PDA

View Full Version : Chùa Việt Nam.


Trang : [1] 2 3

LSB-Sun
12-05-2009, 20:42
Lời Tựa

Chùa

Chùa thường xây ở nơi phong cảnh thanh u, bởi vậy người ta hay tìm nơi gò cao để xây chùa, nếu không người ta cũng tân đất lên cho cao hơn nền thường.

Nhiều làng cất chùa ở những nơi danh lam thắng cảnh thật là rộng rãi đẹp đẽ như chùa Hương làng Yến Vĩ, tỉnh Hà Đông, hoặc chùa Thầy làng Thụy Khê, tỉnh Sơn Tây. Những làng trung du thường xây chùa ở ven sườn núi hay trong hang núi như chùa Láp làng Tích Sơn, tỉnh Vĩnh Yên, chùa Trầm, làng Long Châu, tỉnh Hà Đông .v.v...

Chùa từ ngoài đi vào thường đi qua một sân đất ở trước tam quan. Hai bên có hai hàng phỗng đá hoặc chó đá.

Từ sân đất bước lên tam quan có một bực xây gạch.

Tam quan là một căn nhà ba gian có ba cánh cửa khá rộng, và ba cánh cửa này đều được coi như ba cửa chính, thường đóng quanh năm, trừ những ngày hội hè, sóc vọng hoặc Tết nhất.

Cạnh tam quan về phía tay phải, thường có thêm một cổng bên, cổng này luôn mở trong những ngày thường, và trên cổng này là gác chuông. Cũng có chùa, gác chuông ở trên tam quan. Trên gác chuông có quả chuông lớn. Tăng ni lên thỉnh chuông phải leo một cầu thang có khi xây bằng gạch có khi chỉ là một chiếc thang gỗ.

Nhà tam quan thường chỉ dùng làm nơi cho các hào mục trong làng hội họp khi bàn tính tới việc chùa.

Khỏi tam quan là một lớp sân rộng lát gạch.

Qua khỏi lớp sân này là nhà thờ Phật gồm chính điện và nhà bái đường.
Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 20:44
Chùa Ấn Quang

Tổ đình Ấn Quang được xây dựng cách nay không lâu, nhưng lại giữ một vị trí rất đặc biệt trong lịch sử Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Nơi đây đã từng chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng trong những bước thăng trầm và phát triển của đạo Phật ở miền Nam. Chùa Ấn Quang đã là nơi đặt trụ sở của Phật học đường Nam Việt, Giáo hội Tăng già Nam Việt (1959-1963), văn phòng Viện Hóa Đạo và Viện Tăng Thống (1976 - 1980), nay là trụ sở Ban Trị sự Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam (từ năm 1982).

Chùa Ấn Quang hiện tọa lạc tại 243 Sư Vạn Hạnh, Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Chùa được Hòa thượng Thích Trí Hữu từ chùa Linh Ứng ở Ngũ Hành Sơn, Đà nẵng vào lập nên vào năm 1948. Lúc đầu đây chỉ là một ngôi Phật tự nhỏ bằng cây lợp lá, mang tên là Ứng Quang Tự.

Năm 1950, Hòa thượng Thích Thiện Hòa (1907 - 1978), thuộc dòng thiền Lâm Tế đời thứ 43, sau 10 năm tu học về đạo pháp và giới luật tại Tây Thiên Phật học đường, Báo Quốc Phật học đường và chùa Quán Sứ, trở về Sài Gòn. Ngài được Hòa thuợng Thích Trí Hữu giao cho quyền quản lý chùa Ứng Quang để hoằng dương Phật pháp. Với tư cách là Viện chủ, Hòa thượng Thích Thiện Hòa đã cho xây dựng ngôi chánh điện theo kiểu chùa Từ Đàm ở Huế. Từ đó trong suốt hơn một phần tư thế kỷ, Hòa thượng Thích Thiện Hòa đã hiến trọn tâm trí và công đức để tôn tạo ngôi chùa và thành lập trường Phật học để giáo dục và hoằng pháp.

Đầu năm 1951, Hòa thượng Thích Thiện Hòa đã vận động các trường Phật học Liên Hải, Mai Sơn, Sùng Đức và Ứng Quang hiệp nhất thành Phật học đường Nam Việt. Chùa Ứng Quang được đổi tên thành Ấn Quang và được chọn làm trụ sở của Phật học đường. Hòa thượng Thích Thiện Hòa được bầu làm Tổng giám đốc.

Năm 1955, chùa xây dựng thêm dãy lẫu nhà tổ và trai đưởng. Liên tục hai năm sau đó, xây nhà in Sen Vàng, xưởng nhang Bổ Đè, thư viên, nhà xuất bản, nhà phát hành Hương đạo. Năm 1959, xây lại dãy lầu giảng đường. Đến năm 1966, chánh điện được tôn tạo; năm sau lầu tăng xá, nhà trai được tái thiết. Kiến trúc chùa được xây dựng theo đồ án của kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thiện. Bên trong chùa ngoài tượng đức Bổn Sư Thích-ca và tượng các vị Phật được tôn trí trang nghiêm tại chánh điện, còn có tượng Tổ Sư Đạt ma (tạc bằng gỗ) và bộ tranh sơn mài Quan Âm, Văn-thù, Phổ Hiền do nghệ nhân Trương Văn Thanh (tức Đại đức Minh Tịnh) thực hiện.

Từ năm 1974, do Hòa thượng Thích Thiện Hòa lâm bệnh nặng, một Hội đồng Quản trị Tổ đình Ấn Quang gồm chín vị, do Hòa thượng Thích Huệ Hưng làm Tổng lý, đã được bầu ra để đảm đương Phật sự. Hòa thương Thích Thiện Hòa viên tịch năm 1978. Tên tuổi Hòa thương gắn liền không chỉ với sự nghiệp mở mang chùa Ấn Quang và còn với sự nghiệp đào tạo hàng trăm giảng sư và hàng nghìn Tăng Ni sinh làm sứ giả của Như Lai đi bổ xứ trụ trì các chùa ở các tỉnh miền Nam.
Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 20:46
Chùa Am Cây Đề (Thanh Ninh tự)


Chùa Am Cây Đề ở số 2 phố Lê Trực, phường Điện Biên, quận Ba Đình, Hà Nội. Thanh Ninh là têng làng được dùng để gọi tên chùa. Tên chùa Am Cây Đề xuất hiện năm Cảnh Hưng 7 đời vua Lê Hiến Tông (1746) khi một viên quan họ Trịnh cho xây một am nhỏ dưới gốc cây bồ đề trước cửa chùa.

Chùa thờ Phật, ngoài ra còn có đền Ngọc Thanh là nơi thờ Đức thánh Trần Hưng Đạo cùng các thân quyến. Tương truyền chùa được xây dựng từ đời vua Lý Thái Tông niên hiệu Thiên Thành (1031) và là một trong 95 ngôi chùa nổi tiếng ở nước ta thời bấy giờ. Dấu tích khởi dựng không còn nữa, năm Cảnh Hưng nguyên niên (1739), chùa được dựng lại đơn sơ nên có tên gọi là "Chùa Cỏ". Từ thời Lê về trước, khu vực quanh chùa là nghĩa trang của kinh thành vì thế viên quan họ Trịnh mới xây am nhỏ để thờ các cô hồn. Theo dân gian, vào đầu xuân Kỷ Dậu, một số thi hài nghĩa quân Tây Sơn hy sinh khi giải phóng thành Thăng Long đã được an táng quanh chùa.

Chùa xây trên một khu đất cao, trước đây là một khuôn viên rộng rãi, có nhiều cây cổ thụ. Hiện nay chùa gồm cổng, sân, đền Ngọc Thanh và toa tam bảo. Cổng chùa được xây kiểu tam quan có 3 cổng nhỏ, trên có 4 mái nhỏ. Đền Ngọc Thanh nằm theo hướng bắc, trông thẳng ra cổng. Đền có kiến trúc hình chuôi vồ gồm bái đường 5 gian, hậu cung 3 gian. Đền lợp ngói ta, hai đầu xây kiểu bít đdốc, các vì làm kiểu kèo cầu quá giang, tường gạch quây quanh.

Tòa tam bảo của chùa cũng hình chuôi vồ gồm tiền đường 5 gian, hậu cung 3 gian. Chùa dựng trên nền cao, quay hướng đông nam, xây kiểu tường hồi bít đốc. Các vì làm nhiều dạng khác nhau (có thể do đã sửa chữa nhiều lần). Ở tiền đường, vì kèo làm kiểu "thượng chồng giường giá chiên, hạ kẻ". Các vì kèo có chạm hoa lá, vân mây xoắn, tứ linh, tứ quý.

Chùa hiện còn giữ được 35 pho tượng tròn. 12 pho ở đền Ngọc Thanh, 3 đôi lọ độc bình sứ, 1 đôi choé sứ men trắng vẽ lam, 4 long ngai, 2 cửa võng, 5 hoàng phi, 1 ống bút, 1 chuông đồng đúc niên hiệu Cảnh Thịnh 6 (1797) có tên là "Thanh Ninh tự hồng chung".

Năm Gia Long 7 (1808) sư cụ Tịch Quang trụ trì tại chùa đã cho trùng tu, tô tượng và đúc chuông. Tấm bia "Thanh Ninh thiện tự bi ký" do tiến sĩ Phạm Quý Thích soạn năm 1779 có ghi: "Bên ngoài cửa tây thành Thăng Long nước ngọt mà đất thì hoang vu, chùa Thanh Ninh ở đó." Đến năm Khải Định 8 (1923) chùa lại được trùng tu. Trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, chùa đã bị giặc đốt phá. Năm 1949 sư cụ Đàm Thìn đã cho xây lại chùa và đền Ngọc Thanh vì vậy dấu tích cũ không còn nữa.

Chùa đã được Bộ Văn hóa và thông tinh xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật ngày 22/7/1981.

Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 20:48
Chùa Anh Linh (Anh Linh Tự)



Chùa Anh Linh thuộc xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, ngoài thành Hà Nội, và cách trung tâm thành phố về phía tây bắc. Đi theo đường Hoàng Hoa Thám đến chợ Bưởi, qua Nghĩa Đô, rẽ tay phải khoảng 3 km là đến di tích.

Tương truyền chùa Anh Linh được lập từ thời Trần, do công chúa Trần Khắc Hãn vâng lệnh vua cha là Trần Nhân Tông, chiêu mộ những người phiêu tán đến phía bắc kinh thành Thăng Long để khai hoang và lập ra xã Cổ Nhuế. Khi lập làng cũng đồng thời lập chùa để thờ Phật.

Chùa có mặt bằng hình chữ "đinh", tiền đường gồm 3 gian xây kiểu "tường hồi bít đốc". Hai bộ vì gian giữa làm kiểu "giá chiêng, con nhị", phân cốn nách là nhà tổ, một bên là nhà Mẫu. Chùa đã bị phá hủy trong kháng chiến chống Pháp, đã qua nhiều lần sửa chữa. Tượng Phật trong chùa đầy đủ, có phong cách nghệ thuật cuối thời Nguyễn. Chùa còn lưu giữ được tấm bia năm Cảnh Trị đời Lê (1664) và bia năm Tự Đức 12 (1864).

Chùa Anh Linh (cùng với đền Bà Chúa) đã được bộ Văn hóa và thông tin xếp hạng di tích lịch sử và nghệ thuật ngày 21/6/1993.


Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 20:49
Chùa Bảo Tháp


Đó là ngôi chùa cổ tên gọi là Bảo Tháp tự, dân gian gọi là chùa Bồ Tát, thuộc địa phận thôn Thượng Phúc, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội.

Làng Thượng Phúc thời trước thuộc tổng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, Hà Đông, có 5 xóm là Phú, Quý, Thọ, Khang, Ninh. Sau cách mạng tháng Tám 1945 hợp với Nhân Hòa thành xã Phúc Hòa. Năm 1949 lập đại xã Tả Hòa gồm Tả Thanh Oai, Phúc Hoà và Siêu Quần, sau đổi tên thành xã Đại Thanh, huyện Liên Nam, Hà Đông. Đến năm 1966, xã Đại Thanh đổi tên thành xã Tả Thanh Oai gồm 4 thôn: Tả Thanh Oai, Nhân Hòa, Thượng Phúc và Siêu Quần.

Làng Thượng Phúc nằm ở phía Tây Nam thành phố Hà Nội, vùng cuối huyện Thanh Trì, trải dài theo bờ con sông Nhuệ. Một bên là làng mạc trù phú, một bên là dòng sông chảy lững lờ. Bờ sông có nhiều tre mọc ken chắn sóng, tạo thành một vẻ đẹp êm đềm của thôn quê. Đây cũng là nơi mà các bậc hoàng thân, quốc thích, đế vương tìm đến tu hành rồi đắc đạo thành Phật.
Về Thượng Phúc ta gặp chùa Bảo Tháp, một ngôi chùa được khởi dựng từ cuối đời Lý do vị hoàng thân nhà Lý là hoàng thúc Lý Thầm (con vua Lý Cao Tông, chú của Lý Chiêu Hoàng) đến lập am và tu, chân thân của Ngài đã hóa thành địa mạch liên hoa, nay tại chùa còn bảo tháp và đôi câu đối:

Hộ quốc, xuất gia, bát đại thiên hoàng quang Lý diệp
Chân thân hóa Phật, thiên thu địa mạch dũng liên hoa.

(Giúp nước, tu hành dòng dõi tám đời nhà Lý
Chân thân thành Phật, ngàn năm địa mạch đài sen)

Đến năm 1328 (thời nhà Trần) có vị cao tăng Hồ Bà Lam đến tu. Ông là hoàng thân nhà Hồ, khi tu ở chùa ngoài việc tụng kinh niệm Phật còn đi thu nhận những trẻ mồ côi, cô nhi, quả phụ về chùa nuôi dưỡng. Nhân dân đương thời ca ngợi, tôn Ngài là Bồ Tát sống; có câu ca rằng:

Cô nhi quả phụ các nơi
Đến chùa đều được Tổ nuôi hàng ngày
Không cơm mặn thì cơm chay
Nhiều khi Tổ phải đi “vay” nuôi người

Ngài tu ở chùa cho đến khi Hoàng thái hậu Minh từ Hồ Thuận Nương (mẹ vua Trần Nghệ Tông) về lánh nạn Chiêm Thành đánh phá Thăng Long. Bà mến cảnh chùa, mộ đạo Phật, nên xin ở lại chùa đi tu. Nhà sư thấy bà tướng mạo cốt cách quả là người nhân hậu, có căn duyên nên đã trao truyền Y Bát rồi tự lên giàn hỏa, hóa Phật. Đó là ngày 14 tháng Tư. Sử cũ không chép về sự kiện này, nhưng tại Thượng Phúc, mỗi khi nhà chùa làm giỗ Tổ, các bà vãi lại hát chèo đò, kể hạnh:

Tổ ngồi niệm Phật ung dung
Mặc cho lửa cháy tứ tung bốn bề
Dân làng thương khóc thảm thê
Tổ bảo: “Đi về, đừng có khóc thương
Ta lên Cực Lạc Tây Phương
Tháng Tư - Mười Bốn ta thường về đây…”

Hiện nay tại khám thờ Tổ vẫn còn tượng pháp của Ngài và đôi câu đối:

Lục dương sơ bát thời, Thần giáng phi duy Tây hữu
Tứ nguyệt thập ngũ nhật, Phật thành khởi thị Nam vô

(Tháng sáu, ngày tám thần giáng, chẳng phải Tây Trúc mới có
Tháng tư, ngày rằm thành Phật, khởi tự nước Nam)

Tuân theo đạo hạnh của Bồ Tát Hồ Bà Lam, làng Thượng Phúc mỗi khi mở hội chùa, nhà dân đều nấu cháo để ngoài cửa mời khách qua đường. Ai đói cứ ăn tự nhiên không câu nệ. Dân gian còn tin rằng mỗi khi đến ngày giỗ Tổ bao giờ cũng có sự chuyển thời tiết:

Đang nồm mà dậy gió may
Cả làng đều biết hôm nay Tổ về

Sau ngày làm lễ, thường có cuồng phong thổi từ Tây Nam về Đông Bắc báo hiệu Tổ đã ra đi.

Như kể trên, vị Bồ Tát thứ ba đến tu tại chùa chính là bà Minh từ Hồ Thuận Nương. Bà người huyện Diễn Châu, Nghệ An, lấy vua Trần Minh Tông, sinh ra hai con đều làm vua (Trần Hiến Tông, Trần Nghệ Tông). Từ khi trông coi chùa Bảo Tháp, trong hơn ba năm, bà tu sửa chùa, lại xây thêm chùa Phúc Khê (còn gọi là chùa Dâu thờ Pháp Vũ) ở cuối làng. Đức độ của bà được dân mến phục, khi triều đình đón bà về kinh, làng lưu luyến tiễn đưa. Đúng lúc đó có đám mây ngũ sắc sà xuống bao phủ, khi mây tan, bà đã không còn ở cõi trần. Dân liền lập miếu thờ ngay trên nền đất nhà cũ, gọi là miếu Minh từ.

Khi Bình Định vương Lê Lợi khởi nghĩa, mang quân ra Bắc đánh quân Minh hành quân qua miếu Minh từ nghỉ lại, vua Lê được bà Minh từ báo mộng sẽ âm phù giúp vua “kháng Minh phục quốc”. Nhà vua tiến quân chém được Liễu Thăng, bức hàng Vương Thông, giải phóng Thăng Long, lập lại nền độc lập tự chủ. Nhớ ơn bà, vua Lê đã sắc phong đức Minh từ Hồ Thuận Nương là “Thượng Đẳng Phúc Thần Hưng Quốc”, sắc cho xây dựng đền miếu thờ làm Thành Hoàng làng.

Nay tại Minh từ và đình còn đôi câu đối ca ngợi:

Đế hậu vị tha, sơn thế cao phong tiêu vũ trụ
Thần uy Phật đức, độ nhân phúc lượng đẳng hà sa

(Lòng thương của Đế hậu cao như núi, sánh cùng vũ trụ
Uy đức Thần Phật cứu người, phúc nhiều như cát sông).

Như vậy là trên đất Thượng Phúc trong khoảng thời gian thịnh đạt của đạo Phật đã có 3 người tu đắc đạo, được nhân dân tôn thờ. Ngoài điển tích vừa kể, chùa Bảo Tháp là một ngôi chùa đẹp, mang nét nghệ thuật thế kỷ 17-18. Chùa có chùa Trong, chùa Ngoài, bố trí theo kiểu “nội công, ngoại quốc”. Nhà tiền đường, nhà thượng điện là nơi thờ Phật với nhiều tượng Phật còn nguyên nét xưa, các lớp sơn cổ truyền vẫn đẹp bền. Chùa Trong là nơi thờ Tổ Hồ Bà Lam. Sân trước tiền đường có hai tòa bảo tháp tượng trưng của Phật Tây Trúc và Phật nhà Lý.

Tại nơi đây còn giữ được nguyên bản 32 đạo sắc (chủ yếu của miếu Minh từ) ngọc phả, bia đá năm Quang Thái thứ 3 thời Trần Thuận Tông, bia “Mộc Bản” khắc năm Bảo Thái thứ hai, chuông đồng đúc thời Gia Long, khánh đồng đúc thời Thiệu Trị…

Miền quê Thượng Phúc với hai ngôi chùa, miếu Minh từ và các hiện vật cổ rất quý, cần chú ý giữ gìn, bảo vệ được nét đẹp của văn hóa dân tộc. Chùa Bảo Tháp đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng Di tích Lịch sử - Văn hóa từ năm 1990.


Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 20:50
Chùa Bà Ngô



Chùa Bà Ngô còn có tên gọi là chùa Ngọc Hồ, ở số nhà 128 phố Nguyễn Khuyến, phường Văn Miếu, Hà Nội. Theo cuốn Thăng Long cổ tích khảo thì chùa được xây dựng vào thời vua Lý Thần Tông (1127 - 1128), cũng theo đó vào thời Lê, có một người con gái đẹp lấy chồng là một nhà buôn người Hoa giàu có, bà đã bỏ tiền ra xây dựng lại ngôi chùa này to đẹp hơn chùa cũ, do đó mới có tên Bà Ngô (Ngô Khách). Chùa được sửa chữa và làm mới qua nhiều năm như 1863, 1864, 1865...Thời kỳ Bảo Đại, chùa được sửa chữa lớn nên đã có câu đối (tạm dịch): "Không nhớ tháng Bà Ngô sửa chữa, Chỉ biết năm Bảo Đại khánh thành". Về kiến trúc, tam quan của chùa là gác chuông 2 tầng, 8 mái với 8 góc đao cong. Một quả chuông đồng đúc năm Canh Dần Thành Thái 2 (1887) được treo ở giữa tam quan có dòng chữ Ngọc Hồ tự chung. Phật điện gồm tiền đường và hậu cung làm theo kiểu chữ Đinh. Hiên trong tiền đường dạng vòm cuốn mở rộng bằng một vì vỏ cua, là một kiểu kiến trúc ít có ở miền Bắc mà chỉ thấy ở Hội An, Huế với 2 đầu làm theo kiểu nhà kèn. Hậu cung 4 gian có nhiều của võng. Nhà Tổ, ngoài 2 ban thờ các sư tổ Bồ Đề đạt ma, các sư tổ của chùa đã viên tịch, còn có bàn thờ đức Văn Xương.

Điện Mẫu thờ các Mẫu, Ngọc Hoàng và vua Lê Thánh Tông ngồi trong ngai rồng. Hai bên thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo cùng hai gia tướng Yết Kiêu và Dã Tượng. Tượng trong chùa hiện có 35 pho được sắp xếp dọc Phật điện. Ngoài những pho như Tam thế, A di Đà tam tôn, Quan Âm thiên thủ thiên nhãn, Ngọc Hoàng thượng đế, Nam Tào, Bắc Đẩu, còn có 10 vị Diêm Vương và tượng Bà Ngô trang phục gần như tượng Mẫu. Tượng Tổ mang nhiều nét chân dung của sư nữ... Chùa Bà Ngô được công nhận là di tích lịch sử - văn hoá năm 1993.


Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 20:52
Chùa Báo Quốc (Sắc Tứ Báo Quốc Tự)


Dừng chân ở giếng Hàm Long để tận hưởng những giây phút mát mẻ nhờ những gàu nước trong trẻo được kéo lên ở độ sâu hơn 4m, du khách sẽ thanh thản khi bước lên những bậc cấp vào chùa Báo Quốc trên đồi Hàm Long.

Tọa lạc ở đường Báo Quốc, thuộc phường Phường Đúc, thành phố Huế, chùa Báo Quốc ban đầu có tên là Hàm Long Sơn Thiên Thọ Tự, do Thiền sư Giác Phong dựng vào cuối thế kỷ XVII, đời Chúa Nguyễn Phúc Tần. Đến năm 1747, Chúa Nguyễn Phúc Khoát ban cho chùa tấm biển "Sắc Tứ Báo Quốc Tự" có ghi dòng chữ : "Quốc Vương Từ Tế đạo nhân ngự đề".

Vào thời Nguyễn, chùa đã được trùng tu nhiều lần. Năm 1808, Hoàng Hậu Hiếu Khương cho tái thiết ngôi chùa, xây tam quan, đúc đại hồng chung, bảo khánh ? và đổi tên là chùa Thiên Thọ. Thiền sư Phổ Tịnh được cử làm trụ trì trong thời gian này.

Năm 1824, vua Minh Mạng ngự thăm chùa và sắc lấy tên "Báo Quốc Tự". Nhà vua đã tổ chức đại giới đàn tại chùa nhân lễ Vạn thọ tứ tuần đại khánh vào năm 1830.

Đến năm 1858, do chùa bị hư hỏng nhiều, vua Tự Đức và Hoàng Thái hậu Từ Dũ đã ban tiền trùng tu ngôi chánh điện và các công trình khác. Chùa đã được liên tục trùng tu, mở rộng đến cuối thế kỷ XIX.

Trong phong trào chấn hưng Phật giáo vào những năm 1930, chùa đã có nhiều đóng góp về mặt đào tạo tăng tài cho Phật giáo. Năm 1935, trường Sơ đẳng Phật giáo được mở tại chùa. Đến năm 1940, trường Cao đẳng Phật giáo cũng lại được mở tại đây. Chùa trở thành một trung tâm đào tạo Tăng Ni cho đến ngày nay.

Năm 1957, Giáo hội Tăng già Thừa Thiên và Ban Quản trị chùa đã tổ chức đại trùng tu ngôi chùa. Hòa thượng Thích Trí Thủ, vừa là Giám đốc Phật học đường, vừa là trụ trì chùa, đã có những đóng góp to lớn cho Phật giáo nói chung và cho việc tái thiết ngôi tổ đình trang nghiêm với những nét kiến trúc cổ kính nói riêng.

Chùa được xây dựng kiểu chữ "Khẩu" trong khuôn viên rộng khoảng 2 ha. Qua cổng tam quan cổ kính, đồ sộ, du khách đi qua một sân rộng, đến sân trong trồng nhiều cây tùng và các cây cảnh khác, có lan can bao bọc. Phía trái là khu tháp Tổ, cổ nhất là tháp Ngài Giác Phong, xây năm 1714, cao 3,30m. Ở tiền điện có 4 trụ đắp rồng nổi, ở thành bậc tam cấp cũng có đôi rồng, hai vách trang trí hoa văn bằng mảnh sành rất công phu.

Điện Phật được bài trí tôn nghiêm. Các tượng thờ đều đặt trong khung kính. Án thờ cao nhất ở gian giữa là tượng Phật Tam Thân và hai bộ kinh tạng Đại Thừa. Trước tượng Tam Thân là bảo tháp thờ xá-lợi Phật. Án thờ kế là tượng đức Phật Thích-ca, hai bên là tượng A-nan và Ca-diếp. Án ngoài cùng đặt một bộ kinh Pháp Hoa, hai bên là chuông, mõ. Án hai bên thờ đức Phật Dược Sư và Bồ-tát Quan Âm. Đây là cách thờ tự đã được sửa đổi từ khi Hòa thượng Phước Hậu được phong Tăng cang và trụ trì chùa Báo Quốc vào năm 1939. Còn trước phong trào Chấn hưng Phật giáo, chùa Báo Quốc cũng như đa số các chùa cổ ở Huế đều chịu ảnh hưởng thuyết "Tam giáo đồng nguyên".

Từ năm 1959, trong khuôn viên của chùa, trường tiểu học Hàm Long được thành lập do thầy Thiên Ân làm Hiệu trưởng. Đến năm học 1961 -1962, trường mở thêm bậc trung học do thầy Thân Trọng Hy làm Hiệu trưởng. Kế tiếp Hiệu trưởng là các thầy Trương Như Thung, Thích Phước Hải, Thích Thiện Hạnh, Thích Đức Thanh, Thích Hải Ấn. Ban đầu trường có tên là Trường trung tiểu học tư thục Hàm Long, sau đổi tên là Trường Bồ Đề Hàm Long, hoạt động đến năm 1975.

Ngày nay, tên trường Hàm Long chỉ là một kỷ niệm ngọt ngào như nước giếng Hàm Long, nhưng đóng góp của chùa Báo Quốc về mặt giáo dục thật đáng ghi nhận.


Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 20:55
Chùa Bích Động

http://i105.photobucket.com/albums/m202/s0ck22/chuabichdong.jpg

Bích Động - Tam Cốc là khu di tích thắng cảnh nổi tiếng thuộc địa phận tỉnh Ninh Bình, nằm trong rặng núi đá vôi Trường Yên, gần khu di tích Hoa Lư. Thăm Bích Động, ngồi trên con thuyền nhỏ chầm chậm di chuyển trên làn nước trong xanh in bóng mây núi, luồn lách dưới những mái đá phủ thạch nhũ óng ánh muôn màu, lướt qua những vách đá cao ngất còn ghi lại những vần thơ tức cảnh lưu đề của người xưa, chúng ta cảm thông sâu sắc với ý tưởng nghệ thuật của vua Trần Nhân Tông (1279 - 1293) trước vẻ đẹp tuyệt trần của thiên nhiên:

Tứ biên sơn nhiễu thủy bôi hoàn,
Sơn thủy như đồ cảnh tư nhiên.
(Bốn bề núi vây bọc, nước quanh co;
sông núi như tranh, phong cảnh đẹp tự nhiên).

Chùa Bích Động được xếp hàng thứ hai sau động chùa Hương Tích (Nam thiên đệ nhất động), được gọi là "Nam thiên đệ nhị động" (Động đẹp thứ nhì dưới trời Nam). Phía trước động là đồng lúa rộng mênh mông, có chi nhánh sông Hoàng Long chảy qua, uốn khúc quanh năm ngọn núi quây quần thành cụm như đóa hoa sen.

Trên núi cây cối xanh um, thấp thoáng ẩn hiện những vạt mái ngói rêu phong của ngôi chùa cổ. Chùa Bích Động được dựng với quy mô lớn từ đầu đời Lê. Trong chùa còn quả chuông lớn đúc từ thời vua Lê Thái Tổ (1428 - 1433), mộ tháp các vị hòa thượng có công xây dựng chùa. Thời Cảnh Hưng (Lê Hiển Tông 1740 - 1786) chùa được trùng tu mở rộng thêm, bao gồm Chùa Hạ, Chùa Trung, Chùa Thượng, trải ra trên ba tầng núi.

Vào Chùa Hạ phải qua một cầu đá ba nhịp. Chùa xây bằng đá tảng mài nhẵn trên khối nền kè đá cao tới gần 2m, trông khá bề thế. Cột thềm, lan can... chủ yếu đều được tạo dựng bằng chất liệu đá. Mái chồng lợp ngói mũi hài to bản; Hai bên là hai tòa giải vũ; phía trước là sân gạch rộng và phương đình.

Bên trái Chùa Hạ có lối lên Chùa Trung, đục đá thành bậc, mát rượi dưới tán lá cây lưu niên. Chùa Trung nằm kề cửa động, trên vách đá có khắc hai chữ Hán "Bích Động" cực lớn. Phía bên trái có tấm bia "Bích Sơn thiền tự bi" (Bia Chùa Bích Sơn) dựng thời Lê Dụ Tông (1705 - 1729); phía bên phải là tấm bia thời Cảnh Hưng, tạc ngay vào sườn núi.

Từ Chùa Trung, trèo 22 bậc đá nữa, qua Hang Tối có chuông cổ, tượng Phật bằng đồng, qua cổng đá cuốn, sẽ lên tới Chùa Thượng. Chùa dựng trên điểm cao chót vót gần đỉnh núi, đã đổ nát, chỉ còn lại mấy cột đá đứng chơ vơ giữa những cây đại cổ thụ. Đứng trên nền Chùa Thượng có thể ngắm nhìn toàn cảnh Bích Động, như bức tranh sơn thủy tuyệt đẹp, trải rộng ra trước mắt.

Gần Bích Động là động nước Tam Cốc, đền Thái Vị và khu Hành cung - Vũ Lâm đời Trần. Từ Bích Động đến Tam Cốc tuy gần nhưng chỉ có đường thủy. Dòng sông nhỏ, nước xanh thẫm, in bóng vách núi, hoa rừng, đến núi Kiểu thì thắt hẹp lại, luồn quanh ba cái hang (Tam Cốc): Hang Cả, Hang Hai, Hang Ba. Trong hang nhiều nhũ đá, lóng lánh đủ mầu sắc, lại nhễ pha lẫn kim nhũ, ngân nhũ dưới ánh đèn đuốc. Không khí trong hang mát lạnh. Vua Trần Thái Tông (1255 - 1258) đã ví nơi đây với chốn non tiên:

Thủy thức Bồng Lai nguyên bất viễn
Thung dung tuế nguyệt độn phàm trần

(Đến đây mới biết cảnh tiên chốn Bồng Lai đâu có xa;
ngày tháng thong dong xa lánh cõi phàm trần).

Nhà vua đã dựng một am nhỏ trên vạt đất cao gần Hang Cả làm nơi tu hành. Nơi đây vẫn còn di tích một khu đất rộng khoảng hơn một sào, cao hơn mặt ruộng tới trên một mét, nước lên cũng không bị ngập, được gọi là Vườn Am. Hang Cả trong Tam Cốc tuy đẹp nhưng khuất nẻo. Vua Trần Thái Tông lúc đó tuy đã khoác áo cà sa nhưng vốn là ông vua có tài thao lược, đã từng lãnh đạo quân dân thời Trần đạp tan cuộc xâm lược lần thứ nhất của quân Nguyên Mông. Nhà vua đã cho dựng am Thái Vị ở đây, chiêu mộ dân lưu tán đến để khai hoang lập ấp, mở mang đường giao thông, tôn tạo những nơi xung yếu, chuẩn bị sẵn sàng với tình thế khẩn trương, một khi chiến tranh chống xâm lược lại nổ ra. Nhiều cuộc họp quan trọng của triều đình, dưới sự chủ trì của Trần Thái Tông (với cương vị là Thái thượng hoàng) đã được tổ chức ở chính nơi đây. Câu đối ở đền Thái Vị (dựng sau này trên đền Thái Vị) cho ta biết nơi đây đã từng chứng kiến cảnh văn võ bá quan, áo mũ uy nghi, tới lui tấp nập. Cũng như ở phủ Thiên Trường (nơi phát tích của nhà Trần), nơi đây cũng đã từng có nhiều phủ đệ của các vương hầu. Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Nguyên Mông lần thứ hai 1285), khu Hành Cung - Vũ Lâm trở thành căn cứ địa vững chắc của quân dân đời Trần.

Trải ra trên một địa bàn khá rộng, khu di tích Hành Cung - Vũ Lâm bao gồm nhiều xã thuộc huyện Hoa Lễ (tỉnh Ninh Bình) ngày nay, với nhiều địa danh gợi nhớ lịch sử như: Cửa Quan, Hành Cung, Cống Rồng, Tuân Cáo, Vườn Kho, v.v... Di tích am Thái Vị hiện còn đến nay là một khu đất rộng khoảng sáu sào, xung quanh có lũy đất, ở giữa là ngôi đền thờ Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Hiển Từ Hoàng Thái hậu, có tượng đồng đặt trong hậu cung.


Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 20:58
Chùa Bồ Đề


Chùa Bồ Đề thuộc xã Nhân Chính, huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội, cách trung tâm thành phố vào khoảng 7 km về phía Tây.

Chùa Bồ Đề là một ngôi chùa có quy mô kiến trúc vừa phải, đã qua nhiều lần sữa chữa. Chùa có tam quan đẹp, tòa tam bảo và nhà tiền đường, thượng điện xây theo kiểu bít đốc, Chùa có đầy đủ hệ thống tượng Phật. Chùa có 1 quả chuông cũ và 1 chuông đúc năm 1814.

Tương truyền khi nghĩa quân Lam Sơn bao vây thành phố Đông Quan (Hà Nội) có đóng bản doanh tại chùa và đình Cự Chính.

Chùa Bồ Đề (cùng đình Cự Chính và gò Đống Thây) đã được Bộ Văn hóa và thông tin xếp hạn di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật ngày 28/9/1990.



Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 20:59
Chùa Bửu Long


Chùa Bửu Phong là một danh lam thắng cảnh không chỉ của tỉnh Đồng Nai mà còn của cả miền Nam. Chùa tọa lạc trên núi Bửu Long thuộc thôn Bình Điện, xã Tân Bửu, cách thành phố Biên Hòa 4km. Do địa danh ấy nên còn có tên là chùa Bình Điện.

Chùa được Hòa thượng Bửu Phong dựng vào khoảng thế kỷ XVII, lúc đầu chỉ là một am tranh nhỏ thờ Phật. Sách Đại Nam nhất thống chí viết rằng: "Núi Bửu Phong ở phía Nam huyện Phước Chánh 13 dặm, phía Tây trông xuống sông lớn, phía sau làm hộ vệ cho núi Long Ẩn. Trên núi có chùa Bửu Phong khói mây man mác, cây cối um tùm là thắng cảnh thứ nhất trên tỉnh hạt. Xưa có nhà sư là Hòa thượng Bửu Phong lập chùa trên núi, cho nên thường gọi tên là núi Bửu Phong".

Vào cuối thế kỷ XVIII, số người Hoa đến vùng đất này sinh sống ngày càng đông, trong đó có những người mộ đạo Phật đã xây cất lại ngôi chùa bằng gạch ngói. Họ đã mời Thiền sư Thành Trí, pháp danh Pháp Thông - Thiện Hỉ, thuộc Thiền phái Tào Động thế hệ thứ 36, đến trụ trì và tôn làm vị Tổ đầu tiên của chùa. Thiền sư Pháp Thông cũng là người có công khai sơn chùa Long Ẩn dựng trên núi Long Ẩn phía trước núi Bửu Long. Ngày nay tại chùa này còn tháp của Tổ sư Pháp Thông xây theo hình khối lục giác.

Theo tài liệu của ông Nguyễn Hiền Đức in trong sách Thiền sư Việt Nam của Hòa thượng Thích Thanh Từ, thì Hòa thượng Pháp Thông không có đệ tử thay thế, nên Thiền sư Viên Quang là người Minh Hương thuộc Thiền phái Lâm Tế đời thứ 36 được cử về trụ trì chùa Bửu Phong. Năm 1760, Thiền sư Viên Quang đã trùng tu chùa này.

Đến năm Ký Sửu (1829) chùa được xây cất lại và mở rộng do Tham tướng Nguyễn Văn Hiệp và Hương bảo Nguyễn Văn Tâm pháp nguyện hiến cúng. Ngoài ra chùa còn được sửa chữa nhiều lần vào cuối thế kỷ XIX và những năm gần đây.

Đến thăm chùa Bửu Phong, sau khi leo lên 100 bậc cấp, du khách có ấn tượng sâu sắc khi đứng trước tòa kiến trúc này. Mặt tiền có ba cửa vòng cung lớn, hai bên lại có bốn ô cửa vòng cung nhỏ.

Bên trên mặt tiền trang trí các hoa văn đắp nổi bằng mảnh sành, mảnh sứ rất công phu và độc đáo. Trước chùa có tượng Bồ-tát Quan Thế Âm do Yết-ma Thiện Giáo dựng vào năm 1963. Hai câu đối ở hai cột chính nói lên ý nghĩa của tên chùa:

Bửu nhạc phối đề y Thứu Lĩnh
Phong sơn qún mỹ tự Kỳ Viên

Nghĩa là:

Bửu nhạc dịu dàng như Thứu Lĩnh
Phong sơn đẹp đẽ tựa Ký Viên

(Giản Chi dịch)

Bên trong chánh điện có tượng Phật Di-đà cổ. Điện Phật được trang hoàng rực rỡ. Xá-lợi Phật được tôn trí ở ngôi bảo tháp sau chánh điện.
Hiện nay vùng núi Bửu Long đã trở thành một quần thể di tích thắng cảnh du lịch của tỉnh Đồng Nai. Du khách đến Đồng Nai không thể không viếng chùa Bủu Phong nằm trong toàn cảnh núi Bửu Long hay núi Bình Điện và sông Trường Giang, tức sông Đồng Nai:

Phía sau Bình Điện ngăn phong lãnh
Mé trước Trường Giang nước chảy quanh

Chung quanh khu vực này còn có các ngôi tháp cổ và những pho tượng lộ thiên khá lớn như tượng đức Phật đản sinh, tượng đức Phật thiền định, tượng đức Phật nhập niết bàn


Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 21:01
Chùa Bút Tháp



Chùa Bút Tháp được xây dựng vào thế kỷ 17, nằm trên địa bàn xã Định Tô, huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh. Từ thủ đô Hà Nội theo đường 5 về hướng Đông bắc qua chùa Dâu và bờ đê sông Cầu khoảng 25 km là tới chùa Bút Tháp. Bút Tháp có tên nguyên thuỷ ghi trên tấm bia dựng vào năm Phúc Thái thứ 4 (1646) là "Ninh Phúc Thọ". Ngoài ra, dân trong vùng còn gọi chùa là Nhạn Tháp.

Phật điện của chùa gần như nguyên sơ của chùa cổ Việt Nam, nằm trên một trục dài hơn 100m với 10 toà nhà. Mặt trước chùa là Tam quan và gác chuông; bên phải có tháp Bảo Nghiêm. Chùa chính với 3 dãy nhà Tiền đường - Thiên hương - Thượng điện tạo thành chữ "công". Cách bố trí như vậy làm nổi bật điện thờ bên trong với các pho tượng. Hơn 70 pho tượng gỗ ở đây được tạc trong tư thế quỳ, đứng, ngồi với nét mặt thành kính trông rất sinh động như pho Kim Đồng - Ngọc Nữ, Thị Giả,... còn tượng La Hán lại thể hiện cảm xúc nội tâm, mang nặng ý tưởng Phật giáo. Trong bộ tam thể tượng Tuyết Sơn nổi lên tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay.

Phủ thờ nằm sau Phật diện là ngôi nhà 5 gian có hai pho tượng đáng chú ý. Hai pho tượng này là chân dung hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (nhà Lê) đầu đội vương miện nhưng khoác áo tu hành, và công chúa Ngọc Duyên. Cả hai pho tượng đều ngồi theo dáng toạ thiền.

Nét đặc trưng nhất ở chùa Bút Tháp là tượng Phật Quan âm nghìn mắt nghìn tay cao 3,7 m , ngang 2,1m, dày 1,15m. Đây được coi là một kiệt tác độc nhất vô nhị về tượng Phật và nghệ thuật tạc tượng - nghệ thuật làm nổi bật triết lý nhà Phật bằng thứ ngôn ngữ tạo hình hàm súc. Phật bà ngồi trên toà sen hồng qua bệ tượng hình vuông được trang trí bằng những nét chạm khắc cổ với dáng hành đạo, thư thái, đôi mắt quảng đại như bao quát cả không gian vũ trụ. Ở đây ta bắt gặp nhiều mô tip quen thuộc được trang trí ở đỉnh chùa Việt Nam như hoa lá, cây cảnh cùng các con vật - trong đó có rồng - ngư với viên ngọc; lân với quả cầu; quạt hai vòng tròn, sóng nước, hoa sen,... Tượng Quan âm hai tay chắp trước ngực, hai tay để trên đùi với những ngón tay đan chéo biểu tượng cho dáng hành đạo và nhập định; các chùm tay để trần từ sườn, vai, lưng, trên người; những tay được xếp vòng tròn từ lớn đến nhỏ hướng vào tâm (ngay sau gáy Phật) trong lòng mỗi bàn tay lại hiện lên một con mắt. Nhìn tổng thể tượng Quan âm nghìn mắt nghìn tay như những vòng hào quang toả ra từ tâm điểm.

Ngoài tượng Phật Quan Âm, tháp Bảo Nghiêm cũng là một kiến trúc quý. Tháp Bảo Nghiêm 5 tầng, cao 13,5 m và một bút mai giống như cây bút khổng lồ vươn thẳng tới trời cao thanh vắng. Tháp được xây dựng bằng đá xanh nhẵn bóng với 8 mặt đều đặn; 5 góc của 5 tầng có 5 quả chuông nhỏ. Lòng tháp có một khoang tròn đường kính 2,29m. Tháp thể hiện tài ghép đá và nghệ thuật điêu khắc tuyệt vời của người thợ Việt Nam xưa.

Đời Tự Đức, năm 1876, khi vua qua đây thấy có một cây tháp hình dáng khổng lồ liền gọi tên là Bút Tháp, nhưng trên đỉnh vẫn ghi là tháp Bảo Nghiêm. Tháp thờ sư tổ Chuyết Chuyết với tước vị vua phong "Minh Việt Phổ Giác thiền sư".


Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 21:03
Chùa Bút Tháp

http://i105.photobucket.com/albums/m202/s0ck22/chuabutthap2.jpg
Chùa Bút Tháp nằm ở thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Chùa có nhiều tháp, nổi tiếng nhất là tháp Báo Nghiêm cao 13m bằng đá, tám mặt và còn được gọi là tháp bút nên chùa có tên là Bút Tháp. Chùa có tên chữ Ninh Phúc Tự.

Là một ngôi chùa được tu tạo vào thời nở rộ của những kiến trúc "trăm gian", chùa Bút Tháp có quy mô bề thế so với những ngôi chùa cùng thời.

Chùa được xây dựng vào thế kỷ 17 thời Hậu Lê theo kiểu "nội công ngoại quốc", với bố cục gọn gàng và rất sinh động. Các đơn nguyên kiến trúc được bố trí cân xứng, chặt chẽ ở khu vực trung tâm, nhưng lại rất tự nhiên ở khu vực xung quanh. Ngoài cùng là tam quan, tiếp đó là gác chuông hai tầng tám mái, kế đó là chùa Hộ, nhà Thượng điện, Cầu Đá, toà Tích Thiện Am, Trung Đường, Phủ Thờ, nhà Hậu Đường và kết thúc là hàng tháp đá sau nhà Hậu Đường, trong đó có tháp đá Tôn Đức năm tầng, cao 10m là nơi đặt xá lị Thiền sư Minh Hạnh, vị tổ thứ hai của chùa. Bên trái chùa có nhà thờ tổ Chuyết Chuyết và ngôi tháp đá tám mặt, năm tầng cao 13m là nơi táng xá lị của Thiền sư Chuyết Chuyết.

Chùa Bút Tháp có kiến trúc hoà nhập với môi trường thiên nhiên bao quanh. Người xưa đã biết kết hợp cảnh quan của cả vùng để tạo nên sự hoà nhập đó. Với cảnh quan hiện có, chúng ta thấy bên trái chùa có dòng sông Đuống, trước cửa chùa là đồng ruộng mênh mông, xa xa ở phía trái và phía phải chùa có núi Tam Đảo, núi Phật Tích bao bọc. Chúng ta có cảm giác rằng người xây dựng chùa như muốn kiến trúc này hoà nhập vào không gian mênh mông đó. Và đến lượt mình, kiến trúc lại tô điểm cho không gian thêm đẹp. Chùa không vươn lên theo chiều cao mà các đơn nguyên kiến trúc đều được trải dài theo mặt bằng. Bút Tháp là một ngôi chùa lớn, bề thế của nó dường như bị giản thể, điều đó hoàn toàn dễ hiểu vì đứng trước sự mênh mông của đồng ruộng thì quy mô to lớn của nó không còn. Cái đọng lại là ý nghĩa tâm linh của ngôi chùa: không có gì cao hơn Phật pháp, không có gì cao hơn lòng sùng kính của chúng sinh trước Đức Phật. Mặt khác, do hoàn cảnh địa lý của một xứ sở nhiều nắng, lắm mưa, nên người Việt buộc phải có kiến trúc với những bộ mái lớn. ở chùa Bút Tháp cũng vậy, nhìn từ ngoài vào, chúng ta sẽ thấy ngay chiều rộng của mái chiếm gần 2/3 chiều cao. Hiện tượng đó càng như kéo kiến trúc xuống sát mặt đất hơn, kết quả là kiến trúc trở nên đầm ấm và con người đến với di tích Bút Tháp đã không cảm thấy thân phận của mình bị chìm đi mà tâm tư vẫn dồn vào những ý niệm về đạo pháp. Điều đó có ý nghĩa là, sinh hoạt tâm linh không vì sự to lớn của ngôi chùa mà bị ảnh hưởng. Chính vì thế mà không gian của chùa Bút Tháp như vừa đóng, vừa mở, dù có tường vây bao bọc mà ranh giới giữa chùa với bên ngoài ít phân biệt trong tâm thức.

Mặc dù chùa Bút Tháp có khá nhiều đơn nguyên kiến trúc, song nó không gây cho chúng ta một cảm giác nhàm chán và tẻ nhạt, bởi lẽ những người xây dựng chùa đã xử lý rất tốt về tỷ lệ, độ giãn cách, độ cao của tầng nền và nhịp điệu cao thấp của các công trình. Tầng nền cao nhất ở chùa là toà Thượng Điện với sự tăng dần theo chiều cao, bắt đầu từ toà Tiên Đường đến nhà Thiệu Hương, rồi độ cao bị đột ngột hạ xuống ở hồ nước nhỏ có cây cầu "vồng" bằng đá bắc qua. Từ toà Tích Thiện Am, độ cao của nền một lần nữa lại được nâng lên qua Trung Đường, và cao nhất là Phủ Thờ rồi lại hạ xuống ở Hậu Đường. Rõ ràng, nền của các công trình kiến trúc ở Bút Tháp đã diễn ra theo một nhịp điệu nhất định và đều hàm chứa bên trong nó một ý nghĩa tư tưởng. Độ cao thấp của các công trình kiến trúc cũng diễn tả theo một nhịp điệu tương tự. Gác chuông hai tầng và toà Tích Thiện Am ba tầng mái là những điểm cao nổi trội của tổng thể khu chùa, tạo nên một thế lô xô vui mắt cho mái của các đơn nguyên kiến trúc, đồng thời, nó gây một cảm giác như ngôi chùa đang trôi bồng bềnh trong cõi Phật. Hơn nữa toà Tích Thiện Am không chỉ là một toà nhà độc đáo về phương diện đạo pháp, nó còn có ý nghĩa to lớn về mặt kiến trúc. Lần đầu tiên ở nước ta thấy xuất hiện loại kiến trúc này như tiền thân của chùa Tây Phương và chùa Kim Liên vào thế kỷ thứ 18.

Chùa Bút Tháp có một hệ thống tượng tròn rất đặc sắc so với những ngôi chùa khác. Có ba loại tượng chính, đó là tượng Phật giáo, tượng chân dung gồm tượng các vị tổ chùa và tượng hậu chùa, tượng thờ Mẫu.

Tượng Phật giáo ở đây có nhiều loại, như tượng các vị Bồ Tát, tượng Hộ Pháp, tượng các vị La Hán... trong đó có những pho rất quý, nổi tiếng cả nước và được giới nghiên cứu xem là khuôn mẫu của tượng Phật giáo Việt Nam, như tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, tượng Tuyết Sơn, bộ tượng Tam thế Phật...

Trang trí ở chùa Bút Tháp hết sức nổi bật trên hai loại chất liệu là gỗ và đá được thể hiện ở trên các chi tiết kiến trúc cũng như trên đồ thờ.

Đến chùa Bút Tháp, người ta thường tập trung chú ý vào hàng lan can bao quanh toà Thượng Điện, chiếc cầu đá ong vồng lên, tháp đá Báo Nghiêm, ngọn tháp quay và một số nhang án bằng gỗ.

Với những giá trị đặc sắc và nổi bật, chùa Bút Tháp xứng đáng là một di tích Phật giáo độc đáo nhất của đồng bằng Bắc Bộ.



Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 21:05
Những chùa ở Hà Nội có tên Bà



Chùa Bà Ngô nay ở số nhà 128, phố Nguyễn Khuyến, quận Đống Đa. Tên chữ Hán là Ngọc Hồ tự. Tương truyền, chùa do một bà họ Ngô xây dựng nên, nhưng cũng có tích kể, người xây chùa là một bà có chồng người nước Ngô (tức Trung Quốc). Hiện nay chưa rõ tích nào đúng.

Chùa Bà Nành, nay mang biển số nhà 154 phố Nguyễn Khuyến, quận Đống Đa. Tương truyền là nhà của một bà bán bánh, bán chè đậu nành phúc hậu, hay giúp người nghèo. Khi về già, bà đã bỏ tất cả tiền nong tích góp ra xây ngay trên đất nhà mình một ngôi chùa rồi xuất gia tu hành. Sau khi bà mất, dân làng đắp tượng bà và đặt trên tấm đá mà bà vẫn dùng bán hàng. Tượng và bàn đá đó hiện vẫn còn. Dân gọi đó là chùa Bà Nành. Tên chữ là Tiên Phúc tự.

Chùa Bà Đá, ở số 3 phố Nhà Thờ, quận Hoàn Kiếm. Lịch sử chùa được kể như sau: đời Lê Thánh Tông (1460-1497) ở làng Báo Thiên (tức khu vực Nhà thờ Lớn, Hà Nội ngày nay) có một người đào được một pho tượng phật bà bằng đá, bèn dựng một ngôi chùa nhỏ để thờ ngay tại nơi đào được. Sau dân làng thấy linh thiêng mới góp công, góp của xây thành chùa lớn, đón sư về trụ trì. Vì vậy chùa có tên là chùa Bà Đá, tên chữ là Linh Quang tự. Pho tượng đá đã bị mất trong thời Pháp thuộc.

Chùa Bà Già ở làng Phú Gia, phường Phú Thượng, quận Tây Hồ. Chùa có một lai lịch khá cổ. Nguyên Phú Gia, tên nôm là làng Gạ, là nơi các vua đời Trần định cư. Một bộ phận người Chăm được đưa từ phía nam ra, đã dựng một ngôi chùa mà sử Toàn thư đã phiên âm là Đa-da-li. Thái úy Trần Nhật Duật (1254-1330) thường tới đây đàm đạo về Phật giáo với vị sư người Chăm trụ trì. Có thể cái tên Bà Già là từ Đa-da-li mà ra. Nay trong chùa còn bức hoành phi cổ khắc ba chữ Bà Già tự.

Chùa Bà Đanh cũng là một ngôi chùa dành cho người Chăm. Tây Hồ chí ghi là vua Lê Thánh Tông đã cho làm một thiền viện (vừa là chùa vừa là trung tâm nghiên cứu) ở gò Phượng Chủy bên bờ Nam Hồ Tây cho người Chăm hành đạo, gọi là Thiền viện Châu Lâm, Gò Phượng Chủy nay là khu vực trường Chu Văn An, quận Ba Đình. Nhưng dân thì gọi là chùa Bà Đanh. Nay chùa thuộc số nhà 199B phố Thụy Khê, chung với chùa Châu Lâm.

Chùa Bà Móc ở phố Nguyễn Thiếp, số nhà 27. Không rõ lai lịch, chùa cũng không còn cổ vật, trừ tấm bia mang niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 4 (1796) do Nguyễn Cát Địch làm đốc học ở Quốc Tử Giám soạn nói về việc tu sửa nhà. Như vậy, chùa cũng đã có trước đó ít ra là bảy tám chục năm...



Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 21:06
Chùa Chúc Thánh


Từ lâu Hội An đã được biết đến như một trong những đô thị cổ hiếm hoi trên thế giới còn giữ được nguyên vẹn những đường nét kiến trúc của nó. Theo bản đồ thời Hồng Đức (thế kỷ XV) thị xã này vốn tên là Đại Chiêm hải - một cảng biển của Vương quốc Chămpa. Về sau nó đã được ghi nhận trên tấm bản đồ Đại Việt của Giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Đác Lộ) được công bố năm 1653, như một thị trấn ven biển của người Việt có tên gọi là Hải Phố. Do cách phát âm của người phương Tây, Hải Phố đã biến thành Faifo.

Đô thị cổ Hội An nằm trên tả ngạn sông Thu Bồn cách thành phố Đà Nẵng 25km về phía Đông Nam, cách biển Đông chỉ 5km. Từ Đà Nẵng, ngoài đường số 1A, du khách có thể đến Hội An bằng con đường nhỏ chạy ven theo bờ biển qua khu thắng cảnh Ngũ Hành Sơn và xã Điện Ngọc.

Chúc Thánh Tự là một trong hai mươi ngôi chùa và hội quán cổ của thị xã Hội An. Nằm trên địa phận phường Cẩm Phô, chùa này đã được công nhận là một di tích lịch sử văn hóa quốc gia từ ngày 19-11-1991.

Theo sách Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang, chùa Chúc Thánh đã được Thiền sư Minh Hải - Pháp Bảo khai sơn vào thế kỷ XVII. Vị Thiền sư này người tỉnh Phước Kiến, sang nước ta vào thời Chúa Nguyễn Phúc Trân (1687 - 1691). Ông đã tự giới đàn tại chùa Linh Mụ, sau đó vào Hội An dựng chùa Chúc Thánh. Dần dần ngôi chùa này trở nên một ngôi tổ đình lớn ở miền Trung và miền Nam.

Thiền sư Minh Hải có hai vị đệ tử nổi tiếng là Chánh Hiền và An Triêm. Ông có để lại một bài kệ truyền pháp như sau :

Minh thiệt pháp toàn chương
Ấn chân như thị đồng
Chúc Thánh thọ thiên cửu
Kỳ Quốc tộ địa trường
Đắc chính luật vi tuyên
Tổ đạo hạnh giải thông
Giác hoa bồ đề thô
Sung mãn nhân thiên trung

Nghĩa là :

Hiểu thấu pháp chân thực
Ấn chân như hiện tiền
Cầu Thánh quân tuổi thô
Chúc đất nước vững bền
Giới luật nêu trước tiên
Giải và Hạnh nối liền
Hoa nở cây giác ngộ
Hương thơm lừng nhân thiên

(Nguyễn Lang dịch)

Chùa Chúc Thánh đã từng được trùng tu vào những năm 1845, 1849, 1892, 1894,... Đằng sau cổng tam quan là một kiến trúc giản dị, khiêm tốn, mái lợp ngói âm dương, trên đỉnh có đôi rồng chầu mặt nguyệt. Một trong những bảo vật được lưu giữ bên trong chùa là bộ tượng Thập bát La-hán bằng đất nung đặt trên tòa sen, mỗi pho tượng cao 0,45m, bề ngang gối 0,28m, đế 0,16m.

Trong khuôn viên chùa có tháp Tổ Minh Hải - Pháp Bảo. Chùa hiện nay do Hòa thượng Thích Trí Nhãn trụ trì.



Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 21:08
Chùa Cổ Lâm

http://i105.photobucket.com/albums/m202/s0ck22/chuacolam.jpg

Sáng ngày 17-5-1916, chí sĩ yêu nước Trần Cao Vân, một trong những yếu nhân của tổ chức Việt Nam Quang phục hội, đã hy sinh lẫm liệt tại bãi chém An Hòa (Thừa Thiên - Huế), sau khi cuộc Khởi nghĩa Duy Tân ngày 4-5-1916 không may bị bại lộ và bị kẻ thù dìm trong máu.

Cuộc đời hoạt động cứu nước 30 năm của ông mãi mãi được khắc ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một tấm gương trung liệt, cống hiến trọn đời vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Dấu ấn đầu tiên trong cuộc đời hoạt động của Chí sĩ Trần Cao Vân là Cổ Lâm tự (chùa Cổ Lâm).

Cổ Lâm là một trong những ngôi chùa cổ ở Quảng Nam, tọa lạc tại xã Đại Đồng, huyện Đại Lộc. Chùa được xây dựng vào năm 1687.

Mùa đông năm Ất Dậu (1885), trên bước đường học hỏi để mưu nghiệp và thực hiện nghĩa vụ của người trai trước vận mệnh của đất nước đang lâm nguy, Trần Cao Vân dừng chân đầu tiên ở chùa Cổ Lâm. Ông được pháp sư trụ trì tiếp đón và sắm cho vai tu sĩ của chùa.

Thế là, ngôi chùa vốn tĩnh mịch xưa nay bỗng trở nên tấp nập khách thập phương. Họ đến không chỉ để nhờ vị tăng trẻ tuổi xem quẻ, mà còn rước thầy về nhà nhắm hướng, xem phương, giúp lập nên cơ nghiệp. Thực ra, đây chỉ là hoạt động che mắt địch của Trần Cao Vân và các đồng chí. Nhờ thế mà Trần Cao Vân có dịp tiếp xúc với các thân hào, nhân sĩ, bô lão, gieo mầm yêu nước cho các tầng lớp nhân dân địa phương.

Sau sự kiện Nghĩa hội Quảng Nam bị thất bại (1887), chùa Cổ Lâm bị bọn tay sai chính quyền bảo hộ dò xét. Trần Cao Vân rời chùa Cổ Lâm, khăn gói ra kinh đô Huế để dự khoa thi Hương năm Mậu Tý - 1888. (Lần trước, 1882, ông ra kinh dự thi, nhưng giữa đường bị cảm hàn, đành phải bỏ dở chuyện khoa cử). Lần thi này, Trần Cao Vân vào đến trường ba, song bài thi của ông nói lên nỗi lòng lương dân đang sống lao khổ, nên bị đánh trượt.

Trở lại chùa Cổ Lâm, Trần Cao Vân sống ẩn dật, để tâm suy nghĩ nhiều về con đường cứu nước, cứu dân. Ông chủ trương dùng trí tuệ để giải thoát dân tộc . Tạm thời gác lại sự giao tiếp, trong bốn năm 1888 - 1891, Trần Cao Vân chuyên chú nghiên cứu Kinh Dịch, hoàn thành bản thảo "Trung Thiên Dịch". "Trung Thiên Dịch" của Trần Cao Vân xây dựng trên căn bản chữ "Trung". Chữ "Trung" đề cao vai trò con người giữa trời - đất. Rất tiếc sách này đã thất truyền do Nam triều tịch thu tiêu hủy. Tuy nhiên, bài thơ Luận về thiên - địa - nhân" (Trời - Đất - Người), mà người đời sưu tầm, phần nào thể hiện triết lý của Trần CaoVân:

Ta cùng trời đất ba ngôi sách,
Trời đất in ra một chữ đồng.
Đất nứt ta ra trời chuyển động,
Ta thay trời mở đất mênh mông.

Tháng 7-1891, chùa Cổ Lâm bị địch ra lệnh khám xét. Các sư ở chùa bị thanh lọc. Trần Cao Vân được gia đình Võ Thạch (một người đồng chí quê Đại Đồng, Đại Lộc), giúp chuyển nơi ở sang làng Đại Giang, mở trường dạy học. Mùa thu năm 1892, Trần Cao Vân cùng vợ và các cộng sự lên đường vào Bình Định chọn địa bàn lập căn cứ, tích trữ lương thảo, xây dựng lực lượng, đề ra cương lĩnh, đoàn kết các dân tộc, mưu đồ khởi nghĩa giành độc lập, tự do cho dân, cho nước. Rời đất Quảng, Trần Cao Vân thổ lộ nỗi niềm vương vấn qua bài thơ "Vịnh Chí".

Nợ nước đã toan tròn nghĩa vụ
Tình nhà đành gác nỗi tư lương
Nam mô nguyện trả xong rồi nợ
Mối thánh đem về cõi Hạ, Thương

Chùa Cổ Lâm giờ đây nằm trong quần thể khu du lịch Suối Mơ (Đại Đồng, Đại Lộc). Từ thành phố Đà Nẵng, chưa đầy một giờ xe máy, bạn sẽ có mặt ở khu du lịch sinh thái này. Để rồi, sau những giờ phút thưởng ngoạn cảnh trí thiên nhiên thơ mộng mà hùng vĩ, bạn có thể làm cuộc hành hương về với chùa Cổ Lâm - một di tích lịch sử gắn với hoạt động cứu nước của chí sĩ Trần Cao Vân.



Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 21:09
Chùa Cổ Lễ

http://i105.photobucket.com/albums/m202/s0ck22/chuacole.jpg

Từ Hà Nội đi về hướng Phủ Lý chừng 110km là đến chùa Cổ Lễ nằm cạnh đường quốc lộ 21B. Chùa Cổ Lễ hiệu Thần Quang Tự là một công trình văn hóa kiến trúc Phật giáo thuộc thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Chùa được xây dựng từ thế kỷ 11 thời Lý Thần Tôn, thờ Phật và đức thánh tổ Nguyễn Minh Không. Ngôi chùa hiện nay do Hòa thượng Quang Tuyên tạod dựng vào năm 1920 và được trùng tu nhiều lần.

Du khách đến tham quan chùa Cổ Lễ thích phong cách kiến trúc chùa độc đáo. Trước chùa có tháp Cửu Phẩm Liên Hoa 12 tầng (đế tháp đặt trên lưng một con rùa lớn đầu quay vào chùa), cao 32m, có 8 mặt, dựng năm 1926. Chính điện được thiết kế theo kiến trúc hài hòa giữa phong cách truyền thống và hiện đại. Chùa Cổ Lễ hiện còn lưu giữ được một số cổ vật quý giá như tượng đức Phật bằng bạch đàn cao 4m, sơn son thếp vàng, trống đồng thời Lý, và đặc biệt là chùa có một quả đại hồng chung cao 3,2m, đường kính 2,2m, thành dày 8cm, nặng 9 tấn, đúc vào năm 1936. Miệng chuông có họa tiết hình cánh sen, thân có họa tiết hoa lá, sông nước và một số văn tự bằng chữ Nho. Quả chuông này chưa được đánh một lần nào nhưng dân gian truyền miệng khi đánh lên thì cả tỉnh và một vài vùng lân cận sẽ nghe được tiếng ngân của đại hồng chung này.

Trước chính điện là một phong cảnh non nước hữu tình. Dưới những tán cây rợp bóng mát chen lẫn nhiều quả núi nhân tạo, đường dẫn vào chính điện là hai chiếc cầu cong xuyên trong lòng hai quả núi đá lớn. Hơi chếch về bên phải là cây tháp Cửu Phẩm Liên Hoa với 8 mặt, 12 tầng, cao 32 m gồm 98 bậc thang xoắn ốc, tương truyền rằng tín đồ phật tử, khách hành hương lên đến bậc thứ 98 này, sờ tay vào bức tượng trên đỉnh tháp thì cuộc sống sẽ luôn gặp may mắn.

Chùa Cổ Lễ được xếp hạng là "Di tích lịch sử văn hóa" là "Danh lam thắng cảnh quốc gia". Du khách có thể tham quan chùa quanh năm nhưng nên về đây vào dịp khánh hội (lễ tưởng niệm người xây dựng chùa) từ 13 đến 16 tháng 9 âm lịch hàng năm, để có dịp xem những nghi thức văn hóa cổ truyền giàu tính nhân văn như lễ rước Phật, đấu vật, đánh cờ người..., đặc biệt là được xem cuộc thi bơi chải truyền thống trên dòng sông uốn lượn quanh chùa.

Đến với chùa Cổ Lễ, du khách không chỉ được ngắm cảnh chùa cổ kính, thiên nhiên bao la hòa cùng nhịp sống con người mà còn được thưởng thức nhiều đặc sản quê hương như bánh gai Nam Định, nem Hải Hậu, bánh trứng Xuân Thủy... những thứ có thể làm quà cho người thân và bạn bè.


Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 21:16
Chùa Cổ Lễ (Thần Quang Tự)




Cách thành phố Nam Định 15km về hướng Đông, thị trấn Cổ Lễ được nối liền với trung tâm tỉnh lỵ Nam Hà bằng con đường số 21. Cổ Lễ vốn là tên một làng trước đây thuộc xã Trực Nghĩa, huyện Nam Ninh ; đồng thời cũng là tên một ngôi chùa có từ lâu đời và đã trở thành một di tích lịch sử - văn hóa của tỉnh Nam Hà.

Tương truyền rằng chùa Cổ Lễ được sáng lập năm 1109 do Thiền sư Minh Không, tên thật là Nguyễn Chí Thành, sinh năm 1076 tại làng Loại Trì, huyện Chân Định, tỉnh Nam Định. Thiền sư Minh Không đã có công sang Trung Quốc xin vua Tống cấp đồng để về nước đúc "An Nam Tứ Khí" (tượng Quỳnh Lâm, chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên, vạc Phổ Minh). Ông cũng chính là vị y sư đã chữa cho vua Lý Thần Tông (1128 - 1138) khỏi bệnh "hóa hổ" nên được vua phong làm Đại Pháp Thiền Sư kiêm Quốc sư. Sư viên tịch năm 1154, thọ 78 tuổi.

Kiến trúc chùa Cổ Lễ hiện nay là do Hòa thượng Phạm Quang Tuyên hạ giải ba ngôi chùa nhỏ ở làng Cổ Lễ và lập thành vào năm 1920. Hòa thượng Phạm Quang Tuyên là một cao tăng có kiến thức uyên bác. Chính Ngài đã thiết kế và trông coi việc xây dựng ngôi chùa. Vật liệu xây dựng không phải là xi măng, sắt thép mà là gạch, vôi vữa, mật mía, giấy bản tạo nên độ cố kết vững bền của toàn bộ kiến trúc ngôi chùa.

Đứng trước chùa, vươn lên nền trời giữa những cây cổ thụ bốn mùa xanh tươi là tháp Cửu Phẩm Liên Hoa rất độc đáo. Tháp được xây dựng những năm 1926 - 1927, có 12 tầng và một tầng đế tháp đặt trên lưng một con rùa lớn đầu hướng vào chùa. Tháp cao 32m, có 8 mặt, các cạnh tháp đều đắp hình rồng, mái cong. Trong lòng tháp có 62 bậc dẫn lên bàn thờ Phật trên đỉnh theo đường xoáy trôn ốc. Tháp đứng giữa một hồ vuông, bốn góc là bốn hòn giả sơn.

Một cầu cong ba nhịp, mặt cầu lát gạch, nối liền khu tháp với một tòa kiến trúc mái vòm cao : đó là Phật giáo hội quán. Bên trái hội quán là dãy nhà ba gian thờ Trần Hưng Đạo và hai danh sĩ đời Trần quê ở Cổ Lễ là Bảng nhãn Đào Sư Mỗ và Tiến sĩ đệ tam giáp Đào Toàn Mỗ.

Sau khu Hội quán Phật giáo là một khoảng sân rộng. Giữa sân chùa đặt một quả đại hồng chung cao 4,20m, đường kính 2,20m, nặng 9 tấn, do Hòa thượng Thích Thế Long cho đúc vào năm 1936. Chùa chính có cấu trúc mái vòm, bên trong thờ Phật và Thiền sư Minh Không. Sau thượng điện là nhà khách và nhà tổ.

Nhờ kết hợp tinh hoa kiến trúc cổ truyền Việt Nam với các yếu tố của phong cách kiến trúc phương Tây, chùa Cổ Lễ đã trở thành một danh lam ở vùng đồng bằng sông Hồng.


Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 21:17
Chùa Cổ Linh (Cổ Linh Tự)




Chùa Cổ Linh thuộc xã Lĩnh Nam, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội, cách trung tâm Hà Nội vào khoảng 15 km về phía Nam đi the bờ sông Hồng. Chùa Cổ Linh làm gần với đình Trung Lập tạo thành một cụm kiến trúc mang tính chất lịch sử và tôn giáo.

Chùa có quy mô kiến trúc lớn, nhiều tòa kế tiếp nhau gồm tiền đường, thượng điện, nhà thờ tổ và nhà thờ Mẫu. Tiền đường bao gồm 5 gian xây bít đốc tay ngai, trên bờ nóc có đắp mặt trời, phía trước là 2 trụ xây vuông,trên đỉnh trụ đắp phượng chụm đuôi thành hình quả giành. Tiền đường có cửa trước kiểu bức bàn bằng lim, vì kèo kiểu chồng giường giá chiêng, hạ kẻ chuyền với 6 đường cột. Trên kiến trúc chạm khắc đề tài tứ linh tứ quý với phong cách gnhệ thuật cận đại. Thượng điện chùa gồm 3 chiên, xà nách. Trên thượng điện và tiền đường gồm đủ các pho tượng theo kiểu bài trí thường gặp là các pho tượng Tam Thế, Di Đà Tam Tôn,... Tượng của chùa đều được tạo tác công phu nghệ thuật, tuy về cỡ không lớn lắm. Bên cạnh những tượng pháp trong chùa còn có thệ thống cửa võng được chạm trổ sơn son thiếp vàng tăng phần trang nghiêm lộng lẫy.

Chùa đã được Bộ văn hóa và thông tin xếp hạng di tích nghệ thuật ngày 13/3/1994.


Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 21:19
Chùa Cổ Loa (Bảo Sơn Tự)




Chùa Cổ Loa thuộc xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội.

Chùa Cổ Loa có tên chữ là Bảo Sơn tự. Từ trung tâm Hà Nội đi qua cầu Chương Dương, thị trấn Gia Lâm, qua cầu Đuống theo quốc lộ số 3 đến cây số 17 rẻ tay phải 3 km đến chợ Sa, rẽ trái 300 m đến ngã tư rồi rẻ phải 100 m là đến chùa.

Chùa thờ Phật, kiến trúc theo kiểu "nội công ngoại quốc" ở giữa chữ công, trước là nhà tiền tế, hai bên là hành lang. Chùa còn giữ được những bức cốn tứ linh thế kỷ 19, và nhóm di vật có giá trị gồm 134 pho tượng xếp đặt ở hậu cung, thiêu hương, tiền tế, hành lang và nhà Mẫu. Các pho Tam Thế, Di Đà, Quan Âm Chuẩn Đề, Quan Âm Tống Tử, Quan Âm Nam Hải, Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu, toà Cửu Long, Hộ Pháp, Kim Cương, Thập bát La Hán, Liễu Hạnh, Trần Hưng Đạo, Thái Thượng Lão Quân,... Chùa có 5 bia từ thế kỷ 17-19, hai chuông đồng Gia Long 2 (1803), một khánh đồng, bình hương đồng, đồ gốm sứ và đồ thờ cúng khá đẹp.

Chùa đã được Bộ Văn hoá và thông tin xếp hạng di tích kiến trúc và nghệ thuật ngày 21/6/1993.



Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 21:20
Chùa Côn Sơn (Tư Phúc Tự)


Thời nhà Trần, nước ta có các trung tâm Phật giáo lớn là Yên Tử, Côn Sơn, Quỳnh Lâm và Vĩnh Nghiêm. Nhà tổ ổ Côn Sơn còn thờ tượng Trúc Lâm tam Tổ (ba vị Tổ phái Thiền Trúc Lâm) là Trần Nhân Tông (1258 - 1308), Thiền sư Pháp Loa (1284 - 1330) và Thiền sư Huyền Quang (1254 - 1334).

Không phải ngẫu nhiên mà Thiền sư Pháp Loa đã dựng am Bạch Vân ở Côn Sơn và Thiền sư Huyền Quang đã chọn nơi đây tu hành vào những năm tháng cuối đời. Côn Sơn (cách thị xã Hải Dương 15km, nay thuộc xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng, vốn là tên một ngọn núi cao khoảng 200m so với mặt biển, có ba nhóm nhô lên như một con kỳ lân phủ phục, nên còn tên là Lân Sơn. Leo khỏi 600 bậc đá, đứng trên đỉnh núi nhìn khắp chung quanh sẽ thấy hiện ra "Một vùng cây cỏ tận hưởng niềm vui thưởng thức, sông núi bao la thu vào tầm mắt ngóng trông" (Nhật thiên thảo mộc cùng ngu hưởng. Bất tận giang sơn nhập chỉ huy) như vua Lê Thánh Tông đã viết.

Và không phải ngẫu nhiên mà vua Trần Nghệ Tông đã đặt tên cho mấy nếp nhà bên suối dưới khe núi Côn Sơn, với thạch bàn giữa thiên nhiên đầy cỏ hoa và khóm trúc, trên đầu non khói tỏa là Thanh Hư động : nơi ở thanh tịnh vắng vẻ như động tiên giữa chốn hư không. Khi trụ trì ở đây, Thiền sư Pháp Loa đã cảm hứng giữa đất trời tao nhã :

Sự đời quên cả chẳng lôi thôi
Chiếc chõng quanh năm bó gối ngồi
Ngày tháng chẳng còn sờ đến lịch
Thấy hoa cúc nở đoán thu rồi.

(Nguyễn Trọng Thuật dịch)

Nằm ở chân núi phía Nam, chùa Côn Sơn, tên chữ là Tư Phúc Tự, được xây dựng từ thời Lý, dân gian thường gọi là chùa Hun (nơi đốt than). Tương truyền rằng vua Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã từng đến thăm chùa. Vào đời Lê, lúc Thiền sư Mai Trí Bản hiệu Pháp Nhãn trụ trì, chùa được trùng tu và mở rộng, có đến 83 gian, bao gồm tam quan, thượng hạ điện, tả hữu vu, lầu chuông, gác trống ? Bị chiến tranh tàn phá, ngày nay chùa Hun chỉ còn là một ngôi chùa nép mình dưới tàn lá xanh của những cây cổ thụ : thông, đại và hương bài.

Phía trước, ngay lối đi vào chùa có một tấm bia đá đặt trên lưng rùa khắc ba chữ "Thanh Hư Động", bút tích của vua Trần Nghệ Tông. Bên trái là nhà bia cũ dựng năm 1608, có tấm bia ghi bài minh nhan đề "Côn Sơn Tư Phúc Thiền Tự Bi" nói về việc trùng tu chùa.

Bên đường dẫn lên đỉnh núi rợp bóng cây phía sau chùa là khu mộ tháp, nổi bật là Đăng Minh bảo tháp dựng bằng đá xanh, cao 3 tầng, trong đặt xá lợi và tượng Thiền sư Huyền Quang.

Chùa Côn Sơn đã chứng kiến một chặng đường đời và bi kịch của người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi. Thanh Hư động chính là nơi Băng Hồ tướng công Trần Nguyên Đán, ông ngoại nhà thơ, ẩn dật. Mấy gốc thông già trải qua sương nắng hơn sáu thế kỷ còn đứng đó là do chính tay Trần Nguyên Đán trồng, như thơ của Băng Hồ tướng công đã ghi lại :

Xuân nhật tảo di hoa ảnh động
Thu phong vãn tống hạc thanh lai
Lưu Quang điện hạ tùng thiên thụ
Tận thị kình thiên nhất thủ tài.

Nghĩa là :

Nắng xuân sớm động bóng hoa
Gió thu hiu hắt chiều tà hạc kêu
Lưu Quang thềm điện xanh rêu
Chống trời thu biếc do đều một tay.

Một phần tuổi thơ của mình, từ lúc 5 tuổi đến lúc 10 tuổi, Nguyễn Trãi sống với ông ngoại. Sau những năm tham gia triều chính, Nguyễn Trãi lui về Côn Sơn. Dòng suối Côn Sơn đã in bóng nhà thơ ngồi trên thạch bàn những ngày ẩn dật. Cảnh đẹp Côn Sơn đã gợi nên cảm hứng để Nguyễn Trãi sáng tác nhiều bài thơ trong Quốc Âm thi tập :

Côn Sơn có suối rì rầm
Ta nghe tiếng suối như cầm bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm?

Nhưng bi kịch của lịch sử đã không để cho nhà thơ được yên nghỉ tuổi già dưới bóng thông và ngâm thơ nhàn. Vụ án Lệ Chi Viên với cái chết đột tử của Lê Thái Tông vào tháng 9 năm 1442 đã dẫn đến hình phạt tru di tam tộc đối với Khai quốc công thần Nguyễn Trãi. Học trò Nguyễn Trãi đã đưa thi hài nhà thơ về mai táng trên núi Giáp Sơn, phía Đông Bắc núi Côn Sơn. Gần đó, trên đỉnh núi Tam Tiên là ngôi mộ Nguyễn Phi Khanh, thân sinh Nguyễn Trãi.

Một lần về Côn Sơn, nhà thơ Trần Đăng Khoa chợt thức giấc lúc nửa đêm và cảm nhận được hồn thiêng của Ức Trai còn hòa lẫn với thiên nhiên cảnh vật :

Ngang trời kêu một tiếng chuông
Rừng xưa nổi gió, suối tuôn ào ào.
Đồi thông sáng dưới trăng cao
Như hồn Nguyễn Trãi năm nào về thăm.


Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 21:22
Chùa Côn Sơn và Quần thể di tích Chí Linh


http://i105.photobucket.com/albums/m202/s0ck22/chuabichdong.jpg
Lâu nay, nhiều du khách đến khu di tích lịch sử danh lam thíng cảnh ở huyện Chí Linh (Hải Dương) thường chỉ nghĩ đến Côn Sơn, Kiếp Bạc. Rất ít người biết rằng ở Chí Linh còn lưu giữ cả một quần thể di tích nổi tiếng - dấu ấn một thời hào hùng của dân tộc. Đó là chùa Côn Sơn, đền Kiếp Bạc, đền Cao, đền Sinh, đền Hóa, chùa Thanh Mai, đền Gốm, đình Nhân Huệ, nhà cổ Trạng nguyên, nhà cổ Thượng tổ, nhà cổ Tiền ẩn, thành cổ Phao Sơn, vườn cổ Dược Linh, chùa cổ Vân Tiên, tháp Tinh Phi, chùa Sùng Nghiêm, mộ cụ Nguyễn Phi Khanh...

Trong số 16 di tích cổ tại Chí Linh, thì có tới 7 di tích đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia. Di tích tiêu biểu và trở thành niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, trước hết là chùa Côn Sơn và đền Kiếp Bạc.

Di tích nhà Trần

Chùa Côn Sơn hiện nay thuộc xã Cộng Hòa, Chí Linh. Chùa được xây dựng từ thời nhà Trần, là nơi tu hành của Quốc sư Huyền Quang - vị tổ thứ 3 của Thiền phái Trúc Lâm. Ngày 22 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1334), nhà sư Huyền Quang mất tại Côn Sơn. Vua Trần Minh Tông cho 10 lạng vàng xây Đăng Minh bảo tháp đặt xá lĩ của Huyền Quang vào trong đó để lưu giữ. Từ đó đến nay, ngày mất của Huyền Quang dần trở thành Hội Xuân Côn Sơn.

Sau này, đến thời nhà Lê, quân và dân Việt Nam đại thíng quân Minh, Nguyễn trãi đã về tĩnh dưỡng tuổi già ở Côn Sơn. Người thường lên bàn cờ Tiên, Thanh Hư động và ra suối Thạch Bàn thưởng ngoạn đất trời, làm thơ cũng như suy ngẫm việc đời. Sau khi Nguyễn Trãi mất, nhân dân đã tạc tượng thờ người Anh hùng kiệt xuất của dân tộc tại nhà thờ Tổ sau chùa Côn Sơn.

Vì thế, đến Côn Sơn ngày nay, du khách vừa thăm chùa, thăm nơi thờ 3 vị tổ của Thiền phái Trúc Lâm (Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang), vừa đến thăm một thíng cảnh, một di tích lịch sử gín với tên tuổi người Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Và trên đường đến với bàn cờ Tiên ở trên đỉnh núi, du khách đều như nghe đâu đây sang sảng lời hịch "Bình Ngô đại cáo". Từ đáy lòng mọi người đều tự hào về đức độ, tài năng của Nguyễn Trãi và đau xót trước nỗi oan nghiệt mà ông gánh chịu.

Đền Kiếp Bạc còn đây. Đền ở xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, thờ Trần Hưng Đạo, vị anh hùng dân tộc có công lớn nhất trong ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông vào thế kỷ thứ 13.

Du khách sau khi thăm khu đền và xem các màn biểu diễn của người dân địa phương về chiến công của nhà Trần do Hưng Đạo đại vương chỉ huy, đều hiểu sâu về tài thao lược của Trần Hưng Đạo. Và trầm tĩnh suy tư, mọi người đều bít gặp tiếng sông reo và nhớ đến câu thơ tràn đầy dũng khí của "quân nhà Nam" - thời Trần; làm cho quân Nguyên Mông (thuở trước) bạt vía kinh hồn mỗi khi nghĩ đến mộng xâm lăng:

Trên sông Bạch Đằng, quân Nam hùng reo
Sóng nước vang đưa mỗi con thuyền, ngàn thông reo...

Rồi du khách lên chùa Thanh Mai xây trên núi Tam Bản, thuộc xã Hoàng Hoa Thám. Đó là nơi trụ trì của Quốc sư Pháp Loa, vị tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm và cũng là nơi sư Huyền Quang tu hành 6 năm liền. Sau khi Pháp Loa mất, Thái thượng hoàng Trần Anh Tông cho xây mộ tháp của nhà sư Pháp Loa ở sau chùa Thanh Mai, đặt xá lĩ của Pháp Loa vào tháp lưu giữ. Mộ tháp đá đó gọi là Viên Thông bảo tháp. ở chùa Thanh Mai còn bảo tồn một bia đá cổ "Tam Tổ thực lục" ghi khíc công tích của ba vị Tổ Thiền phái Trúc Lâm - lưu giữ đến hôm nay.

Ngôi đền Gốm, trước đây thuộc xã Nhân Huệ, nay thuộc xã Cổ Thành, huyện Chí Linh. Đền này gín liền với di tích "Biến cố Nham Loan" thờ tướng quân Trần Khánh Dư, một vị tướng tài thời Trần. Ông có công lớn trong 3 cuộc kháng chiến chống quân Nguyên. Trần Khánh Dư lập nhiều chiến công, được vua phong tước Nhân Huệ Vương và chức Phó Thượng tướng.

Du khách tiếp tục cuộc hành trình đến các đình chùa, nhà thờ liên quan đến các tướng lĩnh, các văn võ bá quan nổi tiếng thời Trần, đã góp phần làm rạng rỡ non sông đất nước. Đó là đình Nhân Huệ ngày nay. Đình thờ ba vị thành hoàng. Vị thứ nhất là Hùng Duệ, người có công từ thời Hùng Vương dựng nước; vị thứ hai là Cao Sơn, vị thứ ba là Quảng Bác, cả hai đều có công với nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên. Theo văn bia ở đình còn ghi rõ: Đình Nhân Huệ xưa còn là nơi tụ hội của nhiều tướng giỏi triều Trần đến bàn việc quân cơ và chuẩn bị cho Hội nghị Bình Than. Ngôi đình này có quy mô khá lớn, còn tương đối nguyên vẹn. Về kiến thức và bài trí của ngôi đình cổ, có thể xem đình Nhân Huệ là di tích lịch sử - văn hóa vào loại quý hiếm của Việt Nam.

Du khách dừng chân chiêm ngưỡng nhà cổ Trạng nguyên (hay Trạng nguyên cổ đường), trước kia thuộc xã Văn Từ của huyện Chí Linh, nay thuộc xã Tổng Xá, huyện Nam Thanh. Đây là nơi dạy học của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, thời vua Trần Anh Tông (1292-1314). Mạc Đĩnh Chi là người học rộng tài cao; đặc biệt là tài ngoại giao, đã từng đễợc vua Nguyên (Trung Quốc) phong là "Trạng nguyên lưỡng quốc" - khi ông vâng lệnh Vua nhà Trần đi sứ. Những chuyện về tài ngoại giao của Mạc Đĩnh Chi đến hôm nay vẫn được lưu truyền và hình thành nhiều huyền thoại làm say mê lớp người trẻ tuổi giàu chí tiến thủ.

Nhà cổ Thượng Tư (Thượng Tư cổ trạch), ở thôn Kinh Trung, xã Văn An ngày nay là nơi ở và dạy học của Trần Huệ Vũ Vương, Tể tướng nhà Trần. Nhà cổ Thượng Tư còn có tên gọi đền Quân Phụ. Nhà cổ Tiều ẩn (Tiều ẩn bích cổ) trên núi Phượng Hoàng cũng thuộc xã Văn An. Đây là nơi Chu Văn An - nhà tễ tưởng và học giả xuất síc thời Trần, sau khi ông dâng sớ xin chém đầu bảy tên gian thần, không được chấp nhận, đã từ quan về đây dạy học và làm thuốc (thời vua Trần Dụ Tông, năm 1319-1349).

Ngoài ra còn di tích khác như: Thành cổ Pháp Sơn, trước đây thuộc xã Cổ Thành nay thuộc thị trấn Phả Lại, Chí Linh. Thành được xây dựng năm 1418, mở rộng vào triều Mạc, trên triền núi cao sát bờ sông Thái Bình, ngay cạnh bến phà Phả Lại bây giờ. Đây là vị trí chiến lược thủy, bộ quan trọng để bảo vệ kinh đô Thăng Long ngày trước. Vườn cổ Dược Linh nay thuộc Dược Sơn, xã Hưng Đạo, xưa có nhiều cây thuốc quý để chữa bệnh cho quân sĩ. Đặc biệt là cây thuốc Dược Linh dùng để trị vết thương, rất mau lành, nay vẫn còn sót lại trên núi. Chùa cổ Vân Tiên ở thôn Kiệt Đặc, xã Văn An. Đó là ngôi chùa cổ, xưa kia Quốc sư Phap Loa trụ trì và giảng đạo. Chùa Vân Tiên chỉ là một trong nhiều chùa mà Pháp Loa xây dựng trong suốt 19 năm tu hành.

Và các triều đại khác

Đồng thời tại đây, có nhiều di tích đã được tạo dựng từ trước thời nhà Trần. Chí Linh có rừng núi, sông suối hiểm trở đã trở thành vùng đất linh thiêng để các tướng lĩnh, công thần của đất nước về đây nghỉ ngơi, suy ngẫm về vận mệnh nước Việt, nhất là thời phát triển hưng thịnh (chế độ phong kiến) giai đoạn đó.

Cổ kính nhất là đền Sinh và đền Hóa, thuộc thôn An Mô, xã Lê Lợi ngày nay. Hai ngôi đền này nằm trong một quần thể di tích. Đền Sinh và đền Hóa thờ Chu Phúc Uy, người làng An Mô, một danh tướng văn võ song toàn, có công trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Lương, giành độc lập cho nước Vạn Xuân ở thế kỷ thứ VI, dưới triều vua Lý Bí (Lý Nam Đế). Ông được Lý Nam Đế phong là Uy Vũ Đại tướng quân, trấn thủ xứ Hải Dương. Tễơng truyền, đền Sinh là nơi Chu Phúc Uy ra đời. Cách đền Sinh 700 m về phía Tây Bíc là đền Hóa - nơi ông qua đời.

Đền Cao, xã An Lạc, nơi thờ 5 anh em họ Vương là Vương Đức Minh, Vương Đức Hồng, Vương Đức Xuân, Vương Thị Đào, Vương Thị Liễu. Cả 5 người đều có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống ở thế kỷ thứ 10 dưới triều vua Lê Đại Hành. Kế tiếp trong vùng là tháp cổ Tinh Phi ở thôn Trại Sen xã Văn An, nơi thờ bà Nguyễn Thị Duệ, người từng giả trai đi học, thi đỗ tiến sĩ dưới triều Mạc và đã làm quan đến chức Lễ nghi học sĩ. Đây cũng là nơi bà ở, dạy học và làm thuốc chữa bệnh cho dân. Bà là nữ tiến sĩ đầu tiên của Việt Nam, từng được Chúa Trịnh phong là "Bà chúa Sao La".

Chùa Sùng Nghiêm (Sùng Nghiêm tự) nằm phía Tây Bíc thôn Bình Dương, nay là thôn Bình Giang, thị trấn Phả Lại. Chùa được xây dựng từ triều Lý đến triều Trần, đã trở thành một trung tâm Phật giáo của Việt Nam. Các vị tổ của Thiền phái Trúc Lâm đã từng về đây giảng đạo nhiều lần. Đễơng thời chùa Sùng Nghiêm rất lớn, có tới hơn 100 gian. Các hoàng hậu, cung phi nhà Trần thường về đây ngoạn cảnh và cầu khấn đất trời ủng hộ sự thịnh trị của triều đình. Năm 1947, thực dân Pháp càn quét đốt chùa. Nay chùa chỉ còn dấu vết và một số di vật lưu truyền lại.

Đặc biệt tại đây, du khách được dâng hương mộ cụ Nguyễn Phi Khanh, thân phụ của Nguyễn Trãi, một chí sĩ yêu nước, luôn tin tưởng vào sự trường tồn của dân tộc. Trước lúc xa con cụ đã tâm sự với Nguyễn Trãi những lời bất hủ:

Con yêu quý chớ xuôi lòng mềm yếu
Gác tình riêng vỗ cánh trở về Nam.
Con về đi tận trung là tận hiếu
Đem gươm mài bóng nguyệt dưới khăn tang
Nếu trời muốn cho nước ta tiêu diệt
Thì lưới thù sẽ úp xuống đầu xanh
Trãi con ơi không bao giờ con chết
Cha đứng đây trông suốt một ngàn thu...

Như sử sách đã ghi lại: Sau khi Nguyễn Phi Khanh bị nhà Minh bít cùng với quan quân nhà Hồ, Nguyễn Phi Hùng theo hầu cha sang Trung Quốc. Còn Nguyễn Trãi vào Lam Sơn theo nghĩa quân Lê Lợi. Năm 73 tuổi, Nguyễn Phi Khanh mất ở Trung Quốc. Thượng thư Hoàng Phúc của nhà Minh, do cảm cái ân nghĩa của Nguyễn Trãi đã tha tội chết cho mình, cho nên đã giúp cho Phi Hùng mang di cốt của Nguyễn Phi Khanh về nước. Nguyễn Trãi đã theo lời cha dặn táng di cốt của Nguyễn Phi Khanh trên núi Đá Bạc. Câu chuyện về đức hiếu nghĩa ấy sau này đã gây niềm xúc động và kính phục sâu síc trong dân, người ta gọi núi ấy là núi Báo

Đức hay Báo Ân. Và quả núi này còn được gọi là núi Bái Vọng. Ngày nay mộ cụ Nguyễn Phi Khanh đặt trên núi Báo Đức, thuộc xã Hoàng Hoa Thám.

Chỉ qua một quần thể di tích Chí Linh, du khách đã được ôn lại cả một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc. Khí phách lẫm liệt, tài năng tuyệt vời, nghĩa tình son sít của các bậc tiên sinh khơi dậy trong mỗi du khách lòng tự hào, ý chí quật khởi, để hôm nay mọi người cùng nhau giành tiếp thíng lợi trên con đường đổi mới, làm rạng danh tiên tổ và lễu truyền tiếng thơm cùng hậu thế.


Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 21:24
Chùa Dâu


http://i105.photobucket.com/albums/m202/s0ck22/chuadau.jpg
Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về

Gần hai ngàn năm biến dịch với bao lần đổi thay, tu tạo có lẽ bây giờ cảnh quan chùa Dâu đã khác xưa nhiều. Nghe nói, trước đây con đường vào chùa đẹp lắm. Qua tam quan đồ sộ và bãi đất rộng nằm giữa hai dãy ao dài in bóng chiếc cầu chín nhịp có mái lợp, kiểu nhà cầu cổ ta còn thấy ở Hội An và một số nơi khác, khách bộ hành vào chùa dâng hương thờ Phật. Đây là ngôi chùa được xây dựng sớm nhất ở Việt Nam, ngay từ thế kỷ thứ II sau Công nguyên.

Cũng như nhiều chùa chiền trên đất Việt, chùa Dâu được cất theo kiểu nội công ngoại quốc, một kiểu kiến trúc Á Đông truyền thống. Bốn dãy nhà liên thông hình chữ nhật bao quanh ba ngôi chính: Tiền đường, Thiện hương và Thượng điện. Hậu đường xưa giờ không còn nữa, nhưng khách thăm chùa vẫn còn được chứng kiến bốn mươi tễ gian nhà oản hai bên tả hữu. Giữa sân chùa trải rộng là cây tháp Hòa Phong. Tháp xây bằng loại gạch cỡ lớn ngày xưa, được nung thủ công tới độ có màu sẫm già của vại sành. Thời gian đã lấy đi sáu tầng trên của tháp, nay chỉ còn ba tầng dưới nhưng vẫn uy nghi, vững chãi thế đứng ngàn năm. Dấu vết xưa nhất còn lại của ngôi chùa được khảo cổ học xác định là từ đời Trần, đợt tu bổ lớn nhất là vào năm 1313, đời vua Trần Anh Tông.

Theo nghiên cứu sử học, chùa Dâu với nhiều tên gọi: Diên ứng tự, Pháp Vân tự, Thiền Đình tự, Cổ Châu tự...có thể ra đời đồng thời với truyền thuyết Man Nương, một trong những mã khóa mở vào tầng sâu của văn hóa Kinh Bắc. Vậy nên, hợp với chùa tổ Man Nương là cả một quần thể những chùa Dâu, chùa Đậu, chùa Tướng, chùa Dàn thờ tứ pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Là nơi giao lưu của hai luồng văn hóa Phật giáo, một từ ấn Độ sang, một từ phương Bắc xuống, nơi đây từng là nơi "kinh đô" của Phật giáo Việt Nam hơn mười thế kỷ đầu; với nhiều nhà sư nổi tiếng, với hội tắm Phật mùng tám tháng tễ hàng năm:

Dù ai buôn bán trăm bề
Nhớ ngày mùng tám thì về hội Dâu.

Một trong những ấn tượng khó có thể quên được ở nơi đây là những pho tượng thờ. Tượng Pháp Vân uy nghi, trầm mặc, màu đồng hun. Gương mặt đẹp với nốt ruồi to đậm giữa trán gợi liên tưởng tới những nàng vũ nữ ấn, tới quê hương Tây Trúc, nơi cội nguồn của tễ tưởng thiện căn, của đức Từ - Bi - Hỉ - Xả. Tượng Pháp Vũ với những nét thuần Việt, đức độ, cao cả. Đặc biệt hai pho tượng Kim Đồng, Ngọc Nữ đặt hai bên điện thờ chính gợi nhớ tới những cô thôn nữ của miền quê quan họ nơi này. Dáng người thắt đáy lưng ong uyển chuyển, vành khăn vấn trên đầu bình dị và mềm mại, chiếc áo tứ thân mớ ba mớ bảy với dải lụa đào thướt tha... Cha ông ta đã rất tinh tế, nhuần nhị khi đặt tượng thờ Kim Đồng, Ngọc Nữ. Về đây, ta gặp sự giao hòa đẹp đẽ giữa tễ tưởng Phật giáo chính thống, một dạng thức văn hóa tinh thần ngoại nhập, với tâm linh, tinh thần bình dân, thuần phác. Ta cũng lại thấy ở đây một minh chứng rõ nét cho quá trình tiếp biến văn hóa, sự Việt hóa những giá trị tinh thần khi nhập nội.

Về chùa Dâu, về Thuận Thành, ta như được tắm mình trong không khí cổ xưa qua dấu ấn của nhiều tầng bậc lịch sử - văn hóa. Đây, đô thành Luy Lâu xưa bên dòng Thiên Đức gợi nhớ thời oanh liệt của Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống xâm lược Đông Hán những năm đầu thế kỷ. Đây dòng sông Dâu đã vào thơ Tố Hữu "con sông Dâu chảy về đâu, mà lơ thơ đến Luy Lâu lại dừng". Đây nữa, miền đất trù phú Keo - Dâu với tích truyện cô thôn nữ hái dâu nết na, xinh đẹp trở thành Nhiếp chính ỷ Lan tài giỏi, trông coi việc nước, giúp vua đánh giặc. Còn kia là Bút Tháp với tượng Phật Bà nghìn mắt, nghìn tay nổi tiếng; là làng tranh Đông Hồ, nơi tâm hồn dân gian dẫu hoàn cảnh nào vẫn luôn mỉm cười trên sắc vàng giấy điệp. Cạnh đó, dòng sông Đuống "ngày xưa cát trắng phẳng lỳ" giờ vẫn bình thản trôi như đã từng trôi qua những bến bờ lịch sử. Và từ chùa Dâu, ta có thể rẽ ngang thăm núi Thiên Thai hay về bên kia sông Đuống dâng hương các vị vua đời Lý tại đền Đô.

Lịch sử đã từng khẳng định vị trí của chùa Dâu trong đời sống văn hóa, tâm linh dân tộc. Ngày nay, chùa Dâu đang được Nhà nước và Giáo Hội Phật giáo Việt Nam quan tâm trùng tu, tôn tạo để xứng đáng với tên gọi "trung tâm của Phật giáo Việt Nam" nhiều thế kỷ.


Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 21:26
Chùa Dạm

http://i105.photobucket.com/albums/m202/s0ck22/chuadam.jpg
Xứ Kinh Bắc là một trong những trung tâm Phật giáo cổ xưa và lớn nhất ở Việt Nam. Trải qua nhiều thế kỷ, mỗi triều đại lại tu bổ hoặc xây mới một số công trình chùa chiền, đền tháp. Vương triều Lý - một vương triều hiển hách về võ công văn trị và rất sùng mộ đạo Phật, tôn đạo Phật là quốc giáo, đã để lại nhiều dấu tích lịch sử làm vẻ vang nền văn hóa dân tộc.

Chùa Dạm (thuộc xã Nam Sơn, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) là danh lam thắng cảnh điển hình.

Căn cứ vào các thư tịch cổ, chùa Dạm được Vua Lý Nhân Tông (1072-1127) cho xây dựng vào năm Quang Hựu thứ 2 (1086). Để tiện vận chuyển nguyên vật liệu phục vụ công trình, vua cho đào ngòi Con Tên từ chân núi Lãm Sơn chạy thẳng ra sông Đuống. Năm 1087, "Vua ngự đến chùa Lãm Sơn, đến đêm ban yến cho các quan. Vua làm 2 bài Lãm Sơn dạ yến". Công trình làm trong 9 năm mới xong. Vua ban tên chùa là Cảnh Long Đồng Khánh, lại thân đề biển bằng chữ Triện.

Năm Long phù nguyên hóa thứ 5 (1105), vua Lý Nhân Tông cho xây thêm ba tháp đá nữa. Chùa làm xong (1094), Vua ban 300 mẫu ruộng tự điền để nhà chùa có hoa lợi hương khói và 7 gia đình ở mé dưới núi được giao việc chuyên đóng - mở cửa chùa.

Nếu như chùa Phật Tích ở dãy Nguyệt Hằng (huyện Tiên Sơn) gần đấy có 300 gian, có tòa nhà đá, bảo tháp nhiều tầng, giếng rồng, ao rồng... thì các công trình kiến trúc của chùa Dạm hẳn là vượt xa hơn thế. Nguyên do: sau chiến thắng lẫy lừng chống Tống trên phòng tuyến sông Cầu khẳng định nền độc lập tự chủ Đại Việt, Nhà Lý có xu hướng chấn hưng văn hóa dân tộc đồng thời phát triển mạnh kinh tế đất nước. Vì vậy hàng loạt chùa chiền ở Kinh Bắc nơi phát tích triều Lý càng được quan tâm. Rút kinh nghiệm xây dựng đồ sộ chùa Phật Tích trước đó ít lâu, chùa Dạm được dựng huy hoàng hơn.

Về sự bề thế của chùa Dạm, dân gian đã lưu truyền qua câu ca: "Mười lăm trăng náu, mười sáu trăng treo, mười bảy phẩy giường chiếu, mười tám đóng cửa chùa Dạm", có nghĩa là cứ sau ngày rằm người ta đóng cửa chùa, bắt đầu từ xẩm tối đến lúc trăng lên cao mới đóng hết tất cả các cửa.

Kiến trúc sư và các nhà điêu khắc xưa đã khéo tổ chức không gian một cách hợp lý để nhân gấp bội giá trị - vẻ đẹp công trình và biểu đạt ý niệm triết - mỹ Á Đông.

Chùa đặt ở sườn núi phía nam của dãy Lãm Sơn, chính giữa ngọn cao nhất. Núi Rùa làm tiền án, ngòi Con Tên làm Minh Đường bên tả có Thanh Long, bên hữu có Bạch Hổ chầu về. Chùa Dạm hội tụ đủ huyết mạch linh thông theo thuyết phong thủy.

Chùa dựa hẳn vào sườn núi và 4 lớp nền đá trườn theo sườn núi vừa tôn tầm cao công trình vừa tạo dáng vẻ uy nghiêm, hài hòa với cảnh quan thiên nhiên chung quanh. Hơn nữa tránh được nạn lụt lội ở vùng "rốn nước" Quế Võ lắm đồng sâu ruộng trũng.

Chiều dài của lớp nền 120 m, rộng 70 m (chùa Phật Tích là 100 m và 60 m).

Tổng cộng diện tích gần 8.000 m2.

Bốn lớp nền được bó ghép bằng đá tảng (mỗi viên có kích thước 50x60 cm). Các lớp đá được cấu tạo choãi chân đế, chếch khoảng 70 độ, và có độ cao 5-6 m.

Mỗi cấp giật lùi vào khoảng 1,5 m làm tăng sự ổn định, vững chắc của nền. Đường lên xuống mỗi lớp nền khá rộng (khoảng 25 bậc đá).

Lớp nền thứ nhất gọi là "bãi hội", hằng năm cứ đến mồng 8 tháng 9, nhân dân ba thôn (Triều, Trung, Trị) và 18 xã thuộc huyện Võ Giàng cũ tổ chức lễ hội và vui chơi ở đây. Còn 3 lớp nền phía trên dựng các cụm kiến trúc lộng lẫy, nguy nga (điện đường, long vũ, bảo tháp...).

Vua Trần Nhân Tông (1258-1308) từng về thăm và có làm bài thơ Đại Lãm Thần quang tự ca ngợi quần thể di tích này:

Thần Quang tự kiểu hứng thiên u
Sanh thỏ phi ô thiên thượng du
Thập nhị lâu đài khai hoa trục
Tam thiên thế giới nhập thị màu

Tạm dịch:

Chùa Thần Quang vắng vẻ, cảnh vật có nét hứng thú u nhã riêng
Mặt trời lặn, mặt trăng lên như ngao du giữa bầu trời
Mười hai tòa lâu đài mở ra tranh vẽ
Ba ngàn thế giới nhập vào đôi mắt nhà thơ

Hơn bốn thế kỷ sau, nhà bác học nổi tiếng Lê Quý Đôn đã qua đây, miêu tả:

Toàn vân lục tính tham thiên thụ
Bàn lĩnh thanh hoàn thập lục hương

Tạm dịch:

Ba ngàn thông tám vờn mây biếc
Mười sáu làng xanh rợp núi non

Không chỉ có công trình kiến trúc quy mô, chùa Dạm còn độc đáo bởi nghệ thuật tượng đài hoành tráng.

Trên lớp nền thứ hai của chùa, thời Lý đã dựng tượng đài. Khu bên phải (của chùa) hình vuông, mỗi chiều 7 m, cao 2 m đều kè đá đục chạm rất sâu hoa văn sóng nước (kiểu thức thời Lý). Khu đất bên trái (của chùa) hình tròn đường kính 5 m, cao 1 m. Ngay giữa khu đất hình tròn có một cột biển bằng đá nhám liền khối cao 5 m (không kể phần ngọn bị gãy). Cột biển ấy gồm hai phần: khối hộp vuông ở dưới làm đế (gắn sâu vào lớp lối đá mạ của núi), khối trụ tròn ở trên (có đường kính 1,5 m). Đoạn dưới của khối trụ tròn chạm nổi đôi rồng đuôi giao nhau, thân hình uốn lượn mềm mại quanh cột, đầu nghểnh cao cùng chầu vào viên ngọc tỏa sáng. Đầu rồng có mào lửa bốc lên, chân rồng năm móng nhọn sắc. Bộ đài là ba vòng tròn chạm hoa văn sóng nước (sóng xô, sóng cuộn).

Hai hình tròn và vuông ở lớp nền thứ hai tượng trưng Vũ Trụ theo quan niệm người xưa: "Trời tròn-đất vuông". Cột đá khổng lồ là biểu tượng Linga (sinh thực khí) thể hiện ước vọng mưa thuận gió hòa, vạn vật phồn thịnh, sinh sôi nảy nở của cư dân Việt chuyên canh lúa nước.

Việc chọn cột đá lớn nguyên khối (loại đá nhám bản địa) để làm Linga và chạm đá thành nhiều vòng sóng nước để làm Yoni chứng tỏ trình độ phân thạch, trình độ điêu khắc tài ba đồng thời cũng bao hàm tư tưởng thâm thúy, cao siêu của tổ tiên người Việt.

Với những công trình ở chùa Dạm, có thể coi vương triều Lý là vương triều mở đầu cho nghệ thuật kiến trúc và tạo hình tượng đài hoành tráng của quốc gia Đại Việt.

Cột biển - tượng đài hoành tráng ở ngoài trời (tồn tại hơn 9 thế kỷ) đã trở thành niềm tự hào của nền điêu khắc Việt Nam. Nhiều nghệ sĩ đã say mê chiêm ngưỡng cột biển đó in bóng ấn tượng, kỳ ảo vào núi non, đồng ruộng sông ngòi ở các thời điểm khác nhau khi mặt trời chiếu rọi. Không phải ngẫu nhiên mà cột biển chùa Dạm được gia công thành phiên bản đặt tại sân Viện bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

"Của thiêng còn một chút này", đó là những bức tường đá ở các tầng nền, là cột biển, là Yoni và những chân cột đá tảng lớn (75cmx75cm chạm hình hoa sen) còn sót lại ở chùa Dạm. Nhưng tiếc thay những di vật quý báu ấy đang bị rơi vào tình trạng hoang phế, xuống cấp thảm hại. Việc tu sửa tùy tiện, chắp vá thô kệch hiện nay đã "giết chết" vẻ đẹp và giá trị của những tác phẩm điêu khắc "độc nhất vô nhị" nơi đây. Đáng lẽ phải kè lại những tầng nền cho vững chắc ở ngay chỗ dựng cột biển và dọn sạch cỏ dại xung quanh thì người ta lại đổ bốn cột bêtông cốt thép và định lắp mái lên trên cột biển. Hành động ấy đã vô tình hủy hoại một tuyệt tác của dân tộc.

Các bức tường đá cũng bị bạch đàn "vây bủa", che khuất. Tại sao ở chốn danh lam cổ tích như chùa Dạm, cơ quan văn hóa tỉnh Bắc Ninh không đầu tư vào hướng dẫn địa phương xã Nam Sơn trồng thông, trúc hoặc cây cảnh để tạo khuôn viên đẹp đẽ cho quần thể di tích đặc biệt này?

Chẳng còn bao lâu nữa Việt Nam sẽ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, chùa Dạm là một điểm văn hóa - du lịch trong lộ trình lịch sử, mong sao Bộ Văn hóa và chính quyền cũng như cơ quan chức năng tỉnh Bắc Ninh nên sớm có kế hoạch đầu tư tu bổ một cách khoa học và thích đáng để khôi phục diện mạo hoành tráng cho công trình thời Lý.


Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 21:27
Chùa Đá Trắng


http://i105.photobucket.com/albums/m202/s0ck22/chuadatrang.jpg
Cách đây vừa đúng 420 năm, Mậu Dần - 1578, chúa Tiên Nguyễn Hoàng sắc phong Lương Văn Chánh làm Trấn Biên quan, đưa quân chiêu tập lưu dân vượt đèo Cù Mông vào khai khẩn đất Phú Yên. Sứ mệnh hoàn thành, Lương Văn Chánh được thăng Phụ quốc Thượng tướng quân Phù nghĩa hầu. Đến khi mất, ông được tặng Phù quốc công Liệt thượng đẳng thần. Đối với Phú Yên, vị khai quốc công thần Lương Văn Chánh trở thành thần hoàng khai sáng mà nhân dân tôn thờ, kính trọng ngay từ buổi đầu mở cõi!

Trên bước hành trình khai hoang lập đất mới Phú Yên, Lương Văn Chánh đã dừng ngựa đóng quân tại Bà Đài trong chặng thứ hai. Vùng Bà Đài vào thời Minh Mệnh được đổi thành Xuân Đài. Từ năm 1611 đến 1899 nơi đây là thủ phủ tỉnh Phú Yên. Nhiều dinh thự, cơ sở tôn giáo được xây dựng. Trong đó, có nhà thờ Mằng Lăng - nhà thờ Thiên Chúa giáo đầu tiên của Phú Yên; cùng nhiều ngôi chùa Phật giáo uy nghiêm, cổ kính, lại thêm đặc sản nổi tiếng.

Rủ lên Đá Trắng ăn xoài
Muốn ăn tương ngọt Thiên Thai thiếu gì.

Nếu như chùa Thiên Thai có tương ngọt thì chùa Đá Trắng có xoài tiến. Tương truyền, những lần dừng chiến thuyền ở vịnh Xuân Đài trên đường hành quân đánh nhau với quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã có dịp thưởng thức đặc sản vùng này và tỏ ra ưa thích xoài Đá Trắng. Vị ngọt thanh của nó không xoài ở đâu có được. Vì vậy, dưới triều Gia Long, cùng với lòn bon Quảng Nam, xoài Đá Trắng của Phú Yên trở thành "nhị bảo ngự thiện".

Kỳ thực, xoài Đá Trắng không nhiều. Giống như tượng ở chùa Thiên Thai, rất hiếm. Hai câu ca trên chỉ là một lối nói ẩn dụ mà thôi. Và nhà văn Trần Huyền Ân có lý khi biện luận rằng: "Khi xoài Đá Trắng đã già, các quan tỉnh Phú Yên cho đếm từng trái, ghi vào sổ, hư rụng phải báo. Đến mùa, quan định hái bao nhiêu, còn lại mới để cho thập phương thiên hạ. Đất ở đây toàn sỏi đá, số cây có quả ít, số quả trên cây cũng ít, thử hỏi còn lại bao nhiêu? Chùa Thiên Thai nhỏ, các bà vãi đâu có mấy người, số tương làm ra không thể nhiều. Vậy xoài Đá Trắng, tương Thiên Thai ngon ngọt là đúng, nhưng rủ lên ăn, còn bảo thiếu gì, thì chính là một cách nói để khỏi bị từ chối"!

Chúng tôi hành hương về chùa Đá Trắng. Chùa nằm trên đỉnh núi Xuân Đài, sát quốc lộ 1A, đoạn giữa thành phố Quy Nhơn của Bình Định với thị xã Tuy Hòa của Phú Yên. Xoài mùa này vẫn sum suê nhưng không có trái. Dòng người tấp nập. Họ vừa leo dốc vừa hát, từ bài chòi, hò khoan đến vọng cổ! Gương mặt người nào cũng thánh thiện. Nụ cười tươi như hoa mai. Họ lễ chùa đầu năm và dự lễ đón nhận bằng công nhận Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia. Một vinh dự cho nhà chùa, cho phật tử và cho người dân đất này. Đường lên chùa lát đá tảng lớn trườn qua con dốc thoai thoải gần 1 km, rộng khoảng 4 m, xưa vốn nằm trong hệ thống đường thiên lý Bắc - Nam do hai tướng Nguyễn Huỳnh Đức và Lê Chất thời đầu nhà Nguyễn trực tiếp chỉ huy sửa sang. Từ đỉnh dốc có thể phóng tầm mắt bao quát cả vùng sơn thủy hữu tình. Xa xa phía đông nam là đầm Ô Loan với mặt nước thản nhiên nổi tiếng trong ca dao. Gần hơn, dòng sông Cái loáng bạc chảy qua cầu Phường Lụa, ôm lấy ngọn núi Sơn Trà sừng sững giữa đồng bằng xanh thẳm. Còn phía Nam, thấp thoáng lăng mộ anh hùng Cần Vương Lê Thành Phương cùng nằm trên dãy núi Đá Trắng.

200 năm của một công trình nghệ thuật cổ

Nằm ở độ cao gần 100 m so với mặt nước biển, lại tọa lạc ngay đỉnh núi Xuân Đài, mặt hướng về biển Đông, địa thế chùa Đá Trắng thật hiếm có. Những khối đá trắng phau bao quanh, tôn thêm vẻ lung linh, kỳ bí của chùa. Tên chữ của chùa là Tử Quang tự, hoặc Linh Quang tự được tạo lập từ năm Đinh Tỵ - 1797 dưới triều vua Quang Toản nhà Tây Sơn. Vì vậy, có giả thiết cho rằng sau khi nhà Tây Sơn mất, nhiều quân tướng Tây Sơn đã xuống tóc quy y ở chùa này nhằm tránh sự khủng bố của nhà Nguyễn - Gia Long. Tổ khai sơn là Thiền sư Thích Diệu Nghiêm, phái Lâm Tế đời thứ 36. Kế theo, có 9 vị sư tổ khác nối nhau trụ trì. Năm Nhâm Dần - 1842, dưới thời vua Thiệu Trị, chùa được sửa chữa quy mô, có bia ghi chép sự tích. Năm Kỷ Sửu - 1889, chùa được vua Thành Thái ban sắc tứ.

Trong chiến tranh, phần chính của chùa bị phá hoại, phải dựng lại gần như hoàn toàn mới, nhưng vẫn giữ được một số đường nét kiến trúc của thuở ban đầu. Cổng chùa và đặc biệt là khu vườn mộ tháp còn nguyên vẹn, thể hiện, rõ nét nghệ thuật kiến trúc cổ. Với quy mô lớn nhỏ, cao thấp khác nhau, tất cả các bảo tháp đều được trang trí hoa văn, phù điêu và tượng thú một cách tinh xảo phong phú. Từ tượng hổ đến tượng nghề, kỳ lân... đều toát lên sức mạnh phi thường trong nhiều tư thế khác nhau. Khu mộ tháp cổ là phần quan trọng hình thành chỉnh thể độc đáo toàn cảnh chùa Đá Trắng. Bên cạnh đó, những phiến đá lát lớn tạo nên con đường từ Quốc lộ 1A lên cổng chùa, cũng có một ý nghĩa đáng kể về mặt xây dựng. Tuy không kỳ vĩ bằng những khối đá khổng lồ xây nên Kim Tự Tháp ở Ai Cập, nhưng những viên đá được đẽo khéo léo, công phu với nhiều kiểu dáng khác nhau, nối dài hàng cây số đã cho thấy óc thẩm mỹ lẫn công tích lớn lao của người xưa...

Anh Vũ Văn Thoại - Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Phú Yên cho biết: "Đối với Phú Yên, chùa Đá Trắng là chùa tổ và là một trong những ngôi chùa cổ nhất. Đồng thời, đây còn là di tích lịch sử gắn liền với sự nghiệp của nhiều lãnh tụ chống Pháp như Lê Thành Phương, Võ Trứ, Trần Cao Vân...".



Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 21:28
Chùa Đại Lan (Đại Lan Tự)



Chùa Đại Lan thuộc thôn Đại Lan, xã Duyên Hà, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội, cách trung tâm thành phố khoảng 17 km về phía nam ven bờ sông Hồng.

Chùa Đại Lan trước ở bờ sông nên đã bị lở, dân làn chuyển các đồ thờ cúng vào nghè vì vậy nghè của làng đã trở thành chùa. Chùa mới gồm 2 nếp nhà, nếp trước là nhà tiền tế dùng làm nơi hội họp và tế lễ, nếp sau dùng làm tam bảo. Tiền tế xây 5 gian xây kiểu "tường hồi bít dốc". Tòa tam bảo hình chuôi vồ, gồm tiền đường 3 gian và thượng điện có 2 gian. Chùa còn đầy đủ hệ thống tượng Phật. Trong chùa có nhiều mảng chạm khắc trang trí, di vật có niên đại thế kỷ 19-20. Tượng Phật có niên đại tương tự.

Chùa (và đình) Đại Lan đã được Bộ Văn hóa và thông tin xếp hạn di tích lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật ngày 21/1/1989.



Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 21:30
Chùa Đậu


http://i105.photobucket.com/albums/m202/s0ck22/chuadau-1.jpg
Chùa Đậu nằm ở cuối làng Gia Phúc, xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây, cách Hà Nội 24 km về phía nam. Chùa còn có nhiều tên gọi khác là: Thành Đạo Tự, Pháp Vũ Tự, Chùa Vua, Chùa Bà.

Chùa Đậu vốn thờ Tứ Pháp: vân, vũ, lôi, điện (tức là mây, mưa, sấm, chớp). Cuốn sách bằng đồng có từ thời Sĩ Nhiếp đầu thế kỷ thứ 3 (năm 200-210) hiện cất giữ tại chùa cho biết rõ sự tích Phật giáo là từ ấn Độ du nhập vào Việt Nam.

Theo Đại Đức Thích Thanh Nhung, trụ trì chùa, thì đầu thế kỷ thứ 3, Sĩ Nhiếp cho lập chùa đặt tên là Thành Đạo Tự, rước Đại Thánh Pháp Vũ Đại Bồ Tát về thờ, nên gọi là Pháp Vũ Tự. Năm 1635, đời vua Lê Thần Tông, cung tần Ngô Thị Ngọc Nguyên đã làm hội chủ hưng công trùng kiến quy mô ngôi chùa. Chùa Đậu nổi tiếng từ bấy giờ, mọi người cho rằng về tới nơi đây là đến nơi đất Phật.

Chùa Đậu được xây cất lớn vào đời Lý. Tới đời Lê có văn bia, sổ sách ghi truyền về việc tu sửa chùa. Chùa kiến trúc theo kiểu "nội công, ngoại quốc" "tiền Phật, hậu thánh" theo cấu trúc hệ thống tứ pháp nhà Phật. Nghệ thuật kiến trúc có nhiều nét độc đáo, đặc trưng của nền nghệ thuật dân gian hưng thịnh vào thế kỷ 17. Ngôi chính điện từ đời Lê, mái lợp ngói mũi hài, các cột, xà đều chạm rồng; những bệ đá chân cột chạm hoa sen, bộ cửa tám cánh đều chạm tứ linh, tứ quý, sơn son, thếp vàng... Tam quan chùa là một gác chuông hai tầng tám mái, tầng trên treo quả đại hồng chung đúc năm 1801, thời Tây Sơn.

Năm 1947, những công trình quý báu này bị thực dân Pháp phá hoại, đốt cháy. Tuy nhiên, vẫn còn một số điêu khắc giá trị ở gác chuông Tam quan và Hộ tiền đường chạm trổ tiên nữ cưỡi rồng, chàng trai cưỡi hổ đánh rồng... rất sống động. Hai cái am thờ hai di hài nhà sư ở bên cạnh chùa được xây bằng gạch cổ thời Mạc, có hình các con thú, lá cây, hoa cúc rất độc đáo.

Khi chưa bị cháy, tại chùa còn nhiều vật quý hiếm như quạt ngà, quạt tê giác của vua Lê và chúa Trịnh ban. Hiện nay, chùa vẫn còn giữ cuốn sách đồng khắc chữ Hán nói về lịch sử chùa cùng một khánh đồng to đời Lê Cảnh Hưng thứ 33 (1772), một chuông đồng to thời Tây Sơn (Cảnh Trịnh thứ 9 - 1801), hai tấm gỗ tứ thiết sơn son thếp vàng có chạm hai bài thơ của vua Lê Hy Tông (1680 - 1705) và vua Lê Dụ Tông (1705 - 1719) khi về thăm chùa và một số bia đá cổ thời Mạc Sùng Khang (1566-1577), Dương Hòa (1635 - 1643), Thịnh Đức (1653-1657), Cảnh Hưng (1740-1786)...

Vào thời Hậu Lê, chùa được ghi nhận là "danh lam đệ nhất". Năm 1964, chùa được Bộ Văn hóa -Thông tin xếp hạng di tích lịch sử và nghệ thuật loại A, và được tu sửa lại vào năm 1967.

Chùa thờ Phật là thờ bà Đậu hay nữ thần Pháp Vũ. Đặc biệt, chùa còn lưu giữ hai di hài bó sơn ta của hai nhà sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường (đã thay nhau trụ trì chùa vào đầu và giữa thế kỷ thứ 17). Thi hài của hai vị thiền sư này có thể xem là những "quốc bảo". Được phép của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) và Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa - Thông tin), tháng 5-1983 pho tượng nhà sư Vũ Khắc Minh được đưa về Viện Khảo cổ học và được tiến hành đo đạc nghiên cứu và chụp phim X quang tại bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội để xác định giá trị.

Tượng lưu cốt nhà sư Vũ Khắc Minh nặng 7 kg, chiều cao ngồi 57 cm. Qua vết nứt rộng 2mm ở đầu và mặt thấy trong cùng là xương sọ, tiếp đến khoảng không rồi tới lớp bồi dày 2-4mm. Chất liệu bồi là đất gò mối tơi mịn trộn sơn sống, mùn cưa, giấy bản. Phủ ngoài chất bồi này là một lớp sơn ta mầu cánh dán dày 0,1 mm. Hiện nay, đôi chỗ trên tượng hiện ra những lá bạc mỏng phủ ngoài lớp sơn ta, còn ngoài cùng là một lượt quang dầu.

Theo truyền tụng dân gian, cách đây 300 năm, thiền sư đã ngồi thiền với chum nước trong am để uống. Người dặn lại với các phật tử, sau 100 ngày nếu không thấy tiếng mõ nữa thì hãy mở cửa am ra. Nếu thấy thiền sư ngồi im thì cứ để như thế và lấy sơn ta bả lên người và nếu thấy có mùi hôi thối thì dùng nước am xấp lên.

Một nhà nhân chủng học cho biết: "Thi hài của hai thiền sư là một hiện vật lịch sử quý hiếm, ở nhiều bảo tàng trên thế giới không thấy có loại hình táng trên. Vì vậy, tạm đặt tên là phương pháp "tượng táng" tức là làm thành tượng để táng.

Đến nay, chùa Đậu đã bị xuống cấp, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và Trung tâm hỗ trợ phát triển tài năng có sáng kiến tổ chức hội thảo "Giá trị văn hóa chùa Đậu và hướng bảo tồn, tôn tạo", đã được nhiều tổ chức, đơn vị hưởng ứng... Thiết nghĩ, nhiều di sản quý mà chùa Đậu là một điển hình được giữ gìn, tôn tạo, khai thác, phát huy giá trị theo hướng "Nhà nước và nhân dân cùng làm" thì chúng ta không những bảo tồn được di sản quý, mà còn có nhiều điểm du lịch văn hóa thu hút khách du lịch thập phương.


Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 21:31
Chùa Đất Sét


Chùa Đất Sét còn có tên là Bửu Sơn tự nằm ở khóm 1, phường 5, thị xã Sóc Trăng. Chùa nổi tiếng bởi những vật được tạo hình từ đất sét. Từ tháp Đa Bảo 13 tầng, tháp Bảo Tòa cao hai mét, đến Lục Long Đăng và nhiều thứ khác đều làm bằng đất sét, sau đó được phủ ngoài bằng nước sơn, kim nhũ. Chùa Đất Sét là một công trình kiến trúc độc đáo ở Việt Nam.

Chùa Đất Sét đuợc xây dựng từ rất lâu để thờ Phật tại gia của dòng họ Ngô. Thuở ban đầu, Chùa được cất bằng các loại cây bình thường ở địa phương. Trải qua bao năm tháng nên đã bị hư mục khá nhiều và cũng đã được con cháu trong dòng họ tu sửa nhiều lần theo cấu trúc ban đầu. Mãi đến năm 1928, ông Ngô Kim Tông đã thực hiện một ý tưởng của mình là dùng chất liệu đất sét tại chỗ để dựng nên một ngôi chùa và tạc các tượng thờ Phật.

Bằng trí tưởng tượng phong phú, bằng bàn tay tài hoa khéo léo của mình, ông đã tạo nên tháp Đa Bảo cao 13 tầng, mỗi tầng có 16 cửa, mỗi cửa có một tượng Phật. Tổng cộng tháp Đa Bảo có 208 cửa, 208 vị Phật và 156 con rồng đỡ cho 13 tầng tháp. Toàn bộ tháp này cao chừng 4,5 mét. Kế đó ông tạo Tháp Bỏa Tòa để thờ Phật cao chừng 2 mét, phía trên theo hình bát giác tượng trưng cho bát quái: Càn - khảm - cấn - chấn - tốn - ly - khôn - đoài. Trên cùng của tháp là một tòa sen với 1000 cánh, trên mỗi cánh sen có một tễợng phật ngự. Trong chùa có một chùm đèn gọi là Lục Long Đăng với sáu con rồng quay đầu ra chung quanh, đuôi chụm vào với nhau, phía dưới là một bông sen để các bóng đèn. Ngoài ra, ông Tông còn tạo hình các danh thú như Kim Lân, Thanh Sư, Bạch Hổ, Long Mã, Bạch Tượng... có ba cái đỉnh, mỗi cái cao 1,5 mét, bảy cái lư hương nhỏ. Tìm hiểu kỹ thì được biết toàn chùa có đến 1991 tượng Phật và tất cả đều hoàn toàn làm bằng đất sét. Sau khi làm xong, tất cả các sản phẩm bằng đất sét đều được phủ lên bên ngoài bằng nước sơn, kim nhũ và dầu bóng nên trông giống như làm bằng chất liệu đồng vậy.

Bên cạnh những sản phẩm bằng đất sét, ở trong chùa còn có những cây đèn cầy (nến) khổng lồ. Sáp để đúc đèn được mua từ năm 1940, vẫn còn nguyên khối. Sau một tháng, đèn thiệt khô mới dỡ bỏ khuôn và đem những con rồng bằng đất trang trí xung quanh. Được biết, mỗi cặp đèn lớn đốt liên tục 70 năm mới hết.

Suốt gần 30 năm, không một giọt sáp nào chảy ra bên ngoài cả. Cần phải nói thêm là trong chùa hiện nay vẫn còn ba cây nhang (hương) lớn, mỗi cây nặng 50 kg chưa sử dụng đến. Tất nhiên đều là hương thật. Có lẽ chùa Đất Sét là một công trình kiến trúc "độc nhất vô nhị" ở Việt Nam.

Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 21:37
Chùa Diệc


http://i105.photobucket.com/albums/m202/s0ck22/chuadiec.jpg
Hai tiếng "Chùa Diệc" trở thành niềm yêu mến của người dân thành phố Vinh từ lâu rồi - ngôi chùa lớn nhất ở Vinh và là một trong những ngôi chùa lớn nhất ở Nghệ Tĩnh. Người sáng lập ra ngôi chùa mượn ý trong kinh Phật để đặt tên: diệc bộ diệc xu có nghĩa là cùng bước theo cùng chạy theo (các bậc tu hành đắc đạo để lên cõi Niết Bàn).

Có phải như vậy chăng? Dân gian quanh vùng lại giải thích một cách khác đầy mầu sắc huyền bí và tôn nghiêm.

Thuở ấy, có cánh đồng màu có nhiều ao chuôm do bà con nông dân đào để lấy nước tưới đất canh tác. Bỗng một năm, hạn hán lớn, ao chuôm khô sạch nước. Cá tôm phơi xác. Chim chóc trốn biệt đi nơi khác. Đồng điền quạnh vắng, chỉ có gió nam thổi mù mịt đất cát. Nhưng rất lạ, sau một đêm ngủ dậy, người ta thấy diệc bay về rất nhiều. Diệc chen chúc nhau ở các lòng ao lòng chuôm khô nẻ đất. Trời đang nắng chang chang bỗng tối sầm vần vũ mây đen, và giông tố nổi lên. Mưa! Mưa! Mưa xối xả. Đồng ruộng được tưới mát. Ao chuôm đầy ắp nước. Bà con nông dân sung sướng kéo nhau ra đồng, ngạc nhiên thấy cảnh tượng đau lòng: hàng trăm con diệc nằm chết la liệt. Ai cũng bảo những con diệc này do Nhà trời phái xuống để làm mưa. Họ nhặt xác diệc lại một nơi và đắp thành một cái gò nhỏ. Từ hôm ấy, đêm nào người ta cũng thấy từ gò đất đàn diệc bay lên trời... Các cụ già nảy ra ý định xây trên gò đất một ngôi chùa, và dân trong vùng quen gọi là Chùa Diệc.

Đời vua Thành Thái (1873), đất Vinh mới được nhà vua ký đạo dụ thành lập thị xã. Trước đó rất lâu, năm 1742, chùa Diệc đã được dựng lên. Thuở ban sơ, chỉ là một ngôi nhà gianh nho nhỏ, tường vách sơ sài, bao quanh bởi khu vườn rậm rạp. Năm này qua năm khác, chim muông kéo nhau về rất đông và khách thập phương về lễ bái tấp nập.

Ngày rằm tháng bảy năm ấy, vị sư trụ trì tại chùa nằm mơ thấy chim diệc bay về kín vườn, rồi lại rủ nhau bay về trời. Bà con dân làng bàn nhau góp công đức, xây dựng chùa khang trang. Những năm tiếp theo, chùa được tu bổ dần và trở thành một trong những địa chỉ văn hóa có giá trị lớn về kiến trúc và lịch sử.

Chùa tọa trên một khu đất rộng chừng ba ha. Tuy ở cạnh đường thiên lý, nhưng bước vào chùa, du khách bỗng có cảm giác êm ả, thanh tịnh. Lũy cây bao bọc. Vườn tược sầm uất, thơm hương hoa trái và ríu rít chim muông. Hồ sen thanh khiết. Tháp nhỏ trầm tư, lãng đãng linh hồn các phật tử quá cố, sinh thời đã góp nhiều công sức xây dựng chùa.

Lẫn vào bóng cây bóng tháp, lẫn vào trong tiếng chim và hương hoa là những đường nét dựng xây cổ kính. Thượng điện dài 13,60 m rộng 8,61 m. Hạ điện dài 10,6 m rộng 8 m. Tam quan với lầu gác chuông đường bệ. Trước tam quan là một cái hồ rộng càng tăng thêm vẻ trang nghiêm và u tịch của nhà Phật. Trong chùa có mười bảy pho tượng mà gương mặt dồn lên nỗi suy tư nhân thế. Phía trong uy nghi và trầm mặc những bức đại tự lưỡng long triều nguyệt, câu đối sơn son thiếp vàng, tòa sen và hương án lung linh ánh nến. Đặc biệt có hai bia đá lớn, cao 2 m rộng 1 m với những hình chạm khắc tinh vi... Cửa Thiền rạng sáng sự tế độ và dòng nước sông Vĩnh đón nguồn từ xa chảy về vĩnh viễn chiếu vào đôi câu đối: Thiền môn quang phổ độ - Vĩnh thủy viễn trường lưu. Lòng người cầu mong sự hòa mục và phép Phật ưa chuộng điều tín điều trung chiếu vào đôi câu đối: Nhân tâm cầu hòa lạc - Phật pháp thượng tín trung.

***

Ngôi chùa hầu như gắn liền với bao biến thiên lịch sử, với bao nhiêu sự kiện trọng đại của thành phố. Nơi đây đã in dấu chân của nhiều tao nhân mặc khách, của nhiều nhà chí sĩ yêu nước và nhiều chiến sĩ cộng sản.

Thời kỳ Cần Vương, vườn cây sầm uất sau chùa là điểm hẹn gặp gỡ của một số nhà Văn thân bàn tính lập mưu đánh Pháp. Quán lau ở gần đó là bãi hành hình đẫm máu. Đầu của nghĩa quân đã rơi xuống và cổng chùa càng dựng lên trang nghiêm.

Vào những năm đầu của thế kỷ 20 chùa là nơi liên lạc bí mật của Phan Bội Châu cùng với các đồng chí của mình. Tháng 3-1926, hội Phục Việt đã tổ chức một cuộc mít-tinh lớn tại chùa Diệc đòi xóa án Phan Bội Châu và truy điệu Phan Chu Trinh. Hàng ngàn người dân thành phố và học sinh trường Quốc học Vinh đã tới dự. Tiếng mõ cầu siêu cho nhà chí sĩ Phan Chu Trinh thấm vào lòng người nỗi tiếc thương da diết và khơi gợi tình cảm yêu nước nồng nàn.

Cũng vào dịp mùa xuân năm đó, phong trào đấu tranh của nhân dân lên cao buộc thực dân Pháp phải để cụ Phan Bội Châu đang bị giam lỏng ở Huế được về thăm quê Nam Đàn. Cuộc đón tiếp diễn ra ở Vinh vô cùng sôi động. Nhiều học sinh và sinh viên xứ Nghệ đang học ở Hà Nội cũng tìm cách trở về Vinh trong dịp này. Chùa Diệc mở cửa, lung linh ánh nến và vang rền tiếng mõ, tiếng chuông.

Trước hội quán Quảng Tri, tề tựu đông đúc các vị nhân sĩ, giáo sư, viên chức. Thầy giáo Lê Thước đọc diễn văn chào đón: "Cụ là một vĩ nhân ái quốc, rất kiên nhẫn, mà Ông Xanh giáng sinh ra giữa đất Nghệ An. Hai chục năm thừa đi ra ngoại quốc lấy bút làm chuông, lấy nghiên làm mõ, đánh thức quốc dân trong cơn mê mẩn mấy trăm năm..."

Lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh và đón tiếp cụ Phan Bội Châu là một cuộc tập hợp lực lượng quần chúng, chùa Diệc càng được người ta nhắc đến như một địa điểm thiêng liêng kết hợp nhuần nhuyễn giữa Đạo và Đời.

Năm 1941, Đội Cung dấy binh khởi nghĩa ở đồn Rạng (Đô Lương), kéo về đột nhập thành Vinh. Sau khi bị lộ và bị thất bại, ông đã trốn vào chùa ẩn nấp mấy hôm, rồi rút lên Cổng Chốt.

Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931 sôi sục các cuộc biểu tình, cờ búa liềm và truyền đơn. Thành phố Vinh náo động khí thế đấu tranh của thợ Trường Thi, của nông dân làng Đỏ, với ngọn cờ Bến Thủy, với cuộc biểu tình Thái Lão... thì chùa Diệc cũng là nơi thầm lặng giấu các chiến sĩ cộng sản.

Vị sư trụ trì chùa cảm nhận được sự chuyển biến đúng hướng của thời cuộc, đã lặng lẽ cầu kinh niệm phật và theo dõi mọi biến động xảy ra hằng ngày. Vị sư ấy có một cuốn sổ riêng, ghi tên những người đã ngã xuống ở Vinh trong phong trào do Đảng lãnh đạo. Hồn thiêng của các liệt sĩ siêu thoát trong hương thơm cửa Thiền cùng với sự trường tồn của một miền đất lửa...

***

Trước cổng chùa, bên kia hồ, là trường Quốc học Vinh. Trường thành lập từ năm 1920. Niên khóa đầu có bốn mươi lăm học sinh. Nhưng niên khóa sau, số học sinh tăng lên. Sự hiện diện của ngôi trường làm tăng thêm sự linh thiêng của chùa Diệc. Trường học và Nhà chùa tạo thành một trung tâm văn hóa của thành phố Vinh.

Trên Quán Thầu Đâu dân dã thuở ấy, Quốc học Vinh được dựng lên tôn nghiêm mái trường hài hòa với sự trang nghiêm của mái chùa, các thế hệ trí thức lần lượt xuất hiện. Họ trở thành những nhà khoa học, nhà văn, nhà hoạt động chính trị...

Học sinh trường Quốc học với ngôi chùa có mối liên hệ khá mật thiết. Năm cụ Phan Chu Trinh qua đời, hầu hết học sinh tham gia lễ truy điệu tại chùa Diệc. Năm 1927, nhà trường tổ chức Chi bộ Thanh niên cách mạng đồng chí hội. Nhiều cuộc họp kín của chi bộ được tiến hành ngay tại vườn chùa... Trong số học sinh của trường , có đồng chí Nguyễn Tiềm, mười tám tuổi, đã là Bí thư Tỉnh ủy đầu tiên của Đảng bộ Nghệ An, hy sinh trong tù. Chắc hẳn trong cuốn sổ ghi các liệt sĩ cộng sản của vị sư chùa Diệc có tên Nguyễn Tiềm...

Sự liên hệ mật thiết giữa các thầy giáo, học sinh trường Quốc học Vinh với chùa Diệc qua nhiều năm tháng như sợi dây xe kết âm thầm và bền vững.

Từ mối liên hệ này, đã dẫn đến một sự kiện văn học quan trọng: Năm 1926, thầy giáo Lê Thước đã phát hiện được văn bản gốc Văn chiêu hồn (tức Văn tế thập loại chúng sinh) của Nguyễn Du tại chùa Diệc.

Lê Thước sinh năm 1891, quê huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Kỳ thi hương cuối cùng ở trường Nghệ năm 1918, ông đậu Giải nguyên. Sau đó ông chuyển sang Tây học một cách nhanh chóng và có hiệu quả.

Tốt nghiệp Trường cao đẳng sư phạm Hà Nội, ông về Nghệ An thành lập "Hội Hàn lâm Nghệ An" và dạy trường Quốc học Vinh. Nhà trường ở gần chùa Diệc, những ngày chủ nhật, ông thường sang chùa trò chuyện với vị sư cao tuổi. Thấy vị sư có trình độ học vấn uyên thâm, Lê Thước càng thích gần gũi. Vị sư cũng càng ngày càng quý trọng Lê Thước.

Bất ngờ một hôm, vị sư cho Lê Thước xem bản chép tay bằng chữ Nôm Văn chiêu hồn của Nguyễn Du. Lê Thước hối hả đọc, sung sướng run người. Những năm trước, Lê Thước đã say mê tìm hiểu Nguyễn Du. Nhiều lần ông còn về Tiên Điền trò chuyện với bà con họ Nguyễn để thu thập tư liệu. Ông đã cùng với Phan Sĩ Bàng viết cuốn Truyện cụ Nguyễn Du. Sự đeo đuổi kiên nhẫn đã đem lại cho ông một niềm vui lớn: tìm được Văn chiêu hồn đã từng lưu lạc hàng trăm năm mà chưa hề ai nhắc đến. Như một sự tình cờ, Văn chiêu hồn được lưu giữ ở chùa Diệc, cách quê Nguyễn Du chừng mười lăm ki-lô-mét, một ngôi chùa mà huyền thoại như đã sắp xếp để cất giấu tác phẩm đầy nhân ái này.

Đàn diệc xa xưa đã bay về báo hiệu cơn mưa trong mùa đại hạn. Rồi đàn diệc ấy lại chết sau mùa đại hạn. Có phải đàn diệc ấy cũng là thành phần trong thập loại chúng sinh mà Nguyễn Du muốn chiêu hồn?

Từ hôm ấy, học sinh trường Quốc học Vinh nhìn chùa Diệc với tấm lòng yêu mến và kính trọng hơn. Dưới mịt mù bụi cát thời gian là tầng tầng vỉa quặng văn hóa lấp lánh tâm linh dân tộc. Lẫn trong hương khói, trong tiếng chuông, tiếng khánh, tiếng mõ cầu kinh, người ta nghe văng vẳng nhịp thơ Văn chiêu hồn:

Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không,
Nam vô Phật, nam vô pháp, nam vô tăng
Nam vô nhất thiết siêu thăng thượng đài



Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 21:40
Chùa Diêm Điền



Chùa Diêm Điền là một di tích văn hoá thuộc huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Tục truyền rằng: cách đây hơn 100 năm, làng Diêm Điền chỉ là một vùng ruộng, sông toàn nước mặn, chỉ có cây đước, lác và năn mọc. Dân làng sống bằng nghề bắt tôm, bắt cá và bán cây lác dệt chiếu. Mùa nóng ruộng đóng diêm thành muối. Chỉ đến khi Ngài tiên hiền họ Phạm di dân đến khai hoang, vỡ hoá mới đặt tên cho làng là Diêm Điền (làng ruộng muối) như ngày hôm nay.

Hồi đó, giếng chỉ toàn nước mặn, dân không có nước ngọt để uống. Một hôm, có một nhà sư và một chú tiểu không biết từ đâu đến chặt cây rừng dựng lên một ngôi am thỉnh phật, đêm đêm kinh kệ, ban ngày đào giếng. Cho đến khi giếng có nước ngọt thì nhà sư và chú tiểu đó lại ra đi mất dạng.

Để tưởng nhớ công ơn của các vị trên, người dân Diêm Điền đã lập đền thờ các vị đó ngay tại am Phật mà nhà sư và chú tiểu đã từng an toạ.

Chùa Diêm Điền được xây dựng vào khoảng năm 1850, theo lối kiến trúc cung đình nhiều lớp trang nghiêm. Chung quanh chùa có tường bao bọc, giữa có cửa tam quan chạm trổ công phu. Chùa hướng về phía đông nam, toạ trên một gò đất cạnh rừng thật cao và rất rộng.

Ngày nay, cả thôn Diêm Điền vẫn còn uống nước giếng duy nhất cạnh chùa, thường gọi là giếng chùa. Phía Bắc chùa có mộ ông tiên hiền họ Phạm. Ngôi mộ này trong chiến tranh tuy không đắp nhưng vẫn cao. Người làng thường kể, trong chiến tranh, đêm nào có ánh sáng như sao gần mộ thì sau đấy có giặc đến, cứ vậy mà dân làng biết để chống càn.

Quý khách đi du lịch Quảng Ngãi, thăm chùa Thiên ấn, tắm biển Mỹ Khê, xem chứng tích Mỹ Lai, đến Ba Tăng nhìn dấu chân " ông Khổng Lồ" còn in trên đá, xem địa đạo Hố Toái, Bình Châu thì cũng nên dành ít thời gian thăm chùa Diêm Điền. Quý khách sẽ tận mắt nhìn ngôi am diện tích không quá 20m2 ,vừa mới dựng thay ngôi am cũ đã bị cháy.

Quý khách sẽ mua hạt sen chùa Diêm Điền, vừa thơm ngon vừa bổ làm quà cho người thân. Con gái làng Diêm Điềm tuy dãi nắng, dầm mưa nhưng ăn hạt sen và uống nước giếng chùa nên da cô nào cũng mịn và trắng. Người dân Diêm Điền cũng rất hiếu khách, họ luôn sẵn lòng kể cho quý khách nghe về lịch sử chùa Diêm Điền cũng như lịch sử về vùng đất Diêm Điền của họ. Quý khách sẽ cảm nhận được không khí cởi mở, chân thành khi đến nơi đây.

Có điều quý khách sẽ không tránh khỏi ngạc nhiên là chùa không hề nhận một khoản tiền nào của khách thập phương dù ít hay nhiều vì dân địa phương muốn để công sức của chính mình tự đóng góp xây dựng lại ngôi chùa khi được phép. Nghe thật nghịch lý nhưng đó lại là cái lý rất đáng thương đáng trọng của người dân nơi ruộng đồng sông nước đã gánh chịu quá nhiều gian khổ. Họ muốn thực hiện câu ca dao địa phương do chính họ đặt ra:

Quý khách đã đến Diêm Điền.
Viếng chùa càng quý viếng tiền xin lui.
Chùa quê nghèo thật, xin người.
Đốt hương niệm Phật hoa tươi, hương đèn

Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 21:42
Chùa Dơi


Trên đường từ Sóc Trăng về huyện Mỹ Xuyên đến chợ Mùa Xuân thuộc phường 3 rẽ vào con lộ đất dii thêm một khoảng 1 cây số khách sẽ gặp ngôi chùa Mã Tộc mà dân địa phương gọi là chùa Dơi.

Ngay từ đàng xa khách đã nghe thấy tiếng kêu "rít rít" và tiếng đập cánh của loài dơi quạ, loại dơi lớn ở miền Nam. Bước qua cổng chùa nhìn lên tàng cây, khách trông thấy cảnh tượng lạ mắt. Hàng trăm, hàng ngàn cánh dơi đang treo ngược đầu xuống đất từ trên những cành cao xuống đến những cành thầp phe phẩy đoi cánh quạt mát cho giấc ngủ ngày vì dơi là loài ăn đêm. Những chú dơi lớn đôi cánh căng ra có đến cả mét, ngực phủ lớp lông màu vàng hực. Với hàm răng bén nhọn dơi ăn được những quả trái có lớp vỏ cứng và dày như dừa, gòn...

Khu vườn chùa có diện tích gần 3 hécta với những loầi cây sao, dầu, vú sữa, xoài, thốt nốt... dày đặc bóng dáng loài dơi đeo bám trên cành nhánh. Theo các vị sư sãi chùa đã được xây cất cách nay hơn hai trăm năm với vật liệu ban đầu la cây ván và lợp lá. Chùa được trùng tu lại nhiều lần trong nhiều thời gian khác nhau mới có được hình dáng như hiện nay. Loài dơi cũng đến đây sinh sống sau khi chùa được xây cất, đặc biệt là chúng chỉ sống quanh khu vườn chùa, không sống lan qua khu lân cận dù ở sát ngay bên cạnh.

Qua khỏi cổng chùa một quãng là điện Sư Cả, nhà ở của Tỳ kheo, hội trường, phòng học giáo lý xây kế tiếp nhau. Ngôi chính điện nằm ngay phía trước cách khoảng một sân gạch lớn được xây cất trên hai tầng nền. Tầng nền dưới lót đá cao 1 mét, tầng nền trên nhỏ hơn được đúc chắc chắn. Hàng cột tròn với hình tiên nữ hai tay chắp vào nhau dọc quanh 4 vách chùa ở phần gàn giáp mái. Mái chùa gồm hai lớp mái cách khoảng, lợp ngói được sơn phết nhiều màu sặc sỡ. Hai mái giao nhau thành góc 30 độ, có tháp nhỏ nhiều tầng, đầu mái mang hình đuôi rắn vút thẳng lên không. Loài dơi sinh sống nơi đây như đã thuần hóa, gần gũi, thân thuộc với nếp sinh hoạt nơi này. Dơi đẻ con vào mùa mưa, nuôi con bằng đôi vú nằm lệch về phía hông với tuyến sữa dày. Thường dơi mẹ trong thời kỳ nuôi con chúng không thể bay ăn xa, chỉ quanh quẩn những nơi gần và đặc biệt nhất là chúng không ăn quả trái trong khu vườn chùa nơi chúng cư ngụ.

Trên bệ thờ của ngôi chính điện là tượng phật ngồi cao 2 mét bằng đá tạc nguyên khối. Một tượng Phật nằm phía trước và chung quanh là hàng chục tượng lớn nhỏ làm bằng nhiều loại vật liệu, dáng vẻ khác nhau. Bao quanh điện thờ là bức hoành lớn chạm khắc công phu hình hoa kiểng, chim cá đặc biệt có hình hai con dơi đang bay lượn. Bức hoành này đã có ngay từ lúc chùa được xây dựng lần đầu trải đến ngày nay.

Nét độc đáo của chùa Mã Tộc là hình ảnh của loài dơi qua quen thuộc sinh sống nơi đây tự lâu đời. Nó cũng hoà nhập vào cuộc sống của con người, vùng đất tạo cho cảnh trí thiên nhiên vốn dĩ trầm mặc u tịch của đền chùa nét sinh động gần gũi giữa người và vật. Kích thích óc tò mò, trí tưởng tượng của khách phương xa khi có dịp đến viếng Sóc Trăng.





Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 21:47
Chùa Dư Hàng (Phúc Lâm Tự)



Tọa lạc ở phố Dư Hàng, phường Hồ Nam, quận Lê Chân, đây là ngôi chùa cổ nổi tiếng ở thành phố Hải Phòng. Chùa có tên chữ là Phúc Lâm Tự, lúc đầu chỉ dựng bằng tre lá. Tương truyền vào đời Trần, Giác Hoàng Điều Ngự Trần Nhân Tông và Thiền sư Huyền Quang vẫn thường đến dây thuyết giảng đạo pháp. Đến đời Lê Gia Tông, năm 1672, quan Đô úy Nguyễn Đình Sách từ quan xuất gia, lấy đạo hiệu là Chân Huyền, thấy cảnh chùa đổ nát, mới đứng ra vận động nhân dân sửa chùa. Đến đời vua Thành Thái, Hòa thượng Thông Hạnh tự Phúc Nguyên thuộc phái Vĩnh Nghiêm đã trùng tu mở rộng chùa, xây gác chuông. Năm 1917 chùa lại được sửa sang một lần nữa với quy mô như ngày nay.

Chùa Dư Hàng được xây dựng theo kiểu "Đinh", có cổng tam quan ba tầng mái cao vút. Một chuông lớn được treo trên gác chuông năm gian hai tầng, mái cong. Qua gác chuông là một sân rộng có đặt một đỉnh lớn và tượng Bồ-tát Quán Thế Âm. Tiền đường gồm bảy gian dựng theo kiểu vì kèo giá chiêng; bên phải là năm gian nhà tổ, nhà trai và nhà ngang; còn bên trái là năm gian nhà hậu. Năm gian thượng điện cũng được dựng bằng gỗ có những vì kèo được chạm trổ tinh tế.

Chính điện có nhiều tượng được chạm khắc tinh xảo, như tượng Phật, tượng Hộ Pháp, tượng Trúc Lâm tam Tổ và câu đối chạm khắc theo phong cách nghệ thuật triều Nguyễn. Bức chạm lộng sơn son thếp vàng rực rỡ ở chánh điện do các nghệ nhân Hà Nam Ninh tạc vào đầu thế kỷ XIX. Chùa còn giữ được nhiều di vật quý như đỉnh đồng, khánh đồng, bát hương, tủ chạm.

Ngoài vườn chùa có 9 tháp mộ, trong đó có nhóm tháp "Trúc Lâm tam Tổ", tháp của Thiền sư Chân Huyền Nguyễn Đình Sách và các vị cao tăng từng trụ trì ở chùa.

Phúc Lâm Tự xứng đáng là một di tích kiến trúc cổ kính, một danh lam nơi đất cảng Hải Phòng.


Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 21:50
Chùa Giác Lâm

http://i105.photobucket.com/albums/m202/s0ck22/chuagiaclam.jpg
1. Vị trí bề thế, nhưng quy mô lại khiêm tốn, chùa Giác Lâm là một trong những ngôi chùa cổ nhất của thành phố Hồ Chí Minh đã được Bộ Văn hóa ra quyết định số 1288 VH/QĐ ngày 16 - 11 - 1988 công nhận là một di tích lịch sử - văn hóa. Chùa tọa lạc ở số 118 đường lạc Long Quân, phường 23, quận Tân Bình, trong vùng Phú Thọ Hòa.

Chùa vốn ở trên gò Cẩm Sơn, còn gọi là Cẩm Đệm và Sơn Can, do ông Lý Thụy Long, người Minh Hương, quyên tiền của xây dựng vào mùa xuân năm Giáp Tý (1744), đời Chúa Nguyễn Phúc Khoát. Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức miêu tả khu vực này như sau: rộng ba dăm, cây cao như rừng, hoa nở tựa gấm, sáng chiều mây khói nổi bay quanh quất, địa thế tuy nhỏ mà có nhã thú. Thi nhân du khách, mỗi dịp tết Thanh minh, Trùng cửu rảnh rỗi, kết bầy năm ba người đến mở tiệc thưởng hoa, chuốc chén ngâm vịnh, ngó xuống chợ búa rộn ràng xa cách ra ngoài tầm mắt,?"

Năm 1772, Hòa thượng Viên Quang thuộc dòng Lâm tế tới trụ trì, từ đó mới đổi tên là Giác Lâm.

Chùa đã trải qua nhiều lần trùng tu. Lần thứ nhất, vào khoảng năm 1799 - 1804, Hòa thượng Viên Quang cho xây lại ngôi chùa. Đến năm 1906 - 1909, Hòa thượng Hồng Hưng với sự giúp sức của Hòa thượng Như Phòng, đã cho tôn tạo lại ngôi chùa một lần nữa. Các sự kiện này được ghi lại trong đôi liễn mừng lạc thành, nay còn treo ở chánh điện.

Khuôn viên chùa khá rông, nằm lọt giữa phố phường đông đúc, chung quanh là những bức tường xây. Qua cổng chùa, ngay giữa sân có dựng tượng Bồ - tát Quan Thế Âm dưới bóng cây bồ đề tán lá xanh tốt. Đây là cây bồ đề do Đại đức Narada mang từ SriLanca sang trồng ngày 18-6-1953. Nhân dịp này Ngài cũng cúng cho chùa Xá-Lợi Phật Thích-ca.

Ngày 17 tháng 6 năm 1994, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã tổ chức lễ khánh thánh Bảo tháp Xá-lợi và cung nghinh Xá-lợi Phật từ chùa Long Vân, Bình Thạnh về chùa Giác Lâm, tôn trí tại Bảo tháp (nguyên từ năm 1953, Xá-lợi Phật được đưa về tôn trí tại chính điện chùa Long Vân). Bảo tháp gồm 7 tầng, hình lục giác, mỗi tầng đều có mái ngói, cửa ra vào. Tháp được xây từ năm 1970 theo đồ án của kiến trúc sư Vĩnh Hoằng, đến năm 1975 thì tạm ngưng cho đến năm 1993 mới được tiếp tục. Tháp cao 32m, mặt hướng Đông, là một trong những bảo tháp lớn và nổi triếng nhất thành phố.

Ngôi chùa có hình chữ nhật, dài 65m, rộng 22m, gồm 3 lớp nhà chính: chánh điện, giảng đường và nhà trai, không kể các dãy nhà phụ. Chùa có tất cả 98 cột. Trên cột có khắc 86 câu đối dính liền, chữ thếp vàng, khung viền chung quanh được trạm trổ rất công phu. Các đầu kèo đều tạc hình đầu rồng. Các bàn thờ trong chánh điện đều được làm bằng gỗ quý nên rất chắc chắn. Gian giữa có ba tấm bao lam hình Tứ quí (mai, lan, cúc, trúc), Tứ linh (long, lân, qui, phụng) và Cửu Long.

Chùa có 113 pho tượng cổ, chủ yêu bằng danh mộc (gỗ mít nài) được sơn son thếp vàng. Ngoài ra có 7 pho tượng đồng. Toàn bộ tượng, bao lam, ghế bàn, bảo tháp đều được chạm khắc cực kỳ tinh xảo. Pho tượng Phật cổ nhất ở chùa là tượng đức Phật Thích-ca Mâu-ni ngồi trên tòa sen, bằng gỗ, cao 0,65m; bề ngang hai gối 0,38m, được tôn trí ở giảng đường, có niên đại vào khoảng thế kỷ XVIII. Toà Cửu Long diễn tả sự tích đức Phật Thích-ca đản sinh, được đúc bằng đồng, tôn trí ở bàn thờ chánh điện. Khá đặc sắc về nghệ thuật tạc tượng là hai bộ Thập bát La-hán. Bộ La-hán nhỏ, mỗi pho tượng cao khoảng 0,57m (tượng cao 0.50m và đế cao 0.07m) được tạo tác vào đầu thế kỷ XIX; bộ La-hán lớn, mỗi pho tượng cao khoảng 0.95m (tượng cao 0.80m và đế cao 0.15m) được tạo tác vào những năm đầu thế kỷ XX, đặt hai bên điện Phật ở chánh điện.

Bên trái khuôn viên chùa có khu mộ tháp của các vị Tổ đã trụ trì ở đây: Viên Quang, Hải Tịnh, Minh Vi, Minh Khiêm, Như Lợi, Như Phòng,... Ở đây còn có cả tháp của Tổ Phật Ý, thầy của Tổ Viên Quang, trụ trì Sắc tứ Từ Ân, được dời về chùa Giác Lâm vào năm 1923.

2. Có nhiều ngôi chùa cổ đã từng được ghi trong sử sách nhưng nay không còn lại dấu vết kiến trúc nào, như các chùa Từ Ân, Khải Tường, Mai Khâu (chùa Cây Mai), Kim Tiên, Gia Điền, Phước Hưng, Phước Hải... Bên cạnh đó, có những ngôi chùa tuy được lập khá sớm nhưng hình thể kiến trúc chủ yếu mới tạo dựng sau này, như các chùa Phụng Sơn, Hội Sơn, Huê Nghiêm, Phước Tường... Theo quan điểm của nhà nghiên cứu Nguyễn Quảng Tuân, những ngôi chùa ở TP Hồ Chí Minh được xây dựng trước năm 1900 tuy có trùng tu nhưng vẫn giữ được khung gỗ truyền thống thì được xếp là "chùa cổ". Ngược lại, những ngôi chùa dù có kiến trúc theo khung gỗ cổ truyền nhưng dựng sau năm 1900 thì đều được xem là "chùa mới". Và ở góc độ nào đó, nếu như chùa Từ Ân là ngôi chùa cổ do tổ Phật Ý (đời chúa Nguyễn Phúc Khoát) từ miền trung vào Sài Gòn lập sớm nhất, thì chùa Giác Lâm là ngôi chùa cổ có lối kiến trúc tiêu biểu nhất còn giữ được hình thể, đường nét, kết cấu cơ bản cho đến ngày nay.

Trong tác phẩm Gia Định thành thông chí, nhà văn hóa nổi tiếng Trịnh Hoài Đức cho biết chùa Giác Lâm do cư sĩ Lý Thụy Long người Minh Hương quyên tiền xây dựng vào mùa xuân năm Giáp Tý 1774, rồi xin tổ Phật ý ở chùa Từ Ân cử thầy Viên Quang về trụ trì. Nơi tọa lạc của chùa Giác Lâm xưa kia thuộc địa phận xã Phú Mỹ Thọ, huyện Bình Dương, trấn Phiên An, phủ Tân Bình. Hiện nay chùa nằm trên đường Lạc Long Quân thuộc phường 10, quận Tân Bình. Trải qua chín đời trụ trì, chùa được xem là Tổ đình của dòng Lâm Tế ở miền nam.

Các vị thiền sư trụ trì chùa đều là những bậc chân tu đáng kính, chẳng những uyên thâm Kinh Phật mà còn giỏi về nho học, y học, thiên văn, địa lý cùng nhiều ngành nghệ thuật. Thiền sư Tổ Tông - Viên Quang từng được Trịnh Hoài Đức làm thơ ca ngợi tài năng và công đức, hiện còn được khắc triện trên các bức sơn mài ở nhà thờ tổ. Bậc chân tu trụ trì chùa đầu tiên này là người có công đầu về việc trùng tu chùa Giác Lâm và biến nơi đây trở thành trung tâm Phật giáo lớn của toàn Nam Bộ. Còn thiền sư Hồng Hưng - Thanh Đạo được xem là vị tổ có công trong việc hoàn thiện quần thể kiến trúc chùa như hiện nay. Điều đó chứng tỏ sự am tường về nghệ thuật kiến trúc và óc thẩm mỹ hiếm có của bậc chân tu này.

Trong quá khứ, chùa được trùng tu quy mô lớn hai lần, vào các năm 1799-1804 và 1906-1909. Đầu năm 1999, chùa hoàn thành đợt trùng tu quy mô lần thứ ba với kinh phí do ủy ban Nhân dân TP Hồ Chí Minh đầu tư là 293 triệu đồng. Tuy bề ngoài có sửa đổi nhiều, nhưng cơ bản chùa vẫn giữ được kiểu kiến trúc ban đầu, đặc biệt là 98 cây cột cổ đứng dọc từ ngoài vào trong, chia thành ba lớp nhà bằng nhau. Tọa lạc xa trung tâm thành phố nên cảnh chùa xưa kia rất u tịch, vắng vẻ hợp với thế giới tu hành, như hai câu đối còn ghi ở chánh điện:

"Tự cổ tăng nhàn thường dẫn yên hà vi bạn lữ:
Sơn thâm thế cách chỉ bằng thảo mộc ký xuân thu"

Tạm dịch:

Chùa cổ sư nhàn cùng khói hương kết duyên bầu bạn
Non xa đời khuất chỉ cỏ hoa lưu dấu ngàn sau

Ngày 16-11-1988, chùa Giác Lâm được Bộ Văn hóa công nhận Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia. Đây là một trong những điểm văn hóa có sức thu hút mạnh mẽ du khách trong lẫn ngoài nước tới chiêm bái. Những ngày giáp Tết Kỷ Mão 1999, ngay sau khi chùa mới khánh thành đợt trùng tu quy mô lần thứ ba, đã có hàng nghìn du khách tìm đến ngôi cổ tự này để cầu phúc lộc cho năm mới.

Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 21:55
Chùa Giáp Nhất (Phúc Lâm Tự)



Chùa Giáp Nhất ở thôn Giáp Nhất, xã Nhân Chính, huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội, cách trung tâm thành phố khoảng 7 km về phía Tây.

Chùa gồm nhà tiền đường và thượng điện, nhà tổ, khuôn viên rộng rãi, có cây xanh. Tương truyền chùa được xây dựng từ khá sớm, đã bị hủy hoại bởi nhiều cuộc binh lửa. Hiện nay chùa còn hệ thống tượng Phật mới được tạo lại vào năm 1941. Chùa còn giữ tấm bia khắc năm 1892 ghi việc trùng tu chùa. Năm 1973 chùa đã được tu sử lại toà tam bảo và dựng nhà tổ.

Chùa đã được Bộ Văn hóa và thông tin xếp hạng di tích lịch sử nghệ thuật ngày 31/1/1992.



Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 22:01
Chùa Hương



Ngày trước có một người con gái mùa xuân theo cha mẹ đi trẩy hội chùa Hương đã phải lòng một chàng trai tài hoa phong nhã. Tâm tình của cô gái ấy với những lời lẽ e ấp vụng dại đã được nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp ghi lại qua một thiên ký sự bằng thể thơ năm chữ nổi tiếng trên đất Việt hơn nửa thế kỷ qua. Ngày nay cảnh vật Hương Sơn có khác đi ít nhiều, nhưng hành trình đến chùa Hương vẫn là một cuộc hành trình trở về thiên nhiên và cội nguồn. Chúng ta hãy lần theo dấu chân cô gái ngày trước mà tìm đến với "Nam thiên đệ nhất động" (Động đẹp nhất trời Nam).

Chùa Hương nằm trên địa bàn xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây, cách Hà Nội 60km. Thật ra chùa Hương không phải là một ngôi chùa mà là một hệ thống chùa chiền, đền thờ và hang động nằm trong khu vực có những ngọn núi đá vôi và rừng nhiệt đới, diện tích tất cả khoảng chừng 6km2.

Theo truyền thuyết, vùng núi có hang động này được tìm thấy cách đây hơn hai nghìn năm và đã được đặt tên Hương Sơn - lấy tên một ngọn núi ở phía Bắc Tuyết Sơn trong dãy Himalaya (Ấn Độ), nơi đức Phật đã ngồi tu khổ hạnh suốt 6 năm ròng rã. Đời Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã có am thờ Phật dựng trên mảnh dất chùa Thiên Trù. Theo sách Hương Sơn Thiên Trù thiên phú thì chùa Hương được xây dựng từ đời Lê Huy Tông niên hiệu Chính Hòa (1680 - 1705). Bia tại chùa Thiên Trù có ghi rằng việc xây dựng nền đất, bậc đá và tôn tạo Kim Dung bảo điện của chùa được thực hiện vào năm 1686 ; còn pho tượng chính trong chùa - tượng Bồ-tát Quan Âm - xưa kia vốn bằng đồng được đúc năm 1767.

Hàng năm, hội chùa Hương mở từ ngày mồng sáu tháng giêng đến rằm tháng ba âm lịch , trải dài trên ba tuyến chính: tuyến động Hương Tích, tuyến chùa Tuyết và tuyến chùa Long Vân. Trên thực tế, suốt trong tháng giêng và tháng hai, cảnh chùa luôn luôn đông vui tấp nập và khách thập phương chủ yếu vãn cảnh chùa theo tuyến động Hương Tích.

Từ Hà Nội, đi xe vào thị xã Hà Đông, lên thị trấn Vân Đình, qua gần 20km nữa là tới Bến Đục, nằm bên bờ sông Đáy. Đây là cửa ngõ vào khu danh lam thắng cảnh, thuyền đò chen chúc. Từ Bến Đục, khách đi bộ gần 1km sẽ đến bến đò để lên thuyền xuôi theo một dòng suối có tên là Yến Vĩ (đuôi con chim én).

Thuyền đi, Bến Đục qua.
Mỗi lúc gặp người ra,
Thẹn thùng em không nói :
Nam mô A-di đà!

Thuyền đưa du khách lướt bên những ngọn núi đá nên thơ như núi Voi, núi Rồng ? cùng với nhịp cầu ở phía xa gợi lên khung cảnh non Tiên nước Phật:

Réo rắt suối đưa quanh
Ven bờ, ngọn núi xanh
Dịp cầu xanh nho nhỏ
Cảnh đẹp gần như tranh.

Đến đền Trình, thuyền ghé vào để du khách "trình diện" với sơn thần sở tại trước khi đặt chân lên cõi Phật. Đền nằm dưới chân một quả núi dựng lên năm ngọn nên được đặt tên là Ngũ Nhạc. Đền còn có tên Quan Lớn, thờ một bộ tướng của vua Hùng.

Rời đền Trình, du khách tiếp tục cuộc hành trình bằng đường thủy ngắm cảnh hai bên dòng suối:

Sau núi Oản, Gà, Xôi
Bao nhiêu là khỉ ngồi
Tới núi con Voi phục
Có đủ cả đầu đuôi.

Thuyền dừng ở Bến Trò cho du khách bước lên khu vực chùa Thiên Trù (Bếp Trời), tức là chùa Ngoài. Ngày xưa, chùa được xây khuất trong bốn vách núi, có đến vài chục gian, nhưng đã bị tàn phá trong chiến tranh. Nam Thiên môn được xây dựng dưới triều vua Gia Long (năm 1809) cũng bị phá hủy. Một kiến trúc cổ còn lại là Viên Công bảo tháp được xây dựng từ thế kỷ XVII, nơi đặt xá lợi Thiền sư Viên Quang, người có công trùng tu chùa Hương sau nhiền năm hoang phế. Nhìn từ xa, tháp như cây bút hồng ngọn vút cao lên trời. Ở đây còn có Thiên Thủy tháp là một mỏm đá mọc ngược thành một cây tháp thiên tạo, nước mưa trên núi theo tháp chảy xuống. Năm 1986, chùa Thiên Trù đã được phục dựng lại gác chuông và đến năm 1989 thì xây xong nhà Tam bảo hai tầng theo kiểu chữ "Đinh". Đầu năm 1994, chùa đã xây dựng lại Nam Thiên môn (cửa trời Nam) theo nguyên mẫu.

Từ khu vực chùa Ngoài, du khách l;ần theo con đường dốc trên các sườn núi đá để ghé thăm chùa Tiên Sơn xây trong động giữa lòng một quả núi, có bốn pho tượng quí bằng hồng thạch. Tiếp đó là chùa Giải Oan, nơi có giếng nước trong vắt gọi là "Thiên nhiên thanh trì" hay còn gọi là giếng Long Tuyền. Trước chùa có suối chín nguồn gọi là suối Giải Oan. Gần chùa là động Tuyết Kinh và am Phật Tích, nơi có tảng đá tương truyền lưu dấu chân Quan Âm Bồ-tát. Cách đó không bao xa, du khách bước chân đến núi Chấn Song để thăm viếng cửa Võng.

Đích xa nhất mà du khách vãn cảnh chùa muốn đạt đến là động Hương Tích nằm sâu ở phía trong. Du khách bước qua một cổng lớn ở phía trên, rồi theo những bậc đá rộng đi xuống động. Cửa động trông như hàm rồng, phía trong có năm chữ Hán "Nam Thiên đệ nhất động", tạc vào đá, tương truyền là bút tích của Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm khắc vào năm 1770. Hai hàng cây cổ thụ tầng cao bóng cả chen cành kết lá phủ lên cửa động. Ánh nắng lọt qua lá cây tạo nên một thứ ánh sáng mờ ảo trải trên các bậc đá, cộng với khói hương từ lòng động bay lên tạo thành một không gian huyền diệu như lời ca trong bài hát Chùa Hương của Nhạc sĩ Hoàng Quý: "Chùa Hương khói trầm ngút bay những khi nắng tàn, phút giây chìm đắm trong mơ màng".

Vào trong động, du khách chiêm ngưỡng tượng Bà Chúa Ba (Bồ-tát Quan Thế Âm) cùng nhiều tượng Phật, Bồ-tát,? Trên vách động thạch nhũ rũ xuống muôn hình muôn vẻ, màu sắc biến ảo: hình Đụn Gạo, Đụn Tiền, Cây Vàng, Cây Bạc, Buồng Tằm, Nong Kén, Hòn Cậu, Hòn Cô,? Trên trần động thạch nhũ còn nhô ra thành hình chín đầu rồng sinh động gọi là tòa Cửu Long. Ngắm nhìn những dáng hình kỳ tú đó của thiên nhiên, cô gái trong thơ Nguyễn Nhược Pháp đã thốt lên :

Ôi! Chùa Trong đây rồi!
Động thắm bóng xanh ngời
Gấm thêu trần thạch nhũ
Ngọc nhốm hương trần rơi.

Còn nhà thơ Chu Mạnh Trinh ở thế kỷ trước thì cảm tác thành bài Thú Hương Sơn nổi tiếng :

Bầu trời cảnh bụt

Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
Kìa non non, nước nước, mây mây
"Đệ nhất động" hỏi rằng đây có phải!
Nhác trông lên ai khéo họa hình
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây?

Như trên đã nói, ngoài động Hương Tích, du khách còn có thể rẽ qua rừng mơ thăm chùa Hinh Bồng, theo suối Tuyết vào đền Mẫu Hạ rồi đến núi Thuyền Rồng, núi Con Phượng, hòn Đầu Sư Tử, vách đá Kỳ Sơn Tú Thủy và sau đó đến bến Tuyết Sơn vào chùa Bảo Đài. Leo núi đến Bạch Tuyết môn, vào điện Cô, du khách tới thăm chùa Tuyết Sơn còn có tên là Ngọc Long động. Nơi đây, vào năm 1770, Trịnh Sâm có làm bài thơ Đăng Tuyết sơn hữu hứng.

Ở hướng khác, một nhánh của dòng suối Yến đưa du khách qua núi Ông Sư Bà Vãi, lên thuyền vào thăm chùa Long Vân, leo núi thăm chùa Cây Khế, và hang Sũng Sàm, một di chỉ khảo cổ ghi dấu tích người xưa.

Giã từ cảnh đẹp Hương Sơn, du khách có thể mang về làm kỷ vật một gậy trúc đã chống trên đường hành hương, vài mảnh gốc mơ già để pha nước uống, những quả mơ dày cùi nhỏ hạt và mấy mớ rau đắng nấu canh hương vị thơm ngon. Nhưng cái quí nhất mà người đi chùa Hương có được là một tâm hồn như đã tẩy sạch bụi trần, lâng lâng một niềm vui thoát tục với những ấn tượng không phai mờ bề một chốn Thiên Thai ngay trên trần gian như ca dao đã miêu tả :

Một vùng non nước bao la
Rằng đây Lạc quốc hay là Đào nguyên
Hương Sơn là chốn non tiên
Bồng lai mà thấy ở miền trần gian.



Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 22:07
Trẩy hội chùa Hương



Cảnh đẹp Hương Sơn rất đa dạng, rất phong phú, rất thực mà cũng rất mộng, rất trần thế mà cũng rất thần tiên. Cảnh đẹp như thơ, như vẽ, như nhạc bồi dưỡng tinh thần ta, nâng cao tâm hồn ta, giúp ta thêm cảm hứng trong tình yêu núi sông đất nước. Cảnh giúp cho tình. Cảnh cũng là tình. Với ý nghĩa ấy, nhà thơ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu coi cảnh đẹp Hương Sơn như "một bức tranh tình":

Chùa Hương trời điểm lại trời tô
Một bức tranh tình trải mấy thu
Xuân lại, xuân đi, không dấu vết
Ai về ai nhớ, vẫn thơm tho...

Bao nhiêu năm tháng đến và đi, "bức tranh" ấy vẫn tươi trẻ, không có dấu vết gì của tuổi tác. Sau những ngày làm việc căng thẳng, sang xuân được chút giờ phút nghỉ ngơi du ngoạn, ta vào xem "bức tranh", vào hẳn "bức tranh", rồi từ trong "tranh" đi ra, mang theo một mùi hương thanh nhẹ của "bầu trời cảnh Bụt" góp với hương vị của cuộc sống đời thường. Có lẽ vì cái mùi hương thanh nhẹ ấy mà người xưa đặt tên thắng cảnh là Hương Sơn và danh lam là chùa Hương... Nét trội nhất, đặc sắc nhất của vẻ đẹp thiên nhiên Hương Sơn là sự hài hòa giữa non và nước, tạo nên một vẻ đẹp tuyệt vời, xứng với bốn chữ "Sơn thủy hữu tình" khắc trên vách đá.

Xưa nay trong ngôn ngữ thường dùng cũng như trong thực tế của cảnh thiên nhiên, sông hay đi với núi, nước hay đi với non. Đành rằng có nơi chỉ có non cũng đủ làm nên một cảnh đẹp nhưng sao bằng những nơi có cả non nước kết đôi như trong thơ: Thề non nước của Tản Đà.

Dãy núi Hương Sơn không đẹp ở chiều cao, mà đẹp ở chiều dài, chiều rộng, ở cái thế quần tụ, ở bố cục nhịp nhàng giữa núi với núi, lại nhịp nhàng giữa núi với nước.

Những dòng suối Hương Sơn - đặc biệt là suối Yến - không đẹp ở sự mênh mông mà đẹp ở sự buông thả hiền hòa, uyển chuyển giữa hai triền núi.

Trên đường vào chùa Hương, thú vị nhất là đi đò suối Yến. Những cô gái làng Yến Vĩ vừa xinh đẹp vừa khỏe mạnh cứ đến ngày xuân là chở khách vào hội chùa.

Trong không khí vui say, ta gặp vô số những chiếc đò đầy như đò ta đang ngồi, cũng đầy những mầu sắc khăn áo, đầy những tiếng cười nói của các chàng trai cô gái. Ta đồng hành với những vạt lúa xanh viền hai mép suối, với những con le, con cốc thỉnh thoảng bay vù từ mặt nước lên, với đàn chim sáo ríu rít trên chùm hoa gạo đỏ rực mầu hội hè, với những đốm trắng dê núi nhảy nhót, cheo leo...

Đò suối Yến đỗ bến Thiên Trù, khách lên thăm cảnh chùa Thiên Trù (chùa Trò) nghỉ ngơi rồi lên đường núi qua thăm chùa Thiên Sơn, chùa Giải Oan, am Phật tích, động Tuyết Quỳnh... Đường núi dẫn vào động - chùa Hương Tích tuy có khúc khuỷu nhưng rất đẹp như Chu Mạnh Trinh đã tả trong thơ:

"Nam thiên đệ nhất động"

Đó là danh hiệu cao quý của động - chùa Hương Tích, trung tâm điểm của thắng cảnh Hương Sơn, và tiêu biểu cho cả một vùng thắng cảnh. Trong ngôn ngữ thường dùng, chùa Hương gần như đồng nghĩa với toàn bộ cảnh đẹp Hương Sơn. Nói "đi chùa Hương" tức là nói "vào thăm cảnh Hương Sơn nói chung" chứ không riêng gì động Hương Tích. Nhưng ví thử có người nào lần đầu tiên vào thăm cảnh Hương Sơn mà không vào thăm động Hương Tích thì cũng có như đi không đến nơi.

Vào cửa động Hương Tích trông lên trên vách đá thấy ngay năm chữ "Nam thiên đệ nhất động" (Động đẹp nhất trời Nam) nghe như một lời ca tuyệt vời hàm súc. Năm chữ ấy là chữ viết tay của chúa Trịnh Sâm, khắc vào đá năm Canh Dần (1770).

Vào trong động ai chẳng thích thú đến say mê trước vẻ đẹp lạ thường của những nhũ đá tưởng như những công trình điêu khắc tuyệt tác của thiên nhiên. Nhũ đá ở đây có khối to, có khối nhỏ, có cái đẹp ở toàn khối, có cái đẹp ở dáng dấp tinh vi, có cái rủ từ trên trần xuống, có cái mọc từ dưới đất lên. Tất cả đều tùy theo hình dáng mà được đặt những cái tên rất nôm na rất trần thế, biểu hiện những mơ ước của con người.

Trước hết là Đụn Gạo đồ sộ, bước vào cửa động đã trông thấy. Gạo là cái quan trọng hàng đầu nên Đụn Gạo trong động nhà Phật cũng ở vào vị trí hàng đầu. Dưới chân Đụn Gạo có một hõm đá nhỏ xíu gọi là Cối Giã. Gần Đụn Gạo là Núi Cô và Núi Cậu. Núi Cô nhỏ hơn Núi Cậu nhưng giống nhau ở chỗ có những hình em bé nằm nghiêng, nằm sấp hoặc đang bò lổm ngổm, đầu nhẵn thín. Núi Cô ở ngang tầm với Cửu Long tranh châu (Chín con rồng tranh hòn ngọc). Núi Cậu ngang tầm với Sữa Mẹ quanh năm suốt tháng rỏ xuống không ngừng.

Cùng một hàng dọc với Núi Cô, Núi Cậu và lui vào phía trong là Cây Bạc, Cây Vàng ngồn ngộn chất chứa những hình tròn như những đồng tiền vàng bạc lấp lánh. Vào trong góc động gần tận cùng sẽ thấy Chuồng Lợn, Ao Bèo, Nong Tằm, Né Kén... Toàn là những hình ảnh bằng nhũ đá.

Bên cạnh những "công trình điêu khắc thiên nhiên" là các kiểu nhũ đá, trong động còn có những công trình điêu khắc nhân tạo. Giá trị nhất về mặt nghệ thuật điêu khắc, không những trong động Hương Tích mà kể cả trong toàn bộ hệ thống chùa chiền ở Hương Sơn là pho tượng Phật Bà Quan Âm bằng đá xanh tạc vào thời Tây Sơn, sức quật cường của dân tộc đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nghệ thuật, kể cả nghệ thuật tôn giáo. Người tạc tượng không nhắm mắt khuôn theo những ước lệ sẵn có về tượng Phật là mặt phải vuông, tai phải to mà một phần dựa vào truyện thơ Nôm tả chân dung bà Chúa Ba "cổ cao ba ngấn, miệng cười trăm hoa", một phần rút từ những nét đẹp của những người có thực để tạc tượng Phật Bà.

Pho tượng có dáng người thon thon, mặt trái xoan, nét thanh tú, đầu đội mũ Tì Lư (tức là mũ Bồ Tát) nhưng lại có búi tóc và tóc mai, sau lưng có hai món tóc buông xuống. Tà áo mềm mại. Chỗ ngồi giống như một tảng đá sù sì, lại cũng giống như một gốc cổ thụ. Chân trái để trần, đặt lên một bông sen nở. Chân phải co lên. Hai chân co duỗi thật thoải mái. Tay phải cầm một viên minh châu (ngọc sáng). Bên cạnh bông hoa sen dưới chân, lá sen tỏa ra mềm mại như có gió lay động. Người thợ tài tình đã hoàn toàn làm chủ được chất liệu đá mà mình sử dụng. Xin trích dẫn ở đây mấy câu thơ tôi viết trong bài "Tượng phật Quan Âm":

... Hồn thơ thấm sâu nhiều vẻ mặt
Mặt bà, mặt mẹ, mặt quê hương
Thần thông bỗng nhập vào dao khắc
Tạo vẻ từ bi đẹp lạ thường...


Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 22:08
Chùa Hang



Trà Vinh, thị xã nhỏ ở nơi cuối đường, bình lặng nhưng không thiếu thắng cảnh. Có thể kể bãi biển Ba Động, ao Bà Hom, nhà thờ cổ Vĩnh Kim... Và đừng quên nơi đây là xứ sở của các chùa Miên, chỉ tỉnh Trà Vinh thôi đã có 143 chùa, trong đó chùa Hang là một trong những chùa đẹp nhất.

Chùa cách thị xã 6 cây số, qua cống ngăn mặn Tầm Phương là đến. Khuôn viên chùa rộng đến 12 mẫu, thật thú vị khi một nửa diện tích này là rừng tự nhiên, cây cao rậm rạp, chim chóc được một chỗ trú ẩn an toàn dưới bóng từ bi. Cổng du khách thường vào ở ven tỉnh lộ 36 chỉ là cổng phụ, xây dựng vòm cuốn, tường rất dày, cái cổng đặc biệt này là nguồn gốc của tên chùa Hang. Cổng chính hướng ra phía bờ sông, tên chính thức của chùa là Kompong Chrây, nghĩa là "Bến cây đa". Hai bên cổng chính hai tượng Yak to bằng người thật. Yak là chằn tinh, mắt lồi, nanh dài, mặt áo giáp, cầm gậy, rất hung ác nhễng được Phật cải hóa, cho làm bảo vệ.

Đứng trong sân chùa không khỏi có cảm giác như đây là cảnh "ngoại" vì mọi thứ đều lạ lùng. Ngôi chùa vươn lên cao với bộ mái nhiều tầng kiểu Khmer sặc sỡ khác hẳn các chùa làng Việt vốn khiêm tốn giản dị, không gian lại vắng lặng không tiếng chuông mõ quen thuộc. Tất nhiên cảm giác lạ lùng chỉ có với du khách người Việt, còn người Miên, ngôi chùa là nơi vô cùng thân thuộc. Vai trò của chùa trong sóc (làng) rất quan trọng, nhà chùa đảm nhiệm cả phần giáo dục đạo đức, bảo tồn truyền thống văn hóa nghệ thuật. Thanh niên Miên có vài năm tu ở chùa mới kể như thành nhân, một điều kiện để dễ kiếm vợ. Trong khuôn viên chùa có trường học cho trẻ em rất qui mô. Lại có khoảng hai chục nhà sàn nhỏ, mỗi nhà chỉ vừa đủ chỗ cho một người. Lâu lâu cánh đàn ông Miên vào mỗi người một nhà, ở lại cả tháng để cầu nguyện và làm trong sạch linh hồn. Người Miên ở Trà Vinh sống đơn giản, ít tham vọng, nhà ở rất đơn sơ nhưng chùa phải kiên cố, to đẹp; có vẻ nhễ hệ tư tưởng Phật giáo đã nhập tâm sâu đậm, sự giải thoát quan trọng hơn kiếp người.

Chùa Hang đã có hơn 350 tuổi, thăng trầm nhiều bận. Trước kia, chùa có tên chùa Dơi vì sân chùa có đàn dơi đông vô kể, Tết Mậu Thân (1968) một quả bom rơi trúng chùa, 62 người chết, 57 người bị thương, chùa hư hại nặng, đàn dơi khiếp đảm bay mất. Ngày nay đàn cò đã trở về cả ngàn con, mỗi chiều đậu trắng cây, có ngày chùa nhặt vài chục cò con, các sễ nuôi cho cứng cáp rồi thả. Chỉ riêng đàn dơi là mất tích hẳn.


Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 22:11
Chùa Hộ Quốc (An Khánh Tự)



Chùa Hộ Quốc còn có tên An Khánh tự và chùa Thanh Lương, ở phường Thanh Lương, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Nguyên ban đầu gọi là chùa An Khánh. Đến đời Lê do chùa đã có công lớn trong việc giúp vua trị vì đất nước, vì vậy để nhớ ơn sâu, đời Lê Trung Hưng đổi ra thành "Hộ Quốc tự" còn Thanh Lương là gọi theo địa danh phường hiện nay.

Chùa tọa lạc trên một khu đất khá cao so với xung quanh, diện tích khoảng 3 sào Bắc Bộ.

Theo bài minh trên chuông chùa Hộ Quốc thì chùa này do đức Linh Lang đại vương đời Lý Thánh Tông (1054-1058) xây nên cho dân có nơi thờ cúng, tụng niệm, diệt trừ thói xấu, gây dựng cái thiện cho đời.

Đến thế kỷ 16, nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, vua Lê phải lánh ra ở chùa, vua Lê đi rồi, quân Mạc đến đốt phá cả chùa. Sau khi nhà Lê Trung Hưng, nghĩ đến ơn trước, cho lập lại chùa tráng lệ hơn, ban tên là Hộ Quốc, cấp cho nhiều ruộng ngoài bãi sông làm hương đăng cúng Phật. Sau này chùa được trung tu sửa chữa nhiều lần, đáng kể vào năm thứ 4 niên hiệu Khải Định (1919) tu tạo lại toàn bộ chùa. Mặt bằng chùa hình chuôi vồ gồm tiền đường 5 gian, thiên hương và chuôi vồ 3 gian. Trong chùa còn nhiều hiện vật, tượng Phật có gia trị mang phong cách nghệ thuật Hậu Lê.

Chùa đã được Bộ Văn hóa và thông tin xếp hạng di tích kiên trúc, nghệ thuật ngày 9/1/1990.


Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 22:20
Chùa Hội Khánh


http://i105.photobucket.com/albums/m202/s0ck22/chuahoikhanh.jpg
1 . Chùa Hội Khánh được Thiền sư Đại Ngạn (thuộc dòng Lâm Tế) khai sơn năm Cảnh Hưng thứ 2, đời Lê Hiển Tông, tức năm Tân Dậu (1741). Lúc đầu chùa được xây trên một ngọn đồi cao, nhưng đến năm thứ 14 đời Tự Đức, tức năm Tân Dậu (1861), chiến tranh đã thiêu hủy toàn bộ ngôi chùa. Bảy năm sau (1868), chùa được Hòa thượng Chánh Đắc cho xây dựng lại dưới chân đồi, cách vị trí chùa cũ khoảng 100m về phía Nam. Địa chỉ của chùa hiện nay là 35 đường Yersin, phường Phú Cường, thị xã Thủ Đầu Một, tỉnh Bình Dương, cách thành phố Hồ Chí Minh 25km về phía Nam.

Chùa nằm cách đường lộ 150m. Sau cổng tam quan cổ kính có chạm trổ rồng phượng là khuôn viên chùa yên tĩnh, với nhiều cây cao bóng cả, trong đó đặc biệt có bốn cây dầu cao chót vót , cành lá sum suê, được trồng lúc chùa mới bắt đầu xây dựng, nay tuổi cây đã trên một thế kỷ.

Chùa đã được tôn tạo và trùng tu nhiều lần , nhưng vẫn giữ được kiến trúc cổ mang màu sắc dân tộc. Giảng đường và Đông lang được xây lại năm 1917, Tây lang được xây lại năm 1984. Ngôi chánh điện được xây dựng trong hai năm 1990-1991. Và gần đây nhất , ngày 29-2-1992, Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Sông Bé đã tổ chức lễ lạc thành trùng tu di tích chùa Hội Khánh.

Trong chùa, toàn bộ diện tích chánh điện, giảng đường, Đông lang và Tây lang rộng đến 700 m2. Ở chánh điện, các pho tượng Phật Thích-ca, Địa Tạng, Chuẩn Đề ... đều được tạc bằng gỗ, sơn son thếp vàng. Ba tấm bao lam chạm khắc Tứ linh, Tứ quí, Cửu long và Thập bát La-hán rất tinh vi, có giá trị nghệ thuật cao. Hai bên tường của chánh điện có bộ tượng Thập điện Minh Vương và bộ Thập bát La-hán. Các tác phẩm chạm khắc gỗ này được tạc vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX do nhóm thợ điêu khắc nổi tiếng ở Thủ Dầu Một lúc đó thực hiện.

Hơn 250 năm nay, chùa Hội Khánh lưu truyền kế vị đến 10 đời, trong đó có 9 vị đã viên tịch là: Đại Ngạn, Chân Kính, Chánh Đắc, Trí Tập, Thiện Quới, Từ Văn, Ấn Bửu - Thiện Quới, Thiện Hương, Quảng Viên. Trước sân chùa có những ngôi tháp của các vị trụ trì đã viên tịch. Hiện nay trụ trì chùa là Đại đức Thích Huệ Thông, Chánh Thư ký Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Sông Bé (nay chia thành hai tỉnh: Bình Dương và Bình Phước).

Chùa Hội Khánh là trung tâm Phật giáo Cổ truyền của cả vùng đất Bình An xưa kia. Đây cũng là trung tâm đào tạo tầng lớp sĩ phu của đất Bình An và đất Thủ Dầu Một sau này. Các nhà sư cũng chính là người dạy học chữ Hán. Chùa Hội Khánh đã góp phần đào tạo nhiều thế hệ tu sĩ để trụ trì các chùa khác trong vùng. Một trong những danh tăng xuất thân từ chùa là Hòa thượng Thích Từ Văn được xem là Tăng thống Phật giáo Nam Kỳ và được mời sang Marseille (Pháp) làm lễ cầu siêu và thuyết pháp vào năm 1920. Chính Ngài đã thỉnh tượng Phật và đưa thợ thủ công sang Pháp để xây dựng chùa Hội Khánh bên đó.

TRong những năm 1923 - 1926, ở chùa Hội Khánh có lập Hội Danh dự Yêu nước gồm các sĩ phu tham gia chữa bệnh, dạy học để truyền bá đạo lý. Cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã sống và hoạt động tại chùa trong thời gian này.

Sau năm 1945, chùa Hội Khánh là nơi qui tụ các Tăng Ni của 40 ngôi chùa khác trong tỉnh Thủ Dầu Một, lập ra Hội Phật giáo Cứu quốc do Thượng tọa Thích Minh Tịnh làm Chủ tịch.

Do bề dày lịch sử của chùa Hội Khánh, ngày nay nơi đây đã vinh dự được chọn đặt trụ sở Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Sông Bé và được Bộ Văn hóa công nhận là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.

2 . Chùa Hội Khánh là một ngồi chùa cổ của xứ Thủ Dầu Một. Chùa do thiền sư Đại Ngạn khai sơn vào năm Tân Dậu (1741). Nguyên thủy, chùa được xây dựng trên đỉnh đồi, thuộc ấp Bộng Dầu, dưới tàn cây cổ thụ sum sê. Có lẽ đây là ngôi chùa nhỏ trên mảnh đất không rộng rãi lắm và cũng rất hẻo lánh, cách xa xứ đô hội Cù lao Phố và xứ Gia Định nên ít được biết đến. Điều này đã giải thích vì sao chùa Hội Khánh không có tên trong mục tự quán của sách Gia Định thành thông chí cũng như Đại Nam nhất thống chí.

Ngôi chùa trên đồi thời đầu ấy đã bị giặc Pháp đốt trong khi thực dân đánh chiếm miền đông Nam Kỳ. Năm Mậu Thìn (1868), chùa được xây lại và dời xuống dưới chân đồi, nay ở số 35 đường Bác sĩ Yersin, phường Phú Cường, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

Trên một mặt bằng khoảng 700m2 kết cấu kiến trúc cơ bản của chùa là bốn ngôi nhà chính gồm: Tiền điện, Chính điện, Giảng đường, Đông lang và Tây lang.

Chính điện và giảng đường được bố trí theo kiểu "sấp đọi" nối liền nhau theo thức "trùng thềm điệp ốc" phổ biến của đình chùa truyền thống xứ Đàng Trong. Song sự khác biệt rất dễ nhận ra là bố cục các ngôi nhà ấy hoàn toàn độc đáo. Tiền điện và chính điện thường là kiến trúc ghép song song nhưng ở đây giảng đường lại là một ngôi nhà "trở đòn dông dọc" như kiểu nhà thờ Thiên chúa giáo, đặt thẳng góc với cụm kiến trúc chính điện - tiền điện. Đây là

một "biến tấu" trong kiểu thức kiến trúc đình, chùa truyền thống của xứ Nam Kỳ.

Đặc điểm kiến trúc cá biệt của chùa Hội Khánh biểu hiện rõ rệt hơn cả là kiểu thức kết cấu của bộ khung. Kết cấu khung của tiền điện, chính điện và giảng đường đều không tuân theo kết cấu tứ trụ (vuông vức và phát triển không gian đều ra 4 phía) - một kiểu thức đặc trưng của kiến trúc tôn giáo - tín ngưỡng gọi là Stupa (phù đồ = tháp) của Phật giáo (hay gọi là tứ tượng theo tâm thức dịch lý) mà chúng ta có thể thấy ở đại đa số đình, chùa, miếu, võ ở Nam Kỳ. Trái lại, kết cấu bộ khung chùa Hội Khánh là kết cấu của nhà rường (còn gọi là nhà xiên trính) của kiến trúc dân dụng thông thường mở cho chúng ta một giả định là chùa được tạo dựng bởi lớp thợ Thủ Dầu Một còn mang đậm kỹ thuật xây dựng và phong cách trang trí chạm trổ của các thợ xứ Huế.

So sánh các công trình chạm trổ trang trí ở các cột, bao lam, bao lam bàn thờ..., ngay trong chùa cũng có sự khác biệt của hai phong cách nghệ thuật. Nếu các bao lam bàn thờ, nơi trưng bày các bộ tượng La Hán, tượng Minh Vương thể hiện rõ kỹ thuật "dùng nhát đục để hoàn chỉnh tác phẩm" của thợ Thủ thời cận đại (những năm 1920 -1930 về sau) với đễờng nét sắc sảo cứng cáp, thì các bao lam trên xà ngang ở những hàng cột tiền điện lại được chạm tế kiểu với đường nét thanh mảnh và rõ ràng là được cạo gọt tỉ mỉ. Đặc điểm dễ nhận ra đặc trưng của các thợ Thủ kỳ cựu là cấu tạo bao lam theo khuôn đố, và cách ráp thẳng góc hình thước thợ: một mảng chạm nổi tên trên thanh ngang của khuôn và hai mảng chạm lộng ghép vào góc của khuôn tạo nên một trang trí đơn giản, làm tăng giá trị mỹ thuật cho các bộ phận kiến trúc mà vẫn thanh tú. Đặc điểm này hoàn toàn khác với xu hướng lấy sự cầu kỳ và "duy số lượng" của trang trí kiến trúc Hoa mà ta thường thấy ở các đền miếu của người Hoa ở Chợ Lớn và ngay cả các ngôi chùa Ông, chùa Bà của xứ Thủ Dầu Một này.

Dấu tích biểu thị rõ rệt phong cách nghệ thuật của lớp thợ Thủ kỳ cựu ở đây có lẽ là những mảnh phù điêu trang trí trên khung cửa phía sau giảng đường.

Sự khác biệt của các bức chạm của lớp thợ Thủ cận đại so với lớp thợ Thủ kỳ cựu là những bao lam dây nho, lá lật và hoa phù dung, bao lam phù dung - phụng trên các bàn thờ khác ở chính điện. Bức chạm dây nho đối xứng nhau hai bên một "mặt gỗ" hình bầu dục có thể coi là tiêu chí của điêu khắc gỗ chịu ảnh hưởng môtip trang trí phương Tây mà chúng ta thường thấy ở các bộ bàn ghế Louis. Mặt khác, bao lam Thập bát La Hán ở hàng cột cái trước Phật điện lại chỉ ra một kiểu cách chịu ảnh hưởng của khuôn mẫu nghệ thuật của thợ người Hoa mặc dù nó đã bớt rườm rà và mảng khối thanh tú hơn tính chất ô dề mà chúng ta thường bị choáng ngợp bởi sự lắm tầng nhiều lớp của các bao lam ở chùa Hoa.

Sự tương đồng về đặc điểm đồ tượng học và phong cách nghệ thuật của chùa Hội Khánh và chùa Giác Viên không chỉ nhận ra ở bao lam Thập bát La Hán mà còn ở bộ tượng Di Đà tam tôn và nhất là bộ tượng Ngũ hiền (Tứ Bồ Tát và Phật). Điều này cộng với niên đại làm lại của hai ngôi chùa (Hội Khánh 1868; Giác Viên 1891) là cứ liệu để chúng ta xếp chúng vào thế hệ tượng gỗ Nam Kỳ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.

Chùa Hội Khánh từ lâu được trở thành danh lam của Thủ Dầu Một không chỉ đơn thuần nó là ngôi cổ tự có giá trị về kiến trúc nghệ thuật, đã từng được người Pháp chọn làm mô hình để đưa sang Marseille triển lãm cùng với đình Bà Lụa mà mặt khác là do ở đây có những danh tăng đạo cao đức trọng, đào tạo ra đội ngũ tăng sĩ và là một trong những tụ điểm của những người yêu nước trong thời kỳ đen tối của lịch sử đầu thế kỷ này cũng như trong những năm tháng kháng chiến vẻ vang sau đó.

Những năm 1945 - 1954, chùa Hội Khánh là trụ sở của tổ chức Phật giáo cứu quốc Thủ Dầu Một. Tăng sĩ và Phật tử của chùa là lực lượng nòng cốt. Giai đoạn lịch sử này, trong hàng ngũ tăng ni Phật tử nổi bật là Thiền sư Minh Tịnh, chủ tịch Hội Phật giáo cứu quốc Thủ Dầu Một.

Từ năm 1930, ông phát tâm đi ấn Độ, qua Tây Tạng để chiêm bái đất Phật. Ngày 17 tháng 4 năm 1937 ông lên đường đi ấn Độ, qua Népal, Buhtan. Sau 2 năm hành hương trên đất Phật, ông trở về nễớc. Năm 1940, ông xây chùa Thiên Chơn (Búng) và sau lập chùa Tây Tạng.

Ngoài việc đạo, thiền sư Minh Tịnh tham gia sáng lập "Hội truyền bá quốc ngữ" hoạt động trên địa bàn Phú Cường suốt năm 1944-1945.

Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử trên 200 năm, các kiến trúc xưa của chùa Hội Khánh hầu như vẫn còn nguyên vẹn... Đấy là niềm tự hào lớn của đồng bào Bình Dương ngày nay.

Hãy một lần đến Bình Dương để ghé chùa Hội Khánh, được đứng dưới rừng cây sao để tâm linh được nhắc nhở về một quá khứ hào hùng của biết bao tiền nhân đã ngã xuống để có một Hội Khánh ngày nay...


Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 22:21
Chùa Hồ Thiên, di tích bị lãng quên trong rừng rậm


Một lần về công tác tại khu vực Mai Sưu, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang, chúng tôi được nhân dân địa phương kể về ngôi chùa cổ bị bỏ hoang từ lâu trên đỉnh núi Nước Vàng thuộc dãy Yên Tử. Theo lời kể thì toàn bộ khu vực chùa đã biến thành rừng rậm nhưng còn nhiều bức tường gạch, tháp gạch, tượng đá và bia đá có khắc chữ Nho...

Đầu tháng 3/1998 vừa qua chúng tôi mới có điều kiện đi tìm ngôi chùa này. Sau một ngày xuyên rừng đã tìm thấy một ngôi chùa cổ thời Trần đúng như lời kể của nhân dân địa phương.

Chùa cổ nằm ở độ cao chừng 1000m giữa vùng rừng núi hoang sơ mênh mang, là một kiến trúc có giá trị trên lĩnh vực nghiên cứu lịch sử văn hoá dân tộc. Căn cứ vào bài văn bia tháp Viên Quả và Viên Nhân ở đây được biết:

"...Chùa Hồ Thiên (Hồ Thiên tự) xã Phù Ninh, xưa kia thuộc tổng Mễ Sơn, huyện Đông Triều, phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương...".

Như vậy chùa có tên là Chùa Hồ Thiên. Nhưng theo nội dung bài văn bia trùng tu dựng năm Vĩnh Hựu thứ 2 (1736) thì biết thêm chùa có tên gọi khác nữa mà ngay trên bài văn bia đã chỉ rõ: Trùng tu Trù Phong tự bi ký (Bài ký bia trùng tu chùa Trù Phong). Cũng theo nội dung bài văn bia này cho biết: " Hồ Thiên tự là một danh lam cổ tự đẹp nhất ở miền Đông thổ..." . Tiến hành khảo sát sơ bộ thấy rằng đây là một quần thể di tích có quy mô khá hoàn chỉnh. Dưới lớp phủ của lá cây rừng, các công trình kiến trúc vẫn còn giữ nguyên phần tường xây, nền chùa và chân tảng. Nằm trên khuôn viên rộng chừng 2,5ha, chùa Hồ Thiên có khoảng hai chục công trình kiến trúc lớn nhỏ khác nhau với tổng số khoảng trên dưới 100 gian. Ngoài ra còn có 13 ngọn tháp cổ thời Trần và thời Lê - Nguyễn. Trong số đó có một ngọn tiêu biểu cao 11m, bảy tầng hoàn thành bằng chất liệu đá xanh.

Hiện vật ở đây còn khá nhiều loại chủ yếu bằng chất liệu đá xanh: tượng đá, thống đá, các mảnh chạm v.v... Song giá trị tiêu biểu nhất vẫn là hệ thống bia đá. Chúng tôi chưa có điều kiện tìm kiếm đào bới nên chỉ phát hiện được năm tấm bia đá khắc chữ Hán còn đọc được. Xin giới thiệu hai tấm bia tiêu biểu:

Bia trùng tu dựng năm 1736 : tấm bia này được đặt trong một nhà bia có chiều dài 3,2m, rộng 2,9m, cao 3,5m. Nhà bia có kiến trúc bằng đá xanh gồm ba bức tường đá, mái lợp ngói đá. Mỗi bức tường là một phiến đá xanh dày 0,3m. Các bức tường đá này được ghép với nhau bằng những mộng đá rất vững chắc. Nhà bia còn một đôi câu đối khắc nổi trên tường:
Phiên âm:

Thuỵ hiện Nam thiên vạn tải ân quang hộ chiếu
Pháp truyền Đông thổ thiên thu đạo đức trường minh.

Tạm dịch:

Thuỵ hiện trời Nam muôn thuở ân quang chiếu khắp
Pháp truyền đất tổ ngàn thu đạođức sáng ngời.

Bia được đặt ở chính giữa, cao 2,76m (cả bệ), rộng 1,2m. Bia dẹt có mái hình lá đề. Mặt tiền khắc bài văn bia trùng tu, mặt sau không khắc chữ, hai bên cạnh có đôi câu đối khắc nổi theo kiểu chữ Đại Triện. Đế bia cao 0,4m, rộng 1,35m, chạm khắc tinh xảo theo đề tài tứ linh. Toàn bộ tấm bia này là một công trình, một tác phẩm nghệ thuật chạm khắc tuyệt mỹ.

Nội dung: Ca ngợi cảnh đẹp Hồ Thiên và ca ngợi công đức của chúa Trịnh khi trùng tu ngôi chùa này. Cuối bài văn bia có khắc bài thơ của chúa Trịnh Cương: Ngự chế Hồ Thiên tự thi .

Tạm dịch:

Miền đông đều xinh đẹp
Riêng một cảnh Hồ Thiên
La liệt ngàn núi thẳm
Vời vợi muôn vẻ huyền
Thượng thừa khai cảnh phật
Đại giác diễn chân thuyên
Lầu gác thường truyền giới
Đầm vực nối đất liền
Châu báu xây cổ tháp
Ngọc vàng rạng mọi miền
Đạo lớn thâm hưng chấn
Công quả được mãn viên
Cuộc chơi vừa kết thúc
Bút thánh đề non tiên.

Bia dựng ngày tốt tháng 3 niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 2 (1736). Công bộ Thượng thư Cao Huy Trạc, tước Lâm quận công và Nguyễn Trác Luân đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ khoa Tân Sửu niên hiệu Bảo Thái 2 (1721) soạn văn. Phạm Khiêm Mích, đỗ Thám hoa, làm quan chức Tham tòng Lễ bộ Thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ, tước Thuật quận công và Nguyễn Huy Nhuận làm quan chức Tham tòng Hộ bộ Thượng thư, kiêm Binh bộ Thượng thư thiếu truyền tước Triệu quận công cùng nhuận sắc.

Bia tháp Viên Nhân : tháp gạch đã đổ nát, tấm bia bị va đập bị vỡ làm mất dòng lạc khoản. Đây là nơi an táng của một vị sư tổ chùa Hồ Thiên có tên tự là Tâm Quế, huý là Trần Chi, pháp hiệu là Hoà Bình Thích Khoan Hựu thiền sư. Bài văn bia có nhiều chữ bị mờ mòn khó đọc. Đoạn đầu kể về tiểu sử và ca ngợi tâm đức học hạnh của nhà sư, đoạn cuối có bài minh văn:

Phiên âm:

Sơn xuyên vô nhãn lượng
Phong thuỷ mạc kỳ cư
Thân đáo bồng lai cảnh
Thần siêu an lạc trần
Tiêu dao đăng bảo tháp
Thoát sái kiến chân như.

Tạm dịch:

Sông núi mênh mang vượt quá tầm mắt
Gió lành, nước mát phải chăng ở chốn này
Gửi tấm thân đến cảnh bồng lai
Rũ bụi trần thấy tinh thần siêu thoát an lạc
Thảnh thơi lên ngọn bảo tháp
Thoát cõi trần tục thấy được Chân Như.

Ngoài năm bia đá kể trên, nếu có điều kiện khai quật ở các ngọn tháp đổ hoang có thể còn phát hiện nhiều tấm bia đá khác có giá trị. Hiện nay mọc lẫn cùng cây rừng còn có nhiều cây của nhà chùa để lại như thông, vải thiều, đại trắng, quýt, bưởi, khế... Tất cả đều là cây cổ thụ hàng năm trăm tuổi trở lên... Đặc biệt còn ba cây thông già, cao hàng chục mét có đường kính tới 1,5m. Cổ nhất là cây vải thiều, gốc cây xù xì, nhiều bạnh cũng có đường kính tới trên 1,5m (tương đương ba người ôm)... Đó cũng là những hiện vật minh chứng cho niên đại của cổ tự Hồ Thiên.

Sau khi khảo sát phế tích này, chúng tôi đã tiến hành tra cứu thư tịch cổ và các tư liệu về di tích thì được biết: Hồ Thiên là một danh lam cổ tự nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo Việt

Nam thời phong kiến. Chùa được khởi dựng dưới triều Trần. Điều ngự giác hoàng Trần Nhân Tông (tức đệ nhất Phật phái Trúc Lâm) từng đăng đàn thuyết pháp tại đây. Sau khi ngài mất, đệ tử chùa Hồ Thiên đã tạc tượng thờ ngài. Nhiều năm sau cổ tự Hồ Thiên đã trở thành thiền viện danh tiếng của Phật phái Trúc Lâm. Đời Hậu Lê vào năm Vĩnh Khánh 1729 - 1732 và Vĩnh Hựu 1735 - 1740 triều đình đã cấp tiền trùng tu với quy mô rộng lớn khang trang lộng lẫy nhất vùng. Đến đầu thế kỷ XIX chùa bị đổ nát chỉ còn di tích .

Như vậy đến nay đã gần hai thế kỷ chùa Hồ Thiên vắng bóng nhà tu hành. Các công trình kiến trúc bị đổ nát trở thành hoang phế, các hiện vật và tư liệu Hán Nôm phần nhiều bị thất lạc. Vì nằm trong sâu thẳm rừng hoang nên đến nay vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu.

Hiện chưa rõ phần đất này thuộc địa phương nào quản lý, song với ngành quản lý chuyên môn thì vấn đề khảo sát kỹ lưỡng để tiến hành nghiên cứu thiền viện Hồ Thiên là việc cần thiết. Đến Hồ Thiên chúng ta mới thấy được tính cấp thiết của vấn đề này. Khu rừng đang bị lâm tặc tấn công khai thác gỗ, còn ngôi mộ tháp đã bị kẻ săn tìm đào bới để kiếm tìm cổ vật. Tháp đá bảy tầng vì một quả bộc phá mà bị nghiêng đi một góc chừng 25Co và có nguy cơ bị nghiêng nhanh hơn nữa khi tán cây rừng bị chặt trụi. Bia trùng tu và nhà bia đã bị đào bới đổ nát... Qua bài viết này chúng tôi kính mong được Bộ Văn hoá Thông tin,

Hội Phật giáo Trung ương và các ngành có liên quan cùng phối hợp khảo sát nghiên cứu để có kế hoạch bảo vệ di tích quý giá này.





Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 22:23
Chùa Hoa Yên (Hoa Yên Tự)



Ở Việt Nam không hiếm các nhà vua am hiểu sâu sắc Phật học và có những cống hiến lớn lao cho sự phát triển của Phật giáo. Nhưng làm vua mà hai lần lãnh đạo nhân dân đánh đuổi giặc Nguyên, đuổi xong giặc lại chuyên tâm với kinh Phật, rồi tìm nơi tu luyện, lập ra cả một Thiền phái, thì chỉ có vua Trần Nhân Tông (1258 - 1308) mà thôi. Thật ra thì ngay từ khi còn là Thái tử, ngài đã từng trốn khỏi thành, định vào tu ở núi Yên Tử, nhưng vua cha là Trần Thánh Tông đã cho người gọi về. Sau những năm tháng tham gia triều chính, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con và đến năm 1299, Ngài thanh thản trở lại Yên Tử.

Đây không phải là lần đầu Yên Tử đón một vị vua đến trụ trì. 63 năm trước, đau khổ vì vận nước và ray rứt vì chuyện riêng, vua Trần Thái Tông - vị vua sáng lập nhà Trần - đã từ bỏ ngai vàng trốn lên Yên Tử, nhưng lần đó chuyện xuất gia không thành vì Trần Thủ Độ cho các quan lên núi đón vua về lại kinh đô.

Có lẽ phải có một lòng quyết chí lớn lắm và một nhân duyên đặc biệt người ta mới đến được với Yên Tử. Nằm ở giáp giới 3 tỉnh Hải Dương, Bắc Giang và Quảng Yên (cũ), cách thị xã Uông Bí (Quảng Ninh) khoảng 15km về phía Tây Bắc, Yên Tử là ngọn núi cao nhất (1068m) và hiểm trở nhất miền Hải Đông xưa. Đỉnh núi thường có mây bao phủ nên ngày trước có tên là Bạch Vân Sơn. Nhìn từ xa núi giống hình một con voi nên lại có tên là Tượng Sơn. Tương truyền vào thế kỷ X có một đạo sĩ là Yên Kỳ Sinh tới núi này tu hành, sau hóa thành đá. Tượng đá đó cao 2,50m bây giờ vẫn còn đứng bên đường lên đỉnh núi (ở độ cao 824m) khi qua khỏi Cửa Trời. Núi mang tên Yên Tử có lẽ là do truyền thuyết đó.

Nói đến Yên Tử là nói đến một hệ thống chùa và những thắng cảnh trên con đường hành hương từ chân núi lên đỉnh núi cao chót vót. Ở chân núi bên suối Cấm có chùa Cấm Thực còn có tên là Linh Nhâm Tự; bên suối Lân có chùa Lân còn mang tên là Long Động Tự. Nằm bên suối Giải Oan, tên cũ là Hồ Khê, có chùa Giải Oan. Có truyền thuyết kể rằng khi Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông vào núi, vua Trần Anh Tông sai cung nữ theo mời về, nhưng Ngài quyết chí tu hành nên đã cự tuyệt. Các cung nữ nhảy xuống suối này trầm mình. Một số được cứu sống, ở lại sinh cơ lập nghiệp phía ngoài chùa. Còn số chết, vua cho lập đàn cầu siêu, dựng chùa Giải Oan, trong có thờ tượng các cung nữ.

Qua dốc Voi Xô thì đến núi Hạ Kiệu, nơi các vua nhà Trần đến yết kiến Trần Nhân Tông phải xuống kiệu đi bộ. Trên con đường rợp bóng cổ tùng gồm thanh tùng, thủy tùng và xích tùng, ta sẽ gặp Hòn Ngọc, rồi Huệ Quang Kim Tháp. Đây là khu mộ tháp gồm tháp Tổ thờ ngài Điều Ngự Giác Hoàng (Trần Nhân Tông) làm bằng đá cao 10m có 6 tầng ; phía ngoài tường gạch quây quần 44 ngôi tháp, là nơi tôn trí hài cốt của các vị sư tu hành ở đây.

Nằm trên lưng chừng núi ở độ cao 516m, chùa Hoa Yên là ngôi chùa to nhất và đẹp nhất nên còn gọi là chùa Cả. Chùa này vốn được dựng từ đời Lý, tên là Phù Vân; tới đời Trần đổi tên là Vân Yên : vào đời Lê, vua Lê Thánh Tông ngự du thăm chùa, thấy hoa cỏ xanh tươi, mới đặt tên là Hoa Yên.

Con đường quanh co dẫn lên đỉnh núi nối liền chùa Hoa Yên với chùa Một Mái, chùa Bảo Sái, chùa Vân Tiêu và chùa Thiên Trúc tức chùa Đồng (độ cao 1068m). Chùa Đồng trước đây đã bị hư hại, nay đã được sửa sang lại. Ở đây, còn một bia đá cao 3m, mặt trước khắc ba chữ "Thiên Trúc Tự", mặt sau khắc chữ "Phật".

Không gian quanh chùa Hoa Yên gây ấn tượng sâu sắc trước hết ở những cây đại già và những hàng tùng sống qua 5-7 thế kỷ nay. Hình ảnh bóng trăng lồng vào những cành cây cổ thụ đã hơn một lần đi vào thơ Huyền Quang :

Hơi đêm phả lạnh bức rèm lan
Xào xạc cây sân thu đã sang
Quên đến trúc đường hương lựu tắt
Cành thông ngời khắp lưới trăng đan

(Ngô Linh Ngọc dịch)

Còn Nguyễn Trãi khi đến thăm chùa thì lại bắt gặp cái thời khắc giao tiếp giữa bóng đêm vừa tan và ánh ngày đã ló rạng :

Trên non Yên Tử chòm cao nhất
Trời mới canh năm đã sáng tinh
Vũ trụ mắt đưa ngoài biển cả
Nói cười người ở giữa mây xanh
Muôn hàng giáo ngọc tre gài cửa
Bao dải tua châu đá rũ mành
Dấu cũ Nhân Tông vẫn còn đấy.
Mặt rồng thấy giữa ánh quang minh

(Đề chùa Hoa Yên núi Yên Tử)

Vâng, dấu cũ Nhân Tông vẫn còn đó! Còn nơi chùa Thiền Định, chỗ vua Trần xưa đọc kinh niệm Phật. Còn nơi chùa Một Mái, chỗ vua Trần đọc sách nghiên cứu đạo Thiền.

Chùa Hoa Yên cùng với toàn bộ hệ thống chùa Yên Tử nằm hài hòa giữa thiên nhiên hùng vĩ là một dẫn chứng rõ nét về sự dung hợp hai quan niệm đạo và đời của dân tộc ta.



Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 22:27
Chùa Huy Văn: Dấu tích Vua hiền




Chùa Huy Văn hiện ở trong ngõ Văn Chương, phố Tôn Đức Thắng. Xưa kia đây chính là đất làng Huy Văn, một làng cổ của Thăng Long.

Chùa này thờ Phật như bao chùa khác. Nhưng cũng có điểm không giống các chùa khác là, trong chùa Huy Văn có thờ bài vị vua Thái Tổ và bài vị vua Thần Tông nhà Lê. Và, ngay trước chùa lại có một ngôi đền, là đền Dục Khánh. Trong đền có tượng thờ vua Thánh Tông nhà Lê, bên trái là tượng Quang Thục hoàng Thái hậu (thân mẫu Lê Thánh Tông), bên phải là tượng Trường Lạc Hoàng hậu (vợ vua Lê Thánh Tông).

Theo bi ký trong chùa thì chùa Huy Văn được lập từ thời Lê Thái Tông (1434-1442). Thời đó, trong số phi tần nội cung có người họ Ngô tên là Dao Viên. Bà Dao Viên có thai, bị Huệ phi của Thái Tôn dò biết đem lòng ghen tức muốn triệt hạ. Dao Viên được người giúp đêm khuya trốn thoát và đến nương náu ở chùa Huy Văn, sau bà sinh được con trai là Lê Tư Thành (theo "Phạm Thị phả" dẫn ở bộ "Ức trai thi văn tập", thì câu chuyện về bà Ngô Thị Ngọc Dao có hơi khác một chút). Tư Thành thông minh, đĩnh ngộ, được mẹ chăm cho học và giữ gìn không để lộ tung tích. Sau khi các đại thần nhà Lê dẹp yên loạn Nghi Dân, thì đón Lê Tư Thành về triều lập làm vua, đó là Lê Thánh Tông, vị vua hiền minh bậc nhất trong các vua Lê.

Tư Thành lên ngôi vua, tôn thân mẫu làm Quang Thục Hoàng thái hậu. Ông cũng cho sửa sang chùa Huy Văn để ghi nhớ nơi sinh trưởng cuả mình. Thái hậu không muốn vào sống trong cung nữa, nên Thánh Tôn cho dựng một biệt điện cho bà ở và thờ Phật. Điện ấy là đền Dục Khánh. Thái hậu ở đó được ba mươi năm thì mất, Lê Thánh Tôn cho đúc tượng và chuông, thờ bà ngay tại đền. Tượng và chuông này sau này bị kẻ gian lấy mất. Đến năm Vĩnh Trị thứ 3 và thứ 4 (1678-1679), nhà chùa đứng ra khuyến hoá đúc được chuông và tượng khác. Còn pho tượng Trường Lạc Hoàng hậu thì trong văn bia không ghi thời gian lập tượng.

Trải qua thời gian, cuối Lê, rồi đầu Nguyễn, chùa bị hư hại nhiều. Những người dòng dõi nhà Lê có góp tiền của sửa chùa năm Minh Mệnh thứ 4 (1823). Đến năm Tự Đức thứ 17 (1864) chùa lại được tu sửa. Pho tượng cuả vua Lê Thánh Tông, nguyên trước đặt ở chùa Khán Sơn (trong khu bách thảo ngày nay), đến cuối triều Lê, khi quân Tây Sơn ra Thăng Long, có toán loạn quân phá chùa Khán Sơn, người ta mới rước về chùa Huy Văn.

Thánh Tông (1442-1497), làm vua từ năm 1460 đến 1497 với hai niên hiệu là Quang Thuận và Hồng Đức. "Ông là vị vua anh hùng, tài lược dù Vũ Đế nhà Hán, Thái Tông nhà Đường cũng không hơn...(Toàn thư). Lê Thánh Tông hết sức chăm lo đến đời sống nhân dân, đặc biệt ưu ái kẻ sĩ. Bởi vậy, 37 năm ông ở ngôi, đất nước có tới 501 đỗ tiến sĩ. Ông giỏi cả thơ và văn, Nôm và Hán đều sâu sắc. Ông để lại nhiều trước tác lớn do ông cùng triều thần cùng làm hoặc riêng ông sáng tác, như "Luật Hồng Đức", "Đại Việt sử ký", "Thiên Nam dư hạ", "Thân Chinh ký sự", "Hồng Đức quốc âm thi tập",... Về cuộc đời Lê Thánh Tông, trong ngọc phả có ghi rằng, khi Thái hậu còn ở cung làm phi tần, một đêm nằm mơ lên Thiên đình xin Ngọc Hoàng cho sinh quý tử. Ngọc Hoàng cho Tiên Đồng xuống đầu thai để làm vua nước Nam, và cho Ngọc Nữ xuống làm bạn trăm năm. Tiên Đồng không vâng lệnh, xin Ngọc Hoàng cho một vị tiên xuống giúp, Ngọc Hoàng chỉ vị tiên chầu bên mình. Vị tiên lạy tạ và có ý từ, Ngọc Hoàng vỗ vào vai bắt phải đi ngay. Rồi Thái hậu có mang, khi sinh Thánh Tôn, thấy có vết cái hốt in trên trán. Sau Thánh Tôn lên ngôi, Thái hậu nói việc chiêm bao cho biết. Từ đó Thánh Tôn có ý tìm những người trong mộng của Thái hậu. Mãi lâu sau, một hôm trong cung có yến tiệc, các đào hát giáo phường vào cung múa hát chầu yến. Giữa lúc tuần tiệc đang vui, một đào nương tuổi đôi tám xinh đẹp nhưng bị câm nên chỉ ngòi gõ phách, bỗng dưng cất lời ca nỉ non như vãn như than: "Hẹn nhau từ thuở Thiên Đình - Lòng nào nỡ phụ tâm tình thế rủ..." Mọi người đều sửng sốt. Vua Thánh Tông gọi đến gần thấy dung nhan cứ ý như Ngọc Nữ mà Thái hậu thấy trong mộng. Vua hỏi quê quán, cha mẹ, người con gái ứa nước mắt kể : "Nàng là con gái Tế Văn hầu Nguyễn Trãi. Vì nỗi nhà oan ức, luôn kìm giữ trong lòng, nói ra không được, đành phải làm câm cho khỏi chịu thêm oan khổ...". Lê Thánh Tôn nghe, cảm thương và cho dẫn người con gái đến chào Thái hậu, rồi kén vào cung, phong làm Trường Lạc Hoàng hậu (trong chính sử chép Trường Lạc Hoàng hậu là con gái Thái uý Nguyễn Đức Trung, người Thanh Hoá).

Sau nữa đến năm Quang Thuận thứ 4 (1463) có khoa thi tiến sĩ, khi các vị tân khoa vào tạ ân, Trạng nguyên Lương Thế Vinh đứng chầu, hai vai so lệch, vua thấy lạ cho dẫn vào bái yết Thái hậu và Hoàng hậu. Cả Thái hậu và Hoàng hậu đều nhận ra vị tiên do Ngọc Hoàng phái xuống giúp nhà vua. Lương Thế Vinh được cử ngay làm Hàn lâm thị độc học sĩ và sung vào Tao đàn sái phu.

Hơn năm thế kỷ qua, chùa Huy Văn và Đền Dục Khánh là nơi thờ tự linh nghiêm và cũng đầy cảm động bởi nơi đây lưu giữ thiên huyền thoại ân tình sâu xa như lịch sử.

Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 22:28
Chùa Huyền Không



Được xây dựng năm 1978, chùa Huyền Không không bề thế, cổ kính như nhiều ngôi chùa khác ở Huế, với kiểu kiến trúc theo mô thức nhà vườn - vốn là điểm đặc trưng của kiến trúc Huế. Chùa Huyền Không gồm ba khu vườn: Thanh tâm viên, Phương thảo địa, Hứa nhất thiên với nhiều hòn non bộ cùng ao nước, vườn hoa.

Ở Huế có khoảng 120 ngôi chùa, ngoài những tổ đình nổi tiếng lâu đời như Thiên Mụ (1601), Bảo Quốc (1664), Từ Đàm (1683), Diệu Đế (1844)... còn có một loạt những ngôi chùa mới xây dựng sau này. Chùa Huyền Không là một trong số những ngôi chùa mới đó. Chùa được xây dựng năm 1978 tại Hương Hồ cách Phú Văn Lâu khoảng 8 km về phía tây. Tính sáng tạo của vườn cảnh.

Chùa Huyền Không được kiến tạo theo mô thức nhà vườn, thú chơi cây cảnh, hòn giả sơn, ao nước thả súng hồng, vườn hoa trước nhà mang đậm chất Huế. Các nhà sư hành đạo ở đây thuộc hệ phái Nam Tông (Theravàda) vốn chưa phổ biến ở Huế. Vì thế mầu sắc thẩm mỹ thiền tông in đậm dấu ấn trong nghệ thuật kiến trúc tạo dáng vẻ riêng cho chùa, trong tiếng cầu kinh vang lên bằng tiếng Pali không qua phiên âm Hán ngữ. Bức tranh toàn cảnh của Huyền Không tĩnh lặng ngân lên trong một khoảnh khắc hoa rơi, vài tia nắng mặt trời điểm xuyết qua lối rêu làm nên thần thái sức sống của cảnh vật.

Vườn cảnh Huyền Không là một tiêu mẫu cô đọng về sự giao cảm giữa con người với thiên nhiên nâng lên thành nghệ thuật đặc sắc trong lối kiến tạo về cái đẹp. Mỗi công trình kiến trúc ở đây sử dụng chất liệu từ tranh, tre, nứa, lá... mộc mạc, dung dị nhưng tất cả đều toát lên bản sắc của dân tộc. Phía cuối khu vườn là nơi trưng bày hơn 100 chậu non bộ đan xen nhiều phong cách khác nhau như nghệ thuật Bonsai Nhật Bản hay kiểu Bonki (chậu đá) rất gần gũi với thú chơi non bộ của người Việt, nghệ thuật Saike (sai: cây, ke: đá) thể hiện dễới hình thức một cây cổ thụ nhỏ bé sống trên viên đá cầu kỳ.

Chùa Huyền Không có ba khu vườn có tính chủ đạo cho cảnh trí chung là Thanh tâm viên, Phương thảo địa và Hứa nhất thiên. Một cái cổng gỗ nhỏ mái lợp tranh có dòng chữ: "Thanh tâm viên", giữa vườn Thanh tâm là một hồ nước lượn cong hình chữ S với cái tên thi vị "Hàm nguyệt trì" (ao chứa trăng) có lối đi quanh co được xếp bằng các phiến đá để dẫn con người lạc bước vào bức tranh thơ. Ngoài ra chùa còn xây dựng một thi hiên (mái thơ), nơi để các tăng sĩ hoặc các du khách đề thơ, họ viết bằng mực tàu, giấy đỏ, bút lông đỏ làm sống lại một thú chơi tao nhã, đó là nghệ thuật thễ pháp thể hiện trình độ lịch lãm, uyên thâm của người viết.

Ngành du lịch ở Huế nên chăng cần có một tour du lịch nhỏ bắt đầu từ trung tâm thành phố đi ngược lên tả ngạn sông Hương để chiêm ngưỡng toàn bộ kinh thành Huế cổ kính rêu phong, đến một Kim Long xưa từng là đế đô thuộc vùng đất Kim Trà như Dương Văn An từng mô tả rõ trong Ô Châu Cận Lục, thăm các phủ đệ của vua quan ngày trước, các nhà vườn để hiểu nghệ thuật làm vườn xứ Huế, thăm chùa Thiên Mụ đã trở thành biểu tượng mà tiếng chuông chùa đã len nhẹ vào ca dao, dân ca, thăm khu văn thánhvới văn miếu ghi tên các tiến sĩ đời Nguyễn trên bia đá; qua chợ Văn Thánh, cái chợ nông thôn tiêu biểu cho hình thức trao đổi hàng hóa thời trung cổ và rẽ vào Huyền Không. Trên một đoạn đường dài đi đến Huyền Không, mọi mệt nhọc sẽ tan biến khi đứng trong vườn chùa, thăm vườn cảnh, ngắm những chùm phong lan rực rỡ để ra về lòng lâng lâng một dễ vị ngọt ngào.

Qua các cuộc trao đổi, tìm hiểu với khách du lịch, phần lớn du khách cần thỏa mãn tính văn hóa, thẩm mỹ để làm phong phú thêm đời sống tinh thần của họ. Hiểu được đặc trưng văn hóa du lịch để có biện pháp lôi cuốn và giữ chân du khách là một thành công trong kinh doanh du lịch. Hiện nay chùa Huyền Không chưa được xem là một điểm du lịch chính thức như các chùa Thiên Mụ, Bảo Quốc, Từ Đàm... Lãnh đạo các ngành hữu quan ở Huế nên có sự quy hoạch, quan tâm thích đáng tạo điều kiện để chùa Huyền Không trở thành một điểm du lịch văn hóa, góp phần làm phong phú thêm văn hóa Huế, tạo nguồn phát triển cho ngành công nghiệp không khói.

Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 22:34
Có một chùa Hương trên đỉnh núi Hồng



"Phiên bản" chùa Hương

Chùa Hương Tích ở Hà Tây thật ra chỉ là một "phiên bản" đầy ý nghĩa của chùa Hương Tích trên núi Hồng Lĩnh thuộc xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Theo cuốn Hương Sơn thiên trù thiền phả, một vị hòa thượng được lệnh của chúa Trịnh (sau khi đi tuần thú) xác định địa điểm và cho xây dựng chùa Hương Tích ở Hà Tây từ đời Lê Huy Tông dưới niên hiệu Chính Hòa (1680 - 1704). Trong khi theo sách Hương Sơn báu quyển, chùa Hương ở Hà Tĩnh là một động cao và khuất, thường có mây mù bao phủ. Chùa này được chính thức xây dựng từ đời Trần (có thể đồng thời với chùa Yên Tử). Khi Trần Nhân Tông lên tu ở chùa Hoa Yên (Yên Tử), trại trạng nguyên Bạch Liêu, quê huyện Yên Thành (phủ Diễn Châu), cũng dời nhà vào chân núi Hồng Lĩnh cho tiện việc thắp hương ở chùa Hương Tích.

Hương tích Trần triều tự
Hồng Sơn đệ nhất phong

(Hương Tích ngôi chùa đời Trần, dựng trên ngọn núi đẹp nhất Hồng Lĩnh).

La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp đã viết như vậy trong chuyến thăm chùa, năm 1774. Tương truyền, đây là nơi công chúa Diệu Thiện tu hành đắc đạo. Vậy vì sao lại có thêm một chùa Hương "phiên bản" ở phía bắc? Câu trả lời là vào thời Lê - Trịnh, các vua Lê - chúa Trịnh phần lớn có quê ở xứ Thanh (xem Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái) nên các phi tần, mỹ nữ đa số được chọn tuyển ở miền Hoan Châu. Hằng năm các cung phi, cung nữ Thanh - Nghệ thường trẩy hội chùa Hương trên núi Hồng Lĩnh vào ngày 18-2 âm lịch bằng đường thủy qua cửa Hội Thống (gần Cửa Lò bây giờ). Mỗi lần những "người đẹp" đi xa như vậy khiến chúa Trịnh rất phân vân (tuy đã bố trí lính vệ phục dịch dọc đường), do đó chúa Trịnh mới gọi một vị hòa thượng xác định địa điểm ở miền rừng núi Hà Tây để xây chùa Hương Tích thứ hai mà thờ vọng để các "người đẹp" đi trẩy hội gần hơn (theo dẫn giải của ông Bùi Văn Nguyên, nguyên tổng thư ký Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam). Còn theo Can Lộc dư địa chí, thì vào thời chúa Trịnh, có một Chúa đã vào đây cầu tự và sinh được thế tử. Vì thế hằng năm Chúa sai người về làm lễ tạ ơn Phật. Về sau, thấy Hương Sơn - Hà Tây cũng có cảnh đẹp, lại ở gần kinh thành, Chúa bèn cho xây ngôi chùa ở đấy để tiện việc đi lại, khỏi phải vào Hồng Lĩnh xa xôi. Ngôi chùa ở Hà Tây cũng gọi theo tên Hương Tích của ngôi chùa Hồng Lĩnh. Như vậy nhờ "sáng kiến" của chúa Trịnh mà nước ta có hai chùa Hương Tích.

Chùa Hương gốc

Nếu đường vào chùa Hương ở Hà Tây bắt đầu từ dòng suối Yến tấp nập những du thuyền thì lối vào chùa Hương ở Hà Tĩnh cũng từ mênh mông hồ nước nhà Đờng (Đường) theo dòng suối rộng có tên là suối Hương Tuyền đi ngược lên. Nhưng do nhiều năm trước trung tâm chùa Hương Tích mờ dần (ba lần chùa Hương này bị tàn phá bởi giặc Minh, thực dân Pháp và cháy rừng). Vì thế có nhiều khoảng thời gian chùa không, rừng quạnh bởi không có sư về trụ trì. Chùa Hương vắng bóng du khách, suối Hương Tuyền chỉ dành cho thuyền đi chở đá núi về kè đập, xây hồ. Nhưng từ năm 1990 trở lại đây, cứ vào dịp 18-2 âm lịch hằng năm (đúng như lịch trẩy hội chùa Hương ở Hà Tây) có hàng nghìn du khách, đủ mọi lứa tuổi, tầng lớp từ khắp nơi trong cả nước, vượt dốc núi dài gần tới 4.000 m để tới chùa Hương.

Giống như chùa Hương ở Hà Tây, quần thể chùa Hương ở Hà Tĩnh gồm có thượng điện (chùa chính), đền Thiên Vương và am Thánh Mẫu (theo truyền thuyết là nơi công chúa Diệu Thiện tu hành và hóa Phật). Ngoài ra chùa còn có những cảnh đẹp liên kết: động Tiên Nữ 36 cửa vào ra, am Phun Mây, suối Tiên tắm...

Đến với chùa Hương Tích là đến với vẻ đẹp quyến rũ của Hồng Lĩnh. Trước khi lên núi vãng cảnh chùa, du khách được thưởng ngoạn cảnh đẹp của hồ nước rộng hàng trăm ha hòa quyện với núi rừng tạo thành bức tranh sơn thủy. Con đường lên chùa có từ xa xưa, qua những rừng thông, rừng trúc, rừng mai, qua những dòng suối biếc, mỗi nơi đều có một truyền thuyết khác nhau. Càng đi sâu vào núi, càng bị cuốn hút bởi cảnh đẹp thiên nhiên.

Sau hơn một giờ thăm rừng, du khách đến bên suối Hương Tuyền (còn gọi là suối Giải Oan) nghỉ ngơi lấy sức cho chặng tiếp theo. Bên suối có Miếu Cô (truyền thuyết gọi là trạm nghỉ của Phật Bà), vẫn còn ngôi miếu cổ và tượng Phật Bà Quan âm dựng trên đài cao. Đi lên phía thượng nguồn dòng suối, có đoạn nước chảy ngầm dưới những phiến đá to chỉ nghe tiếng ầm ầm mà không nhìn thấy nước, dân gian gọi là khe Âm ầm, truyền thuyết gọi là khe Quỷ Khóc. Cũng từ trạm nghỉ Miếu Cô, du khách sẽ lên thăm am Bát Cảnh bên dòng suối Cái Am được xây từ đời Trần, nay vẫn còn khá nguyên vẹn, tương truyền là nơi tu hành của một nhà sư thời đó.

Từ Miếu Cô lên chùa là chặng đường leo núi thú vị, càng lên cao càng cảm nhận được vẻ đẹp kỳ vĩ của Hồng Lĩnh. Mây bay dưới núi dõi mắt về phía nam là dãy Hoành Sơn, phía tây là Trường Sơn, phía đông là biển cả, du khách có cảm giác như mình đang lạc vào xứ Bồng Lai.

Chùa tĩnh nhưng mỗi năm cũng có hơn vạn người đến viếng. Đông nhất là tháng giêng, hai và ngày rằm tháng bảy. Dịp đó dân nghèo xã Thiên Lộc mở quán dày đặc dọc lối lên phục vụ du khách. Năm 1990, chùa được Nhà nước cấp bằng di tích văn hóa - thắng cảnh.


Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 22:37
Chùa Keo


http://i105.photobucket.com/albums/m202/s0ck22/chuakeo.jpg
Hằng năm vào ngày mồng bốn tháng giêng âm lịch, nhân dân làng Keo xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình lại mở hội xuân ngay ở ngôi chùa mang tên làng.

Hơn chín tháng sau, vào các ngày 13, 14, 15 tháng chín âm lịch, chùa Keo lại mở hội mùa thu. Đây là hội chính, kỷ niệm ngày Thiền sư Không Lộ (1016-1094), người sáng lập ngôi chùa, qua đời (Ngài qua đời ngày 3 tháng 6 âm lịch). Trong ngày hội, người ta tổ chức lễ rước kiệu, hương án, long đình, thuyền rồng và tiểu đỉnh. Trên con sông Trà Lĩnh ngang trước chùa chảy ra sông Hồng, người đi hội đổ về xem cuộc thi bơi trải, thi kèn trống, thi bơi thuyền và biểu diễn các điệu múa cổ. Trong chùa thì có cuộc thi diễn xướng về đề tài lục cúng: hương, đăng, hoa, trà, quả, thực, thật sinh động.

Dù cho cha đánh mẹ treo,
Em không bỏ hội chùa Keo hôm rằm.

Nếu có dịp về thăm chùa Keo, thì du khách hãy đến vào hội mùa thu. Từ thành phố Nam Định, qua phà Tân Đệ, rẽ phải, theo đê sông Hồng, đi khoảng 10 km là đến chùa. Nằm ở chân đê sông Hồng giữa vùng đồng bằng không một bóng núi non, chùa Keo với gác chuông nhưmột hoa sen vươn lên giữa biển lúa xanh rờn được vun bón bởi phù sa sông Hồng do nước sông Trà Lĩnh bồi đắp.

Chùa Keo có tên chữ là Thần Quang Tự, được xây dựng từ năm 1630 đến năm 1632 theo phong cách kiến trúc thời Lê, nhờ sự vận động của Bà Lại Thị Ngọc, vợ Tuần Thọ Hầu Hoàng Nhân Dũng, và Đông Cung Vương phi Trịnh Thị Ngọc Thọ.

Nhưng lịch sử của ngôi chùa thì có bề dày đến hơn chín thế kỷ. Theo sách Không Lộ Thiền sư ký ngữ lục, năm 1061, Không Lộ dựng chùa Nghiêm Quang tại làng Giao Thủy (tên nôm là làng Keo) bên hữu ngạn sông Hồng. Sau khi Thiền sư Không Lộ qua đời, chùa Nghiêm Quang được đổi tên là Thần Quang Tự. Theo thời gian, nước sông Hồng xói mòn dần nền chùa và đến năm 1611, một trận lũ lớn đã cuốn trôi cả làng mạc lẫn ngôi chùa. Dân làng Keo phải bỏ quê cha đất tổ ra đi: một nửa dời về đông nam hữu ngạn sông Hồng, về sau dựng nên chùa Keo - Hành Thiện (nay thuộc tỉnh Nam Định); một nửa vượt sông đến định cư ở phía đông bắc tả ngạn sông Hồng, về sau dựng nên chùa Keo - Thái Bình này.

Văn bia và địa bạ chùa Keo còn ghi lại diện tích toàn khu kiến trúc chùa rộng đến 58.000 m2. Hiện nay toàn bộ kiến trúc chùa còn lại 17 công trình gồm 128 gian xây dựng theo kiểu "Nội công ngoại quốc". Từ cột cờ bằng gỗ chò thẳng tắp cao 25 m ở ngoài cùng, đi qua một sân lát đá, khách sẽ đến tam quan ngoại, hồ sen, tam quan nội với bộ cánh cửa chạm rồng chầu (thế kỷ 16). Sau đó là chùa thờ Phật, gồm ba ngôi nhà nối vào nhau. Trong cùng là tòa gác chuông, nhà tổ và khu tăng xá.

Gác chuông chùa Keo là một công trình nghệ thuật bằng gỗ độc đáo, tiêu biểu cho kiến trúc cổ Việt Nam thời hậu Lê. Được dựng trên một nền gạch xây vuông vắn, gác chuông cao 11,04 m gồm 3 tầng mái, kết cấu bằng những con sơn chồng lên nhau. Bộ khung gác chuông làm bằng gỗ liên kết với nhau bằng mộng ngậm, nâng bổng 12 mái ngói với 12 đao loan uốn cong dáng vẻ thanh thoát, nhẹ nhàng. Tầng một treo khánh đá 1,20 m và chuông đồng cao 1,30 m, đễờng kính 1m đúc vào thời Lê Hy Tông (1686); hai tầng trên treo chuông nhỏ cao 0,62m, đường kính 0,69 m đúc vào năm 1796.

Đứng soi mình xuống hồ nước phẳng lặng giữa một không gian thoáng đãng, chùa Keo không chỉ lưu giữ nhiều di vật quý giá mà còn chứa đựng những điều huyền bí gắn liền với cuộc đời Thiền sư Không Lộ. Theo sách Trùng san Thần Quang Tự Phật tổ bản hành thiền uyển ngữ lục tập yếu, Thiền sư Không Lộ vốn họ Dương, sinh ra trong một gia đình ngư phủ, xuất gia theo Thiền sư Lôi Hà Trạch.

Tương truyền rằng từ khi đắc đạo, Thiền sư Không Lộ có khả năng bay trên không, đi trên mặt nước và thuần phục được rắn, hổ. Truyền thuyết còn kể rằng trước khi viên tịch, Ngài hóa thành khúc gỗ trầm hương, lấy áo đắp lên và khúc gỗ biến thành tượng. Thánh tượng này nay còn lưu giữ trong hậu cung quanh năm khóa kín cửa.

Cứ 12 năm một lần, làng Keo lại cử ra một người hội chủ và bốn viên chấp sự để làm lễ trang hoàng tượng Thánh. Những người này phải ăn chay, mặc quần áo mới, họ rước thánh tượng từ cấm cung ra rồi dùng nước dừa pha tinh bưởi để tắm và tô son lại cho tượng Thánh. Công việc này phải làm theo một nghi thức được quy định rất nghiêm ngặt, những ngễời chấp sự phải tuyệt đối giữ kín những gì đã thấy trong khi trang hoàng tượng Thánh.

Đến thăm chùa, khách có thể nhìn thấy những đồ thờ quý giá tương truyền là đồ dùng của Thiền sư Không Lộ như một bộ tràng hạt bằng ngà, một bình vôi to và ba vỏ ốc lóng lánh như dát vàng mà người ta kể lại rằng chính do Không Lộ nhặt được thuở còn làm nghề đánh cá và giữ làm chén uống nước trong những năm tháng tu hành.

Một lần đến với Chùa Keo

Từ tỉnh lỵ Thái Bình, rẽ qua những cánh đồng đang vào vụ cấy của huyện Vũ Thư là đến chùa Keo nằm trên địa phận xã Duy Nhất. Từ trên đê nhìn mái chùa cong soi bóng xuống mặt hồ, thấy không khí oi nồng của buổi chiều hè dường như dịu lại. Đi qua hồ lác đác những bông súng cuối mùa là đến Tam quan, sẽ hiểu được sự tích ngôi chùa độc đáo của vùng đồng bằng Bắc bộ từ thế kỷ 17.

Chùa Keo tên chữ là Thần Quang Tự. Theo sách Đại sứ Không Lộ, vị tổ thứ 9 phái Thiền Việt Nam, Quang Tự từng đi chu du khắp nước Đại Nam. Khi đến làng Keo, thấy kiểu đất Long xà hợp hình, ông đã xin Vua được dựng Chùa ở đấy. Vua cho ngàn mẫu ruộng, cử thợ khéo về xây chùa từ năm 1630 đến năm 1632. Thế rồi, nơi đây từ khu rừng hoang dã, chùa Keo được xây dựng với 128 gian, trên diện tích 58.000m2. Thời gian xây chùa, dân làng Keo đã giã thủng 36 chiếc cối đá để lấy gạo nuôi thợ làm chùa.

Kiến trúc sư Nguyễn Văn Trụ đã không hề dùng đến một chiếc đinh khi dựng chùa Keo. Đến bây giờ, nhiều kiến trúc sư vẫn kính nể tài nghệ của ông khi làm khoảng sân chùa và khu thờ Thánh bên trong để có một cái nhìn từ thấp đến cao trên địa thế đất bằng phẳng của miền đồng bằng Bắc bộ. Ngay từ khi bước vào tam quan, du khách đã gặp một điều đặc biệt. Ông Bùi Anh Diêm, cán bộ Sở Văn hoá Thông tin Thái Bình nói: "Tam quan chùa có đủ cả 3 gian gồm không quán, giả quán và trung quán. Đây là công trình kiến trúc đơn lẻ đậm vẻ kiến trúc của thế kỷ 17. Điều đặc biệt là đôi cánh cửa, chiều cao 2m, chiều rộng 1,3m khi khép lại tạo ra một mạng chạm hoàn thiện, giữa là mặt nguyệt, hai bên là 2 con rồng chầu, thân rồng uốn nhiều lần, đầu tóc rất dữ dội. Đao rồng dựng lên như biển lửa, chúc xuống như rừng giáo mác. Phía sau là 2 rồng con núp sau rồng mẹ, dáng vẻ rất thảnh thơi. Về mặt kiến trúc, trên một mặt chạm gỗ đục sâu không quá 3cm, nghệ nhân rất thành công khi áp dụng luật tối, sáng, xa gần dù không dùng tới một chút màu nào cả nhưng khi ta nhìn thấy có tối, có sáng, có xa, có gần với những đường chạm rất sắc sảo, nét khắc rất tinh vi. Nếu đôi cánh cửa ở Chùa Phổ Minh tiêu biểu cho kiến trúc đời Trần thì đôi cánh cửa chùa Keo tiêu biểu cho kiến trúc đời Lê".

Đi tiếp vào chùa, gặp ở hai bên 24 gian hành lang là nơi quý khách sắm lễ vào Chùa lễ Phật và lễ Thánh. Điều quý nhất ở khu tam bảo là pho tượng Quan Âm Nam Hải có niên đại 450 năm. Toàn bộ khu thờ Phật của Chùa Keo có gần 100 pho tượng. Bùi Anh Diêm giới thiệu: "Pho tượng Tuyết Sơn hay còn gọi là Thích Ca Mâu Ni này có tính chất nhân trắc học tức pho tượng đã đáp ứng được sự tích. Từ xương sườn, xương quai xanh, bánh chè, đầu gối, mỏ ác đều thể hiện tài đức của ông. Môi mỏng thể hiện tài thuyết pháp, mắt thể hiện sự nhìn xa trông rộng và đầu thể hiện tư duy lớn. Pho tượng này có niên đại khoảng 400 năm".

Sau khu thờ Phật là khu thờ thánh. Hội chùa Keo diễn ra vào ngày 4 Tết âm lịch và từ 13 đến 15-9 âm lịch. Tại hội chùa Keo, sau khi đã có những nghi lễ như mọi hội chùa khác, thì diễn ra trò chơi kéo nứa lấy lửa, nấu xôi, nấu chè và nấu cơm chay để mang cúng Thánh. Phía ngoài có một giếng nước. Thành giếng xếp bằng 36 cối đá thủng đã dùng giã gạo nuôi thợ xây chùa.

Phía trong cùng là gác chuông chùa Keo. Đối với những người Thái Bình xa quê hương thì đây là biểu tượng của quê hương Thái Bình. Chiều cao gác chuông là 12,7m, chịu lực trên 4 cột chính, mỗi cột cao 5m, đường kính 70cm và 3 tầng kiến trúc chồng lên nhau song không có sự che khuất. Phía trên cùng là quả chuông nặng 3 tạ, tầng thứ hai có quả chuông 8 tạ và tầng cuối cùng, quả chuông nặng 1,3 tấn.

Trải qua gần 400 năm tu bổ, tôn tạo, chùa Keo vẫn giữ nguyên bản sắc kiến trúc độc đáo của mình. Gác chuông với bộ mái kết cấu gần 100 đàn đầu voi là viên ngọc quý trong gia tài kiến trúc Việt Nam. Bộ cánh cửa chạm rồng là bộ cửa độc đáo của cả nước. Chùa còn bảo lưu được hàng trăm tượng Pháp và đò tế thời Lê. Có thể nói Chùa Keo là một bảo tàng nghệ thuật đầu thế kỷ XVII, với nhiều kiệt tác đặc sắc như Thượng sư Không Lộ bằng gỗ trầm, tượng Quan Âm từ thời Mạc, tượng Cửu Long, tượng La Hán thời Lê.


Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 22:48
Chùa Kh'Leang



Thị xã Sóc Trăng có khá nhiều ngôi chùa, trong đó Kh?Leang là ngôi chùa cổ nhất. Bên cạnh những ngôi chùa Việt mà chúng ta thường thấy, đây là một công trình kiến trúc khá độc đáo mang đậm dấu ấn của văn hóa Khmer.

Tọa lạc trên một khuôn viên rộng 3,5 hecta với nhiều cây cao bóng cả, lúc đầu đây chỉ là một ngôi chùa làm bằng gỗ lợp la, sau mới sửa lại bằng gỗ lợp ngói. Từ khi xây dựng (năm 1533) đến nay, chùa đã được trùng tu nhiều lần, lần trùng tu gần nhất cách nay cũng đã trên 80 năm. Tính từ vị tổ đầu tiên là Đại đức Thạch Sóc cho đến Đại đức Tăng Nô trụ trì hiện nay, chùa Kh?Leang đã trải qua 21 đời truyền thừa.

Có hai lối đi vào chùa: cổng chính ở số 71 đường Mậu Thân, cổng phụ ở đường Nguyễn Chí Thanh. Nền chùa cao hơn mặt đường khoảng 1m có ba bậc sân, mỗi bậc được bao bọc bởi một tường rào xây bằng gạch. Có bốn cửa ra vào mở theo theo bốn hướng. Cửa ngoài cùng xây rất công phu, gần như cổng chính.

Ở trung tâm nền chùa, ngôi chánh điện vươn cao lên nền trời, với diện tích gần 200 m2 (chiều rộng (,20m, chiều dài 20,80m). Bộ khung mái gồm ba cấp, chia thành 9 nếp, làm toàn bằng gỗ. Mái được đỡ bằng 12 cây cột to, xây theo kiểu corinthien của Hy Lạp, có chu vi tới 1,10m, phủ sơn đen bóng và có vẽ hình rồng, hình cá uốn lượn màu vàng lộng lẫy. Trước bàn thờ có một tấm bao lam cao tới mái, được sơn son thếp vàng. Ở chính giữa tôn trí pho tượng đức Phật Thích-ca chiều cao 6,80m, phần tượng cao 2,70m. Tấm bia bằng chữ Khmer phía sau pho tượng cho biết L "Đại đức Liêu Đuông, đời truyền thừa thứ 17, đã đứng ra lập tượng Phật vào năm Phật lịch 2460 với sự cúng dường của gia đình ông Lum Sum".

Nói đến kiến trúc đặc biệt của chùa Kh?Leang, cần lưu ý các khái niệm và hình tượng có liên quan đến văn hóa Khmer sau đây:

- Hô Cheang là tên gọi hai đầu hồi được các nghệ nhân Khmer chạm trổ rất công phu với các họa tiết trang trí và theo phép đối xứng.

- Krud hay Garuda là hình tượng một loại chim thần có mình người; đầu, chân và hai cánh của chim, mỏ ngậm một viên hồng ngọc. Loài chim này là kẻ thù truyền kiếp của rắn. Cho nên, nếu hình tượng khúc đuôi rắn dài và cong vút được đắp trên đầu các góc mái chùa, thì hình tượng Krud được án ngữ ở chỗ tiếp giáp đầu cột với đuôi mái chùa.

- Yeak (Chằn) trong các chuyện cổ Khmer là nhân vật tượng trưng cho cái Ác, thường gieo điều dữ cho con người. Hình tượng Yeakcó dáng vẻ của một người mang bộ mặt dữ tợn, miệng to, răng nanh dài, mắt lồi, lông mày xếch. Mình Yeak mặc áo giáp, đầu đội mũ nhọn và tay cầm cái chày dài. Trong nghệ thuật trang trí chùa Khmer, Yeak đã được đức Phật cải hóa và đặt đứng hai bên bậc thềm ở phía trước chánh điện nhằm mục đích bảo vệ ngôi chùa.

- Reach Cha Sei là con vật mà Tiên nữ và Yeak đứng trên đó khi giao đấu với nhau. Hình tượng này được chạm trổ trên hai cánh cửa ra vào chánh điện.

- Teahu là hình tượng người có bộ mặt hung dữ, hai tay bưng mặt trời hay mặt trăng chuẩn bị nuốt vào bụng. Hình tượng này cũng được trang trí tren khung cửa ra vào.

- Sala là dãy nhà sàn rộng rãi, thông thoáng được xây bên cạnh chánh điện, dùng làm chỗ cử hành lễ dâng cơm cho sư sãi và nơi hội họp của các Phật tử trong các ngày lễ hội.

Trong khuôn viên chùa có sáu tháp để cốt của các sư sãi và Phật tử đã qua đời. Chùa Kh?Leang đã được Bộ Văn hóa công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 27-4-1990. Đợt trùng tu mới nhất của chùa được hoàn thành vào cuối năm 1994.


Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 22:50
Chùa Khơ - Me



Văn hóa cổ truyền thường được hình thành qua một quá trình lịch sử lâu dài, mà ở đồng bằng sông Cửu Long hiện còn tồn tại những ngôi chùa KHƠ-ME cổ có từ mấy trăm năm nay đáng được gọi là di sản văn hóa dân tộc.

Đa số những chùa KHƠ-ME ở miệt đồng bằng Cửu Long tập trung những công trình kiến trúc mỹ thuật điêu khắc cổ, không những là nơi thờ tự mà còn là trung tâm giáo dục văn hóa xã hội, được mọi người chú ý tới vào những dịp Tết KHƠ-ME, lễ lộc, làm phước cúng chùa...

Thường thì ở những nơi có người KHƠ-ME sinh sống trong một khu vực độ 1.000 người thì có một chùa. Còn những vùng đông dân hơn như Trà Vinh, Sóc Trăng thì từ 2.000 đến 3.000 người mới có một chùa.

Ở ngoại ô Sóc Trăng như Sài Ca Nã (Đại Tâm), Bãi Xàu (Mỹ Xuyên), Vũng Thơm (Phú Tâm), Kế Sách, Mỹ Tú, Trường Khánh, Đại Ngải có từ 1 đến 2 chùa KHƠ-ME. Còn ngay thị xã Sóc Trăng có đến 5 ngôi chùa: Bưng Xúc, Sam Rong, Sung Đinh, Mã Tộc (Chùa Dơi) và chùa Khleang (đặc biệt được cất vào năm 1532).

Về đại thể, những chùa KHƠ-ME đều có kiến trúc giống nhau với chính diện ở trung tâm khuôn viên chùa trải dài theo hướng Đông-Tây, mái cong nóc nhọn, nhưng chi tiết trang trí ở mỗi chùa mỗi vẻ tùy theo vị Sãi cả, hay những nghệ nhân, thầy thợ với trình độ kỹ thuật ở từng thời kỳ xây cất. Nói chung, trên đầu cột giáp mái chùa thường có tượng thần "KRUD" mình người đầu chím bay lên xuống đỡ bốn mái chồng lên nahu bằng gỗ quý, lợp ngói kiểu vay rồng, có trang trí rất nhiều tượng rồng, đặc biệt rồng ở chùa KHƠ-ME đầu mảnh mai, thân loài cá, lưng có dao mác nhọn uốn cong về phía đuôi, có sừng nhọn.

Ngoài ra, còn có những hình tượng điêu khắc hình tiên nữ và chằng tinh phục sức cầu kỳ, trên chót vót nóc chùa khắc hoa những đầu người rất tinh xảo. Đã vậy, những vòng rào bao quanh khu chính diện còn có những hình đầu sư tử, hoa sen trên mỗi cột rào. Có chùa còn cho xây tháp để bảo lưu tro cốt những vị sư sãi.

Khi bước vào bên trong khu chánh điện, chúng ta sẽ chói mắt với những màu sắc sặc sỡ vẽ hình rồng rắn, hoa lá, tiên nữ, nhũ vàng chân viên hoa sen trên mỗi thân cột bằng gỗ sơn mài đen, cùng những tượng Phật bằng đồng, bằng đá trắng với những tư thế đứng, ngồi khác nhau, sự đóng góp của đồng bào KHƠ-ME trải qua bao đời này nay vẫn còn lưu giữ.

Lịch sử xây dựng một ngôi chùa KHƠ-ME từ lúc bắt đầu đến khi hoàn thành, cũng kéo dài qua nhiều đời sãi cả có thể đến vài trăm năm. Chùa KHƠ-ME không những là nơi diễn ra những sinh hoạt tôn giáo xã hội, mà còn là nơi tồn trữ, phổ biến những kinh điển giáo ly, văn hóa phẩm, văn học nghệ thuật KHƠ-ME...

Đặc biệt chùa KHƠ-ME còn là nơi để thanh niên KHƠ-ME trước khi ra đời, phải đến "tu học" để trở thành con người có tri thức, đức hạnh. Mỗi chùa cổ có ít nhất từ 10 dến 15 vị sãi, trong đó một sãi cả trụ trì và hai sãi phó cùng một ACHAR (gọi là hoàng pháp, chuyên dạy giáo lý). Sãi củng có hai bậc: một là SAMANE (từ 20 tuổi trở xuống) và hai là PIKH'U còn gọi là Tỳ khưu (từ 21 trở lên). Hai bậc tu này khác nhau ở chỗ SAMANE thọ 105 giới, còn PIKH'LI thọ 227 giới.

Đa số người KHƠ-ME theo đạo phật tiểu thừa, nên không có tín đồ là phụ nữ. Họ không ăn chay mà đi khất thực, và thờ một vị duy nhất là Đức Thích Ca.

Tóm lại, nói đến đồng bằng sông Cửu Long mà không kể những ngôi chùa KHƠ-ME là một thiếu sót, và có dịp đến Sóc Trăng các bạn đừng quên ghé tham quan chùa Khleang đã có từ 400 năm nay, được công nhận là một di tích văn hóa lịch sử vào năm 1990 tại tỉnh Hậu Giang.



Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 22:54
Chùa Kim Liên



Nằm ở phía đông bắc hồ Tây, kề bên khách sạn Thắng Lợi và hàng loạt biệt thự hiện đại đang đua nhau mọc lên - chùa Kim Liên là ngôi chùa nổi tiếng từ xưa... Đất dựng chùa là nền cũ của cung Từ Hoa, thuộc trại tằm Tang. Từ Hoa là con gái vua Lý Thần Tông (1128 - 1138). Vua dựng cung Từ Hoa cho công chúa và các cung nữ ở đó để thấu hiểu thêm công việc đồng áng vất vả mà thấy rõ hơn giá trị ngôi tôn quí của mình. Đến đời Trần, trại Tằm Tang đổi thành phường Tích Liên. Dân làng dựng chùa Đống Long trên nền cung Từ Hoa cũ. Đến năm 1771, đời Lê Cảnh Hưng, chùa được tu sửa lớn và đổi tên là chùa Kim Liên. Năm 1792, đời vua Quang Trung, chùa được xây dụng lớn, về diện mạo cơ bản giống như hiện nay.

Tới thăm chùa Kim Liên, ta thầm cám ơn người xưa đã tạo nên một danh lam thắng cảnh đẹp lưu lại cho hậu thế. Chùa nằm trên một bán đảo nhỏ, hình đất như con rùa vàng. Ngay khi tới cổng chùa, khách thăm đã bị choáng ngợp bởi cổng tam quan độc đáo. Đây là một ngôi tam quan không giống bất cứ ngôi tam quan nào ở các chùa khác, toàn bộ kết cấu tam quan có mái che được đỡ từ các thân cột. Từ giữa các thân cột. Từ giữa các thân cột, những "con rường" vươn dài tạo nên bộ vì nóc đỡ mái. Bộ mái lợp ngói vảy cá nhiều tầng, ở giữa đột ngột vươn cao như bông sen tỏa nở trên mặt nước Tây Hồ mênh mang bốn mùa sóng phủ - một nét đẹp đặc sắc bất ngờ.

Bước qua tam quan, men theo con đường nhỏ bên phải, du khách tới đầu hồi gian tiền đường để lãng du về đất Phật. Nhìn từ bên hông chùa, các tầng mái nhấp nhô, những đầu đao cong vút tạo cảm giác như các lớp cung điện trùng điệp như cùng hiện về trong thoáng chốc, phô diễn tài nghệ kiến trúc của người xưa. Chùa hình chữ "tam" gồm ba nếp nhà song song với nhau, tường gạch bao quanh tới tận rìa mái, đầu hồi nhà có cửa sổ tròn với những dấu hiệu "sắc sắc không không" mang đậm ý nghĩa triết lý phật giáo. Nét kiến trúc của chùa Kim Liên gợi nhớ tới chùa Tây phương nổi tiếng.

Các pho tượng Phật được bày thành hai lớp, trên cùng là bộ Tam thế, tiếp theo là tượng A-di-đà, tượng Quan Thế Âm và tượng Đại thế chỉ ở hai bên cùng Anam, Ca diếp là hai đại đệ tử của Đức Phật. Lớp dưới là Quân âm chuẩn đề, tượng Ngọc Hoàng, dưới cùng là tòa Cửu Long. Các pho tượng đều mang phong cách điêu khắc thế kỷ XVIII - XIX, chùa có tượng Uy vương Trịnh Giang, người đã cấp tiền hưng công tu tạo chùa năm Cảnh Hưng thứ 32 (1771). Chùa Kim Liên còn lưu giữ được một tấm bia cổ, nay dựng phía bên phải cổng chùa, trên bệ đá hình vuông, dù năm tháng đã làm phai mờ nhiều nét chữ nhưng còn xem được niên hiệu: Thái Hòa tam niên Âất Sửu - tức năm 1445 thời Lê Nhân Tông. Đây là tấm bia cổ nhất ở Hà Nội hiện nay.

Danh sĩ Phạm Đình Hổ đả ghi lại trong "Tang thương ngẫu lục" về cảnh đẹp chùa Kim Liên như sau: "...chùa xoay lương ra sông Nhị, hồ Tây quanh trước mắt, khói sóng man mác, trời nước một màụ..", "... phía bên trái có mấy gò nổi, tháp gạch xây ở trên, khóm trúc, cội tùng phơ phất... "

Chùa Kim Liên vẫn soi bóng trên sóng nước Hồ Tây. Bông sen vàng vẫn vươn cánh trên nền nước biếc. Ai đã tới Hà Nội, với lòng ngưỡng vọng những giá trị lịch sử văn hóa truyền thống, không thể không một lần tới thăm cảnh đẹp này.

Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 23:01
Chùa Sắc Tứ Kim Bảo



Tỉnh Kiên Giang có hai ngôi chùa nổi tiếng đều tên là Tam Bảo: một chùa ở Rạch Giá, một chùa ở Hà Tiên. Chùa Tam Bảo ở Rạch Giá vốn là nơi tu hành của bà Dương Thị Cán tục gọi là bà Hoặng. Bà là ân nhân đã giúp đỡ Nguyễn Ánh lúc còn bôn ba, nên sau khi vua Gia Long lên ngôi, chùa này được Vua sắc tứ để tạ ơn.

Chùa tọa lạc tại số 6 đường Thích Thiện Ân, thị xã Rạch Giá . Từ trên đường Nguyễn Trung Trực, du khách đã thấy tấm bản đề "Sắc tứ Tam Bảo Tự". Ngôi chánh điện của chùa kiến trúc theo kiểu thượng lầu hạ hiên. Ở mặt tiền bên trên hàng hiên là ngọn bảo tháp ba tầng tượng trưng Cửu phẩm Liên hoa. Chánh điện có chiều ngang 14,50m, chiều dọc 22m. Năm bao lam ở các bàn thờ được chạm trổ công phu, thếp vàng rực rỡ. Các tượng Phật Di-đà, Thích-ca và các vị Bồ-tát được bài trí trang nghiêm.

Đông lang được dùng làm phòng khách và phòng làm việc của Hòa thượng trụ trì. Tây lang và giảng đường của chùa được dùng làm Tuệ Tĩnh đường, nơi chữa bệnh miễn phí cho đồng bào.

Lịch sử chùa Sắc tứ Tam Bảo gắn liền với tên tuổi Hòa thượng Thích Trí Thiền, thế danh là Nguyễn Văn Đồng, sinh năm 1882, tịch năm 1943. Chính Ngài đã chăm lo việc trùng kiến ngôi chùa như ta thấy hiện nay vào năm 1917. Hòa thượng Trí Thiền cũng là người có công sáng lập Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học vào năm 1931. Hội này đặt trụ sở tại chùa Linh Sơn, số 149 đường Douaumont (nay là Cô Giang), Saigon. Hội xuất bản tạp chí Từ Bi Âm để truyền bá giáo lý, lập Pháp Bảo phường, thỉnh Tam Tạng Kinh làm tài liệu nghiên cứu.

Sau đó Hòa thượng Trí Thiền và sư Thiện Chiếu trở về Rạch Giá lập Phật giáo Kiêm Tế Hội, chủ trương vừa truyền bá giáo lý nhà Phật, vừa vận động tín đồ làm công tác xã hội. Sau Nam Kỳ khởi nghĩa, một số cán bộ mượn chùa Tam Bảo làm nơi chế tạc đạn, chuẩn bị nổi dậy chống Pháp. Nhưng công việc bị phát hiện, Hòa thượng Trí Thiền can đảm nhận trách nhiệm nên bị thực dân Pháp bắt đầy ra Côn Đảo và hi sinh tại đó năm 1943. Một đệ tử của Ngài là nhà sư trẻ Thiện Ân, lúc bị địch bắt, đã dũng cảm hi sinh bằng cách cho tạc đạn nổ để tiêu diệt bọn mật thám. Tấm lòng ưu dân ái quốc của các vị sư ở chùa Tam Bảo đã được Hòa thượng Thích Bổn Châu, nhắc tới trong tập thơ Việt Nam anh kiệt.

Ngày nay, chùa đặt văn phòng Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Kiên Giang . Chùa đã được Bộ Văn Hóa ra quyết định công nhận di tích lịch sử - văn hóa vào ngày 23-3-1988.


Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 23:03
Chùa Lạc Thi (Linh Quang Tự)


Chùa Lạc Thị thuộc thôn Lạc Thị, xã Ngọc Hồi, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội, cách trung tâm thành phố khoảng 20 km về phía Nam, đi theo quốc lộ số 1.

Chùa Lạc Thị được xây dựng đã từ lâu và được sửa chữa lớn vào những năm 1753, 1825, 1935, 1954 và 1973. Chùa được xây trên một gò đất cao nhất trong làng. Chùa xây liền kề với đình làng, gồm tam quan và tòa tam bảo. Tam bảo hình chuôi vồ, gồm có tiền đường 3 gian, xây kiểu "tường hội bít đốc", hậu cung 2 gian.

Chùa còn giữ được nhiều hiện vật cổ như tấm bia dựng năm 1716. Các tượng Phật trong chùa có phong cách điêu khắc vào thế kỷ 19.

Chùa đã được Bộ Văn hóa và thông tin xếp hạng di tích kiến trúc, nghệ thuật ngày 9/1/1990.





Nguồn : http://www.suutap.com

LSB-Sun
12-05-2009, 23:04
Chùa Láng (Chiêu Thiền Tự)



Chùa Láng có tên chữ là Chiêu Thiền Tự với ý nghĩa rằng: "Vì có điều tốt rõ rệt nên gọi là Chiêu. Đây là nơi sinh ra Thiền sư Đại Thánh nên gọi là Thiền". Ngày 7 tháng 3 âm lịch là ngày sinh của Thiền sư Từ Đạo Hạnh, trở thành ngày hội chùa Láng.

Nhớ ngày mồng bảy tháng ba,
Trở về hội Láng, trở ra hội Thầy

Chiêu Thiền Tự nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 7km về phía Tây. Xưa kia chùa dựng trên một địa thế rất đẹp nằm giữa cánh đồng bao la, chung quanh có những cây muỗm và cây đa cổ thụ khiến cho cảnh chùa thêm u tịch. Chùa đã trải qua nhiều lần trùng tu, kiến trúc hiện nay là do lần trùng tu vào giữa thế kỷ XIX với vẻ cổ kính vẫn còn giữ được của một danh lam từ tám thế kỷ trước.

Nét độc đáo đầu tiên đập vào mắt du khách là cổng chùa hao hao giống kiến trúc cổng ở cung vua phủ chúa ngày xưa: đó là một hàng bốn cột hoa kiểu bằng gạch với ba mái cong thanh thoát. Ba mái này không phủ lên đỉnh cột mà gắn vào sườn cột, mái giữa cao hơn hai mái bên. Sân chùa lát gạch Bát Tràng, nối cổng chùa với cửa tam quan. Qua tam quan là một con đường rộng lát gạch, hai bên có tường hoa dẫn tới Bát giác đình, nơi ngày hội đặt tượng Thánh cho dân làng làm lễ dâng hoa. Trong cùng là chùa chính bao gồm tiền đường, tòa thiêu hương, thượng điện, hành lang, nhà tổ, tăng phòng và các gian nhà phụ.

Vẻ bề thế của quần thể kiến trúc hài hòa, cân xứng với không gian thoáng đãng khiến cho chùa Láng đã từng được coi là đệ nhất tùng lâm ở phía Tây kinh thành Thăng Long xưa.



Nguồn : http://www.suutap.com