản đề ) :
Hỏi Ả Bán Chiếu
Xướng :
Ả ở đâu nay bán chiếu gon ?
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn ?
Xuân thu nay độ bao nhiêu tuổi ?
Đã có chồng chưa được mấy con ?
Nguyễn Trãi
Họa :
Tôi ở Tây hồ bán chiếu gon .
Nỗi chi ông hỏi hết hay còn ?
Xuân thu tuổi mới trăng còn lẻ ,
Chồng còn chưa có,có chi con !
Nguyễn thị Lộ
2-Thủ nhất thanh ( nhất đồng )
Từ đứng đầu 8 câu đều giống nhau.
Tám Mừng
Mừng đón xuân về, muôn sắc hoa,
Mừng xuân,xuân mới, mới thêm ra.
Mừng nghe nhựa sống, như còn trẻ,
Mừng thấy đời tươi, chửa muốn già.
Mừng khỏe đôi chân, đi đứng vững,
Mừng tinh cặp mắt ngắm nhìn xa.
Mừng nhau tuổi Thọ tăng tăng mãi,
Mừng được trường xuân hưởng thái hòa.
1986 Lạc Nam
3-Song điệp
Tất cả 8 câu đều có 2 điệp từ :
Chuyện Đời
Vất vất vơ vơ, cũng nực cười,
Căm căm cúi cúi có hơn ai .
Nay còn chị chị anh anh đó ,
Mai đã ông ông mụ mụ rồi.
Có có không không, lo hết kiếp
Khôn khôn dại dại, chết xong đời.
Chi bằng láo láo lơ lơ vậy,
Ngủ ngủ ăn ăn nói chuyện chơi.
Nguyễn Công Trứ
4-Song điệp độc vận
Tất cả 8 câu đều có 1 từ và chỉ có 1 vần.
Xuân Và Thơ
Xuân tự ngàn xưa,bạn với Thơ
Tình Xuân là cả vạn lời Thơ
Đẹp duyên hoa bút,Xuân ngời sắc
Rộn khúc Xuân thiều,nhạc ánh Thơ.
Xuân vắng,oanh hờn,dầu dáng liễu
Xuân về hương tỏa ngát lời Thơ
Xuân nương, thi sĩ, đôi người ngọc,
Dệt mộng ngày Xuân, lộng ý Thơ.
Lạc Nam
5-Dĩ đề vi thuû
Lấy 8 từ đầu để mở đầu cho 8 câu thơ :
Xướng (Nam): "Trăm điều hãy cứ trông vào một ta"
Trăm nỗi bâng khuâng góp chuyện lòng
Điều chi mà ngại nghĩa non sông
Hãy buông lá thắm xuôi dòng vắng
Cứ để hoa đào cợt gió đông
Trông nẽo lầu thơ chờ hạnh ngộ
Vào trong giấc mộng đợì tao phùng
Một phen tâm sự hòa theo nhạc
Ta sẽ cùng nhau viết thỉ chung
Họa (Nữ) : "Đi đâu chẳng biết con người sở khanh"
Đi mãi đường xa đã biết lòng
Đâu còn mơ tưởng núi cùng sông
Chẳng đem thơ ấy treo lầu vắng
Biết chọn hoa nào bán chợ đông
Con mắt chưa từng xanh thế tục
Người quen đành tạm trắng tương-phùng
Sở Tần, xin nhắn thà xa cách
Khanh tướng đâu mà nghĩ đỉnh chung !
6-Dĩ đề vi vận
Lấy đầu đề làm vần
Không Chồng Trông Bông Lông
Xướng :
Bực gì bằng gái chực phòng không
Tơ tưởng vì chưng một tấm chồng,
Trên gác rồng mây ngao ngán nhẽ,
Bên trời cá nước ngẩn ngơ trông.
Mua vui lắm lúc cười cười gượng,
Giả dại nhiều khi nói nói bông.
Mới biết có chồng như có cánh,
Giang sơn gánh vác nhẹ bằng lông.
Nguyễn Khuyến
Họa Vận :
Phật rằng sắc sắc không không ,
Sắc sắc không không khó chất chồng.
Ân oán,nhiều người còn có ngóng,
Trải oan,lắm kẻ vẫn chờ trông.
Thế gian,nhân quả nhanh như bóng,
Cõi Phật,nhân duyên nhẹ tựa bông.
Xuân đến hoa xuân tươi đẹp mãi,
Luân hồi ra khỏi,hết bông lông.
Cổ Lai Hy (nhóm Silicon)
7-Toán thi
Cả bài câu nào cũng có từ chỉ con số.
Thân Phận Gái
Một sớm phân vân bước xuống thuyền,
Tưng bừng hai họ,nỗi sầu riêng.
Lặng nhìn ba má,đôi giòng lệ,
Xác pháo bốn bề,nát phận duyên.
Năm tháng rồi đây tùy số kiếp,
Hoài lang sáu nhịp,vọng chim uyên.
Bảy ba chìm nổi,tình nhi nữ,
Đôi tám sang ngang,đạo chính chuyên.
Tùng Linh
8-Liên hoàn
Thể thơ có nhiều đoạn, câu cuối của đoạn trên được chuyển thành câu đầu của đoạn dưới
Thi Lấy Được
Anh Phán nhà ta biết cóc gì
Kỳ thi Tham biện cũng ra thi,
Nhất thì anh đỗ,nhì anh trượt,
Chẳng đậu khoa này, khoa khác đi.
Chẳng đậu khoa này, khoa khác đi.
Nam nhi chi chí, há lo gì,
Một, hai, ba, bốn, năm năm trượt
Nhẵn mặt quan trường, chẳng thẹn chi.
Nhẵn mặt quan trường, chẳng thẹn chi.
Trượt thi, thi trượt, vẫn gan lì.
. . . .
Tú Mỡ
Lính Tập Vinh Qui
Chú đội qua Tây thắng trận về,
Cả nhà đón rước thật mừng ghê !
Ông già, bà lão gồm hai cụ,
Vợ giảnh, con ngoan đủ mọi bề, (1)
Nảy ngực mề đay tiền bạc chói,
Rạng mình khố đỏ áo vàng xuê.
Giang sơn mày mặt càng tươi tốt,
Bộ cất tay lên, ngó cũng nghề. (2)
Bộ cất tay lên ngó cũng nghề,
Miệng cười tróm trém, húi râu dê.(3)
Xông pha trăm trận từng hăm hở
Gánh vác hai vai ghẹo nặng nề ! (4)
Mở mặt Tiên Rồng dòng Đại Việt,
Nổi danh hùng hổ cõi Âu tê (5)
Trong tình cảnh nọ dầu không vẻ,
Văng vẳng dường nghe tiếng ắc-đê ! (6)
N.V.H
Chú thích
1-Vợ đẹp ( tiếng Nghệ)
2-Có vẻ tay nghề
3-Bộ râu xén như râu dê
4-Dù công việc có nặng đến đâu cũng không sợ (tiếng Nghệ)
5-Âu Tây.chữ tây,âm Hán có khi đọc là tê
6-Phiên âm chữ Pháp : un,deux.Tiếng hô đi đều của lính tập.
9-Liên hoàn thuận nghịch vận
Thể thơ như trên, nhưng bài thứ 2 viết ngược vần lại với bài thứ nhất.
Xem Núi Non Bộ
Non nhân, nước trí, điểu muông hiền,
Núi giả mà in dáng tự nhiên.
Một vũng xinh xinh, vươn một ngọn,
Hai cầu nho nhỏ, vắt hai triền.
Thuyền ngư lướt suối dong miền tục,
Cánh hạc trườn mây bổng cõi tiên.
Đối cảnh tâm tư dường nhẹ nhõm,
Lâng lâng chẳng bợn chút ưu phiền.
Lâng lâng chẳng bợn chút ưu phiền.
Bàn đá say cờ đôi lão tiên,
Lã vọng buông câu vờn sóng nước,
Phật đài mở lối lượn ven triền.
Sỏn thanh thủy tú,hồn u nhã,
Sắc lộng hương nùng ,khí hạo nhiên.
Phong cảnh tạo hình như giới thiệu
Chủ nhân đây cũng bậc nhân hiền.
Lạc Nam
10-Ô thước kiều
Thể thơ liên hoàn như trên, nhưng lấy 2 từ cuối, hoặc nhắc lại 2, 3 từ nào đó ở câu cuối của bài trên để mở đầu cho câu 1 của bài dưới.
Chống Tôn Thọ Tường
Lung lay lòng sắt đã mang nhơ,
Chẳng xét phận mình khéo nói vơ.
Người trí mang lo danh chẳng chói,
Đứa ngu luống sợ tuổi không chờ.
Bài hòa đã sẵn in tay thợ,
Cuộc đánh hơn thua giống nước cờ.
Chưa trả thù nhà,đền nợ nước,
Dám đâu mắt lấp với tai ngơ.
Tai ngơ sao đặng lúc tan tành,
Luống biết trách người,chẳng trách mình.
Đến thế còn khoe đàng đạo nghĩa,
Như vầy cũng gọi kẻ trâm anh.
Biển khơi vụng tính dung thuyền nhỏ,
Chuông nặng to gan buộc chỉ mành.
Thân có,ắt danh tua phải có,
Khuyên người ái trọng cái thân danh.
Thân danh chẳng kể, thật thằng hoang,
Đốt sáp nên tro lụy chẳng màng.
Hai cửa trâm anh xô sấp ngửa,
Một nhà danh giá xóa tan hoang.
Con buôn khấp khởi chưa từng ngọc,
Người khó xăng xăng mới gặp vàng.
Thương kẻ đòng văn nên phải nhắc.
Dễ đâu ta dám tiếng khoe khoang.
Phan Văn Trị ( 1830-1910)
11-Tập danh
a- Trong mỗi câu có danh từ gắn với đề tài
Mừng Ông Lão Hàng Thịt Ăn Thượng Thọ
Nay tiết mừng ông mới Bảy mươi,
Cổ hy(1) chưa dễ mấy lăm người.
Răng long nhưng hãy còn tinh mắt
Đầu bạc nhưng mà chửa tắc tai.
Bè bạn bày vai kèo (2) chén Lý (3)
Cháu con dưới gối múa sân Lai. (4)
Xưa nay vẫn giữ lòng chân thực
Chữ đức giả xương máu để đời.
Nguyễn Khuyến