PDA

View Full Version : Cộng Đồng Các Dân Tộc Việt Nam


__Phi*Tuyết__
28-03-2009, 09:42
CỘNG ĐỒNG CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM


Việt Nam ta là 1 đất nước gồm 54 dân tộc anh em, cùng chung sống. Các dân tộc đoàn kết với nhau tạo. Nhưng mỗi dân tộc có lối sống và phong tục riêng tạo nên những nét văn hóa rất đặc sắc. Trong loạt bài viết này PT xin giới thiệu với các bạn các dân tộc đó. Mỗi một bài viết PT sẽ giới thiệu về 1 Dân tộc, bạn nào có đóng góp thi PT rất cảm ơn. Nhưng để tránh trùng lặp ( 1 dân tộc đã giới thiệu rồi lại giới thiệu lại ) các bạn nhớ đọc kĩ trước khi đăng bài

*Lưu ý: Tất cả tư liệu được sử dụng trong loạt bài viết này được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau


DÂN TỘC THÁI

http://www.cema.gov.vn/images/uploaded/ems479_thai15.jpg http://www.cema.gov.vn/images/uploaded/ems479_thai12.jpg http://www.cema.gov.vn/images/uploaded/ems479_thai14.jpg

Dân tộc Thái hiện nay có hơn 1 triệu người, sinh sống tập trung tại các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình, Nghệ An. Dân tộc Thái có tên gọi là Táy và các nhóm Táy Đăm, Táy Khao, Táy Mười, Tày Thanh, Hàng Tổng, Pu Thay, Thổ Đà Bắc. Tiếng Thái thuộc nhóm ngôn ngữ Tày-Thái.

Người Thái có nhiều kinh nghiệm đắp phai, đào mương, dựng cọn, bắc máng lấy nước làm ruộng. Lúa nước là nguồn lương thực chính, đặc biệt là lúa nếp. Người Thái cũng làm mương để trồng lúa, hoa mầu và nhiều thứ cây khác. Từng gia đình chăn nuôi gia súc, gia cầm, đan lát, dệt vải, một số nơi làm đồ gốm... Sản phẩm nổi tiếng của người Thái là vải thổ cẩm, với những văn hoa độc đáo, màu sắc tươi hài hoà, bền đẹp.

Mấy chục năm gần đây, nam giới người Thái mặc Âu phục khá phổ biến, nhưng phụ nữ vẫn gắn bó với bộ áo, váy, khăn cùng lối trang sức theo truyền thống văn hoá dân tộc. Người Thái thường ở nhà sàn, mỗi bản thường có khoảng 40-50 nóc nhà kề bên nhau. Người Thái Đen thường tạo dáng mái nhà hình mai rùa, trang trí hai bên đầu đốc nhà bằng những khau cút được làm theo phong tục từ xưa truyền lại. Người Thái có tục ở rể, vài năm sau khi vợ chồng có con với về ở bên nhà chồng.

http://www.cema.gov.vn/images/uploaded/thai12.jpg
Nhà mồ của người thái

Đồng bào quan niệm "chết" là tiếp tục sống ở thế giới bên kia. Vì vậy đám ma là lễ tiễn người chết về "mường trời".

Người Thái có nhiều họ, mỗi họ thường có những quy định kiêng kỵ khác nhau. Họ Lò không ăn thịt chim Táng Lò. Họ Quàng kiêng con hổ... Đồng bào Thái thờ cúng tổ tiên, cúng trời đất, cúng bản mường. Gắn liền với sản xuất là những lễ nghi cầu mùa. Mở đầu hàng năm bằng lễ đón tiếng sấm năm mới.

http://www.cema.gov.vn/images/uploaded/ems_479_thai5.jpg
Một góc nhà của người thái

Thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện thơ, ca dao... là những vốn quý báu của văn học cổ truyền người Thái. Những tác phẩm thơ ca nổi tiếng của người Thái là: "Xống trụ xon xao", "Khun Lú, Nàng ửa" . Người Thái sớm có chữ viết nên nhiều vốn cổ (văn học, luật lệ, dân ca) được ghi chép lại trên giấy bản và lá cây. Đồng bào rất thích ca hát, đặc biệt là khắp - lối ngâm thơ hoặc hát theo lời thơ, có thể đệm đàn và múa. Nhiều điệu múa như múa xoè, múa sạp đã được trình diễn trên sân khấu trong và ngoài nước, hấp dẫn đông đảo khán giả. Hạn khuống, ném còn là hai đặc trưng văn hoá của người Thái.

http://nguoivienxu.vietnamnet.vn/dataimages/200608/original/images1064119_5.jpg
chiếc khăn piêu của người thái

Đồng bào Thái làm Piêu từ loại vải bông tự dệt. Trước khi thêu, miếng vải được chọn làm khăn đội đều phải nhuộm chàm. Chàm là màu nền để trên đó người phụ nữ Thái thêu lên các họa tiết, hoa văn bằng các loại chỉ màu (xanh, đỏ, tím, vàng, da cam....) ở hai đầu khăn. Để có một chiếc Piêu hoàn chỉnh, người phụ nữ Thái phải mất thời gian từ hai đến bốn tuần.

http://www.sonla.gov.vn/sonla/jsp/merShowNewsImage.jsp?tableName=WP_NEWS_IMAGE&ID=415&fieldName=SmallImage
vòng xòe của người thái

Theo truyền thống của dân tộc Thái vào những ngày lễ, tết, ngày vui của dòng họ, gia đình, nhất là nhà đón khách quý… vòng xòe thường được tổ chức như một nghi lễ dân gian để đón mừng và bên ánh lửa bập bùng tay trong tay tình cảm con người gần gũi, xiết chặt thể hiện nét đẹp truyền thống

__Phi*Tuyết__
28-03-2009, 21:28
2.Dân tộc Mông (H'Mông)

Tên dân tộc: Mông (Mông Trắng, Mông Hoa, Mông Ðỏ, Mông Ðen, Mông Mán)
Dân số: 787.604 người (năm 1999).
Ðịa bàn cư trú: Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Cao Bằng, Nghệ An.

http://www2.vietbao.vn/images/viet4/van-hoa/40159275-150158sm.jpg http://www.vietnamtourism.com.vn/upload/image/_news/2007530/image/dtoc%20mong1.jpg

Phong tục tập quán:
Mỗi dòng họ sống thành cụm do trưởng họ đảm nhiệm. Tự do hôn nhân, nhưng không lấy người cùng dòng họ. Vợ chồng rất ít bỏ nhau.

Ngôn ngữ: Ngôn ngữ thuộc nhóm Mông - Dao.

Văn hoá: Người Mông ở nhà trệt, cấu trúc theo lối xứ lạnh, có lò sưởi, có thịt sấy ăn quanh năm, có món "mèn mén", món "thắng cố" độc đáo. Nhạc cụ là nhiều loại khèn và đàn môi. Tết tổ chức vào tháng 12 dương lịch. Trong 3 ngày Tết không ăn rau xanh. Nam nữ thanh niên vui xuân, thổi khèn gọi bạn.

http://www.baohagiang.vn/images_upload/small_3047.jpg
Con trai người Mông thổi Kèn

Trang phục: Quần áo may bằng vải lanh tự dệt. Nữ mặc váy xoè rộng, áo xẻ ngực, tạp dề trước và sau, xà cạp quấn chân.

http://egov.laocai.gov.vn/photo/pictures/danhen.jpg
Trò chơi đánh én của dt Mông

Kinh tế: Làm nương rẫy du canh và trồng lúa nước ở ruộng bậc thang. Trồng lanh để lấy sợi dệt vải và cây dược liệu.

__Phi*Tuyết__
29-03-2009, 08:54
3.DÂN TỘC DAO


Tên dân tộc: Dao
Địa bàn cư trú: Dân tộc Dao là một trong 54 dân tộc anh em đang sống trên dải đất Việt Nam. Hiện nay, dân tộc Dao có khoảng gần 500.000 người, phân bố chủ yếu ở các tỉnh vùng cao biên giới phía bắc Việt Nam như Tuyên Quang, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn. Hầu hết các nhóm người Dao đều thờ tổ tiên là Bàn Hồ. Một số ngành nghề thủ công của người Dao rất phát triển như dệt vải, rèn, mộc, làm giấy, ép dầu...

http://www.baohagiang.vn/images_upload/small_4488.jpg

Phong tục tập quán: Cư trú thành thôn bản thưa thớt, ven các sườn núi cao nơi có nhiều rừng cây. Nhà ở có hai loại: Nhà đất và nhà nửa sàn nửa đất. Người Dao thì tin rằng vạn vật đều có linh hồn gọi là “Hon” hoặc “Vần”. Khi một thực thể bị chết thì hồn lìa khỏi xác và biến thành ma. Theo quan niệm này bất kỳ ở đâu trên trái đất này đều có hồn và ma. Người Dao cũng thờ cúng tổ tiên như nhiều dân tộc khác. Bàn thờ dòng họ được đặt ở nhà tộc trưởng. Nhưng nói đến phong tục người Dao phải nói tới lễ cấp sắc. Đây là một nghi lễ, một sinh hoạt mà không một người đàn ông dân tộc Dao nào không trải qua. Hiện nay ở tất cả các làng của người Dao các em trai ở lứa tuổi từ 13 - 14 tuổi được làm lễ cấp sắc. Lễ được diễn ra rất thiêng liêng có thầy cúng và bà con trong bản chứng kiến. Những chàng trai người Dao sau khi được cấp sắc coi như có quyền làm người lớn và chịu trách nhiệm trước cộng đồng dân tộc của mình.

http://dulichvietnam.com.vn/Image.aspx/image=pjpeg/8521892fd7f7439b86f877f830659ba7-Mua-dan-gian-dan-toc-Xa-Pho%203.jpg/Mua-dan-gian-dan-toc-Xa-Pho%203.jpg
Màn múa chuông của dân tộc Dao

Ngôn ngữ: Thuộc nhóm Mông - Dao.
Văn hóa: Họ có kho tàng truyện cổ tích, thơ ca, hò vè được phổ biến rộng rãi, kể về các đề tài: đấu tranh với thiên nhiên, lao động sản xuất, quan hệ xã hội và gia đình,... thể hiện ước vọng có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc v.v... như những truyện “Hai chị em”, “Bắt yêu tinh”; như: “múa chuông”, “múa trống”. Các nhạc cụ truyền thống được sử dụng như: trống, chiêng, chuông.

http://www2.vietbao.vn/images/vn75/van-hoa/75175505-169033_le%[email protected]
Lễ hội đón xuân của dân tộc Dao

Trang phục: Trang phục của hai nhóm Dao ở Quảng Ninh về cơ bản giống nhau: áo dài, quần, yếm, dây lưng, mũ khăn, xà cạp v.v... Chỉ khác nhau ở cách tạo hình trang trí hoa văn. áo, quần đều màu đen hoặc màu chàm.
Kinh tế: Nghề sống chủ yếu là nông nghiệp nương rẫy, ngày nay một số nơi đã chuyển sang trồng rừng, trồng lúa nước và chăn nuôi.
Kiến trúc nhà ở của người Dao cũng rất phong phú tuỳ nhóm mà ở nhà sẽ nhà trệt hay nửa sàn, nửa đất. Hiện nay tại Bảo tàng dân tộc học Việt Nam ngôi nhà nửa sàn nửa đất được chọn để trưng bày và giới thiệu. Loại nhà nửa sàn nửa đất, là loại kiến trúc nhà cửa của riêng người Dao, gắn liền với cuộc sống du canh du cư trước đây. Điều đặc biệt là toàn bộ ngôi nhà của người Dao đều được làm bằng tranh tre nứa lá, không có một chút gạch ngói. 8 cột cái trong nhà được làm bằng những cây gỗ quí, có tuổi rất già 80-90 năm. Mỗi lần chuyển nhà, họ có thể bỏ phên, tranh tre nứa lá còn những cột cái bằng gỗ quí có sức bền với thời gian thì họ chuyên chở đi để làm ngôi nhà nơi ở mới.

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/d/dd/Yao_stilt_house.png/450px-Yao_stilt_house.png
Một kiểu kiến trúc nhà ở của người Dao

__Phi*Tuyết__
29-03-2009, 22:36
4.DÂN TỘC MƯỜNG



http://www.vietnamtourism.com.vn/upload/image/_news/2007530/image/dan%20toc%20muong1.jpg
Tên dân tộc: Mường (Mol, Mual, Moi, Moi Bi, Au Tá, Ao Tá)
Dân số: 1.137.515 người (năm 1999).
http://www3.tuoitre.com.vn/Vieclam/ImageView.aspx?ThumbnailID=242550http://www.ngoisaoblog.com/data/image/n6/6_175.jpg
Thiếu nữ Mường

Ðịa bàn cư trú: Cư trú ở nhiều tỉnh phía bắc, tập trung đông ở Hoà Bình và miền núi Thanh Hoá. Sống định canh định cư nơi có nhiều đất sản xuất, gần đường giao thông, thuận tiện cho việc làm ăn.

http://images4.dantri.com.vn/Uploaded/yennh/T11.07/lan-hs191107-1.jpg
Nhà ở của người Mường

Phong tục tập quán:
Thờ cúng tổ tiên và tin vào đa thần giáo. Xưa tổ chức xã hội của người Mường là chế độ lang đạo chia nhau cai quản các vùng. Ðứng đầu mỗi mường có các Lang Cun, dưới Lang Cun có các Lang Xóm hoặc Đạo Xóm.

http://baoninhbinh.org.vn/uploads/news/Ban%20Xanh%201.jpg
Một cảnh lễ hội

Hôn lễ của người Mường gần giống người Kinh. Khi trong nhà có người sinh nở thì rào cầu thang chính bằng phên nứa. Khi trẻ lớn khoảng một tuổi mới đặt tên. Khi có người chết, tang lễ được tổ chức theo nghi thức nghiêm ngặt.

Ngôn ngữ: Ngôn ngữ thuộc nhóm Việt - Mường.

Văn hoá: Kho tàng văn nghệ dân gian khá phong phú: thơ, bài mo, truyện cổ, dân ca, ví đúm, tục ngữ. Có nhiều bài hát: ru em, đồng giao, hát đập hoa, hát đố, hát trẻ con chơi... Nhạc cụ có cồng, nhị, sáo trống, khèn lù. Có nhiều ngày hội trong năm: hội xuống đồng (khuông mùa), hội cầu mưa, lễ rửa lá lúa, lễ cơm mới...

http://tinypic.com/f78go
Nhạc cụ của người Mường

Trang phục: Nam mặc quần áo màu chàm. Nữ mặc áo, váy, áo ngắn thân xẻ ngực (có nơi xẻ vai), ít cài cúc và mặc yếm. Váy khá dài, cao đến nách, cạp váy dệt bằng tơ nhuộm màu, có hoa văn trang trí rất đẹp. Ðầu đội khăn màu trắng hình chữ nhật.

Kinh tế: Làm ruộng từ lâu đời. Lúa nước là cây lương thực chủ yếu. Kinh tế phụ là khai thác lâm thổ sản. Nghề thủ công có dệt vải, đan lát, ươm tơ. Nhiều phụ nữ Mường dệt thủ công với kỹ nghệ khá tinh xảo.
http://www.sinhcafe.com.vn/Thumbnail.aspx/1/0/0/36f066ed2a894db5abd39f049b48074d-viet7780.jpg/viet7780.jpg
Con gái Mường dệt vải

__Phi*Tuyết__
30-03-2009, 09:38
5.DÂN TỘC TÀY


Dân tộc Tày là một cộng đồng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày-Thái, có số dân khoảng 1,2 triệu người, đông nhất trong các dân tộc thiểu số ở nước ta.

http://www.cema.gov.vn/images/uploaded/ems477_tay7.jpg http://img.news.zing.vn/img/64/t64480.jpg
Thiếu nữ Tày

Dân tộc Tày còn có tên gọi khác là Thổ và bao gồm cả các nhóm: Ngạn, Phén, Thu Lao, Pa Dí. Người Tày cư trú ven các thung lũng, triền núi thấp ở các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Quảng Ninh và một số vùng thuộc Bắc Giang.

http://i121.photobucket.com/albums/o238/xuka_gia/Picture687.jpg
Nhà Dài của người Tày

Phong tục tập quán: Cư trú theo đơn vị làng, bản, tập trung ở ven suối hoặc những thung lũng bằng và rộng. Nhà ở trước đây là nhà sàn, ngày nay đã có sự thay đổi ở nhiều địa phương, như vùng giáp biên giới là nhà phòng thủ được xây dựng theo kiểu pháo đài đề phòng hoả hoạn. Thờ cúng tổ tiên, không kể các dịp lễ tết, người ta phải dâng hương, hoa, lễ vật mỗi tháng hai lần vào ngày mùng một và rằm. Đây là nhiệm vụ của gia trưởng, bắt nguồn từ thờ cúng gia tộc, thờ các vị thánh.

http://images.gdc.vn/Lenduong.vn/Uploads/LibraryImages/2009/1/22/tay1.jpg
Màn Múa kiếm đón năm mới của người Tày

Văn hoá: Họ có kho tàng truyện cổ tích, thơ ca, hò vè về các đề tài đấu tranh với thiên nhiên; về lao động sản xuất, về quan hệ xã hội và gia đình, thể hiện ước vọng có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc, tiêu biểu là truyện “Nùng Trí Cao”, “Nàng Khuấy”, “Pú Luông - Già Cải”; nhạc cụ có “Đàn tính”.

http://tbn0.google.com/images?q=tbn:YpgUyy7RAblYOM:http://www.baolaocai.vn/UserFiles/Image/thang%25207/29/giu-gin-net-van-hoa.jpg

Ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Tày- Nùng.
Trang phục: Gồm có áo cánh ngắn, áo dài, váy, quần, thắt lưng, khăn đội đầu, giầy vải và các đồ trang sức khác. Quần áo, váy đều mầu chàm hoặc mầu đen.
Kinh tế: Nguồn sống chính là trồng mầu trên đất bãi, trồng lúa nước và chăn nuôi.

http://www.baotuyenquang.com.vn/images_upload/small_16024.jpg

Người Tày có một nền nông nghiệp cổ truyền khá phát triển với đủ loại cây trồng như lúa, ngô, khoai... và rau quả mùa nào thức đó.

Bản của người Tày thường ở chân núi hay ven suối. Tên bản thường gọi theo tên đồi núi, đồng ruộng, khúc sông. Mỗi bản có từ 15-20 nóc nhà. Bản lớn chia ra nhiều xóm nhỏ. Nhà ở có nhà sàn, nhà đất và một số vùng giáp biên giới có loại nhà phòng thủ. Trong nhà phân biệt phòng nam ở ngoài, nữ ở trong buồng. Người Tày thường mặc quần áo vải bông nhuộm chàm, áo phụ nữ dài đến bắp chân, ống tay hẹp, xẻ nách ở bên phải, cài 5 khuy.

__Phi*Tuyết__
30-03-2009, 21:39
6.DÂN TỘC NÙNG


Dân tộc Nùng có gần khoảng 706.000 người, họ sống tập trung ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Thái, Hà Bắc, Tuyên Quang. Người Nùng gồm có các nhóm: Xuồng, Giang, Nùng An, Nùng Lòi, Phàn Sinh, Nùng Cháo, Nùng Inh, Quý Rịn, Nùng Dín, Khen Lài.

http://www.cema.gov.vn/images/uploaded/nung6.jpg
Thanh niên Nùng

Tiếng nói của người Nùng rất gần với tiếng Tày và thuộc hệ ngôn ngữ Tày-Thái. Tiếng Nùng có văn tự là nôm Nùng xuất hiện từ thế kỷ XVII.

Đồng bào Nùng thờ tổ tiên là chính. Bàn thờ để một buồng trong nhà, trên bàn thờ tổ tiên là bàn thờ các vị tiên, thánh, thần, Khổng Tử, và Quan âm Bồ tát.

http://www.cema.gov.vn/images/uploaded/nung4.jpg
1 góc thờ cúng của người nùng

http://www.cema.gov.vn/images/uploaded/nung2.jpg
Trang phục người Nùng Inh

Nguồn sống chính của người Nùng là cây lúa và cây ngô. Họ kết hợp làm ruộng nước ở các khe dọc với trồng lúa cạn trên sườn đồi. Đồng bào Nùng có trồng nhiều cây công nghiệp, cây ăn quả lâu năm như quýt, hồng... Hồi là cây quý nhất của đồng bào, hàng năm mang lại nguồn lợi đáng kể. Các ngành nghề thủ công đã phát triển, phổ biến nhất là nghề dệt, tiếp đến là nghề mộc, đan lát và nghề rèn, nghề gốm.

http://www.cema.gov.vn/images/uploaded/nung3.jpg

Đồng bào Nùng sồng thành từng bản trên các sườn đồi. Thông thường trước bản là ruộng nước, sau bản là nương và vườn cây ăn quả. Đồng bào ở nhà sàn làm bằng gỗ tốt, lợp ngói máng hoặc lợp tranh. Đồng bào Nùng mặc áo chàm. Tấm áo chàm của người Nùng đã từng che cho Bác Hồ khi Bác từ nước ngoài về sống và hoạt động cách mạng ở Pắc Bó (1941).

Một số vùng đồng bào còn lưu truyền câu truyện cổ với sự tích màu chàm là màu chung thuỷ của người vợ trẻ chờ chồng đi đánh giặc giữ nước. Người Nùng thích ăn các món xào mỡ lợn. Món ăn độc đáo và được coi là món ăn sang trọng của đồng bào là "khau nhục". Hình thức mời nhau uống rượi chéo chén có lịch sử từ lâu đời, nay đã thành tập quán của đồng bào.

Đồng bào Nùng có một kho tàng văn hoá dân gian phong phú và có nhiều làn điệu dân ca đậm đà màu sắc dân tộc. Tiếng Sli giao duyên của thanh niên Nùng Lạng Sơn hoà quyện vào âm thanh tự nhiên của núi rừng gây nhiều ấn tượng sâu sắc cho những ai đã một lần đến xứ Lạng. Then là điệu dân ca tổng hợp có lời, có nhạc, có kiểu trang trí, có hình thức biểu diễn đã làm rạo rực tâm hồn bao chàng trai Nùng khi ở xa quê hương.

Lễ hội nổi tiếng thu hút được nhiều người, nhiều lứa tuổi khác nhau là hội "lùng tùng" (còn có nghĩa là hội xuống đồng) được tổ chức vào tháng giêng hàng năm.

__Phi*Tuyết__
31-03-2009, 19:26
7.DÂN TỘC HÀ NHÌ

Tên gọi khác : U Ní, Xá U Ní
Nhóm ngôn ngữ : Tạng - Miến
Dân số : 12.500 người.

Cư trú : ở các tỉnh Lai Châu và Lào Cai

http://tour.hivietnam.vn/images/image_manager/cat0/b0cb670813e3b67b9899d51ed17fd582_hanhi_dantoc.gif

Đặc điểm kinh tế
Nguồn gốc chính của đồng bào là trồng lúa, có nơi làm ruộng, có nơi làm nương rẫy. Hà Nhì là một trong những dân tộc có truyền thống khai khẩn ruộng bậc thang và đào mương đắp đập lấy nước, dùng trâu bò cày kéo và làm vườn cạnh nhà...
Chăn nuôi là một nghề phát triển. Các nghề thủ công như đan lát, dệt vải cũng rất phổ biến. Phần đông người Hà Nhì tự túc được vải mặc.

Tổ chức cộng đồng
Người Hà Nhì hiện nay đã định cư, mỗi bản có khi đông tới 60 hộ. Người Hà Nhì có nhiều họ, mỗi họ gồm nhiều chi. Dịp tết hàng năm có tục cả dòng họ tụ tập lại nghe người già kể tộc phả của mình, có dòng họ nhớ được về xưa tới 40 đời.
Tên của người Hà Nhì thường đặt theo tập tục là lấy tên người cha, hoặc tên con vật ứng với ngày sinh của người ấy làm tên đệm.

Hôn nhân gia đình

http://tour.hivietnam.vn/images/image_manager/cat0/75265d452a72ea3f995e1c942c7d5c35_thieunu_hanhi.gif
Thiếu nữ Hà Nhì ở Mường Tè- Lai Châu


Trai gái Hà Nhì được tìm hiểu nhau trước khi kết hôn. Mỗi cặp vợ chồng, phải trải qua hai lần cưới. Ngay sau lần cưới trước, họ đã thành vợ chồng, cô dâu về nhà chồng và theo phong tục ở Lai Châu cô dâu phải đổi họ theo chồng. Cũng ở Lai Châu, có nơi lại ở rể. Lần cưới thứ hai được tổ chức khi họ làm ăn khấm khá và thường là khi đã có con.

http://www.vnexpress.net/Files/Subject/3B/A0/AB/C7/7aa%20-%20Nguoi%20HA%20NHI%20Hat%20dan%20ca%20mung%20Tet. jpg
Người Hà Nhì hát dân ca mừng tết

Tục lệ ma chay
Phong tục ma chay của các vùng không hoàn toàn giống nhau, nhưng có một số điểm chung: khi trong nhà có người chết, phải dỡ bỏ tấm liếp (hay rút một vài nan) của buồng người đó, phá bàn thờ tổ tiên, làm giường đặt tử thi ở bếp, chọn ngày giờ tốt mới chôn. Người Hà Nhì không có nghĩa địa chung của bản, kiêng lấp đất lẫn cỏ tươi xuống huyệt, không rào dậu hay dựng nhà mồ, chỉ xếp đá quanh chân mộ...

Văn hóa
Người Hà Nhì có nhiều truyện cổ, có cả truyện thơ dài. Nam nữ thanh niên có điệu múa riêng, đều theo nhịp tấu, nhạc cụ gõ. Trai gái Hà Nhì tỏ tình thường dùng các loại khèn lá, đàn môi, sáo dọc. Các thiếu nữ thích thổi am-ba, mét-du, tuy-húy hay nát-xi vào ban đêm. Con trai gảy đàn La Khư. Ngày lễ hội còn có trống, thanh la, chập cheng góp vui. Người Hà Nhì có nhiều loại bài hát: các bà mẹ hát ru, thanh niên nam nữ hát đối... Có hát đám cưới, hát đám ma, hát mừng nhà mới, hát tiếp khách quí, hát trong ngày tết... Bài hát đám cưới của người Hà Nhì ở Mường Tè (Lai Châu) dài tới 400 câu.

http://tour.hivietnam.vn/images/image_manager/cat0/7e77ca40e547dbfc8a6bae69c34b22cb_nhaygay_hanhi.jpg
Trong ngày lễ Tết, người dân Hà Nhì chơi trò nhảy gậy.


Nhà cửa
Qua việc so sánh đối chiếu những tài liệu về nhà cửa của cá dân tộc này thì thấy rằng chỉ có nhà của người Hà Nhì là có những đặc trưng rõ rệt hơn. Tính thống nhất của các đặc trưng này còn được thể hiện trên những địa bàn khác nhau.
Nhà ở cổ truyền của người Hà Nhì là nhà đất. Bộ khung nhà khá đơn giản. Vì kèo cơ bản là kiểu vì kèo ba cột. Nhà có hiên rộng, người ta còn làm thêm một cột hiên nên trở thành vì bốn cột. Tường trình rất dày. Nhà không có cửa sổ, của ra vào cũng ít, phổ biến là chỉ có một cửa ra vào mở ở mặt trước nhà và lệch về một bên.
Mặt bằng sinh hoạt: nhà thường ba gian, ít nhà bốn gian. Có hiên rộng ở mặt trước nhà. Trong nhà chia theo chiều dọc: nữa nhà phía sau là các phòng nhỏ. Nửa nhà phía trước để trồng, một góc nhà có giường dành cho khách, ở đây còn có bếp phụ. Cũng có trường hợp hiên được che kín như là một hành lang hẹp thì cửa mở ở chính giữa. Những trường hợp như thế này thuộc về gian chính giữa hoặc thêm một gian bên cạnh có sàn cao khoảng 40cm để dành cho khách, ở đây cũng có bếp phụ.

Trang phục
Phong cách trang phục giống các dân tộc trong cùng nhóm ngôn ngữ, và có phần không điển hình ở phong cách trang trí. Váy đen, chỉ có mũ, khăn hai ống tay và nẹp áo phụ nữ có trang trí. Trang trí ở ống tay giống phong cách Lô lô và Hmông.

__Phi*Tuyết__
01-04-2009, 07:41
8.DÂN TỘC KHƠ MÚ


Dân tộc Khơ-mú có khoảng 43.000 người. Đồng bào sinh sống tập trung ở các tỉnh Nghệ An, Lai Châu, Sơn La, Thanh Hoá, Yên Bái. Dân tộc Khơ-mú còn có các tên gọi khác như Xá cẩu, Mứn Xen, Pu Thênh, Tềnh, Tày Hạy. Tiếng Khơ-mú thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer.

Người Khơ-mú sống chủ yếu bằng kinh tế nương rẫy. Cây trồng chính là lúa, ngô, khoai, sắn. Trong canh tác, đồng bào dùng dao, rìu, gậy chọc hốc là chính. Hái lượm săn bắn giữ vị trí quan trọng, nhất là lúc giáp hạt. Đồng bào nuôi gia súc, gia cầm chỉ để phục vụ dịp lễ lạt, tiếp khách. Nghề đan lát phát triển. Đồng bào đan các đồ dùng để vận chuyển, chứa lương thực... Người Khơ-mú không phát triển nghề dệt vải, nên thường mua quần áo, váy của người Thái để mặc.

http://www.cema.gov.vn/images/uploaded/khomu2.jpg

Trang phục của người Khơ-mú


Đến nay ở nhiều vùng người Khơ-mú vẫn còn du canh du cư. Làng bản của họ thường cách xa nhau, nhỏ bé, ít dân. Nhà cửa phần lớn làm sơ sài, đồ dùng trong nhà cũng ít ỏi. Sắc thái Khơ-mú thể hiện ở trang phục hầu như đã bị phai mờ tuy trang phục của phụ nữ còn có đôi điểm riêng biệt.

Các họ của người Khơ-mú thường mang tên một loài thú, một loại chim hay một thứ cây nào đó. Mỗi dòng họ coi thú, chim, cây ấy là tổ tiên ban đầu của mình và họ kiêng giết thịt và ăn thịt các loại động vật, thực vật này. Mỗi dòng họ có huyền thoại kể về lai lịch của tổ tiên chung, người cùng dòng họ coi nhau là anh em ruột thịt.

http://www.cema.gov.vn/images/uploaded/khomu5.jpg

Người Khơ-mú cũng ở nhà sàn

Ở gia đình Khơ-mú, vợ chồng bình đẳng, chung thuỷ. Người Khơ-mú có tục cưới ở rể một năm, sau đó mới đưa vợ về nhà mình. Khi ở nhà vợ, người chồng đổi họ theo vợ, còn nếu có con thì con theo họ mẹ, trái lại khi về nhà chồng thì vợ phải đổi họ theo chồng và các con lại mang họ bố. Người cùng dòng họ không được lấy nhau, nhưng con trai cô được lấy con gái cậu. Trong việc dựng vợ gả chồng và trong cuộc sống gia đình, vai trò của người cậu đối với các cháu rất quan trọng.

http://www.cema.gov.vn/images/uploaded/khomu3.jpg

Nhị là nhạc cụ người Khơ-mú ưa thích


Người Khơ-mú tin vào các loại "ma" đặc biệt là ma trời, ông sét, ma đất, ma rừng, ma nương, ma bản, ma nhà, ma tổ tiên... Trong một năm đồng bào có những nghi lễ tôn giáo chính như: cúng ma mường, ma bản, thờ cúng tổ tiên và các nghi lễ liên quan đến lao động sản xuất.

http://infomap.vn/UserFiles/Image/article/vn/LeHoiVietNam/72_76_hoimungmuaroicuadantock_2008310155114.jpg
Hội mừng lúa mới

Dân tộc Khơ-mú vốn có truyền thống văn hoá lâu đời, tuy cuộc sống vật chất còn nghèo, nhưng cuộc sống tinh thần khá dồi dào.

Mưa rơi cho chim ướt lông, nó sập bẫy trong rừng. Đầu nguồn đàn chim cu đang đua gáy, với đàn bướm cùng nô đùa (Mưa rơi- dân ca Khơ Mú).

__Phi*Tuyết__
03-04-2009, 09:09
9.DÂN TỘC CHĂM

Tên gọi khác:
Chàm, Chiêm thành, Hroi

http://www.vietnamtourism.com.vn/upload/image/_news/2007530/image/dan%20toc%20cham2.jpg

Nhóm ngôn ngữ
Malayô - Pôlinêxia

Dân số
99.000 người.

Cư­ trú
Sống tập trung ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Một số nơi khác như­ An Giang, Tây Ninh, Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh cũng có một phần dân c­ư là người Chăm; tây nam Bình Thuận và tây bắc Phú Yên có người Chăm thuộc nhóm Hroi.

Đặc điểm kinh tế
Đồng bào Chăm sống ở đồng bằng, có truyền thống sản xuất lúa nước là chính. Kỹ thuật thâm canh lúa nước bằng các biện pháp giống, phân bón, thủy lợi khá thành thạo. Đồng bào Chăm biết buôn bán. Hai nghề thủ công nổi tiếng là đồ gốm và dệt vải sợi bông. Tr­ước kia, người Chăm không trồng cây trong làng.

http://www.hanoimoi.com.vn/vn/thumbnail/164/cham1.jpg
sản phẩm mỹ nghệ dân tộc Chăm

Tổ chức cộng đồng
Đồng bào có tập quán bố trí cư­ trú dân cư­ theo bàn cờ. Mỗi dòng họ, mỗi nhóm gia đình thân thuộc hay có khi chỉ một đại gia đình ở quây quần thành một khoảnh hình vuông hoặc hình chữ nhật. Trong làng các khoảnh như­ thế ngăn cách với nhau bởi những con đư­ờng nhỏ. Phần lớn làng Chăm có dân số khoảng từ 1.000 người đến 2.000 người.

http://tour.hivietnam.vn/images/image_manager/cat0/89eaf4f2bec3e9c7a69e0ce5117af1c4_lehoi_cham.jpg
Lễ hội katê

Hôn nhân gia đình
Chế độ mẫu hệ vẫn tồn tại ở người Chăm miền Trung. Tuy đàn ông thực tế đóng vai trò to lớn trong cuộc sống nh­ưng chủ gia đình luôn là người đàn bà cao tuổi. Phong tục Chăm qui định con gái theo họ mẹ. Nhà gái c­ưới chồng cho con. Con trai ở rể nhà vợ. Chỉ con gái được thừa kế tài sản, đặc biệt người con gái út phải nuôi dưỡng cha mẹ già nên được phần chia tài sản lớn hơn các chị.

Nhà cửa
Nhà cửa của đồng bào hầu như­ có rất ít đặc điểm giống nhà của các cư­ dân Malayô - Pôlinêxia nào khác. Nói đến nhà ở của người Chăm ở Bình Thuận thì cái nhà chư­a phải là cái đáng quan tâm nhất, mà là một quần thể nhà trong một khuôn viên. Mối quan hệ của các nhà trong quần thể này đã thể hiện quá trình rạn vỡ của hình thái gia đình lớn mẫu hệ để trở thành các gia đình nhỏ với các ngôi nhà ngắn. Bộ khung của người Chăm ở Bình Thuận khá đơn giản. Vì cột cơ bản là vì ba cột (không có kèo). Nếu là vì năm cột thì có thêm xà ngang đầu gác lên cây đòn tay cái nơi hai đầu cột con. Từ các kiểu vì này dần xuất hiện cây kèo và trở thành vì kèo.
Về mặt sinh hoạt, mỗi nhà trong khuôn viên có tổ chức mặt bằng khác nhau. Song, đồng bào cho rằng nhà thang yơ là kiểu nhà cổ nhất. Đó là nhà sàn, nh­ưng nay sàn rất thấp gần sát mặt đất. Đầu hồi bên trái và một phần của mặt nhỏ dành cho khách, chủ nhà, kho... Với các nhà khách hình thức bố cục này hầu như­ vẫn được giữ lại. Khác chăng chỉ là hiên của nhà thang yơ được giữ lại. Khác chăng chỉ là cái hiên của nhà thang yơ được bư­ng kín để kê phản, bàn ghế...Đó là nói về nhà người Chăm ở Bình Thuận, còn nhà người Chăm ở miền Nam lại rất khác.
- Nhà người Chăm ở An Giang: cách tổ chức mặt bằng sinh hoạt còn phảng phất cái hình đồ sộ của nhà thang yơ ở Bình Thuận.
- Nhà người Chăm ở Châu Đốc: Khuôn viên của nhà Chăm Châu Đốc không còn nhiều nhà mà chỉ có nhà chính và nhà phụ kết hợp thành hình th­ước thợ. Chuồng trâu bò và lợn được làm xa nhà ở. Nhà ở là nhà sàn, chân rất cao để phòng ngập lụt. Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt hoàn toàn khác với nhà ở Bình Thuận cũng như­ ở An Giang

Trang phục
Có những nhóm địa ph­ương khác nhau với lối tạo dáng và trang trí riêng khó lẫn lộn với các tộc người trong nhóm ngôn ngữ hoặc khu vực.
+ Trang phục nam

http://tour.hivietnam.vn/images/image_manager/cat0/92fe249c09672498ff0161086cd0c0d0_cham.gif

Vùng Thuận Hải, đàn ông lớn tuổi ­thường để tóc dài, quấn khăn. Đó là loại khăn màu trắng có dệt thêu hoa văn ở các mép và hai đầu khăn cũng nh­ư các tua vải. Khăn đội theo lối chữ nhân, hai đầu thả ra hai mang tai. Nhóm Chăm Hroi đội khăn trắng quấn gọn trên đầu. Nam mặc áo cánh xẻ ngực màu sáng hoặc tối. Đó là loại áo cổ tròn cài cúc. Có người mặc áo ngắn, xẻ ngực, cộc tay. Các đ­ường viền ở cổ s­ườn, hai thân tr­ước và gấu được trang trí và đính các miếng kim loại hình tròn, có nhóm mặc lễ phục là loại áo dài xẻ nách trắng hoặc đỏ. Trang phục cổ truyền là chiếc váy và quần.
+ Trang phục nữ

http://tour.hivietnam.vn/images/image_manager/cat0/affeeaf561c539304e3ce2da7fc0a7d9_trangphucnu.gif

Về cơ bản, phụ nữ các nhóm Chăm ­thường đội khăn. Cách hoặc là phủ trên mái tóc hoặc quấn gọn trên đầu, hoặc quấn theo lối chữ nhân, hoặc với loại khăn to quàng từ đầu rồi phủ kín vai. Khăn đội đầu chủ yếu là màu trắng, có loại được trang trí hoa văn theo lối viền các mép khăn (khăn to), nhóm Chăm Hroi thì đội khăn màu chàm. Lễ phục ­thường có chiếc khăn vắt vai ngoài chiếc áo dài màu trắng. Đó là chiếc khăn dài tới 23m vắt qua vai chéo xuống hông, được dệt thêu hoa văn cẩn thận với các màu đỏ, trắng, vàng của các mô tip trong bố cục của dải băng.
Nhóm Khánh Hòa và một số nơi, chị em mặc quần bên trong áo dài. Nhóm Chăm Hroi mặc váy quấn (hở) có miếng đáp sau váy. Nhóm Quảng Ngãi mặc áo cánh xẻ ngực, cổ đeo vòng và các chuỗi hạt cườm.
Trang phục Chăm, vì có nhóm cơ bản là theo đạo Hồi nên cả nam và nữ lễ phục thiên về màu trắng. Có thể thấy đặc điểm trang phục là lối tạo hình áo (khá điển hình) là lối khoét cổ và can thân và nách từ một miếng vải khổ hẹp (hoặc can với áo dài) thẳng ở giữa làm trung tâm áo cho cả áo ngắn và áo dài. Mặt khác có thể thấy ở đây duy nhất là tộc còn thấy nam giới mặc váy ở nước ta với lối mang trang phục và phong cách thẩm mỹ riêng.

Một bài thơ Chăm:

Jalau Anưk


Nhắn em

Mùa đã thức
Xaranai đã véo von từ cõi xa xăm gọi bừng mặt trời ngái ngủ
Gọi lùi bước Yang toan đi
Gọi giật hồn tha ma lảng vảng
Gọi ầm ầm tapuk bhaw
Gọi phụt mạch nước ngầm trên mảnh vườn bén liếc gót chân thô

Mùa đã thức
Gọi về vạn bước tha hương
Dội vào nghìn trùng xó xỉnh:
âm u
bẩn thỉu
nhọc nhằn
ti tiện

Về đi em!
wơn Katê
Tamia tadik
Làm duyên con gái
Đội chiếc buk xưa
Đong đưa hanrak cũ

Về đi em!
Khét hanh mùi nắng
Khát gầy mùi mưa
Mặn nồng mùi biển

Thôi miên anh về lại … đợi mùa

__Phi*Tuyết__
04-04-2009, 09:19
10.DÂN TỘC KHƠ-ME


Dân tộc Khơ-me ở nước ta hiện có khoảng 1 triệu người. Sống tập trung tại các tỉnh Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Kiên Giang, An Giang. Họ có tên gọi khác là Việt gốc Miên, Khơ-me Krôm.

http://www.cema.gov.vn/images/uploaded/khmer1.jpg
Trang phục thiếu nữ Khơ-me Nam Bộ

http://www.cema.gov.vn/images/uploaded/khmer2.jpg
Giã Cốm

Là một tộc người trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, người Khơ-me đã sinh sống lâu đời ở đồng bằng sông Cửu Long. Người Khơ-me có tiếng nói và chữ viết riêng, nhưng cùng chung một nền văn hoá, một lịch sử bảo vệ và xây dựng tổ quốc Việt Nam. Đồng bào Khơ-me sống xen kẽ với đồng bào Kinh, Hoa trong các phum, sóc, ấp.

http://www.cema.gov.vn/images/uploaded/khmer6.jpg
Chùa Khơ-me Nam Bộ

Nhà của người Khơ-me làm đơn giản, mái lợp lá dừa nước, ít nhà lợp ngói. Nhà thường làm theo kiểu mái dài về phía sau. Đồng bào làm nhà thường dùng con số lẻ như chiều cao 5m, 7m và cửa thường quay về hướng đông.

Người Khơ-me đã biết thâm canh lúa nước từ lâu đời. Đồng bào biết chọn giống lúa, biết làm thuỷ lợi và lợi dụng thuỷ triều để thau chua, xổ phèn cải tạo đất, có địa phương trồng nhiều dưa hấu. Đồng bào cũng phát triển kinh tế toàn diện như chăn nuôi trâu bò để cày kéo, nuôi lợn, gà, vịt đàn, thả cá và phát triển các nghề thủ công như dệt, gốm, làm đường từ cây thốt nốt.

http://www.cema.gov.vn/images/uploaded/khmer5.jpg
Đám cưới của người Khơ-me

Đồng bào Khơ-me ở Nam bộ có ba hình thức tôn giáo: theo tín ngưỡng dân gian, đạo Bà La Môn và đạo Phật dòng tiểu thừa. Đồng bào sùng kính đạo Phật. Mỗi ấp đều có một ngôi chùa. Từ lâu và hiện nay, chùa Khơ-me là tụ điểm sinh hoạt văn hoá xã hội của đồng bào. Trong mỗi chùa có nhiều sư (gọi là các ông lục) và do sư cả đứng đầu. Thanh niên người Khơ-me trước khi trưởng thành thường đến chùa tu học để trau dồi đức hạnh và kiến thức. Hiện nay ở Nam bộ có trên 400 chùa Khơ-me. Nhà chùa thường dạy kinh nghiệm sản xuất, dạy chữ Khơ-me.


http://www.cema.gov.vn/images/uploaded/khmer4.jpg
Đua ghe ngo trong ngày hội của người Khơ-me


Đồng bào Khơ-me Nam bộ có nhiều phong tục tập quán truyền thống và có nền văn hoá nghệ thuật rất độc đáo. Những chùa lớn thường có đội trống, kèn, đàn, có đội ghe ngo... Hàng năm người Khơ-me có nhiều ngày hội, ngày tết dân tộc.

Đồng bào Khơ-me có các ngày lễ lớn là Chôn Chơ Nam thơ mây (năm mới), lễ Phật đản, lễ Đôn ta (xã tội vong nhân), Oóc bom boóc (cúng trăng).

__Phi*Tuyết__
05-04-2009, 12:58
11.DÂN TỘC ÊĐÊ


Tên gọi khác
Rađê, Đê, Kpa, A Dham, Krung, Ktul, Dlie Ruê, Blô, Epan, Mdhur, Bích

Nhóm ngôn ngữ
Malayô - Pôlinêxia

Dân số
195.000 người.

Cư­ trú
Sống tập trung ở tỉnh Đắc Lắc, nam tỉnh Gia Lai và miền tây hai tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên.

Đặc điểm kinh tế

http://img713.imageshack.us/img713/7821/458ao.jpg

Người Êđê làm rẫy là chính, riêng nhóm Bích làm ruộng n­ước theo lối cổ xưa, dùng trâu dẫm đất thay việc cày, cuốc đất. Ngoài trồng trọt, đồng bào còn chăn nuôi, săn bắn, hái l­ượm, đánh cá, đan lát, dệt.

Hôn nhân gia đình
Trong gia đình người Êđê, chủ nhà là phụ nữ, theo chế độ mẫu hệ, con cái mang họ mẹ, con trai không được h­ưởng thừa kế. Đàn ông cư­ trú trong nhà vợ. Nếu vợ chết và bên nhà vợ không còn ai thay thế thì người chồng phải về với chị em gái mình. Nếu chết, được đưa về chôn cất bên người thân của gia đình mẹ đẻ.

Văn hóa

http://www.vnmusicology-inst.vnn.vn/vietnamese/dannhac/photos/congTN3.jpg
Dàn cồng của dân tộc Êđê
Người Êđê có kho tàng văn học truyền miệng phong phú: thần thoại, cổ tích, ca dao, tục ngữ, đặc biệt là các Khan (tr­ường ca, sử thi) nổi tiếng với Khan Đưam San, Khan Đưam Kteh Mlan... Đồng bào yêu ca hát và thích tấu nhạc. Nhạc cụ có chiêng, cồng, trống, sáo, khèn, đàn. Đây là năm loại nhạc cụ phổ biến của người Êđê và được nhiều người yêu thích.

Nhà cửa


http://images.suckhoedoisong.vn/Images/Uploaded/Share/2008/6/27/2008627101347316/2008/06/toan-canh(Nha%20dai%20ede).JPG
Nhà dài của người Ê đê

Nhà người Ê Đê thuộc loại hình nhà sàn dài. Nhà Ê Đê có những đặc tr­ưng riêng không giống nhà người chăm và các­ dân tộc khác ở Tây Nguyên. Nhà dài của gia đình lớn mẫu hệ. Bộ khung kết cấu đơn giản. Cái được coi là đặc trư­ng của nhà Ê Đê là: hình thức cửa thang, cột sàn và cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt. Đặt biệt là ở hai phần. Nửa đằng cửa chính gọi là Gah là nơi tiếp khách, sinh hoạt chung của cả nhà dài, bếp chủ, ghế khách, ghế chủ, ghế dài (tới 20cm), chiếng ché... nửa còn lại gọi là Ôk là bếp đặt chỗ nấu ăn chung và là chỗ ở của các đôi vợ chồng, chia đôi theo chiều dọc, phần về bên trái được coi là "trên" chia thành nhiều gian nhỏ. Phần về bên phải là hàng lang để đi lại, về phía cuối là nơi đặt bếp... Mỗi đầu nhà có một sân sàn. Sân sàn ở phía cửa chính được gọi là sân khách. Muốn vào nhà phải qua sân sàn. Nhà càng khá giả thì sân khách càng rộng, khang trang.

Trang phục

http://www.cuocsongviet.com.vn/upload/image/54%20dan%20toc%5D/Ede.jpg

Có đầy đủ các thành phần, chủng loại trang phục và phong cách thẩm mỹ khá tiêu biểu cho các dân tộc khu vực Tây Nguyên. Y phục cổ truyền của người Êđê là màu chàm, có điểm những hoa văn sặc sỡ. Đàn bà mặc áo, quấn váy. Đàn ông đóng khố, mặc áo. Đồng bào dùng các đồ trang sức bằng bạc, đồng, hạt cư­ờm. Trư­ớc kia, tục cà răng qui định mọi người đều cắt cụt 6 chiếc răng cửa hàm trên, nh­ưng lớp trẻ ngày nay không cà răng nữa.

+ Trang phục nam
Nam để tóc ngắn quấn khăn màu chàm nhiều vòng trên đầu. Y phục gồm áo và khố. Áo có hai loại cơ bản:
a) Loại áo dài tay, khoét cổ chui đầu, thân dài trùm mông, xẻ tà. Đây là loại áo khá tiêu biểu cho người Ê Đê qua trang phục nam. Trên nền chàm của thân và ống tay áo ở ngực, hai bên bả vai, cửa tay, các đ­ường viền cổ, nơi xẻ tà gấu áo được trang trí và viền vải đỏ, trắng. Đặc biệt là khu giữa ngực áo có mảng sọc ngang trong bố cục hình chữ nhật tạo vẻ đẹp, khỏe.
b) Loại áo dài (quá ngối), khoét cổ, ống tay bình thường không trang trí như­ loại áo ngắn trên,... Khố có nhiều loại và được phân biệt ở sự ngắn dài có trang trí hoa văn nh­ư thế nào. Đẹp nhất là các loại ktêh, drai, đrêch, piêk, còn các loại bong và băl là loại khố thường. Áo thường ngày ít có hoa văn, bên cạnh các loại áo trên còn có loại áo cộc tay đến khủy, hoặc không tay. Áo có giá trị nhất là loại áo Ktêh của những người quyền quý có dải hoa văn "đại bàng dang cánh", ở dọc hai bên nách, gấu áo phía sau lư­ng có đính hạt cư­ờm. Nam giới cũng mang hoa tai và vòng cổ.

+ Trang phục nữ
Phụ nữ Ê Đê để tóc dài buộc ra sau gáy. Họ mang áo váy trong trang phục thường nhật. Áo phụ nữ là loại áo ngắn dài tay, khoét cổ (loại cổ thấp hình thuyền) mặc kiểu chui đầu. Thân áo dài đến mông khi mặc cho ra ngoài váy. Trên nền áo màu chàm các bộ phận được trang trí là: cổ áo lan sang hai bên bả vai xuống giữa cánh tay, cửa tay áo, gấu áo. Đó là các đ­ường viền kết hợp với các dải hoa văn nhỏ bằng sợi màu đỏ, trắng, vàng. Cái khác của trang phục áo nữ Ê Đê khác Gia Rai về phong cách trang trí là không có đư­ờng ở giữa thân áo. Cùng với áo là chiếc váy mở (tấm vải rộng làm váy) quấn quanh thân. Cũng trên nền chàm váy được gia công trang trí các sọc nằm ngang ở mép trên, mép dư­ới và giữa thân bằng chỉ các màu tư­ơng tự như­ áo. Đồ án trang trí tập trung hơn ở mép trên và d­ưới thân váy. Có thể đây cũng là phong cách hơi khác Gia Rai. Váy có nhiều loại phân biệt ở các dải hoa văn gia công nhiều hay ít. Váy loại tốt là myêng ****, rồi đến myêng đrai, myêng piêk. Loại bình thường mặc đi làm rẫy là bong. Hiện nay nữ thanh niên thường mặc váy kín. Đếch là tên gọi mảng hoa văn chính ở gấu áo. Ngoài ra phụ nữ còn có áo lót cộc tay (ao yêm). Xư­a họ để tóc theo kiểu búi tó và đội nón duôn bai. Họ mang đồ trang sức bằng bạc hoặc đồng. Vòng tay thường đeo thành bộ kép nghe tiếng va chạm của chúng vào nhau họ có thể nhận ra người quen, thân

__Phi*Tuyết__
07-04-2009, 08:23
12. DÂN TỘC BANA

Tên gọi khác
Tơ Lô, Giơ Lâng, (Y Lăng), Rơ Ngao, (Krem), Roh, Con Kde, A La Công, Kpăng Công, Bơ Môn
Nhóm ngôn ngữ : Môn - Khmer
Dân số : 136.000 người.
Cư trú
Cư trú chủ yếu ở Kon Tum và miền Tây Bình Định và Phú Yên

Đặc điểm kinh tế

http://www.baobinhdinh.com.vn/binhdinhquaanh/2008/5/59691/images/images63454_a3.JPG
Nướng cơm Lam

Người Ba Na sống chủ yếu nhờ trồng rẫy. Rẫy cung cấp không chỉ lúa gạo, mà cả các loại lương thực khác, cũng như hoa màu, rau xanh, gia vị, mía, nhiều thứ quả cây và cả bông lấy sợi dệt vải. Cùng với trồng trọt từng gia đình thường có nuôi trâu, bò, dê, lợn, gà. Chó là con vật được yêu quý và không bị giết thịt. Hầu như mỗi làng đều có lò rèn. Một số nơi biết làm đồ gốm đơn sơ, phụ nữ dệt vải tự túc đồ mặc trong gia đình. Đàn ông đan chiếu, lưới, các loại gùi, giỏ, mủng... Việc mua bán thường dùng vật đổi vật, xác định giá trị bằng con gà, lưỡi rìu, gùi thóc, con lợn, hay nồi đồng, ché, chiêng, cồng, trâu v.v..

http://i245.photobucket.com/albums/gg42/ngocviendesign/IMG_0599.jpg
Một ngôi làng người Bana
Hôn nhân gia đình
Tục hôn nhân người Ba Na cho phép tự do tìm hiểu và lựa chọn bạn đời, việc cưới xin đều theo nếp cổ truyền. Vợ chồng trẻ ở luân phiên mỗi bên một thời gian theo thỏa thuận giữa hai gia đình đôi bên, sau khi sinh con đầu lòng mới dựng nhà riêng. Trẻ em luôn được yêu chiều. Dân làng không đặt trùng tên nhau. Trong trường hợp những người trùng tên gặp nhau, họ làm lễ kết nghĩa, tùy tuổi tác mà xác lập quan hệ anh-em, cha-con, mẹ-con.
Ơở người Ba Na, các con được thừa kế gia tài ngang nhau. Trong gia đình mọi người sống hòa thuận bình đẳng.

Tục lệ ma chay
Người Ba Na quan niệm con người chết đi hoá thành ma, ban đầu ở bãi mộ của làng, sau lễ bỏ mả mới về hẳn thế giới tổ tiên. Lễ bỏ mả được coi như lần cuối cùng tiễn biệt người chết.

http://www.binhthuan.gov.vn/khtt/datnuoc/0002/images/DTV01102.gif

Văn hóa

http://www.haiduongnet.gov.vn/chinh-quyen/phong-su-anh/PublishingImages/70090012-106534sm.jpg
Màn cồng chiêng của người Bana

Trong kho tàng văn nghệ dân gian, còn phải kể đến các làn điệu dân ca, các điệu múa trong ngày hội và các lễ nghi tôn giáo. Nhạc cụ Ba Na đa dạng: những bộ cồng chiêng kết cấu khác nhau, những đàn T'rưng, brọ, klông pút, kơ ni, khinh khung, gôông, v.v... và những kèn tơ nốt, arơng, tơ-tiếp v.v... Nghệ thuật chạm khắc gỗ của người Ba Na độc đáo. Những hình thức trang trí sinh động trên nhà rông và đặc biệt những tượng ở nhà mồ v.v... vừa mộc mạc, vừa đơn sơ, vừa tinh tế và sinh động như cuộc sống của người Ba Na.

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/4/4d/Klong_put.png/300px-Klong_put.png
Một chiếc đàn K'lông pút của người Ba Na.

Nhà cửa
Nhà người Ba Na thuộc loại hình nhà sàn. Cho đến nay, nhà của người Ba Na đã có rất nhiều thay đổi, hầu như không còn nhà sàn dài. Nhà sàn ngắn của các gia đình nhỏ là hiện tượng phổ biến. Mặc dù có nhiều thay đổi như vậy nhưng vẫn tìm được ở những địa phương khác nhau những ngôi nhà Ba Na có những đặc điểm như là những đặc trưng của nhà cổ truyền Ba Na, nhà nóc hình mai rùa hoặc chỉ còn là hai mái chính với hai mái phụ hình khum-dấu vết của nóc hình mai rùa. Chỏm đầu dốc có "sừng" trang trí (với các kiểu khác nhau tùy từng địa phương). Vác che nghiêng theo thế "thượng thách hạ thu". Có nhà, cột xung quanh nhà cũng chôn nghiêng như thế vách. Thang đặt vào một sàn lộ thiên trước mặt nhà. Trên sàn này người ta đặt cối giã gạo (cối chày tay). Điểm đáng chú ý là dưới đáy cối có một cái "ngõng", Khi giã gạo người ta cắm cái ngõng ấy vào một cái lỗ đục trên một thanh gỗ đặt trên sàn.
Nhà tre vách nhưng có thêm lớp đố, ngoài được buộc rất cầu kỳ có giá trị như là một thứ trang trí
Bộ khung nhà kết cấu đơn giản. Đã là vì kèo nhưng vẫn trên cơ sở của vì cột. Tổ chức mặt bằng cũng đơn giản là 1 hiện tượng rất phổ biến hiện nay. Ngay như nhà của những người theo đạo Kitô cũng giữ lại kiểu bố trí trên mặt bằng như vậy.
Ngôi nhà công cộng (nhà rông) cao lớn và đẹp đứng nổi bật giữa làng, đó là trụ sở của làng, nơi các bô lão tề tựu bàn việc công, nơi dân làng hội họp, nơi thanh niên chưa vợ và trai góa vợ ngủ đêm, nơi tiến hành các nghi lễ phong tục của cộng đồng, nơi tiếp khách lạ vào làng.

Trang phục
Mang phong cách chung của khu vực nhưng có cá tính riêng đặc biệt là qua phong cách thẩm mỹ.

+ Trang phục nam
Thường nhật, nam giới Ba Na mặc áo chui đầu, cổ xẻ. Đây là loại áo cộc tay, thân áo có đường trang trí sọc đỏ chạy ngang, gấu áo màu trắng. Nam mang khổ kiểu chữ T theo lối quấn ngang dưới bụng, luồn qua háng rồi che một phần mông. Ngày lạnh rét, họ mang theo tấm choàng. Xưa nam giới búi tóc giữa đỉnh đầu hoặc để xõa. Nếu có mang khăn thì thường chít theo kiểu 'đầu rìu'. Trong dịp lễ bỏ mả, họ thường búi tóc sau gáy và cắm một lông chim công. Nam cũng thường mang vòng tay bằng đồng.




+ Trang phục nữ
Phụ nữ Ba Na ưa để tóc ngang vai, khi thì búi và cài lược hoặc lông chim, hoặc trâm bằng đồng, thiếc. Có nhóm không chít khăn mà chỉ quấn bằng chiếc dây vài hay vòng cườm. Có nhóm như ở An Khê (Sông Bé), Mang Giang hoặc một số nơi khác chị em chít khăn trùm kín đầu, khăn chàm quấn gọn trên đầu. Xưa họ đội nón hình vuông hoặc tròn trên có xoa sáp ong để khỏi ngấm nước, đôi khi còn có áo tơi vừa mặc vừa che đầu. Họ thường đeo chuỗi hạt cườm ở cổ và vòng tay bằng đồng xoắn ốc dài từ cổ đến khủy tay (theo kiểu hình nón cụt). Nhẫn được dùng phổ biến và thường được đeo ở hai, ba ngón tay. Tục xả tai phổ biến vừa mang ý nghĩa trang sức vừa mang ý nghĩa tín ngưỡng của cộng đồng. Hoa tai có thể là kim loại, có thể là tre, gỗ. Tục cà răng mang theo quan niệm triết lý của cộng đồng hơn là trang sức. Phụ nữ Ba Na mang áo chủ yếu là loại chui đầu, ngắn thân và váy. Aáo có thể cộc tay hay dài tay. Váy là loại váy hở, thường ngắn hơn váy Ê Đê, nay thì dài như nhau. Quanh bụng còn có đeo những vòng đồng và cài tẩu hút thọc vào đó. Về tạo hình áo váy, người Ba Na không có gì khác biệt mấy so với dân tộc Gia Rai hoặc Ê Đê. Tuy nhiên nó được chọn ở phong cách mỹ thuật trang trí hoa văn, bố cục trên áo váy của người Ba Na. Cũng theo nguyên tắc của lối bố cục dải băng theo chiều ngang thân người, dân tộc Ba Na giành phần chính ở giữa thân áo và váy với diện tích hơn 1/2 áo, váy cũng như hai ống tay để trang trí hoa văn (chủ yếu là hoa văn hình học với các màu trắng đỏ), nền chàm còn lại của áo váy không đáng kể so với diện tích hoa văn. Thắt lưng váy cũng là loại được dệt thêu hoa văn và tua vải hai đầu và được thắt và buông thong dài hai đầu sang hai bên hông váy.
http://www.binhthuan.gov.vn/khtt/datnuoc/0002/images/DTV01104.gif

__Phi*Tuyết__
09-04-2009, 19:13
13.DÂN TỘC GIA RAI

http://www.vietnamtourism.com.vn/upload/image/_news/2007530/image/dan%20toc%20gia%20rai1.jpg

Tên dân tộc: Gia Rai (Giơ Rai, Tơ Buăn, Hơ Bau, Hdrung, Chor)
Dân số: 317.557 người (năm 1999).
Ðịa bàn cư trú: Gia Lai, Kon Tum và Ðắk Lắk.

http://i10.photobucket.com/albums/a112/darlingzz/duvnst.jpg

Phong tục tập quán:

Thờ thần (Giàng), nhiều nghi lễ liên quan đến thần trong sản xuất. Duy trì chế độ mẫu hệ, con theo họ mẹ và được chia tài sản khi lấy chồng. Hôn nhân tự do, con gái chủ động việc hôn nhân. Con trai ở rể, không được thừa kế tài sản.
Sống thành làng, ở nhà sàn, mỗi làng có nhà rông. Già làng là người đứng đầu buôn.

http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200706/original/images1331031_NhamoGiarai.jpg
Nhà mồ Gia Rai

Ngôn ngữ: Ngôn ngữ thuộc hệ Nam đảo

Văn hoá: Nhạc cụ có chiêng, cồng, đàn T'rưng, đàn tưng nưng, đàn klông pút. Có truyền thống múa hát. Nhiều trường ca, truyện cổ nổi tiếng.

http://www.vietnamnet.vn/dataimages/original/images507194_NGUOI-GIA-RAI-ok.jpg
Trang phục: Giống các dân tộc khác ở vùng Tây Nguyên.

Kinh tế: Làm nương rẫy, lúa. Chăn nuôi, đặc biệt có nuôi voi. Nghề thủ công: đan lát, dệt vải. Nghề phụ: săn bắt, hái lượm, đánh cá.

http://dulichvietnam.com.vn/Thumbnail.aspx/1/0/0/0e303bc395514a3294efef7bce807ca7-c2.jpg/c2.jpg

__Phi*Tuyết__
10-04-2009, 22:19
14.DÂN TỘC PHÙ LÁ

http://www.vietnamtourism.com.vn/upload/image/_news/2007530/image/dtoc%20pha%20lu2.jpg

Tên dân tộc: Phù Lá (Xá Phó, Bồ Khô Pạ, Mú Xí Pạ, Phổ, Va Xơ Lao, Pu Dang).
Dân số: 9.046 người (năm 1999).
Ðịa bàn cư trú: Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Hà Giang, đông nhất ở Lào Cai.

http://vietnamgateway.org:100/vietnamese/chao_mung_den_viet_nam/van_hoa_dt/imgs/dantocPhuLa.jpg

Lịch sử: Nhóm Phù Lá Lão - Bồ Khô Pạ là cư dân có mặt tương đối sớm ở Tây Bắc nước ta. Các nhóm khác đến muộn hơn, khoảng 200-300 năm trở lại, quá trình hội nhập của nhóm Phù Lá Hán còn tiếp diễn cho tới những năm 40 của thế kỷ XX.

Cách quạt thóc đơn giản nhất (một người đổ thóc, một người cầm nia quạt) vẫn phổ biến ở người Phù Lá và nhiều dân tộc khác

Hoạt động sản xuất: Người Phù Lá làm nương và ruộng bậc thang, các sản phẩm đan bằng mây, trúc với nhiều hoa văn, màu sắc như các đồ đựng quần áo, thức ăn rất nổi tiếng. Họ quen sử dụng nỏ, tên tẩm thuốc độc, trồng bông, dệt vải, xe sợi bằng con trượt.

http://sapatourism.info.vn/images/image/xapho.jpg
Ăn: Người Phù Lá giã gạo hàng ngày bằng chày tay, ăn cơm tẻ ngày hai bữa, sáng sớm và tối thích hợp với điều kiện canh tác trên nương. Ðồ nếp dùng trong lễ cúng, làm bánh. Cơm nếp, các món ăn cá, thịt ướp với gạo rang giã nhỏ cùng gia vị ớt, rau thơm, thịt nướng rất được họ ưa thích.

Mặc: Phụ nữ ăn mặc khác nhau giữa các nhóm. Nữ giới nhóm Phù Lá Lão - Bố Khô Pạ mặc váy, áo ngắn, cổ vuông chui đầu, vừa thêu vừa trang trí bằng hạt cườm, thắt lưng đính vỏ ốc núi. Các nhóm khác mặc quần, áo dài xẻ ngực hay áo ngắn xẻ nách.

Nhóm Phù Lá Lão cho đến nay vẫn duy trì nghề trồng bông dệt vải nhằm thoả mãn nhu cầu về mặc của gia đình. Tranh thủ lúc ở nhà, người phụ nữ bật bông, họ xe sợi lúc trên đường đi nương.

http://amitour.vn/Image/Image/dan%20toc.JPG

Chiếc áo của nam giới Phù Lá Lão rất độc đáo, sau lưng đính nhiều hạt cườm.

Nam nữ Phù Lá thường đeo túi vải bên mình.

Ở: Người Phù Lá sống tập trung ở các tỉnh: Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu. Làng xóm thường cách xa nương. Cư dân nhóm Phù Lá Lão thường ở phân tán thành những chòm xóm với quy mô nhỏ. Các nhóm khác cư trú tập trung hơn. Tuỳ từng nơi ở nhà sàn hay nhà trệt. Kho thóc quây quần thành một khu thường làm cách xa nhà để phòng hoả hoạn.

Phương tiện vận chuyển: Nhóm Phù Lá Lão - Bồ Khô Pạ đeo gùi đỡ bằng trán. Trái lại, nhóm Phù Lá Hán và Phù Lá Ðen cõng gùi trên lưng hoặc sử dụng ngựa thồ để chuyên chở.

http://www.baodienbienphu.com.vn/images_upload/small_11034.jpg

Quan hệ xã hội: Quan hệ láng giềng là mối quan hệ chủ đạo trong các bản Phù Lá. Những ngày mùa các gia đình trong bản thường giúp đổi công cho nhau, ăn chung với gia chủ bữa tối. Khi gia đình nào đó có công to việc lớn (cưới xin, làm nhà, ma chay...) đều nhận được sự giúp đỡ của các thành viên khác nhau trong bản.

Chiếc áo của nam giới Phù Lá (nhóm Lão) có nét riêng, độc đáo thể hiện ở cách trang trí các hạt cườm ở sau lưng và các mép áo. áo không có cúc thường chỉ được vắt chéo gấu cho bó thân trước khi giắt vào cạp quần.

Trong bản có nhiều họ khác nhau, mỗi họ lại chia thành nhiều chi. Phủ bên ngoài các tên họ bằng âm Hán, Hán - Việt, Việt, Thái còn có những tên họ riêng bằng tiếng dân tộc. Dấu vết thờ vật tổ trong các dòng họ còn đặc biệt rõ nét ở nhóm Phù Lá Lão. Quan hệ dòng họ không thật chặt chẽ.

Cưới xin: Trai gái tự do tìm hiểu trước hôn nhân. Tối tối, gái trai chưa vợ chưa chồng thường đến tụ tập vui chơi ở nhà bạn gái hay trai và ngủ luôn ở gian khách, nơi dành cho những người chưa vợ chưa chồng. Nếu yêu nhau người con trai được vào ngủ chung với người yêu của mình. Sau vài đêm đi lại với nhau, hai bên thật ưng ý, người con gái trở về ngủ ở nhà mình. Ðến đêm người yêu lại tới ngủ cùng. Tiếp đó là các lễ dạm, hỏi, cưới như bình thường. Trong đám cưới có tục uống rượu, hát đối để được vào nhà đón và đưa cô dâu về nhà trai và nhà gái, tục vẩy nước bẩn và bôi nhọ nồi lên mặt đoàn nhà trai trước khi ra về, tục lại mặt sau 12 ngày cưới.

Sinh đẻ: Sản phụ đẻ ngồi. Họ không được ngủ trên giường, mà phải ngủ trên đệm rơm. Nhau đẻ chôn dưới gầm giường hoặc chân cột dưới gầm sàn, phía buồng ngủ. Sau khi đẻ kiêng người lạ vào nhà 3 ngày với dấu hiệu úp nón trên cọc ở trước cửa hay cọc bôi than đen có cắm lá đùm đúm ở ngoài cửa. Lễ đặt tên 12 ngày sau khi đẻ do thày mo thực hiện. Mỗi người được đặt hai tên, một tên khác chỉ dùng để cúng báo tổ tiên hay cúng lúc chết.

http://cema.gov.vn/images/uploaded/ems525_phula4.jpg

Bếp lửa là trung tâm của sinh hoạt gia đình trong nhà sàn. Khi lên nhà mới, việc đầu tiên rất thiêng liêng là nhóm lửa và duy trì ngọn lửa trên bếp.

Ma chay: Thi hài người chết để ở giữa nhà, đầu quay về phía bàn thờ, phía trên căng một chiếc chài rộng, đỉnh chài móc dưới mái nhà. Nước rửa mặt cho người chết không được đổ đi mà để tự bốc hơi hết. Cúng cơm có bát cơm cắm đôi đũa, con gà (thui hay nướng, không cắt tiết, không rửa). Trong những ngày tang gia con cái trải đệm rơm ngủ hai bên quan tài. áo quan bằng thân gỗ, không nắp, đắp bằng dát vầu hoặc đóng bằng ván. Lễ viếng có kèn, trống. Khiêng quan tài ra đến nghĩa địa mới đào huyệt. Có nơi còn làm nhà mồ cho người chết. Trong đám tang người Phù Lá rất quan tâm đến việc giữ gìn hồn vía của những người đi đưa tang để không bị ở lại dưới mộ hay nghĩa địa.

Thờ cúng: Người Phù Lá thờ riêng tổ tiên nam để phù hộ cho sức khoẻ, tổ tiên nữ phù hộ cho mùa màng. Lễ cơm mới chủ yếu cúng ở nơi thờ tổ tiên nữ do phụ nữ đại diện và nữ giới trong nhà được ăn cơm trước. Lễ cúng bản thường vào tháng hai hàng năm. Họ thực hiện nhiều nghi lễ tín ngưỡng nông nghiệp trên nương, ruộng. Chiếc chài mới cũng phải qua lễ cúng mới được dùng.

Thày cúng giữ vị trí quan trọng trong xã hội. Thày cúng thường được dạy theo cách truyền khẩu vào các dịp tết tháng giêng, tháng bảy.

Lễ tết: Người Phù Lá ăn tết Nguyên đán, các tết tháng năm, tháng bảy, cơm mới.

Dòng nước mát đã được chuyển đổi từ truyền thống đến hiện đại. Phụ nữ Phù Lá không còn phải đi vác nước ở các khe nước về nhà nữa họ đã dùng nước lấy từ trong lòng đất.

Học: Một bộ phận người Phù Lá ở các huyện Mường Khương, Bắc Hà, Xín Mần có truyền thống sử dụng chữ Hán và xem tiếng Hán phương Nam như công cụ giao tiếp hàng ngày.

Văn nghệ: Kho tàng văn học dân gian phong phú, nhiều truyện cổ tích rất gần với môtip của người Việt. Người Phù Lá sử dụng kèn, trống. Trai gái thích hát giao duyên. Nhóm Phù Lá Lão còn biết múa xoè trong âm hưởng của các làn điệu dân ca Thái.

Chơi: Trẻ em thích chơi đu quay, đá cầu, trốn tìm, đánh cỏ, chơi cù... Trong các dịp hội hè, lễ tết... ngay cả người lớn cũng tham gia vào các trò chơi vui nhộn với phong thái rất hồn nhiên.

Giã là giã bánh dầy

Giã cho thật đều tay

Hãy nhanh tay lên nào

Anh chị em ta ơi

Đừng có một ai mệt

Mà ta nghỉ trước nhé

Sẽ bị té nước ướt

Không một ai được kêu

Hãy nhanh tay lên nào

Anh chị em ta ơi

Để bánh ta chóng nhuyễn

Đừng để bánh ta sống

Khi bánh ta được rồi

Ta làm cái bánh to

Bằng mặt của ông trời

Để cúng tổ, cúng tiên

Ta làm cái bánh to

Bằng mặt của ông trăng

Để phần cha, phần mẹ

Ta làm các bánh nhỏ

Để chia cho mọi người

Hãy nhanh tay lên nào

Cho bánh ta chóng mềm

Anh chị em ta ơi!
(Một bài hát của người Phù lá)

duongdong2
11-04-2009, 03:00
Bài viết của bạn rất hay và rất bổ ích,xin cám ơn rất nhiều,không biết tôi có được phép gởi link bài này cho bạn bè xem,

__Phi*Tuyết__
11-04-2009, 09:18
Bài viết của bạn rất hay và rất bổ ích,xin cám ơn rất nhiều,không biết tôi có được phép gởi link bài này cho bạn bè xem,

Cảm ơn vị huynh đệ duongdong2 đã quan tâm, huynh đệ có thể gửi link cho bạn bè của mình đọc và tìm hiểu.
Thân :PT

__Phi*Tuyết__
11-04-2009, 21:41
15.DÂN TỘC CỐNG

http://tour.hivietnam.vn/images/image_manager/cat0/e13c0cfc16776b6a8e1102d17d2ff118_dantoccong.gif

Dân tộc Cống (tên gọi khác Xắm Khống, Mông Nhé, Xá Xeng) là dân tộc thiểu số thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến cư trú chủ yếu tại huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu và khu vực ven sông Đà.

Dân số: 1.300 người

Đặc điểm kinh tế
Người Cống sống chủ yếu bằng nghề làm nương rẫy, canh tác theo lối phát rừng, đốt, chọc lỗ tra hạt giống. Gần đây, đồng bào đã làm nương bằng cuốc và sử dụng trâu, bò làm sức kéo. Nhiều thức ăn của đồng bào là tìm kiếm ở trong rừng, kiếm cá dưới suối chủ yếu bắt bằng tay hoặc bả thuốc độc lá cây.

Phụ nữ Cống không biết nghề dệt, chỉ trồng bông đem đổi lấy vải. Song nam nữ đều đan lát giỏi, có nghề đan chiếu mây nhuộm đỏ.

Tổ chức cộng đồng

Mỗi họ của người Cống có một trưởng họ, có chung một kiêng cữ, có chung quy định về chỗ đặt bàn thờ tổ tiên và cách cúng bái. Trong từng gia đình, người chồng, người cha giữ vai trò đứng đầu, khi người cha chết thì con trai cả thay thế.

Hôn nhân gia đình
Trước kia chỉ trai gái người Cống mới lấy nhau, nay đã có một số dâu rể là người Thái, Hà Nhì... Theo phong tục Cống, người cùng họ phải cách nhau bảy đời mới được lấy nhau. Việc cưới xin do nhà trai chủ động. Sau lễ dạm hỏi, chàng trai bắt đầu ở rể vài năm, còn cô gái bắt đầu búi tóc ngược lên đỉnh đầu, đó là dấu hiệu đã có chồng. Thường họ sinh vài đứa con mới cưới. Nhà trai phải có bạc trắng làm lễ cưới nộp cho nhà gái, còn nhà gái phải cho của hồi môn để cô dâu đem về nhà chồng. Ít ngày sau lễ đón dâu, đôi vợ chồng mới đến nhà bố mẹ vợ làm lễ lại mặt.

http://tour.hivietnam.vn/images/image_manager/cat0/ffc85f9efba5f66f35c3416dcd324d12_cottoc.jpg
Thiếu phụ Cống búi tóc ngược, một dấu hiệu của người phụ nữ đã có chồng.

Văn hóa
Nền văn nghệ dân gian Cống khá phong phú. Với các làn điệu dân ca sâu lắng người ta hát vào dịp lễ hội vui chung.

Nhà cửa
Người Cống thường ở nhà sàn, nhà nào cũng ngăn ra thành 3-4 gian, gian giữa là nơi tiếp khách, chỉ có một cửa ra vào ở đầu hồi và một cửa sổ ở gian giữa.

http://tour.hivietnam.vn/images/image_manager/cat0/1ee6f3b6d8fcb43c7d066c9ffb030ea6_nhacua_dantoccong .gif

Trang phục
Chủ yếu biểu hiện qua trang phục nữ. Ống tay áo trang trí giống người Hà Nhì. Cổ trong giống cư dân Việt Mường, cúc giống phong cách Môn-Khmer. Váy đen, khăn đen không trang trí.

http://tour.hivietnam.vn/images/image_manager/cat0/cc89929f3af5fba8c33186a88ceb9c63_chieumay.jpg
Chiếu mây, sản phẩm thủ công nổi tiếng của người Cống. Hiện vật Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.

__Phi*Tuyết__
13-04-2009, 20:18
16. DÂN TỘC BỐ Y

[http://www.cema.gov.vn/images/uploaded/boy1.jpg

Tên dân tộc: Bố Y (Chủng Chá, Trọng Gia, Tu Dí, Tu Dìn, Pu Nà).

Tiếng nói của người Bố Y thuộc nhóm ngôn ngữ Tày-Thái. Tôn giáo chính của đồng bào là thờ tổ tiên. Trên bàn thờ có ba bát hương: bát để thờ trời, một bên thờ táo công và một bên thờ tổ tiên.

Dân số: 1.864 người (năm 1999).

Ðịa bàn cư trú: Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang.

Phong tục tập quán: Tôn giáo chính là thờ tổ tiên. Nhà ở thường là nền đất, có một sàn gác trên lưng quá giang - là nơi để lương thực và là chỗ ngủ của những người con trai chưa vợ. Lễ cưới của người Bố Y khá phức tạp. Chàng rể không đi đón dâu, cô em gái của chàng rể dắt con ngựa hồng đẹp mã để chị dâu cưỡi lúc về nhà chồng.
Khi bố mẹ chết, con cái phải kiêng kỵ nghiêm ngặt trong 90 ngày đối với tang mẹ và 120 ngày đối với tang cha.
Người Bố Y sống chủ yếu bằng nghề làm nương rẫy. Đồng bào nuôi nhiều gia súc gia cầm, đặc biệt học có nhiều kinh nghiệm nuôi cá. Hàng năm, khi mùa mưa đến, đồng bào ra sông tìm vớt trứng cá về ơưm, khi cá lớn, họ thả vào ao và ruộng nước.
Trước đây, người Bố Y thường làm mộc, rèn, gốm, đục đá, chạm bạc. Phụ nữ biết trồng bông, kéo sợi, dệt vải, may thêu quần áo, túi, khăn. Phụ nữ Bố Y mặc váy xoè, áo năm thân và có xiêm che ngực. Gần đây, một số phụ nữ mặc giống người Nùng, một số khác mặc giống người Hán. Phụ nữ thích dùng đồ trang sức bằng bạc, thường vấn tóc ngược lên đỉnh đầu. Khăn đội đầu của phụ nữ là một tấm vải dài khoảng 2 mét rộng 0,3 mét, màu chàm, khi chít thì vận thành hình chữ "nhân" trước trán.

http://www.cema.gov.vn/images/uploaded/boy4.jpg
Chiếc bừa gỗ-công cụ làm đất của người Bố Y

Nhà ở của người Bố Y thường là nền đất, có một sàn gác trên lưng quá giang - là nơi để lương thực và là chỗ ngủ của những người con trai chưa vợ. Mỗi dòng họ có một hệ thống tên đệm khoảng 5 đến 9 chữ. Mỗi chữ đệm dành cho một thế hệ và chỉ rõ vai vế của người mang dòng chữ đó trong quan hệ họ hàng.

Lễ cưới của người Bố Y khá phức tạp và tốn kém. Trong lễ đón dâu thường nhà trai chỉ có khoảng 8 đến 10 người, trong đó phải có 1 đến 2 đôi son trẻ, 2 đôi đã có vợ có chồng. Nét độc đáo của người Bố Y là chàng rể không đi đón dâu, cô em gái của chàng rể dắt con ngựa hồng đẹp mã để chị dâu cưỡi lúc về nhà chồng. Nhà gái cũng cử ra một đoàn, thành phần như nhà trai. Khi về nhà chồng, cô dâu mang theo một chiếc kéo và một con gà mái nhỏ, đi đến giữa đường thì thả gà vào rừng.

Văn hoá: Vốn văn nghệ dân gian như truyện cổ, tục ngữ, dân ca khá phong phú.

Trang phục: Nữ mặc váy xèo, áo năm thân và có xiêm che ngực. Một số mặc giống người Nùng, số khác mặc giống người Hán.

http://www.vanhoalaocai.vn/UserFiles/Image/SOVHTT/trangphuccuanguoiboy.jpg

Kinh tế: Sống chủ yếu bằng nghề nương rẫy.

__Phi*Tuyết__
15-04-2009, 20:24
17. DÂN TỘC LA HỦ

http://tour.hivietnam.vn/images/image_manager/cat0/ddf53f5f82bf17ebd38cb587944caa62_nguoi_lahu_2.gif

Tên gọi khác : Xá Lá Vàng, Cò Xung, Khù Sung, Khả Quy
Nhóm ngôn ngữ : Tạng - Miến
Dân số : 5.300 người.
Cư trú : Sống ở huyện Mường Tè (tỉnh Lai Châu).

http://tour.hivietnam.vn/images/image_manager/cat0/cf88d10c1c52f8b99f10830f0f1d42d6_dungcu-nguoilahu.jpg

Đặc điểm kinh tế

Trước kia người La Hủ sống chủ yếu bằng nghề làm rẫy và săn bắn, hái lượm. Công cụ lao động chủ yếu là con dao, chiếc cuốc. Từ vài chục năm nay, người La Hủ đã phát triển cây lúa nước và lúa nương làm nguồn lương thực chính và dùng trâu cày kéo. Đàn ông La Hủ đan ghế, mâm, chiếu, nong nia, v.v... bằng mây rất giỏi và đa số biết nghề rèn.

http://tour.hivietnam.vn/images/image_manager/cat0/5496e921e5b8f7fe8f776c429e62f691_nguoi_lahu.jpg

Hôn nhân gia đình
Tháng 11, 12 hàng năm - là dịp tết của người La Hủ - cũng là mùa cưới của các đôi trai gái yêu nhau. Mời bạn lên vùng cao phía Bắc, thăm bà con dân tộc La Hủ thuộc tỉnh Lai Châu. Tục lệ cưới xin ở đây có nét đẹp riêng.

http://www.cws.org.vn/html/im_update_28306/current_pro/current_p01/9_10big.jpg
Trẻ em La Hủ

Trong gia đình La Hủ, chỉ có con trai mới được thừa hưởng tài sản của cha mẹ. Theo phong tục La Hủ, trai gái được tự do yêu nhau và quyết định hạnh phúc của mình. Sau lễ cưới, chàng rể phải ở gia đình nhà vợ 2-3 năm, sau đó mới được đưa vợ về ở hẳn với mình.
Phụ nữ La Hủ sinh nở tại buồng ngủ của mình. Sau 3 ngày đứa bé được đặt tên, nếu trong 3 ngày đó, nhà có khách thì người khách này được mời đặt tên cho đứa bé.

Tục lệ ma chay
Người chết được chôn trong quan tài độc mộc. Trên mộ không dựng nhà mồ, không có rào bảo vệ.

Văn hóa
Người La Hủ có trên một chục điệu múa khèn. Thanh niên thích thổi khèn bầu. Các bài hát tuy thường dùng tiếng Hà Nhì nhưng có nhịp điệu riêng, trong đó từng ngày được xác định theo chu kỳ 12 con vật (hổ, thỏ, rồng, chấy, ngựa, cừu, gà, chó, lợn, sóc, trâu).

Nhà cửa
Người La Hủ lập bản trên sườn núi. Thực hiện định canh định cư, một số bản chuyển xuống địa bàn thấp hơn. Từ chỗ nhà cửa tạm bợ, nay đồng bào đã làm nhà ở bền chắc hơn, phần lớn là nhà trệt với vách bằng phên. Trong nhà, bàn thờ tổ tiên và bếp bao giờ cũng đặt tại gian có chỗ ngủ của chủ gia đình.

Trang phục
Nam giới La Hủ mặc quần áo giống như các dân tộc khác ở vùng Tây Bắc. Phụ nữ mặc quần, ngày thường mặc áo dài xuống tới cổ chân, ngày lễ tết mặc thêm áo ngắn. Ơở cổ áo, nẹp ngực, ống tay có thêu hoặc đáp vải các màu, có đính thêm xu bạc, xu nhôm và các bông chỉ đỏ.

http://photostock.vn/images/VAP3177.jpg
Cô gái La Hủ

__Phi*Tuyết__
16-04-2009, 20:25
18.DÂN TỘC LA CHÍ

http://vnexplore.net/files/dantoc_lachi.jpg

Tên tự gọi: Cù tê.
Tên gọi khác: Thổ Ðen, Mán, Xá.
Dân số: 7.863 người.
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Ðai (ngữ hệ Thái – Ka Ðai), cùng nhóm với tiếng La Ha, Cơ Lao, Pu Péo.

Lịch sử: Người La Chí có lịch sử cư trú lâu đời ở Hà Giang, Lào Cai.

http://cema.gov.vn/images/uploaded/ems511_lachi1.jpg
Người La Chí đan những đôi hòm bằng tre vuông vức, cái hoa văn rất đẹp dành riêng cho cô dâu đựng tư trang khi về nhà chồng. Những chiếc hòm tre đó trở thành biểu tượng của hạnh phúc lứa đôi. Chỉ trong những trường hợp vợ chồng ly dị, đôi hòm tre mới có thể bị bỏ rơi, còn không họ dùng đến lúc chết thì chôn theo.

Hoạt động sản xuất: Người La Chí giỏi nghề khai khẩn và làm ruộng bậc thang, trồng lúa nước. Họ gặt lúa nếp bằng hái nhắt còn gặt lúa tẻ bằng liềm, đập lúa vào máng gỗ lấy thóc ngay ở ngoài ruộng. Họ sử dụng cả ba loại nương với các công cụ sản xuất khác nhau: gậy chọc lỗ, cuốc, cày. Người ta dành nương tốt nhất để trồng chàm, bông.

Ăn: Người La Chí có cách nấu và ghế cơm bằng hơi nước rất độc đáo. Cơm nấu trong chảo to, cơm sôi thì vớt lên cho vào chõ đồ như đồ xôi. Cơm dỡ ra không bị nát mà khô dẻo nhờ được đồ chín bằng hơi nước nóng. Có nhiều cách giữ thực phẩm để ăn dần như sấy khô, làm thịt chua là phổ biến nhất. Da trâu sấy khô là món ăn rất được ưa chuộng.

Họ thích để răng đen. Răng càng đen càng đẹp. Thanh niên thích bịt răng vàng coi đó là hình thức làm duyên làm dáng, dấu hiệu của sự trưởng thành.


http://cema.gov.vn/images/uploaded/ems511_lachi2.jpg
Ruộng bậc thang của người La Chí.

Mặc: Ðàn ông mặc áo dài năm thân, cài khuy bên nách phải, tóc dài quá vai, đội khăn cuốn hay khăn xếp, thích đeo túi vải chàm có viền đỏ xung quanh để đựng diêm thuốc và các thứ lặt vặt. Phụ nữ mặc quần, một số ít còn mặc váy. Bộ y phục truyền thống là chiếc áo dài tứ thân xẻ giữa, yếm thêu, thắt lưng bằng vải. Vào dịp tết, lễ người ta còn diện ba chiếc áo dài lồng vào nhau. Nữ giới ưa dùng khăn đội đầu dài gần 3 mét. Màu chàm đen rất được ưa thích. Nữ đeo vòng tai, vòng tay. Nam chỉ đeo vòng tay. Thầy cúng mỗi khi hành lễ có y phục riêng. Ðó là bộ quần áo thụng, dài quá mắt cá chân, xẻ giữa, có thắt lưng bằng vải, đầu đội mũ vải rộng, có quai. Trong một số nghi lễ, người hành lễ đeo một miếng da trâu khô hoặc đội nón.

http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200712/original/images1463960_10.jpg
Thiếu nữ La Chí trong cuộc thi hoa hậu các dân tộc

Ở: Họ thường sống từng làng ở vùng núi đất các huyện Hoàng Su Phì, Xín Mần (Hà Giang). Nhà của mỗi gia đình là một quần thể kiến trúc gồm nhà sàn - nhà trệt - kho thóc trong một phạm vi không gian hẹp. Kiểu kiến trúc kết hợp chặt chẽ giữa sàn và nhà trệt là một sáng tạo văn hoá độc đáo. Mỗi nhà gồm hai phần bằng nhau, mái lồng vào nhau, phần nhà sàn để ở, phần nhà trệt là nơi làm bếp.
Lên nhà mới phải mời thầy cúng về cúng xua đuổi ma bằng cách dùng ba cây cỏ lá khua bốn góc nhà, bắt đầu từ góc của bố mẹ trước. Nếu người con trai đã có bàn thờ ở nhà cũ thì tháo bàn thờ đó về lắp ở nhà mới trong vị trí của người chủ gia đình. Trong suốt 13 ngày kể từ hôm lên nhà mới, bếp lửa luôn luôn sáng thì mới may mắn.

Phương tiện vận chuyển: Có sự kết hợp giữa cách vận chuyển của cư dân vùng cao và cư dân vùng thung lũng. Phụ nữ phổ biến dùng địu đan bằng giang hoặc địu vải. Cái địu đều có quai đeo trên trán để chuyên trở. Ðàn ông dùng địu có hai quai đeo vai kiểu địu của người Hmông hoặc dùng đòn gánh đôi dậu. Người La Chí địu trẻ em trên lưng khi đi xa hoặc lúc làm việc.

Chiếc máng lần là phương tiện dẫn nước phổ biến về đến tận nhà hay gần nhà. Từ bến nước người ta chứa nước vào những ống bương dài tới 1,5m và vác lên nhà sàn để gần chạn bát dùng dần.

Dùng ngựa để thồ hàng cũng là một phương tiện phổ biến.


http://cema.gov.vn/images/uploaded/ems511_lachi4.jpg
Ði xa người La Chí thường đeo túi vải nhuộm chàm vắt chéo qua vai.

Các quan hệ xã hội: Gia đình ba thế hệ hay các cặp vợ chồng cùng thế hệ chung sống với nhau là phổ biến. Mỗi họ có người đứng chăm lo việc cúng. Ðó không phải là trưởng họ mà chỉ là người biết cúng. Người ta chọn người giữ vị trí này bằng cách bói xem xương đùi gà.

Người La Chí có cách gọi tên theo nguyên tắc phụ tử liên doanh với công thức là: họ - pô (bố) - tên con - tên riêng của người được gọi. Người phụ nữ có con được gọi theo công thức sau: Mìa (mẹ) - tên con cả - tên chồng.

Tục nhận bố mẹ nuôi cho trẻ sơ sinh khá phổ biến. Trẻ chào đời sau ba buổi sáng, gia chủ đặt một sợi chỉ đỏ trên một trên một bát nước đầy ở trên bàn thờ, chờ ai đó vào nhà trước sẽ được làm bố mẹ nuôi, đặt tên cho cháu bé. Trẻ khóc nhiều được quan niệm là tên chưa hợp, phải bói tìm dòng họ thích hợp làm bố mẹ nuôi đặt tên cho con.

Thờ cúng: Người ta cúng tổ tiên vào các dịp lễ tết. Tổ tiên được cúng ba đời đối với nam, hai đời đối với nữ. Theo phong tục, bố mẹ chôn ngày nào con cái nhớ suốt đời không được gieo giống hay cho vay, mượn vào ngày đó. Ðó không phải là ngày sinh sôi, phát triển.

http://cema.gov.vn/images/uploaded/ems511_lachi5.jpg
Trong lễ cưới của người dân tộc La Chí, khi đón dâu về tới chân cầu thang nhà sàn, nhà trai chuẩn bị sẵn một thùng nước ấm để người phù dâu rửa chân cho cô dâu và rửa chân mình trước lúc bước lên cầu thang vào nhà.

Trong một nhà có nhiều bàn thờ cho mỗi người đàn ông. Bàn thờ dựng theo thứ tự của bố, con trai út, các con trai thứ, trong cùng của con trai cả. Mỗi bàn thờ được coi là hoàn thành phải qua ba lần cúng dỡ đi lập lại bàn thờ mới.

Học: Các kiến thức và kinh nghiệm dân gian được trao truyền giữa các thế hệ bằng miệng. Thần thoại, cổ tích đặc biệt phong phú giải thích cho thế hệ trẻ nhiều hiện tượng thiên nhiên và xã hội theo quan niệm dân gian.

Văn nghệ: Ngày tết, lễ trai gái thường hát đối đáp, chơi đàn tính 3 dây, đàn môi. Trống, chiêng được dùng phổ biến.

Chơi: Tết Nguyên đán nam nữ thường tập trung ở bãi rộng chơi ném còn, đánh quay, chơi đu thăng bằng. Tết tháng tám họ chơi đu dây. Trẻ em thích chơi ống phốc.

__Phi*Tuyết__
17-04-2009, 21:20
19.DÂN TỘC LA HA

http://dulichvietnam.com.vn/Thumbnail.aspx/1/0/0/d3108755b3da4930bf055f43850e061f-z22.jpg/z22.jpg

Tên dân tộc: La Ha (Xá Khắc, Phlắc, Khlá).
Dân số: 5.686 người (năm 1999).
Ðịa bàn cư trú: Sơn La, Lào Cai.


Phong tục tập quán:
Ở nhà sàn, có 2 cửa với 2 thang lên xuống tại hai đầu. Hôn nhân tự do. Chàng trai đến nhà cô gái dùng sáo, nhị, lời hát để tỏ tình. Sau lễ dạm hỏi, chàng trai phải ở rể từ 4-8 năm. Hết hạn đó mới tổ chức cưới, cô dâu về ở nhà chồng. Vợ đổi họ theo chồng.Người La Ha tin có nhiều ma: ma rừng, ma nước, ma sương, ma nhà,... Trong gia đình có bàn thờ ma nhà và chỉ thờ một ông bố. Lễ tạ ơn cha mẹ vào mùa hoa ban nở hàng năm. Người chết được chôn theo cả tiền và thóc.

http://dulichvietnam.com.vn/Thumbnail.aspx/1/0/0/f406fa5af9a2430d8a5fc684ef8cf85e-z21.jpg/z21.jpg

Ngôn ngữ:
Ngôn ngữ thuộc nhóm Kadai.

Trang phục:
Người La Ha mặc giống người Thái Đen.

http://tour.hivietnam.vn/images/image_manager/cat0/2e2a0297607fec682366301cf0225864_dantoc_laha.gif

Kinh tế:
Sống bằng nghề làm rẫy theo lối du canh và hái lượm. Ngày nay nhiều bản đã làm ruộng, biết đắp bờ chống xói mòn nương, trồng bông nhưng không dệt vải.

__Phi*Tuyết__
18-04-2009, 21:18
20.DÂN TỘC BRÂU

Tên gọi khác : Brạo
Nhóm ngôn ngữ : Môn - Khmer
Dân số : 200 người.
Cư trú : Tập trung ở làng Đăk Mế, xã Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum

Đặc điểm kinh tế
Dân tộc Brâu đã bao đời du canh du cư. Người Brâu chủ yếu đốt rừng làm rẫy để trồng các loại lúa, ngôi, sắn, với công cụ sản xuất thô sơ như: rìu, rựa và chiếc gậy chọc lỗ tra hạt, năng suất cây trồng thấp.

Hôn nhân gia đình
Thanh niên nam nữ Brâu được tự do lấy vợ, lấy chồng. Nhà trai tổ chức hỏi vợ phải nộp lễ vật cho nhà gái, nhưng đám cưới thì tiến hành tại nhà gái, và chàng rể phải ở lại nhà vợ khoảng 2 đến 3 năm rồi mới được làm lễ đưa vợ về ở hẳn nhà mình.

Tục lệ ma chay
Theo phong tục người Brâu, người chết được đưa ra khỏi nhà, cho vào quan tài độc mộc và quàn tại một căn nhà riêng do dân làng dựng lên. Mọi người đến chia buồn, gõ chiêng cồng, mấy ngày sau mới mai táng. Những ché, gùi, dao, rìu... bỏ lại trong nhà mồ là số của cải gia đình cho người chết.

Văn hóa
Người Brâu ưa thích chơi cồng chiêng và các nhạc cụ cổ truyền. Chiêng cồng có các loại khác nhau. Đặc biệt có bộ chiêng tha (chỉ gồm hai chiếc) nhưng có thể trị giá từ 30 đến 50 con trâu. Các thiếu nữ thường chơi Krông pút là nhạc cụ gồm 5-7 ống lồ ô dài ngắn không đều nhau đem ghép với nhau, tạo âm thanh bằng đôi bàn tay vỗ vào nhau ngoài miệng ống. Khi ru con hoặc trong đám cưới... người Brâu có những điệu dân ca thích hợp. Những trò thả diều, đi cà kheo, đánh phết cũng là sinh hoạt vui chơi của thanh thiếu niên.

http://cema.gov.vn/images/uploaded/ems270_brau1.jpg
Người Brâu uống rượu cần

Nhà cửa
Nhà của người Brâu có những đặc điểm rất dễ nhận, ít thấy ở nhà những dân tộc khác.
Trước hết là người Brâu rất chú trọng làm đến việc làm đẹp cho ngôi nhà. Điều này được thể hiện ở các kiểu "sừng đầu đốc". Chỉ trong một làng nhỏ mà chúng tôi đã thấy bốn kiểu khác nhau. Chạy dọc theo sống nóc người ta còn dựng một dải trang trí không chỉ đẹp mà còn rất độc đáo.
Bộ khung nhà với vì kèo đơn giản, vách che nghiêng theo thế "thượng khách hạ thu".
Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt: vào nhà từ phía đầu hồi. Thang bắc lên một gian hồi để trống rồi mới vào nhà. Cách bố trí trên mặt sàn của gian hồi này cũng rất đặc biệt. Mặt sàn chia làm ba phần với các độ chênh khác nhau.
Trong nhà chia đôi theo chiều dọc, nửa về bên trái, một phần dành cho con gái, còn lại là nơi sinh hoạt của con trai về ban ngày vì đêm họ ra ngủ tại nhà rông. Còn nửa kia đặt bếp.

Trang phục
Tồn tại một loại hình trang phục đơn giản và có cá tính trong tạo hình và trang trí. Người Brâu có tục xăm mặt, xăm mình và cà răng. Phụ nữ đeo nhiều vòng trang sức ở tay chân và cổ.

http://www.binhthuan.gov.vn/khtt/datnuoc/0002/images/DTV03103.gif

+ Trang phục nam
Nam ở trần đóng khố. Đến tuổi 14, 15, 16 tuổi phải cưa bốn răng cửa hàm trên, và thường xăm mặt, xăm mình.


http://www.binhthuan.gov.vn/khtt/datnuoc/0002/images/DTV03104.gif


+ Trang phục nữ
Phụ nữ để tóc dài hoặc cắt ngắn. Xưa mình trần, mặc váy. Đó là loại váy hở, quấn quanh thân. Thân váy được xử lý mỹ thuật ở phần đầu váy và chân váy với lối đáp các miếng vải khác màu có các sọc đen ngang đơn giản chạy ngang thân váy. Mùa lạnh họ mang chiếc áo chui đầu, cộc tay, khoét cổ. Đây là loại áo ngắn thân thẳng, tổng thể áo có hình gần vuông. Thân áo phía mặt trước và sau được xử lý mỹ thuật cũng theo nguyên tắc như váy. Toa õn bộ thân trước màu sáng có đường viền đậm trên vãi và gấu áo; phía lưng áo được xử lý màu sáng có sọc ngang đơn giản nửa phía dưới áo. Người Rơ Măm không biết dệt, nhưng đây là bộ trang phục thấy ở họ với một phong cách tạo dáng (áo) khoét cổ (phía trước thấp hơn phía sau) đơn giản cũng như phong cách thẩm mỹ giản dị (áo và váy) ít gặp ở các dân tộc trong khu vực cũng như trong nhóm ngôn ngữ (đây cũng là lý do được chọn). Phụ nữ còn mang trên cổ một vài chuỗi hạt cườm ngũ sắc, hoặc vòng đồng, bạc cũng như vòng tay bằng các chất liệu trên.

http://cema.gov.vn/images/uploaded/ems270_brau3.jpg
Nhạc cụ gõ (bằng đồng) của người Brâu

Người Brâu ưa thích chơi cồng chiêng và các nhạc cụ cổ truyền. Chiêng cồng có các loại khác nhau. Đặc biệt có bộ chiêng tha chỉ gồm hai chiếc, nhưng có thể trị giá từ 30 đến 50 con trâu. Các thiếu nữ thường chơi Klong pút là nhạc cụ gồm 5-7 ống lồ ô dài ngắn không đều nhau đem ghép với nhau, tạo âm thanh bằng đôi bàn tay vỗ vào nhau ngoài miệng ống. Khi ru con hoặc trong đám cưới, người Brâu có những điệu dân ca thích hợp. Những trò thả diều, đi cà kheo, đánh phết cũng là sinh hoạt vui chơi của thanh thiếu niên.

Do cách làm ăn còn lạc hậu, do tập quán du canh du cư và do những nguyên nhân khác nữa nên dân tộc Brâu chậm phát triển. Đáng chú ý đây là một trong số tộc người có số dân ít nhất ở nước ta hiện nay, chỉ có khoảng trên dưới 200 người.

__Phi*Tuyết__
20-04-2009, 13:11
21.DÂN TỘC BRU - VÂN KIỀU

http://vnexplore.net/files/dantoc_van_kieu.jpg

Nhóm ngôn ngữ : Môn - Khmer
Dân số : 40.000 người.
Cư trú : tập trung ở miền núi các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế.

Đặc điểm kinh tế
Người Bru-Vân Kiều sống chủ yếu nhờ làm rẫy và làm ruộng. Việc hái lượm săn bắn và đánh cá là nguồn cung cấp thức ăn quan trọng. Đồng bào nuôi gia súc, gia cầm, trước hết cho các lễ cúng, rồi sau đó mới là cải thiện bữa ăn. Nghề thủ công chỉ có đan chiếu lá, gùi...

Hôn nhân gia đình
Con trai, con gái Bru-Vân Kiều được tự do yêu nhau và cha mẹ thường tôn trọng sự lựa chọn bạn đời của con. Trong lễ cưới của người Bru-Vân Kiều, bao giờ cũng có một thanh kiếm nhà trai trao cho nhà gái. Cô dâu khi về nhà chồng thường trải qua nhiều nghi lễ phức tạp: bắc bếp, rửa chân, ăn cơm chung với chồng... Trong họ hàng, ông cậu có quyền quyết định khá lớn đối với việc lấy vợ, lấy chồng cũng như khi làm nhà, cúng quải của các cháu.

http://www.sggp.org.vn/dataimages/original/images221074_l4a.jpg
Áo vỏ cây được một người dân tộc Vân Kiều tặng Bảo tàng Quảng Trị

Văn hóa
Người Bru-Vân Kiều yêu văn nghệ và có vốn văn nghệ cổ truyền quý báu. Nhạc cụ có nhiều loại: trống, thanh la, chiêng núm, kèn (amam, ta-riềm, Khơ-lúi, pi), đàn (achung, pơ-kua...). Đồng bào có nhiều làn điệu dân ca khác nhau: chà chấp là lối vừa hát vừa kể rất phổ biến; "sim" là hình thức hát đối với nam nữ. Ca dao, tục ngữ, truyện cổ các loại của đồng bào rất phong phú.

http://www.dostquangtri.gov.vn/Images/Tintuc/Dan%20toc%20pa%20co%20van%20kieu.JPG

Nhà cửa
Người Bru-Vân Kiều ở nhà sàn nhỏ, phù hợp với quy mô gia đình thường gồm cha, mẹ và các con chưa lập gia đình riêng. Nếu ở gần bờ sông, suối, các nhà trong làng tập trung thành một khu trải dọc theo dòng chảy. Nếu ở chỗ bằng phẳng rộng rãi, các ngôi nhà trong làng xếp thành vòng tròn hay hình bầu dục, ở giữa là nhà công cộng. Ngày nay làng của đồng bào ở nhiều nơi đã có xu hướng ở nhà trệt.

http://www.vietnampictorial.com/VNP_Upload/News/2005-5/18/0704Cs18L.jpg

Trang phục
Khố - Aáo - Váy. Với đặc điểm áo nữ xẻ ngực màu chàm đen và hàng kim loại bạc tròn đính ở mép cổ và hai bên nẹp áo. Váy trang trí theo các mảng lớn trong bố cục dải ngang.

+ Trang phục nam
Nam để tóc dài, búi tóc, ở trần, đóng khố. Trước đây thường lấy vỏ cây sui làm khố, áo.

http://www.vietnamtourism.com.vn/upload/image/_news/2007530/image/dan%20toc%20Bru-%20Vân%20Kiều1.jpg

+ Trang phục nữ
Gái chưa chồng búi tóc về bên trái, sau khi lấy chồng búi tóc trên đỉnh đầu. Trước đây phụ nữ ở trần, mặc váy. Váy trước đây không dài thường qua gối 20-25 cm. Có nhóm mặc áo chui đầu, không tay, cổ khoét hình tròn hoặc vuông. Có nhóm nữ đội khăn bằng vải quấn thành nhiều vòng trên đầu rồi thả sau gáy, cổ đeo hạt cườm, mặc áo cánh xẻ ngực, dài tay màu chàm cổ và hai nẹp trước áo có đính các 'đồng tiền' bạc nhỏ màu sáng, nổi bật trên nền chàm đen tạo nên một cá tính về phong cách thẩm mỹ riêng trong diện mạo trang phục các dân tộc Việt Nam.

__Phi*Tuyết__
22-04-2009, 18:40
22.DÂN TỘC CO

http://www.bactramy.gov.vn/images/stories/dan%20toc%20cor.png

Tên gọi khác: Cor, Col, Cùa, Trầu
Nhóm ngôn ngữ: Môn - Khmer
Dân số:22.600 người.
Cư trú: Cư trú chủ yếu ở huyện Trà My (tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng) và huyện Trà Bồng (tỉnh Quảng Ngãi).


Đặc điểm kinh tế
Người Co làm rẫy là chính. Đồng bào trồng lúa, ngô, sắn và nhiều loại cây khác. Đặc biệt, cây quế Quảng là đặc sản truyền thống ở Trà My. Quế ở vùng người Co có chất lượng và năng suất cao được các địa phương trong nước và nhiều nơi trên thế giới biết tiếng. Hàng năm quế đem lại nguồn thu đáng kể cho người Co.


Tổ chức cộng đồng
Từng làng của người Co có tên gọi riêng theo tên người trưởng làng hoặc tên sông, suối, tên đất, tên rừng.
Trong xã hội Co, các bô lão luôn được nể trọng. Ông già được suy tôn làm trưởng làng phải là người hiểu biết phong tục, giàu kinh nghiệm sản xuất và ứng xử xã hội, được dân làng tín nhiệm cao và thuộc dòng họ có công lập làng. Người Co xưa kia không có tên gọi của mỗi dòng họ, về sau đồng bào nhất loạt mang họ Đinh. Từ mấy chục năm nay, người Co lấy họ Hồ của Bác Hồ.

Hôn nhân gia đình
Thanh niên nam nữ Co được hiểu nhau trước khi kết hôn. Việc cưới xin đơn giản, không tốn kém nhiều. Sau lễ cưới, cô dâu về ở nhà chồng. Trước đây, hầu như người Co không lấy vợ, lấy chồng thuộc tộc người khác, nay dân tộc Co đã có những dâu, rể là người Kinh, Xơ-đăng, Hrê...

http://img.news.zing.vn/img/64/t64489.jpg
Hạnh phúc với đôi vợ chồng người Co, Quảng Nam.


Văn hóa
Người Co thích múa hát, thích chơi chiêng, cồng, trống. Các điệu dân ca phổ biến của đồng bào là Xru, Klu và Agiới. Các truyện cổ của người Co truyền miệng từ đời này sang đời khác luôn làm say lòng cả người kể và người nghe.

http://www.kinhtenongthon.com.vn/Uploaded/thanduong/Nam%202009/Thang%2001/Ngay%2012/t28%20%20Nghenhacongchien.jpg
Những nghệ nhân người Cor

Nhà cửa
Trước kia vòng rào làng được dựng lên cao, dày, chắc chắn với cổng ra vào đóng mở theo qui định chặt chẽ, với hệ thống chông thò, cạm bẫy để phòng thủ... Tùy theo số dân mà làng có một hay vài một nhà ở, dài ngắn, rộng hẹp khác nhau. Thường nóc cũng là làng vì rất phổ biến hiện tượng làng chỉ có một nóc nhà. Nay vẫn thấy có nóc dài tới gần 100m.
Người Co ở nhà sàn. Dân làng góp sức làm chung ngôi nhà sau đó từng hộ được chia diện tích riêng phù hợp với nhu cầu sử dụng. Ngôi nhà có thể nối dài thêm cho những gia đình đến nhập cư sau. Dưới gầm sàn xếp củi, nhốt lợn, gà.

Hầu hết đồng bào đã và đang chuyển sang làm nhà đất. Không ít người ưu kiểu nhà "xuyên trĩnh" ở đồng bằng miền Trung.
Xưa kia, khi dân làng phát triển đông đúc mà việc nối nhà dài ngôi nhà thêm nữa không thuận tiện cũng không muốn chia làng mới thì họ kiến trúc kiểu "nhà kép", mở rộng theo chiều ngang. Như vậy là người Co đã đặt song song mặt hành mặt bằng sinh hoạt của hai dãy nhà, phần gưl của chúng ghép liền với nhau, tạo thành khoảng rộng dài ở giữa gồm gưl và truôk càn hai dãy tum ở đôi bên.

Trang phục
Người Co không dệt vải, vì vậy vải và đồ may mặc đều mua của nơi khác, phần lớn là mua của người Kinh và người Xơ-đăng. Theo sắc phục truyền thống, nam giới thường ở trần, đóng khố, nữ quấn váy, mặc áo cộc tay, yếm. Trời lạnh mỗi người khoác tấm vải dài, rộng. Đồng bào thích đeo vòng cổ, vòng tay, hoa tai bằng đồng hoặc bạc, nhưng thích nhất là bằng hạt cườm. Phụ nữ quấn nhiều vòng cườm các màu quanh eo lưng.

http://img.news.zing.vn/img/64/t64488.jpg
Cô gái Co

Tú_Yên
23-04-2009, 07:04
Phi Tuyết à !
Tú_Yên xin topic nầy để đem vào Blog TY làm tư liệu, được không ?
http://my.opera.com/kimtuyentv/blog

__Phi*Tuyết__
23-04-2009, 08:57
Phi Tuyết à !
Tú_Yên xin topic nầy để đem vào Blog TY làm tư liệu, được không ?
http://my.opera.com/kimtuyentv/blog

Việc PT tìm hiểu và post bài là để chia sẻ kiến thức cùng các huynh đệ TY cứ đem vào blog không sao cả. chúc vui

__Phi*Tuyết__
24-04-2009, 08:08
23. DÂN TỘC CHỨT


Tên gọi khác
Rục, Sách, A rem, Mày, Mã liềng, Tu vang, Pa leng, Xe lang, Tơ hung, Cha cú, Tắc cực, U mo, Xá lá vàng

http://cema.gov.vn/images/uploaded/ems344_chut4.jpg
Nhóm ngôn ngữ
Việt - M­ường

Dân số
2.400 người.

Cư­ trú
Phần đông cư­ trú ở huyện Minh Hóa và Tuyên Hóa (Quảng Bình).

Đặc điểm kinh tế
Nguồn sống chính của nhóm Sách là làm ruộng, còn nhóm Rục và A rem là làm rẫy. Ngoài ra người Chứt còn hái l­ượm, săn bắn, đánh cá, chăn nuôi. Nghề mộc và đan lát là phổ biến. Đồ dùng bằng kim loại và vải vóc, y phục phải mua hoặc trao đổi. Người Chứt không trồng bông dệt vải.

http://cema.gov.vn/images/uploaded/ems344_chut1.jpg
Kiểm tra Nỏ trước khi lên rẫy

Tổ chức cộng đồng
Ngày nay người Chứt thư­ờng nhận mình là họ Cao, họ Đinh... Mỗi dòng họ đều có người tộc trư­ởng, có bàn thờ tổ tiên chung. Trong làng, tộc trư­ởng nào có uy tín lớn hơn thì đư­ợc suy tôn làm tr­ưởng làng.

Hôn nhân gia đình
Quan hệ vợ chồng của người Chứt bền vững, hiếm xảy ra bất hòa.

Tục lệ ma chay
Việc ma chay của người Chứt đơn giản, nhóm Sách có tiếp thu ảnh hư­ởng của người Kinh. Theo nếp chung, tang gia tổ chức cúng bái 2-3 ngày, rồi đ­ưa người chết đi chôn. Mộ đ­ược đắp thành nấm đất, không có nhà mồ bên trên. Sau 3 ngày, tộc tr­ưởng làm lễ gọi hồn cho người chết về ngụ tại bàn thờ tổ tiên ở nhà tộc tr­ưởng, từ đó người thân không lai vãng chăm sóc mộ nữa.

Văn hóa
Kho tàng văn nghệ dân gian của người Chứt khá phong phú. Làn điệu dân ca Kà-t­ưm, Kà-lềnh đ­ược nhiều người ­ưa thích. Vốn truyện cổ dồi dào gồm nhiều đề tài khác nhau. Nhạc cụ có khèn bè, đàn ống lồ ô loại cho nam và loại cho nữ, sáo 6 lỗ...

http://www.phapluattp.vn/img/09-08-2008/12-chot.jpg
Lễ cúng cơm

Nhà cửa
Hầu hết đã định canh định cư­, nh­ưng các làng người Chứt thư­ờng tản mạn. Nhà cửa không bền vững.

http://cema.gov.vn/images/uploaded/ems344_chut2.jpg

Nguồn sống chính của nhóm Sách là làm ruộng, còn nhóm Rục và A-rem là làm rẫy. Ngoài ra người Chứt còn hái lượm, săn bắn, đánh cá, chăn nuôi. Nghề mộc và đan lát là phổ biến. Đồ dùng bằng kim loại và vải vóc, y phục phải mua hoặc trao đổi. Người Chứt không trồng bông và dệt vải.

http://cema.gov.vn/images/uploaded/ems344_chut3.jpg
Đánh cá dưới suối

Hầu hết người Chứt đã định canh định cư, nhưng các làng thường tản mạn. Nhà cửa không bền vững. Ngày nay người Chứt thường nhận mình là họ Cao, họ Đinh... Mỗi dòng họ đều có người tộc trưởng, có bàn thờ tổ tiên chung. Trong làng, tộc trưởng nào có uy tín lớn hơn thì được suy tôn làm trưởng làng. Người Chứt ăn cơm đồ cách thuỷ, thức ăn thông thường là rau rừng thái nhỏ nấu với ốc, cá suối. Trước kia, bọt cây báng và thịt khỉ là thức ăn quan trọng của nhóm Rục.

Quan hệ vợ chồng của người Chứt bền vững, hiếm xảy ra bất hoà. Việc ma chay đơn giản, nhóm Sách có tiếp thu ảnh hưởng của người Kinh. Theo nếp chung, tang gia tổ chức cúng bái 2-3 ngày, rồi đưa người chết đi chôn. Mồ được đắp thành nấm đất, không có nhà mồ bên trên. Sau 3 ngày, tộc trưởng làm lễ gọi hồn cho người chết về ngụ tại bàn thờ tổ tiên ở nhà tộc trưởng, từ đó người thân không lai vãng chăm sóc mộ nữa. Người Chứt thờ cúng tổ tiên. Đồng bào tin có ma rừng, ma suối, ma không trung. Thần nông bảo vệ mùa màng là vị thần cao nhất.

http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200712/original/images1464740_9.jpg
Đinh Thị Hoa Mơ (Chứt) trong cuôc thi hoa hậu các dân tộc

Kho tàng văn nghệ dân gian của người Chứt khá phong phú. Làn điệu dân ca Kà-Tưm, Kà-lềnh được nhiều người ưa thích. Vốn truyện cổ dồi dào gồm nhiều đề tài khác nhau. Nhạc cụ có khèn bè, đàn ống lồ ô loại cho nam và loại cho nữ, sáo 6 lỗ..

Xin giới thiệu 1 câu chuyện kể về người Chứt

Kỳ bí người Chứt : Người Chứt chung thủy

Người Chứt sống chung thủy, chưa một người nào bỏ vợ, bỏ chồng và tuyệt nhiên không có chuyện ngoại tình.
Tình yêu và lòng thủy chung son sắt của người Chứt không biết có từ khi nào, gắn với sự tích gì nhưng già làng Hồ Kính nói rằng người Chứt sống thủy chung từ lúc còn ở trong hang đá. Quan hệ hôn nhân của họ là một vợ một chồng. Người nào vượt qua điều ấy được cho là kẻ phản bội, không chỉ đối với người yêu mà còn là sự phản bội lại bản làng. Bà Hồ Thị Nam, Bí thư Chi bộ bản Rào Tre, cho biết với người Chứt thì nữ mười ba tuổi, nam mười lăm tuổi trở lên có quyền tìm hiểu, yêu đương mà không bị ràng buộc điều gì khác. Đôi lứa tìm hiểu nhau một thời gian đến khi bà con dân bản chấp nhận thì họ trở thành vợ chồng.

Bó củi tình yêu

Trong câu chuyện tình yêu của người Chứt thì bó củi là một vật linh thiêng và hết sức quan trọng. Bó củi được coi như lời tỏ tình của người con trai với người con gái. Đôi khi nó cũng thay cho lời dạm hỏi của gia đình nhà trai với gia đình cô dâu. “Trước khi đi tìm hiểu một cô gái nào đó, người con trai đưa một bó củi đến nhà mẹ cô gái ấy. Bó củi thường được các chàng trai lặng lẽ đến đặt tại cửa nhà người con gái giữa đêm khuya thanh vắng. Người con trai cố giữ bí mật, không cho các chàng trai khác trong bản biết. Nếu gia đình bên gái nhất trí thì đun bó củi đó, nếu không nhất trí thì gia đình gái vứt bó củi ra khỏi nhà nhưng khi vứt tuyệt đối không để người con trai đó thấy” - bà Nam chia sẻ.

Theo phong tục, sau lễ cưới, vợ chồng ăn ở tại nhà gái năm ngày đêm. Sau đó, về nhà trai ăn ở ba ngày đêm. Khi hết hạn quy định, vợ chồng quỳ lạy cha mẹ chồng, được cha mẹ cho phép mới được quyền tự do đi lại. Những cặp vợ chồng khó khăn về vật chất được ở chung với gia đình chồng. Các cặp vợ chồng khi tách hộ thường tổ chức đắp nền bếp với sự tham gia đầy đủ của các thành viên trong gia đình. Họ quan niệm nếu không tham gia sẽ xảy ra ốm đau. Điều đặc biệt là khách lạ không được vào buồng ngủ của vợ chồng chủ nhà, kể cả bố mẹ vợ và bố mẹ chồng.

Ông Đinh Xuân Kiên, Chủ tịch UBND xã Hương Liên, cho biết quan hệ hôn nhân và gia đình của người Chứt hoàn toàn dựa vào cơ sở tình yêu và sự thủy chung, gắn bó. Hiện tại, các hình thức cưới hỏi được đơn giản hóa, hiện tượng thách cưới không còn.

Những mối tình xa xứ

Ở bản Rào Tre, hôn nhân nội tộc đang là phổ biến. Tuy nhiên, luật tục cấm kỵ việc người trong dòng họ kết hôn với nhau trong vòng ba đời về phía cha, hai đời về phía mẹ. Đến đời thứ bốn thì không phân biệt bên nội hay bên ngoại được quan hệ hôn nhân với nhau.

Do người Chứt có số lượng dân cư ít nên đến tuổi trưởng thành, để lấy được vợ, người Chứt phải lặn lội băng rừng qua bên bản Chuối, bản Kè của tỉnh Quảng Bình. Già làng Hồ Kính kể: “Có thằng đi mấy năm mới dẫn được vợ về nhà. Hiện bản mình có gần mười cặp vợ chồng như thế. Họ sống thủy chung và ai cũng hãnh diện về những mối tình xa xứ của mình”.

Đôi vợ chồng Hồ A Bình, Hồ Thị Bung là một ví dụ. Cưới nhau hơn 20 năm, sinh được ba mặt con nhưng vợ chồng vẫn chăm sóc nhau như ngày mới yêu. Hàng xóm kể họ chưa bao nghe vợ chồng họ to tiếng hoặc cãi vã với nhau.

“Năm nay mình 18 tuổi rồi, sắp tới mình cũng sang bản Chuối tìm vợ thôi” - Hồ Sang, một thanh niên bản Rào Tre, hồ hởi nói.

Hồ Nam cũng đến với người bạn đời mình bằng tấm lòng thủy chung và tình yêu trong sáng. “Trong một lần đi rẫy, lạc vào bản Kè, mình gặp cô ấy. Do đường sá xa xôi nên mình phải ở lại bên bản ấy mấy ngày. Trong bụng thích cô ấy nhưng mình không dám tỏ tình. Rồi một buổi tối, mình quyết định đem bó củi đến đặt ở cửa nhà. May mắn bó củi được nhà cô ấy đun nên mình đã lấy được vợ” - Hồ Nam kể.

“Dù không có con nhưng mình yêu vợ trọn đời”

Trọn nghĩa vợ chồng

Niềm tự hào lớn nhất của người Chứt theo già làng Hồ Kính là quan hệ hôn nhân một vợ một chồng. Họ coi trọng tình yêu, sự chung thủy trọn đời. Tình yêu đến với một người là điểm thăng hoa trong cuộc đời. Đó là sự ban ơn của đất trời cho con người nên phải nắm giữ. “Ở cái bản này, từ xưa đến nay không có cặp vợ chồng nào bỏ nhau. Nếu trong gia đình có chuyện gì mà vợ chồng cãi vã thì sẽ được bà con lối xóm hòa giải ngay. Còn ngoại tình thì tuyệt nhiên không có” - già làng Hồ Kính tự hào nói.

Chúng tôi đến thăm nhà Hồ Việt khi trời chập choạng tối. Căn nhà khang trang nhưng lạnh lẽo. Khi vợ Hồ Việt trên gường bệnh nhổm người dậy đón khách thì cũng vừa lúc anh từ rừng trở về, mang trên tay xâu cá tươi. Hồ Việt nghẹn ngào kể: “Mình lấy vợ đã gần 20 năm rồi nhưng không có em bé. Cứ mỗi mùa rẫy đi qua, mình lại hy vọng có được đứa con nhưng trời chả cho. Vợ mình mắc chứng vô sinh. Kể từ ngày biết chuyện này, cô ấy buồn đau nên thường đổ bệnh”.

Hồ Việt và vợ cũng nên duyên từ “mối tình xa xứ” ở tận Quảng Bình. “Vợ mình ốm mấy ngày rồi. Mấy hôm nay, ngày nào mình cũng xuống suối kiếm con cá tươi nấu cháo bồi dưỡng. Dù khó khăn đến mấy nhưng mình cũng cố gắng không để cô ấy buồn. Còn chuyện lấy vợ khác thì mình không bao giờ chịu đâu. Mình thề sống trọn đời với vợ rồi” - Hồ Việt nói trong tiếng khóc.

Người Chứt chỉ lấy vợ hay chồng khác khi một trong hai người chết nhưng trường hợp này rất hiếm. Hồ Pốp cũng được xem là một người đàn ông sống trọn nghĩa tình. Vợ chết đã gần 10 năm nay nhưng ông vẫn một mình nuôi ba con nhỏ ăn học. Hỏi vì sao không lấy vợ hai thì Hồ Pốp ngoảnh mặt cười: “Nghĩa vợ chồng làm sao bỏ được”.

__Phi*Tuyết__
25-04-2009, 08:33
24. DÂN TỘC TÀ ÔI

http://www.vietnamtourism.com.vn/upload/image/_news/2007531/image/dtoc%20ta%20oi%202.jpg

Tên dân tộc: Tà Ôi (Tôi Ôi, Pa Cô, Ba Hi, Pa Hi).
Dân số: 34.960 người (năm 1999).
Ðịa bàn cư trú: Huyện A Lưới (tỉnh Thừa Thiên-Huế), huyện Hương Hoá (tỉnh Quảng Trị).

http://www.cema.gov.vn/images/uploaded/taoi1.jpg
Già làng Tà ôi

Phong tục tập quán:

Ở nhà sàn dài, có nhà công cộng (kiểu nhà rông) dựng ở giữa làng dùng để hội họp, lễ hội. Tin vào đa thần và có nhiều lễ hội cúng Giàng (thần).

Hôn nhân tự do. Con theo họ cha, con trai được hưởng gia tài. Trưởng họ đóng vai trò quan trọng.

Khi chết được vài năm thì cải táng mộ, mộ lúc này được được xây đẹp, công phu, dựng tượng quanh bờ rào mồ.

Ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer.

Văn hoá: Nhạc cụ có chiêng, cồng, đàn, sáo, kèn, trống, khèn. Có các làn điệu dân ca: Ka lơi, Ba boih, rơin, cha chấp,... và nhiều tục ngữ, ca dao, câu đố, truyện cổ.

http://cema.gov.vn/images/uploaded/taoi3.jpg
Nhà sàn có mái uốn tròn ở đầu hồi

Trang phục: Nữ có áo váy, có nơi dùng loại váy dài kéo lên che ngực thay áo, nam giới đóng khố, ở trần. Ðồ trang sức bằng đồng, bạc, hạt cườm.

http://www.cema.gov.vn/images/uploaded/taoi2.jpg
Thiếu nữ Tà ôi

Kinh tế: Làm rẫy, một số nơi làm ruộng nước, có vườn cây ăn quả, đào ao thả cá.

http://cema.gov.vn/images/uploaded/taoi.jpg
Người Tà ôi dệt vải

__Phi*Tuyết__
27-04-2009, 08:23
25. DÂN TỘC XTIÊNG

http://mattran.org.vn/Home/DatnuocVN/Cac%20dan%20toc/images/DTV53104.gif
Thiếu nữ Xtiêng

Tên gọi khác
Xa Điêng

Nhóm ngôn ngữ
Môn - Khmer

Dân số
50.000 người.

Cư trú
Cư trú tập trung tại 4 huyện phía Bắc tỉnh Sông Bé và một phần sinh sống ở Đồng Nai và Tây Ninh.

Phong tục tập quán:
Ðứng đầu là già làng am hiểu tập tục, có uy tín, tháo vát. Họ sống định canh định cư theo từng gia đình. Tin vào sức mạnh huyền bí của sấm sét, trời đất, trăng, mặt trời. Tính tuổi theo mùa rẫy. Trong hôn nhân, họ lấy vợ lấy chồng khác dòng họ. Cô dâu về ở nhà chồng ở sau ngày cưới.

Đặc điểm kinh tế
Nhóm Bù Đéc ở vùng thấp, biết làm ruộng nước và dùng trâu, bò kéo cày từ khá lâu. Nhóm Bù Lơ ở vùng cao, làm rẫy là chủ yếu, sống gần gũi với người M'Nông và người Mạ.

http://mattran.org.vn/Home/DatnuocVN/Cac%20dan%20toc/images/DTV53101.gif

Tổ chức cộng đồng
Ngày nay người Xtiêng ở nhiều nơi đã định canh định cư, từng gia đình làm nhà ở riêng. Họ Điểu là họ phổ biến khắp vùng Xtiêng. Làng Xtiêng có truyền thống tự quản, đứng đầu là một ông già am hiểu tập tục, có uy tín lớn, tháo vát và thường là người giàu có ở làng. Mức giàu được tính bằng tài sản như: trâu, bò, chiêng, cồng, ché, vòng, trang sức...

http://maxreading.com/data/books_images/9753e32efb7a065b7b3c5a115a3d7c2e.jpg

Hôn nhân gia đình
Người Xtiêng lấy vợ, lấy chồng khác dòng họ. Thông thường con trai từ tuổi 19-20, con gái từ tuổi 15-17 bắt đầu tìm bạn đời. Sau lễ cưới cô dâu về nhà chồng.

http://cema.gov.vn/images/cms/cms_4700.jpg
Bếp lửa của người Xtiêng

Người Xtiêng ưa thích âm nhạc, nhạc cụ thường thấy nhất là bộ chiêng 6 cái. Chiêng không được gõ ở ngoài nhà, trừ ngày lễ đâm trâu. Chiêng dùng trong hội lễ, cả trong bộc lộ tình cảm, hòa giải xích mích giữa các gia đình. Ngoài chiêng còn có cồng, khèn bầu cũng được đồng bào ưa thích. Cuối mùa khô, đồng bào hay chơi thả diều.

http://cema.gov.vn/images/cms/cms_11237.jpg
Người Xtiêng vui nhộn

Nhà cửa
Tình hình nhà ở của người Xtiêng hiện nay hết sức phức tạp. Ví dụ: người Xtiêng ở Bù lơ sống trong nhà đất dài - gia đình lớn phụ hệ; Ơở Đắc Kia người Xtiêng cư trú trong nhà sàn, nhà đất ngắn - gia đình nhỏ; Ơở Bù Đeh người Xtiêng lại sống trong nhà sàn dài (chịu ảnh hưởng nhà người Khơ me) - gia đình lớn mẫu hệ.

http://www.ubdt.gov.vn/images/cms/cms_2779.jpg
Căn nhà của người Xtiêng

Bộ khung nhà người Xtiêng dù nhà sàn hay đất (xưa) đều trên cơ sở vì hai cột (không có kèo).
Nếu căn cứ vào cấu tạo của bộ khung nhà đất của người Xtiêng hiện nay còn thấy thì nhà đất của người Xtiêng quả là rất cổ. Nhà đất của người Xtiêng chỉ như là một cái chòi, mái được kéo gần sát mặt đất. Cửa ra vào rất thấp. Mở ở hai đầu hồi và một cửa ở mặt trước nhà, mái trên cửa cũng phải cắt bớt hoặc làm vòng lên như ở nhà người Mạ.

Trang phục
Trang phục của người Xtiêng khá đơn giản, đàn bà mặc váy, đàn ông đóng khố. Mùa đông người ta choàng một tấm vải để chống rét. Người Xtiêng để tóc dài búi sau gáy, tai sâu lỗ, hoa tai bằng gỗ, ngà voi và xăm mặt, xăm mình với những hoa văn giản đơn. Mọi người nam, nữ, già, trẻ đều thích đeo các loại vòng. Trẻ em còn nhỏ đeo lục lạc ở hai cổ chân.


Dân tộc Xtiêng ở Bình Phước: Từ quan niệm đến ứng xử với người đã khuất


Xuất phát từ quan niệm “sống gửi thác về”, người chết chưa phải đã chấm dứt cuộc sống của mình mà là tiếp tục sống ở thế giới khác bằng linh hồn nên thế giới của người chết được người Xtiêng mô phỏng như chính thế giới của người sống, nhưng có sự đối lập nhất định.


Chọn giờ đi chôn và chọn hướng đặt quan tài

Họ cho rằng, nếu ở trần thế đang tối thì thế giới bên kia sẽ là sáng, bên này ban ngày thì bên kia ban đêm, bên này giữa trưa thì bên kia là giữa đêm khuya, đồ vật bên này to thì bên kia sẽ nhỏ..., Ở đó, âm phủ (teh ph-an), người chết (vơl phan) cũng lao động, sản xuất như người trên trần gian. Người Xtiêng còn cho rằng, hồn người chết ở thế giới bên kia chưa hẳn sẽ được sống vĩnh hằng. Họ cũng có thể bị bệnh tật và chết tiếp hoặc đầu thai trở lại làm kiếp người, tùy thuộc người đó khi sống ở hiền hay ở ác.

Từ quan niệm đó, người Xtiêng thường đi chôn người chết vào buổi chiều. Đồng bào cho rằng, việc đưa tiễn vào giờ đó sẽ tạo điều kiện cho người chết được thuận lợi hơn. Lúc đó, bên kia thế giới (teh ph-an) trời đang sáng, người chết đi lại, làm thủ tục nhập thế giới mới và tìm thân nhân của mình dễ dàng hơn. Hồn không phải ngủ lại qua đêm dọc đường để chờ trời sáng hoặc tốn tiền mua lửa (pot unh) để đốt đuốc đi đường giữa đêm khuya...,

Việc đặt quan tài xuống huyệt cho nam và nữ cũng khác nhau xuất phát từ cuộc sống, lao động của người Xtiêng. Người đàn ông Xtiêng sáng sớm thường đi săn bắn thú rừng (săn con cheo- câp von pi cuôi). Vì vậy, đầu quan tài phải quay về hướng tây để hồn sớm nhìn thấy mặt trời mọc ở hướng đông, kịp chuẩn bị đi săn bắn vào lúc sáng sớm. Còn đối với phụ nữ, buổi chiều họ thường chuẩn bị công việc giã gạo, lấy nước, nấu cơm..., vì vậy, đầu quan tài phải quay về hướng đông để hồn sớm quan sát mặt trời lặn ở hướng tây. Đây cũng là những quan niệm vừa mang tính nhân văn sâu sắc, vừa thể hiện thực tế đời sống của người Xtiêng.

Chia tài sản cho người chết

Người Xtiêng quan niệm thế giới của người sống cũng giống như thế giới của người chết, người sống cần gì thì người chết cũng cần như vậy. Vì vậy, tùy theo điều kiện mỗi gia đình và lai lịch của người chết mà người sống sẽ chia tài sản như: dụng cụ lao động, xoong nồi, nhạc cụ, đồ trang sức... rồi đem ra nhà mồ cho người chết. Những tài sản này không để nguyên vẹn như đồ dùng của người sống sử dụng bởi nếu để nguyên, người xấu sẽ lấy cắp và bán lại cho người sống, như vậy sẽ rất xui xẻo cho người nào mua phải đồ vật này. Đồ dùng mang ra nhà mồ phải được đập cho hư hỏng mới là đồ tốt của người chết.

Người Xtiêng quan niệm, hồn người chết không bay lên trời mà sẽ về thế giới âm phủ (tức là “teh ph-an”). Hồn được sống yên lành, vĩnh hằng hay không lại tùy thuộc vào chính lai lịch của người đó khi còn sống trên trần gian. Nếu người đó lúc còn sống mà làm những điều ác, tội lỗi thì khi sang thế giới bên kia hồn có thể sẽ chết tiếp một lần nữa, hoặc bị hoá thành con vật xấu xí, thành sâu bo, côn trùng, dế mèn..., Còn người chết, trước kia ăn ở hiền lành, ngay thẳng thì hồn của họ sẽ sống vĩnh hằng, hạnh phúc ở thế giới bên kia hoặc sẽ được đầu thai trở lại vào chính cháu chắt của mình.

Ngày nay, do đồng bào phần lớn theo đạo (Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin lành...) nên những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc đã dần bị lãng quên một cách vô tình hoặc cố ý. Ngay cả việc sử dụng nhạc tang trong đám tang cũng đang mất dần.
Văn hóa luôn là gốc rễ của con người, của mỗi dân tộc. Mong rằng người Xtiêng hãy nâng cao ý thức giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc mình.

__Phi*Tuyết__
28-04-2009, 09:03
26. DÂN TỘC XƠ ĐĂNG

http://mattran.org.vn/Home/DatnuocVN/Cac%20dan%20toc/images/DTV54104.gif

Tên gọi khác
Xơ Đeng, Cà Dong, Tơ-dra, Hđang, Mơ-nâm, Hà Lăng, Ka Râng, Bri La Teng, Con Lan.

Nhóm ngôn ngữ
Môn - Khmer

Dân số
97.000 người.

Cư trú
Cư trú tập trung ở tỉnh Kon Tum, một số ít ở miền núi của tỉnh Quảng Ngãi và tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.

Đặc điểm kinh tế
Người Xơ Đăng làm rẫy là chính. Nhóm Mơ-nâm làm ruộng nước nhưng không cày bừa mà lại dùng sức trâu, sức người để giẫm nát đất. Đồng bào chăn nuôi gia súc, gia cầm, săn bắn, hái lượm, đánh bắt cá, đan lát, dệt, rèn. Nhóm Tơ-dra có nghề rèn từ quặng sắt rất phát triển và nổi tiếng.

Tổ chức cộng đồng
Mỗi làng Xơ Đăng có nhà rông, có bãi mộ chôn người chết... Nhà cửa của dân làng quây quần bên nhau, mọi người gắn bó giúp đỡ nhau. Ông "già làng" được trọng nể nhất, là người điều hành mọi sinh hoạt chung trong làng và đại diện của dân làng.

http://mattran.org.vn/Home/DatnuocVN/Cac%20dan%20toc/images/DTV54102.gif
Nhà của người Xơ đăng

Hôn nhân gia đình
Tên của người Xơ Đăng không có họ kèm theo, nhưng có từ chỉ định giới tính: nam là A, nữ là Y (ví dụ như là A Nhong, Y Hên). Trai gái lớn lên, sau khi đã cưa răng theo phong tục (ngày nay ít người còn theo phong tục này), được tìm hiểu, yêu nhau. Lễ cưới xin đơn giản. Sau lễ cưới, đôi vợ chồng ở luân chuyển với từng gia đình mỗi bên ít năm, rất ít trường hợp ở hẳn một bên.

Văn hóa
Trong số các lễ cúng, lễ hội truyền thống của người Xơ Đăng, lễ đâm trâu được tổ chức long trọng nhất, đông vui nhất. Người Xơ Đăng thích hát múa, tấu chiêng cồng, chơi đàn, kể chuyện cổ. Đàn ông không chỉ có tinh thần thượng võ, mà còn tài nghệ trong kiến trúc, điêu khắc và hội họa, tạo nên những sản phẩm tiêu biểu, đó là ngôi nhà rông và cây nêu trong lễ đâm trâu.
Mỗi làng người Xơ Đăng đều có nhà rông, nóc và mái được tạo dáng như cánh buồm lớn hoặc lưỡi rìu khổng lồ ngửa lên trời. Có hình chim chèo bẻo hay hình sừng thú chót vót ở hai đầu đốc. Nhà rông được dân làng tạo dựng nên hoàn toàn bằng thảo mộc có sẵn ở địa phương. Kỹ thuật xây dựng chỉ là lắp ghép và chằng buộc, không hề dùng đến đinh sắt, dây thép...
Nhà rông thực sự là công trình kiến trúc, một sản phẩm văn hóa, là trụ sở và câu lạc bộ trong làng của đồng bào Xơ Đăng.

http://maxreading.com/data/books_images/88699e4481832b51d14383c8ba417250.jpg
Chàng trai Xơ đăng thổi Đinh Pút

Trang phục
Còn ở trình độ phát triển chậm và đây cũng là nét chung của một số dân tộc khác trong khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên. Không có cá tính chung và điển hình cho phong cách kỹ thuật và mỹ thuật.

http://maxreading.com/data/books_images/db9027dfb0c79ed0b96632ae837aacca.jpg
Trang phục nữ Xơ đăng


Ruộng Bậc Thang của Người Xơ Đăng


Cứ tưởng ruộng nấc thang là sản phẩm của các dân tộc vùng cao Tây Bắc, nhiều người hẳn sẽ ngỡ ngàng khi có dịp đến vùng cư dân Xơ-đăng (trên đỉnh Trường Sơn, Tây Nguyên, thuộc Quảng Nam, Kon Tum) với những lũng ruộng nấc thang lớn nhỏ phô ra như một tác phẩm về đường nét và sắc màu treo bên những sườn núi cheo leo dốc dựng.
Làng bản của người Xơ-đăng ở quanh dãy Ngọc Linh - nóc nhà của Trường Sơn - Tây Nguyên (có đỉnh cao 2.598m) - thuộc một ít huyện của Kon Tum, Quảng Nam, hầu hết đều nằm ở cao độ từ 1.000m trở lên. Sống giữa núi cao rừng thẳm, bên cạnh việc làm lúa rẫy, từ lâu đời người Xơ-đăng đã biết khai vỡ ruộng nước để có nguồn thóc ăn ổn định. Đến nay, tuy cư dân đã tiếp nhận một số giống lúa mới đưa vào gieo cấy nhưng do tính đặc thù của thổ nhưỡng, của điều kiện canh tác, một số giống lúa nước bản địa có chất lượng tốt vẫn được họ giữ lại.
Một lũng ruộng nấc thang được xem là khá rộng ở vùng Ngọc Linh. Để phòng hộ, che chắn cho lũng ruộng, cư dân đã quyết không phá những vùng rừng kề bên làm rẫy

http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=329382

Biến lưng đồi hẹp, dốc dựng thành ruộng nước cư dân đã có được hạt thóc ăn bền vững, nếu làm rẫy phần đất này sẽ sớm bị trôi tuột theo mưa lũ. Biết vậy nhưng ít cư dân vùng cao nào làm được như người Xơ-đăng.

Tạo những con mương nhỏ xuyên rừng, cư dân đã đưa nước từ khe xa về tưới cho những lũng ruộng hẹp. Giỏi kiến tạo ruộng nước, người Xơ-đăng cũng giỏi giang trong việc dẫn thuỷ nhập điền - (Tuổi trẻ online)

__Phi*Tuyết__
29-04-2009, 09:23
27.DÂN TỘC XINH MUN

http://dulichvietnam.com.vn/Thumbnail.aspx/1/0/0/391ea4c7db4f44cab574a27d19447bc8-b5.jpg/b5.jpg

Tên dân tộc: Xinh Mun (Puộc, Pụa).

Dân số: 18.018 người (năm 1999).

Ðịa bàn cư trú: Vùng biên giới Việt Lào thuộc Sơn La, Lai Châu.


Phong tục tập quán:
Ở nhà sàn, mái hình mai rùa, có hai thang lên xuống ở hai đầu hồi. Thờ cúng tổ tiên và tổ chức cúng lễ ma bản, cúng mường. Họ có tập quán ăn trầu, nhuộm răng đen, uống rượu cần. Hôn nhân nhà trai phải lo. Sau lễ dạm, lễ hỏi là đến lễ đi ở rể. Khi đã có vài ba con thì nhà trai mới tổ chức đón dâu, lấy chung một tên khác do cậu hoặc thầy cúng đặt. Con theo họ cha. Khi người bố chết, con trai cả giữ vai trò quan trọng. Không có tục cải táng hay tảo mộ.

Ngôn ngữ:
Ngôn ngữ thuộc nhóm Môn - Khmer.

Văn hoá:
Họ có nhiều nghi lễ và kiêng cữ, có lễ cúng mường hàng năm là lễ chung.

http://dulichvietnam.com.vn/Thumbnail.aspx/1/0/0/ac64653a3c8247e48159ae105117f573-b6.jpg/b6.jpg
Vòng Xòe của người Xinh Mun

Trang phục:
Trang phục như người Thái, Lào.

http://a8.vietbao.vn/images/vn888/Duc/05.12.08/xinhmun.jpg
Trang phục thiếu nữ Xinh Mun

Kinh tế:
Làm nương rẫy, hái lượm, săn bắn và chăn nuôi, một số nơi làm lúa nước. Nghề đan lát khá phát triển, đồ đan đẹp và bền. Mua bán theo chế độ đổi hàng.




Lễ hội A Mương của người XInh Mun


Người Xinh Mun là một trong 54 dân tộc ở Việt Nam, địa bàn cư trú của họ là vùng biên giới Việt Lào và nhất là địa bàn tỉnh Sơn La. Vào những ngày mùa, dịp cuối năm sau khi thu hoạch xong họ thường cử hành nghi lễ cúng thần linh đã ban cho mùa màng bội thu. Nghi lễ ấy theo tiếng Xinh Mun là Mương A Ma và thường tổ chức từ tháng 12 đến tháng 2 âm lịch.

Lễ hội Mương A Ma không phải là lễ hội thường niên mà 3- 5 năm mới tổ chức một lần. Người đứng ra tổ chức, chủ trì lễ hội là những người làm thầy mo trong bản. Lễ hội diễn ra trong 2 ngày khi lúa ngô đầy nhà và nuôi được nhiều gà, lợn...Đầu tiên thầy mo sẽ thành kính thay mặt dân bản cúng tế các vị thần linh phù hộ cho mưa thuận gió hòa, để lúa sai bông, để ngô mẩy hạt, để lợn gà trâu bò không bị dịch bệnh, sinh sôi đầy chuồng, để con người khỏe mạnh không bị ốm đau, để bản mường mãi mãi hưng thịnh. Sau đó trong tiếng trống, tiếng chiêng rộn rã cùng men rượu cần nồng say người dân khắp bản sẽ thả mình theo các điệu múa, trò chơi dân gian một cách vui vẻ. Các điệu múa truyền thống như múa Tăng bu, To luồng, múa kéo thuyền... chơi "to miếng" (đấu võ), chơi "giắc klsù" (bắt tổ ong) được các chàng trai cô gái phô diễn hết sức nhiệt tình trong tiếng hò reo của trẻ con trong bản.

Lễ hội Mương A Ma được xem là một nét văn hóa tiêu biểu, đặc sắc nhất của đồng bào dân tộc Xinh Mun, là một hình thức sinh hoạt văn hóa tập thể góp phần tích cực vào việc vun đắp tình đoàn kết cộng đồng và lưu truyền những nét văn hóa truyền thống sang các thế hệ kế tiếp. Chắc hẳn khi chưa được chứng kiến lễ hội du khách sẽ khó có thể cảm nhận hết những nét đẹp cũng như sự lạ lùng trong văn hóa các dân tộc Việt Nam.



Lễ cơm mới của người Xinh Mun

http://www.baothuongmai.com.vn/Modules/CMS/Uploads/Users/21/2008_11_7/1DWQ1W5OSL_mn22.gif

Lễ cơm mới là một trong những nghi lễ quan trọng nhất trong đời sống của người Xinh Mun và thường được tổ chức vào tháng 9 hoặc tháng 10 âm lịch khi mùa màng đã thu hoạch xong.
CôngThương - Người Xinh Mun sống chủ yếu bằng nghề làm nương rẫy, trồng lúa nếp và ngô là chính. Có loại nương chọc lỗ tra hạt giống, có nương dùng cuốc và có nương dùng cày để canh tác. Một số nơi có ruộng nước. Hái lượm và săn bắn góp phần quan trọng cho đời sống đồng bào. Nghề đan lát khá phát triển, đồ đan đẹp và bền, đồng bào thường đổi đồ đan cho người Thái, người Lào để lấy một phần đồ mặc và đồ sắt. Người Xinh Mun có tập quán ăn trầu, nhuộm răng đen, uống rượu cần, thích gia vị cay.

Do sinh sống bằng canh tác trên nương là chính nên người Xinh Mun tiến hành nhiều nghi lễ nông nghiệp cầu cúng các thế lực siêu nhiên. Lễ cơm mới là một trong những nghi lễ quan trọng nhất trong đời sống của người Xinh Mun và thường được tổ chức vào tháng 9 hoặc tháng 10 âm lịch khi mùa màng đã thu hoạch xong. Lễ cơm mới được tổ chức theo từng gia đình, lúa nhà nào chín trước thì ăn trước, lúa nhà nào chín sau thì mừng cơm mới sau.

Khâu chuẩn bị cho lễ cơm mới được tiến hành khá công phu, có sự phân công rõ ràng và cụ thể: đàn ông đi săn bắn, chuẩn bị các loại thịt thú phơi khô cất trên gác bếp hoặc muối chua - đàn bà đi hái lượm các loại củ quả, rau màu trong rừng và trên nương. Ngoài các món ăn như thịt thú rừng, canh cá, canh rau, cơm xôi, khoai sọ, khoai lang còn có vải trắng, vòng bạc trầu cau, rượu cần. Ngoài ra, trong các lễ vật nhất thiết phải có con dế (dế mèn hoặc dế núi) vì đồng bào quan niệm đó là “con lợn” của ma nhà. Lễ vật được đặt trên mâm bằng gỗ hoặc bằng mây có lót lá chuối tươi. Lễ cơm mới của người Xinh Mun được tiến hành vào buổi tối. Trước khi cúng, người ta đốt củi gỗ thông cho thơm và mang ý nghĩa thông báo với tổ tiên, thần linh rằng ngày lễ cơm mới đã đến. Trong khi làm lễ, họ dùng các bài cúng nhằm dâng lễ vật cầu mong tổ tiên phù hộ cho con cháu làm ăn khấm khá, mùa màng bội thu; cầu mong cho bếp luôn đỏ lửa,

gia đình có nhiều gạo, thịt để nấu; cầu mong mưa thuận gió hoà…

Khác với không khí trang nghiêm của phần lễ, ở phần hội mọi người xếp thành hàng, đầu tiên là bà chủ nhà, các thành viên nữ, các thành viên nam… Vừa đi vừa nhảy múa xung quanh mâm lễ hoa màu luộc chín (khoai lang, khoai sọ, bí đỏ..). Trong tiếng trống rộn ràng, mỗi người bốc một nắm bôi vào người nhau thể hiện sự phân phát hạnh phúc với lời chúc cho ông bà, anh chị luôn gặp nhiều điều may mắn.

Kết thúc phần hội, người ta lại thi nhau trong cuộc vui uống rượu cần. Bà chủ nhà uống đầu tiên, sau đó tới khách quý và kế tới là cuộc thi uống rượu cần của từng tốp một hết sức vui nhộn, tinh thần của họ được thăng hoa, mọi lo toan thường nhật phút chốc tan biến, mọi người thả mình theo những điệu múa dân gian rất vui vẻ, diễn tả hiện thực cuộc sống của cộng đồng.

Tuy là của các gia đình, song lễ cơm mới lại có tính cộng đồng rất cao, mang đậm nét văn hóa tiêu biểu, đặc sắc của đồng bào dân tộc Xinh Mun, là một hình thức sinh hoạt văn hóa tập thể lành mạnh, thắm tình đoàn kết, tạo ra bầu không khí vui tươi phấn khởi trong cộng đồng người Xinh Mun. Góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hoá lễ hội dân gian truyền thống các dân tộc Việt Nam.

__Phi*Tuyết__
01-05-2009, 09:59
28.DÂN TỘC THỔ

http://www.cema.gov.vn/images/uploaded/ems480_tho3.jpg

Tên dân tộc: Thổ (Kẹo, Mọn, Cuối, Họ, Tày Poọng, Ðan Lai, Ly Hà).

Dân số: 68.394 người (năm 1999).

Ðịa bàn cư trú: phía tây tỉnh Nghệ An.

http://www.cema.gov.vn/images/uploaded/ems480_tho4.jpg
Hái Chè

Phong tục tập quán:
Xưa ở nhà sàn, nay hầu hết là nhà trệt. Sống đoàn kết và gắn bó với nhau. Có tục "ngủ mái": Nam nữ thanh niên được nằm tâm tình với nhau, nhất là vào dịp tết, lễ hội (nhưng phải sử sự đứng đắn bởi dư luận và luật tục rất nghiêm minh). Từ đó mà chọn bạn trăm năm. Muốn cưới vợ cho con, nhà trai khá tốn kém về lễ vật, chàng trai phải năng đến làm việc cho nhà vợ tương lai. Thờ "thần", "ma" và những vị có công khai khẩn đất đai, lập làng hay đánh giặc. Các gia đình đều thờ cúng tổ tiên. Hàng năm, có lễ xuống đồng và lễ ăn cơm mới.

Ngôn ngữ: Ngôn ngữ thuộc nhóm Việt - Mường.

Văn hoá: Xưa có nhiều ca dao, tục ngữ, câu đố, truyện cổ, các điệu ca hát, đồng dao. Vốn văn nghệ dân gian đến nay đã bị thất truyền, mất mát nhiều.

http://www.baonghean.vn/images_upload/small_44134.JPG
Biểu diễn Khắc luông của dân tộc Thổ

Trang phục: Giống như người Kinh nông thôn nửa thế kỷ về trước, có nơi nữ mặc váy mua của người Thái, đội khăn vuông trắng. Khăn tang là khăn trắng dài.

http://www.baonghean.vn/images_upload/small_44133.JPG

Nhà cửa
Người Thổ quen sống trên nhà sàn, nhưng nhà của họ không có gì đặc biệt. ở vùng Lâm La nhà sàn của người Thổ giống hệt nhà người Mường... Ơở những xã phía Nam, nhà người Thổ lại giống nhà người Thái. Nay nhiều nơi người ta đã chuyển sang nhà ở đất theo kiểu nhà người Việt.

Kinh tế: Làm rẫy, trồng lúa và gai. Sử dụng cày, bừa để lấp đất sau khi gieo. Cây gai là nguyên liệu quan trọng trong đời sống, kinh tế. Rừng đóng vai trò lớn trong đời sống.

http://www.vietnamtourism.com.vn/upload/image/_news/2007531/image/dtoc%20tho2.jpg
Đan vòng đay, một nghề truyền thống của người Thổ




Lễ hội đền Thi của dân tộc Thổ

Tục tế trâu trong Lễ hội đền Thi làng Trung Thành, xã Yên Lễ phản ánh tín ngưỡng cổ truyền của cộng đồng người Mường - Việt, đã thuần hóa trâu rừng thành trâu nhà phục vụ cho sản xuất của những cư dân trồng lúa nước. Đồng thời đó cũng chính là sắc thái riêng có của người Thổ nơi đây cho tới ngày nay còn rất ít tộc người bảo lưu được.

http://www.kinhtenongthon.com.vn/Uploaded/nguyenhung/Thang%205/Ngay%208/Van%20hoa.jpg
Rước kiệu Tướng quân Lê Phúc Thành trong lễ hội đền Thi

Đền Thi nằm ở trung tâm làng Trung Thành, xã Yên Lễ, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá, cách thị trấn Yên Cát - lỵ sở huyện Như Xuân 3 km về phía tây bắc. Làng Trung Thành trước đây có tên là làng Sẹt, bởi trước đây vùng này có nhiều cây lim sẹt mọc thành rừng.

Với địa hình do thiên nhiên kiến tạo, làng Trung Thành có núi đồi, suối, đập nước và ruộng thấp. Từ lâu mảnh đất này là nơi tụ cư ổn định của đồng bào Thổ. Đền Thi (tên gọi cánh đồng Thi đặt tên cho đền) được xây dựng trên gò đất cao, có xóm làng và những ruộng nước bao quanh. Có thể coi đền Thi là di tích duy nhất của đồng bào dân tộc Thổ Yên Lễ. Đền Thi được Nhà nước xếp hạng là di tích cấp tỉnh.

Làng Trung Thành, xã Yên Lễ có từ thế kỷ XV. Người có công đầu tiên trong việc lập làng Sẹt là Lê Phúc Thành, ông được dân làng Trung Thành tôn thờ làm thành hoàng. Theo các tài liệu và một số chứng tích, di vật, hiện vật còn lại đến ngày nay lưu giữ tại đền và nhà thờ họ Lê cho biết: Lê Phúc Thành vốn có nguồn gốc ở vùng núi Nưa (Nông Cống - Triệu Sơn ngày nay), ông có công lớn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Sau khi cuộc khởi nghĩa thắng lợi, ông được phong lộc điền ở làng Sẹt. Lúc đầu dân cư người bản địa ở vùng đất này chỉ ít người sống tản mát và nghèo đói, sau khi được phong lộc điền và giữ trọng trách quan lang của vùng đất này, ông đã tập hợp, chiêu mộ dân binh và những người trong vùng về đây “khai sơn phá thạch” biến rừng cây rậm rạp và đầm lầy hoang vu thành xóm làng trù phú.

Hiện nay, làng Trung Thành có 110 hộ với 438 người, chủ yếu là người Thổ. Cả làng chỉ có một họ duy nhất là họ Lê. Trước đây một số họ như: họ Nguyễn, họ Phạm... người Kinh hoặc người Thái ở các nơi khác đến đều tự nguyện đổi thành họ Lê và tự nhận là tộc người Thổ.

Đền Thi là nơi thờ ông tổ của dòng họ Lê làng Trung Thành. Bởi vậy đền Thi được xem như nhà thờ của tộc người Thổ nơi đây.

Trước kia, đền Thi được xây dựng trên một gò đất, xung quanh là những ruộng nước và xóm làng. Mặt bằng kiến trúc ngôi đền theo kiểu chuôi vồ, bên trong là hậu cung, mặt nền được tôn cao so với sân 50cm, kết cấu vật liệu xây dựng chủ yếu bằng gỗ lim. Ngôi đền hiện nay là một ngôi nhà gỗ 3 gian làm tiền đường và hậu cung, thay cho thưng ván bằng gỗ trước đây nay được xây gạch bao quanh.

Nhân vật được thờ trong đền gồm có: Dương Cảnh Bạch Y thượng đẳng tối linh thần, truyền thuyết địa phương cho là thần nhà trời và Dương Cảnh thành hoàng Lê Phúc Thành, nhưng thờ tướng quân Lê Phúc Thành vẫn được coi là chính. Trải qua các triều đại, triều đình đều có sắc phong cho thần. Hiện còn lưu giữ được hai sắc phong thời Nguyễn do vua Khải Định và Bảo Đại ban vào năm 1922 và 1934.

Ngày giỗ của tướng quân Lê Phúc Thành được tổ chức vào ngày 16 tháng 3 âm lịch hàng năm. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lễ hội ở làng Trung Thành diễn ra từ ngày 10 đến 16 tháng 3 âm lịch, theo nghi thức tế lễ, hội hè truyền thống. Thông thường, cứ 3 năm tổ chức đại lễ (có tế trâu), còn những năm khác thì tế lễ thường niên.

Theo các cụ già kể lại, trước đây tế lễ ở đền Thi có tế trâu là đặc biệt hơn cả. Thường thì trước lễ hội sáu tháng người tộc trưởng họ Lê phân công cho một số người đi đến các làng trong vùng tìm chọn một con trâu tơ đực (trâu đen hoặc trâu trắng) mua hoặc trao đổi bằng các sản phẩm nông nghiệp. Khi trâu được đưa về, ông tộc trưởng giao cho những thanh niên chưa vợ, có đạo đức, có sức khỏe luân phiên nhau chăn dắt cẩn thận. Thức ăn dành cho trâu ngoài cỏ và lá non còn có cám, mía.

Trước hôm vào đại lễ người ta dắt trâu ra đình, ông Từ cáo với Thành hoàng về việc dâng trâu tế thần linh. Người chủ lễ tay cầm 3 nén hương và một chén rượu vái thần linh xin phép làm lễ tế trâu, sau đó đi vòng quanh con trâu chín vòng rồi hắt rượu và hương vào đầu trâu, gọi là làm lễ tỉnh sinh. Trong khi làm lễ ông chủ tế khấn: “Hỡi trâu! đừng có buồn, lát nữa thôi là trâu về với tổ tiên ông bà, dân làng đã chọn vinh dự này cho mày chứ không phải là con trâu nào cũng được chọn. Trâu về bên kia ngọn núi, về với thần linh, phù hộ cho dân làng khỏe mạnh, mùa màng tốt tươi”.

Trâu hiến tế được trói chân, không được đập mà chỉ được cắt tiết. Tiết trâu được đựng trong ống nứa. Sau khi con vật đã hóa kiếp, dân làng thui trâu và xẻ thịt làm cỗ để dâng cúng thành hoàng...

Sau khi tế thần những đồ lễ vật này được chia cho dân làng thụ hưởng, số thịt và lòng trâu còn lại người ta nấu xáo để mọi người từ nam, phụ, lão, ấu đều được thụ lộc, cùng ăn một bữa ăn cộng cảm giữa chốn đình trung. Đối với những người ở nơi khác đến dự lễ, ngoài việc được thụ lộc họ còn được chia phần để mang về cho người nhà, cho người thân.

Về phần rước: Trước ngày đại lễ, người ở các làng rước kiệu từ làng mình về đình làng Sẹt để làm lễ tế thần. Đi đầu đám rước là đội cờ ngũ sắc với các trai làng ăn mặc trong sắc phục dân binh, tiếp theo là rước 5 kiệu thờ sơn son thiếp vàng do những thanh niên trẻ khỏe đảm nhiệm, tiếp đến là đội bát âm với trống cái, trống con, chiêng, thanh la, nhị, sáo... tấu lên những khúc nhạc hùng tráng làm vang động cả một vùng “sơn thâm cùng cốc”, tiếp đến là các chức dịch, quan viên, dân làng... đi sau đám rước. Kiệu được rước từ đình đến đền rồi ngược lại từ đền đến đình để tế lễ.

Từ ngày mùng 10 đến ngày 16 luôn diễn ra tế lễ tuần tự từ làng này đến làng khác. Cùng với việc tế lễ, trong những ngày này hội hè cũng được mở ra với nhiều trò chơi, trò diễn phong phú và sôi động mang đậm sắc thái văn hóa của tộc người Thổ. Vào các buổi tối trai gái thường tụ tập ở sân đình, ngoài bãi cỏ rộng dưới ánh trăng ngàn, từng tốp, từng tốp trai thanh nữ tú rủ nhau hát giao duyên, giao tình với miếng trầu, một chiếc đàn môi và những lời ca đằm thắm, trong sáng, trữ tình được cất lên:
Nam: Có trầu mà chẳng có vôi
Có em mà chẳng có tôi cũng buồn
Nữ: Trầu đây, thuốc vẫn ở đây
Nhân duyên chưa định trầu này chưa trao
Nam: Gặp nhau ăn miếng trầu này
Ăn rồi ta sẽ tâm bày khúc nhôi
Nữ: Có trầu anh dọc, anh têm
Miếng cau em bửa làm nên vợ chồng...
Cùng với hát giao duyên họ còn đánh trống tăng, hát ru, hát trống chiêng, hát “chậm đò ho” và các điệu múa diễn theo tích truyện “Mụ chầy”, “Làm vía”...

Về trò chơi: Nam nữ chia nhau làm hai nhóm cùng nhau chơi tung còn (tiếng Thổ gọi là tày đủm), dụng cụ gồm có quả còn ngũ sắc làm bằng vải, cây nêu làm bằng tre dựng trên một khoảng đất rộng trên đó có 3 vòng tròn có đường kính to nhỏ khác nhau. Lần lượt hai bên nam nữ cùng thi tài, ai ném được quả cầu qua các vòng tròn nhiều lần ở bên nam và ngược lại ở bên nữ người ném được nhiều, cả hai không ai nói với ai nhưng sau buổi chơi họ đều ưng thuận trao cả trái tim cho nhau để rồi nên chồng nên vợ.

Từ sau những năm 1990, cùng với việc phục dựng lại đền, lễ hội đền Thi cũng được khôi phục, ngoài những nghi thức tế lễ, đồ vật dân cúng, trò chơi, trò diễn cũng được sưu tầm và phục dựng lại, song được giản tiện hơn so với trước đây. Thời gian lễ hội chỉ còn lại hai ngày là vào ngày 15 - 16 tháng 3 âm lịch, phần rước kiệu do không còn đình nên dân làng nay chỉ rước kiệu từ đền đến khu mộ thành hoàng và ngược trở lại. Về phần hội có đưa thêm một số hoạt động mới như: Hội trại các làng văn hóa, hội diễn văn nghệ quần chúng, thi thiếu nữ trong sắc phục dân tộc Thổ và các hoạt động thể dục thể thao.

Lễ hội đền Thi tổ chức hàng năm và đã thành lệ cứ 3 năm một lần đại lễ, đó là dịp để đồng bào dân tộc Thổ tri ân, tưởng nhớ công đức, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn đối với tướng quân Lê Phúc Thành, người đã có công khai khẩn đất đai, dựng làng, lập ấp mang lại cuộc sống no ấm cho dân làng và qua đó gửi gắm ước mong cầu thần và các vị thần linh phù hộ độ trì, chở che cho dân làng có cuộc sống bình yên, hạnh phúc, dân khang vật thịnh...

Tục tế trâu trong lễ hội đền Thi phản ánh tín ngưỡng cổ truyền của cộng đồng người Mường - Việt, đã thuần hóa trâu rừng thành trâu nhà phục vụ cho sản xuất của những cư dân trồng lúa nước. Tín ngưỡng đó đã được người Thổ làng Trung Thành tiếp thu một cách tự nguyện, đồng thời đó cũng chính là sắc thái riêng có của người Thổ nơi đây cho tới ngày nay còn rất ít tộc người bảo lưu được.

Lễ hội đền Thi làng Trung Thành, xã Yên Lễ là lễ hội đặc sắc và hầu như duy nhất còn lưu giữ được của dân tộc Thổ. Lễ hội hàm chứa nhiều giá trị văn hóa độc đáo này cần phải được tiếp tục nghiên cứu, giải mã, phát huy để không ngừng đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tâm linh và hưởng thụ văn hóa ngày càng cao không chỉ riêng của đồng bào dân tộc Thổ mà còn là của đại đa số quần chúng nhân dân. (Sở văn hóa - Thông tin Thanh Hóa)

__Phi*Tuyết__
03-05-2009, 09:24
29. DÂN TỘC SI LA

http://www.vietnamtourism.com.vn/upload/image/_news/2007530/image/dtoc%20si%20la2.jpg

Tên dân tộc: Si La (Cú Dé Xử, Khà Pé).

http://www2.vietbao.vn/images/vie4/xa-hoi/40074874-67616sm.jpg

Dân số: 840 người (năm 1999).

Ðịa bàn cư trú: Lai Châu.

http://www2.vietbao.vn/images/vie4/xa-hoi/40074874-67618sm.jpg

Tổ chức cộng đồng
Người Si La có nhiều dòng họ. Các dòng họ đều kiêng ăn thịt mèo. Quan hệ trong họ khăng khít, chặt chẽ. Trưởng họ là người đàn ông cao tuổi nhất, có vai trò quan trọng đối với các thành viên và có trách nhiệm tổ chức sinh hoạt chung của họ mình, đặc biệt là việc thờ cúng. Trong xã hội, ngoài trưởng họ, người Si La rất coi trọng các thầy mo.

Phong tục tập quán:
Ở nhà trệt, bếp lửa đặt ở giữa nhà. Kiêng ăn thịt mèo. Quan hệ trong họ khăng khít, chặt chẽ. Trưởng họ là người nam cao tuổi nhất, có vai trò quan trọng đối với tổ chức, sinh hoạt của họ, đặc biệt là thờ cúng. Trong xã hội, thầy mo được coi trọng. Lễ cưới tổ chức hai lần, cách nhau khoảng một năm. Nhà trai phải có khoản tiền cưới trao cho nhà gái mới được đón dâu về. Bãi mộ nằm xa khu dân cư, mộ những người cùng họ tập trung một nơi. Nhà mồ dựng trước khi đào huyệt. Quan tài gỗ độc mộc. Ngày làm tang cũng là ngày hội. Ðể tang cha mẹ 3 năm. Mộ chôn không cải táng. Thờ cúng tổ tiên và cúng bản rất được coi trọng.

http://www2.vietbao.vn/images/vie4/xa-hoi/40074874-67617sm.jpg
Giết chó trắng, gà trắng lấy máu tẩm vào các phên tre, vũ khí bằng gỗ để “làm lý” trừ tà ma trong ngày lễ cúng bản (ngày lễ linh thiêng nhất của người Sila)

Ngôn ngữ: Ngôn ngữ thuộc nhóm Tạng.

Trang phục: Trang phục nữ khá độc đáo: ngực áo bằng vải khác màu, gắn nhiều xu bạc, xu nhôm. Khăn đội đầu của nữ khác nhau theo lứa tuổi. Thiếu nữ thường đeo túi bằng dây rừng, được trang trí những tơ chỉ đỏ sặc sỡ. Răng để trắng (tục cũ nam nhuộm răng đỏ, nữ nhuộm răng đen).

http://www2.vietbao.vn/images/vie4/xa-hoi/40074874-67611sm.jpg
Cô gái Si la


Kinh tế: Trồng lúa nương, ngô và lúa nước. Săn bắn và hái lượm vẫn có ý nghĩa đối với đời sống.

http://www2.vietbao.vn/images/vie4/xa-hoi/40074874-67615sm.jpg
Lên nương lấy củi

Nhà cửa
Người Si La ở nhà trệt, có bếp lửa đặt giữa nhà.




Tết Cổ Truyền Của Người Dân Tộc Sila


Khi vụ thu hoạch lúa, ngô đã hoàn tất và khi những vạt hoa dã quỳ nở vàng bên đường núi, dọc theo ven suối Nậm Sin, xã Chung Chải, huyện Mường Nhé thì cũng là lúc người Si La ở vùng biên viễn này tạm gác việc nương rẫy, bắt đầu đón Tết cổ truyền mừng năm mới.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, dân tộc Si La có số dân dưới 1.000 người; trong đó ở Nậm Sin có 35 hộ, với 117 nhân khẩu. Tuy số nhân khẩu còn lại ở Nậm Sin rất ít, song người Si La ở đây vẫn giữ được những phong tục truyền thống, đặc biệt là dịp Tết cổ truyền.
Người Si La ăn Tết cổ truyền không theo ngày cố định, khi nào thu hoạch mùa màng xong họ tổ chức Tết với mong muốn bình an và cầu cho mùa màng vụ sau bội thu. Năm nay, người Si La tổ chức Tết cổ truyền từ ngày 5 - 8/12 (dương lịch) trong cái rét cắt da, thịt của miền biên viễn, nhưng không khí ngày Tết vẫn nhộn nhịp, tưng bừng.

Để chuẩn bị cho ngày Tết, cả bản nhộn nhịp hẳn lên. Nhà nào cũng bận rộn, mỗi người mỗi việc nhóm mổ lợn, nhóm làm bánh dầy. Ngày trước, Tết cổ truyền của người Si La luôn có món thịt sóc khô để cúng tổ tiên, nhưng một vài năm gần đây, do rừng bị chặt phá, sóc bị săn bắn nhiều nên món sóc khô - vật thờ cúng tổ tiên trở nên khó tìm. Cũng vì thế mà Tết năm nay cả bản Nậm Sin không gia đình nào có thịt sóc khô để cúng tổ tiên.

http://hoangsa.org/diendan/richedit/upload/2k16979a847a.jpg

Giữa muôn ngàn khó khăn, thiếu thốn của cuộc sống sinh hoạt hằng ngày, song bữa ăn trong ngày Tết cổ truyền của người Si La ngoài mang yếu tố văn hoá tinh thần, nó còn là một bữa ăn cộng đồng, là dịp họp mặt của bà con trong bản và giao lưu với cộng đồng các dân tộc xung quanh. Ngày Tết họ đến chúc nhau mạnh khỏe, làm được nhiều thóc ngô, nuôi được nhiều con lợn, con gà... Chúc nhau xong họ cùng ăn Tết, cùng say trong men thơm của lá rừng. Người già kể cho con cháu nghe chuyện về lớp người đi trước tìm đường theo Đảng, theo cách mạng, về những truyền thuyết xa xưa của dân tộc. Rồi chuyện về những chuyến đi săn, về cái thuở nai rừng về uống nước ven suối, hổ về bản bắt lợn, cá nhung nhúc dưới suối Nậm Sin... Thoắt đã bao năm rồi, đến nay người dân Chung Chải phải đi bộ cả ngày trời mới có thú nhỏ để săn và cá để bắt. Tết đến cũng là dịp để Trưởng bản răn dạy con cháu, tuyên truyền bà con trong bản chịu thương chịu khó lao động sản xuất, không nghe theo lời kẻ xấu.

Ngày Tết của bà con dân tộc Si La còn vui hơn vì cứ theo thường lệ đến ngày tết các hộ trong bản được cán bộ xã, cán bộ, chiến sỹ đội Công tác biên phòng tại địa bàn, các thầy cô giáo dạy trong bản... đến chia vui và chúc mừng bà con.

Đi khắp bản Nậm Sin, chúng tôi thấy nhà nào cũng bày sẵn mâm cơm, bàn rượu để tiếp khách. Ai đến chúc Tết cũng phải ngồi lại uống với chủ nhà vài ba chén rượu đầu xuân. Người phụ nữ Si La cả ngày ngồi bên bếp lửa, thêu thùa, nấu nướng phục vụ khách đến nhà. Từ những bản láng giềng như Nậm Khum, Đoàn Kết.. nhiều người cũng kéo về Nậm Sin vui Tết.

Cùng nhau say bên chén rượu thơm men lá rừng, thanh niên nam nữ trong bản tổ chức các trò chơi thể thao truyền thống như ném còn, kéo co, hát đối tại trung tâm bản. Đây cũng là dịp để trai, gái tìm hiểu trao đổi tâm tư tình cảm và thầm mong sớm đến ngày “buộc chỉ cổ tay”.

Ở Nậm Sin chưa có nhà văn hoá cộng đồng, nên gia đình trưởng bản Lỳ Trà Che là nơi tập trung gặp gỡ, hội họp của dân bản. Bên mâm cơm giản dị và những chén rượu thơm men lá rừng, chân chất và ấm áp tình người, cuộc vui cứ thế kéo dài đến thâu đêm suốt sáng, sang cả ngày hôm sau.

Đến Chung Chải khi mùa xuân đang về, lại được may mắn ăn Tết cổ truyền của người Si La, tham gia Tết của dân tộc Hà Nhì, chúng tôi được hoà mình vào ngày hội mùa xuân đậm nét văn hóa truyền thống nguyên sơ của đồng bào các dân tộc thiểu số ở miền biên viễn nơi cực Tây của Tổ quốc. Càng gần đến những ngày Tết cổ truyền, làng nghề bánh đa nem Cầu Bố (phố Quang Trung 1 và Quang Trung 2), phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa như càng sôi động hơn. Bánh đa nem Cầu Bố đã từ lâu được nhiều người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh biết đến.

Chỉ còn hơn 2 tháng nữa là đến Tết Nguyên đán, vì thế thời gian này đang là thời điểm làng nghề bánh đa nem “vào vụ” sản xuất chính. Đến phố Quang Trung 2, chúng tôi như bị cuốn hút bởi không khí lao động với tác phong công nghiệp của những người làm nghề truyền thống nơi này. Mỗi nhà có tới hàng trăm phên trành phơi bánh trắng tinh bày la liệt ra sân, gác lên mái nhà, ngoài vườn... nghĩa là tận dụng tối đa những chỗ nào còn trống để phơi bánh cho kịp gom hàng xuất bán. Một số hộ mà chúng tôi ghé thăm cho biết vào những ngày giáp Tết có hộ thu nhập đạt hơn 200 ngàn đồng/ngày. Nhiều hộ giàu lên từ làm nghề tráng bánh đa nem, xây được nhà, mua sắm phương tiện sinh hoạt trong gia đình, chi phí học hành cho các con... Không ít hộ gia đình nơi đây đã “bứt phá” từ nghề làm bánh đa nem.



Độc đáo trang phục nữ dân tộc Si La

http://www.baodienbienphu.com.vn/images_upload/small_13332.jpg

Áo của phụ nữ Si La thường được may bằng vải đen, cổ áo dời, xung quanh cổ áo được viền hai dải vải xanh và đỏ. Đường khâu ghép giữa cổ và thân áo bằng chỉ màu và được khâu nổi để trang trí. Ở thân áo phía trước, dọc theo tà áo có táp thêm một mảnh vải hình tam giác tạo cho chiếc áo có hình dáng như xẻ nách. Mỗi chiếc áo thường đính 3 cúc bạc để cài 2 thân trước với nhau. Trên hình tam giác có đính từ 20 – 30 đồng xu bằng bạc hoặc kim loại để trang trí. Phần tay và gấu áo thường được ghép các đường vải màu xanh, đỏ hay trắng. Việc ghép vải nơi cổ, gấu, tay áo và trang trí đồng xu bạc trước ngực tạo cho áo phụ nữ Si La nét đặc trưng khá nổi bật.

Ở người Si La, phụ nữ đã có chồng, con thường dùng yếm. Yếm được trang trí các đồng xu bạc bên viền nẹp. Khi sử dụng, người ta vòng 2 dây ra sau lưng và buộc lại sao cho phần đuôi to bản của dây buông xuống để trang điểm phía sau. Váy của phụ nữ Si La thường là vải đen, cạp váy có thêu hoa văn hình răng cưa bằng chỉ màu vàng, xanh.

Độc đáo trong trang phục nữ dân tộc Si La còn phải kể đến khăn đội đầu. Từ xưa, người Si La đã có những quy định khá khắt khe trong việc đội khăn theo từng lứa tuổi. Ví dụ, thiếu nữ thì buộc tóc sau gáy rồi quấn khăn trắng khâu bằng chỉ đỏ, xanh quanh bím tóc; khăn đội đầu của phụ nữ đã có con là màu đen, được làm bằng vải xanh, đen; nếu sinh con gái hay trai đều có cách đội khăn khác nhau.

Hiện nay, trang phục truyền thống thường chỉ được phụ nữ Si La mặc trong các ngày lễ, tết còn ngày thường họ mặc áo sơ mi và váy theo kiểu người Thái.

__Phi*Tuyết__
05-05-2009, 22:01
30. DÂN TỘC SÁN DÌU

http://www.vietnamtourism.com.vn/upload/image/_news/2007530/image/dtoc%20san%20diu%202.jpg

Tên dân tộc: Sán Dìu (Sán Déo, Trại, Trại Ðất, Mán quần cộc).

http://www.phuyen.info.vn/Giaitri/images/090407-binh-ruou.jpg

Dân số: 126.237 người (năm 1999).

Ðịa bàn cư trú: Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Tuyên Quang.

http://www.baovinhphuc.vn/images-upload/article6134.jpg
Hát Soọng Cô của dân tộc Sán Dìu.

Phong tục tập quán:
Ở nhà trệt, mái lợp rạ, tranh hoặc ngói trong từng xóm nhỏ. Thờ cúng tổ tiên, táo quân, thổ thần... Trong một năm có các lễ: Thượng điền, hạ điền, cơm mới, cầu đảo... Cha mẹ quyết định việc cưới xin. Người cha là chủ gia đình. Con theo họ cha, con trai được hưởng gia tài. Nhiều lễ thức trong ma chay.

http://cema.gov.vn/images/cms/cms_9926.jpg

Ngôn ngữ: Ngôn ngữ thuộc nhóm Hán.
Văn hoá: Lối hát đối nam nữ rất phổ biến. Các nhạc cụ: tù và, kèn, trống, sáo, la thanh. Các trò chơi dân tộc: đi cà kheo, đánh cầu lông, đánh khăng, kéo co.

Nhà cửa
Người Sán Dìu ở nhà đất. Nhà của dân tộc này không có những đặc trưng riêng. Có lẽ vì vậy mà người Sán Dìu đã tiếp thu mẫu nhà của người Kinh khá dễ dàng.


Trang phục: Mặc gần giống người Kinh.
Kinh tế: Làm ruộng lúa, chăn nuôi, khai thác lâm sản, đánh cá, làm gạch ngói, rèn, đan lát,... Sử dụng chiếc xe quệt (không bánh) dùng trâu kéo để vận chuyển. Ðồ giải khát thông thường là nước cháo loãng.

http://tour.hivietnam.vn/images/image_manager/cat0/8b31692e4d5a02cd50851920839f059b_sandiu_trangphuc. jpg



HÁT SOỌNG - CÔ DÂN TỘC SÁN DÌU


Soọng-cô là dân ca của đồng bào dân tộc Sán Dìu. Hát Soọng-cô chủ yều là phần hát đối đáp giao duyên. Sau đó là phần hát trong đám cưới, Soọng-cô được hát theo sách, có bài bản sẵn. Người đi hát phải thuộc sách hát. Họ dẫn câu hát trong sách ra để hát đố. Người đáp cũng nhờ thuộc sách mà trích ra những câu hợp cảnh hợp tình để hát đáp câu hỏi.

http://www.vinhphuc.gov.vn/uPortal/gioithieu/gtvp/vanhoa/images/Hatsoongco.gif

Mỗi đêm hát đều có các bước: Chập tối hát giọng, mời ngồi xuống chiếu, mời nước mời trầu. Nửa đêm là hát hỏi: Hỏi về quê quán, gia sự, hát thăm dò tìm hiểu nghề nghiệp, ý nguyện của nhau,… canh ba chủ nhà mời ăn lót dạ xôi hoặc chè cháo, sau đó là hát chào, hát xin về, hát níu giữ nhau. Sáng ra thì họ vừa tiễn nhau ra cổng, vừa hát hẹn hò cuộc hát tới.



Khi hát không được đùa cợt, không vì phục tại, cảm thông, yêu mà tách ra đưa nhau đi tỏ tình riêng. Nếu ưng nhau, thì gặp nhau sau để rồi lựa tìm ông mai mối (Mu Nhin) mối manh cho mình. Các cặp vợ chồng sau đó coi ông bà Mu Nhin như cha mẹ đẻ, sống tết, giỗ chết. Ông bà Mu Nhin qua đời, cặp vợ chồng phải có một con lợn đến làm ma.



Hát đáp đối hát theo giọng ví kể nể gọi là hát cọc. Hát đám cưới thường là hát du. Giọng du dài, nếu một từ hát cộc kể ra rồi bắt ngay sang từ khác nhưng hát du thì du đi du lại ngân nga luyến láy điệp khúc kéo dài đến dăm bẩy lần hát cộc. Soọng - cô trong đám cưới thường do các cặp nam giới đối đáp nhau, nhà trai cử hai anh, nhà gái cử hai anh. Hát giọng du thì song ca, hát cộc thì đơn ca. Mở đầu cuộc hát cưới là cặp hát nhà trai hát chào ông bà chủ, chào cô, dì, chú, bác, chào bà con anh em, trước hết là bàn thờ tổ tiên. Khi tốp nhà trai hát, tốp nhà gái hát đáp lại từng câu, từng bài. Khi hai họ ăn uống họ vẫn hát, mừng cho khách ăn uống no say. Hát suốt ngày suốt đêm cho đến khi tan cưới.
(vinhphuc.gov.vn)

__Phi*Tuyết__
09-05-2009, 08:29
31. DÂN TỘC PU PÉO

http://www.vietnamtourism.com/connect/viewanh_t.asp?fileid=3335

Tên dân tộc: Pu Péo (Ka Beo, Pen Ti Lô Lô).

Dân số: 705 người (năm 1999).

Ðịa bàn cư trú: Hà Giang.

Phong tục tập quán:
Ở nhà trệt, sống tập trung thành từng nhóm nhỏ bên cạnh người Hoa, Mông. Mỗi dòng họ có tên đệm riêng. Con cái lấy họ cha, người cha là chủ nhà. Người Pu Péo coi trọng thờ cúng tổ tiên. Trên bàn thờ thường đặt những hũ sành nhỏ, mỗi hũ tượng trưng cho một đời.

http://www.vietnamtourism.com/connect/viewanh_t.asp?fileid=3337
Lấy nước đầu năm-Phong tục của người Pu Péo

Ngôn ngữ:
Ngôn ngữ thuộc nhóm Kadai.

Văn hoá:
Dân tộc Pu Péo là một trong số ít dân tộc còn sử dụng trống đồng, trống "đực" và "cái" được ghép với nhau thành cặp. Có các ngày lễ: lễ cưới hỏi, ma chay, cầu an, Tết Nguyên Đán, tết mùng 5 tháng 5...

Trang phục:
Nữ dùng khăn, váy, áo, tạp dề, sử dụng kỹ thuật can đáp vải khác màu để có hoa văn sặc sỡ. Nam mặc như các dân tộc khác quanh vùng.

http://cema.gov.vn/images/uploaded/pupe1.jpg
Chiếc váy của người phụ nữ Pu Péo đẹp bởi cách trang trí ở dưới gấu bằng những mép vải màu hình vuông, tam giác cắt đắp thành dải.

Kinh tế:
Làm nương, ruộng nương, trồng ngô, lúa, lúa mạch, đậu. Sử dụng cày bừa trâu bò làm sức kéo. Bữa ăn hàng ngày là bột ngô đồ chín.

Phương tiện vận chuyển: Phổ biến dùng gùi đeo lưng.

Các quan hệ xã hội: Người Pu Péo tồn tại song song hai loại dòng họ. Một loại gọi theo tên bằng chữ Hán, đọc theo cách phiên âm của địa phương như Củng, Tráng, Phù... được sử dụng chính thức trong các giấy tờ. Một loại họ khác cổ hơn, thể hiện mối dây liên lạc máu mủ giữa các thành viên của dòng họ, mỗi dòng họ như thế thường gồm một cặp như Kacung - Kacăm, Karảm - Kachâm, Karu - Karựa, Ka bu - Ka bởng.

Lịch: Sử dụng lịch 12 con vật, khớp với âm lịch.

Văn nghệ: Hát đám cưới xin dâu giữa nhà trai và nhà gái suốt 3-4 giờ trở thành một sinh hoạt văn nghệ rất độc đáo. Ðám cưới là dịp để trai gái ca hát, vui chơi.

Cưới xin: Cưới xin có nhiều bước. Hôm đón dâu, phù dâu phải cõng cô dâu ra khỏi cổng để theo đoàn nhà trai về. Trong bữa cơm cúng tổ tiên, thức ăn để trên nong, cả nhà cùng dâu rể phải ăn bốc. Lễ lại mặt tiến hành nhiều lần, sau ngày cưới 3,7, 13, 30 ngày.

http://cema.gov.vn/images/uploaded/pupe2.jpg
Cách vấn tóc thành búi ở trán và cài bằng chiếc lược gỗ là một đặc trưng văn hoá Pu Péo.

Sinh đẻ: Quan niệm phổ biến về ảnh hưởng to lớn của bà mụ tới con trẻ từ thai nhi cho đến tuổi 13. Sản phụ đẻ trong căn buồng riêng của mình. Nhau đẻ chôn trong ống tre dưới gầm giường hoặc bọc vào chiếu cũ để lên cành cây trên rừng. Con trai đặt tên sau 5 ngày. Trong thời gian chưa đặt tên cho con, bố chỉ được quanh quẩn trong nhà, ra khỏi nhà phải đội nón. Tên này được dùng cho đến 13 tuổi, sau đó đặt tên theo tiếng Quan hoả cùng với tên đệm chung, như họ Củng có 18 tên đệm, họ Tráng 7 tên.

Ma chay: Có lễ làm ma và lễ làm chay hay còn gọi là ma khô. Khi bố mẹ chết, người ta đặt nghiêng hũ thờ trên bàn thờ tổ tiên biết cho tổ tiên biết có người chết và chậm nhất 13 ngày sau khi chôn phải làm lễ dựng lại hũ thờ này. Trong những ngày còn quàn trong nhà, cơm nước không được nấu ở bếp chính mà kê đá làm bếp ở gian giữa nhà. Mỗi bài cúng của thầy cúng đều có nội dung riêng liên quan đến nhiều truyền thuyết lịch sử của người Pu Péo, đưa hồn về quê cũ. Người ta cắm Ta leo trước cửa ngăn ma vào nhà, sau khi khiêng quan tài ra khỏi cửa và đốt lửa ngoài sân đun nước rửa chân tay trước khi vào nhà, sau lễ đưa đám.



Lễ hội cúng thần rừng của dân tộc Pu Péo


Nhằm bảo tồn, phát huy bản sắc các dân tộc Việt Nam và được sự hỗ trợ của Dự án phát triển dân tộc Pu Péo giai đoạn 2005-2010, ngày 8.7, Ban Dân tộc tỉnh phối hợp với UBND huyện Đồng Văn, UBND xã Phố Là tổ chức Lễ hội cúng thần rừng tại thôn Chúng Trải, xã Phố Là (Đồng Văn).


http://a8.vietbao.vn/images/vn888/KHUE/small7779.jpg
Thanh niên xã Phố Là tham gia thi đấu thể thao tại Lễ hội.


Lễ hội cúng thần rừng của dân tộc Pu Péo có từ lâu đời, tồn tại và phát triển cùng với nhiều thế hệngười Pu Péo; là sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng dân gian, gắn với đời sống triết lý đa thần của cư dân nông nghiệp như: Thần suối, thần sông, thần núi, thần rừng, thần cây... đã tạo ra sắc thái văn hóa riêng trong đời sống cộng đồng. Lễ hội không những có giá trị sâu sắc về tinh thần mà còn khẳng định vai trò, vị trí của cộng đồng gắn với thiên nhiên. Hòa đồng cùng thiên nhiên, tôn trọng, bảo vệ thiên nhiên, coi rừng là bạn, gắn bó với rừng, bảo vệ rừng đã trở thành ý thức chung của cộng đồng người Pu Péo, được thể hiện ở từng gia đình, làng bản và cũng từ đó rừng sinh thủy phục vụ đời sống, sản xuất, cải tạo môi sinh và có giá trị trong thực tiễn cộng đồng. Mỗi khu rừng thiêng được người dân bảo vệ chăm sóc không những mang lại giá trị vật chất, tinh thần cho cộng đồng làng bản mà còn góp phần bảo vệ, phát triển môi trường sinh thái chung.

Trong thời gian một ngày, với không khí tưng bừng, đoàn kết của các dân tộc trong xã, phần lễ đã được các nghệ nhân dân gian dân tộc Pu Péo thực hiện nghiêm túc, đảm bảo những yêu cầu cơ bản theo phong tục tập quán truyền thống của Lễ cúng thần rừng. Phần hội được toàn thể nhân dân trong xã tham gia hưởng ứng sôi nổi. Với những nội dung thi đấu các môn thể thao truyền thống như đẩy gậy, kéo co, đánh yến, chơi “ào”, nhảy cóc đã thu hút đông đảo bà con các dân tộc trong xã tham gia. Ngoài ra, còn có chương trình múa hát các làn điệu dân ca, hát đối đáp, giao duyên được các nghệ nhân dân gian của xã trình bày, thể hiện được cuộc sống hàng ngày của bà con dân tộc Pu Péo xã Phố Là.

Nhân dịp này, đồng chí Mai Ngọc Hướng, Phó Ban Dân tộc tỉnh, Trưởng Ban tổ chức Lễ hội cúng thần rừng và lãnh đạo huyện Đồng Văn đã trao giải thưởng cho các vận động viên tham gia các môn thi đấu thể thao và các nghệ nhân tham gia Lễ hội.

Minh Tâm

Vietbao(Theo_Báo Hà Giang)

__Phi*Tuyết__
12-05-2009, 09:24
32.DÂN TỘC SÁN CHAY

http://vnexplore.net/files/dantoc_sanchay.jpg


Tên gọi khác

Cao Lan, Sán Chỉ, Mán Cao Lan, Hờn Bận

Lịch sử: Người Sán Chay từ Trung Quốc di cư sang cách đây khoảng 400 năm.

Nhóm ngôn ngữ:Tày – Thái

Dân số: 114.000 người.

Cư­ trú: Sống ở Tuyên Quang, Bắc Thái, Hà Bắc, rải rác ở các tỉnh: Quảng Ninh, Yên Bái, Lạng Sơn, Vĩnh Phú.

Đặc điểm kinh tế:
Người Sán Chay làm ruộng nước là chính, nông nghiệp đóng vai trò quan trọng.

Tổ chức cộng đồng: Làng xóm thường tập trung một vài chục gia đình, sống gắn bó bên nhau.

Hôn nhân gia đình:Dân tộc Sán Chay có nhiều họ, mỗi họ chia ra các chi. Từng họ có thể có một điểm riêng biệt về tập tục. Mỗi họ thờ "h­ương hỏa" một thần linh nhất định. Trong gia đình người Sán Chay, người cha là chủ nhà. Tuy nhà trai tổ chức c­ưới vợ cho con như­ng sau cư­ới, cô dâu lại về ở với cha mẹ đẻ, thỉnh thoảng mới về nhà chồng, cho đến khi mang thai mới về hẳn với chồng.

Phương tiện vận chuyển: Người Sán Chay thường đeo chiếc túi lưới ở sau lưng theo kiểu đeo ba lô.

Văn hóa
Dân tộc Sán Chay có nhiều truyện cổ, thơ ca, hò, vè, tục ngữ, ngạn ngữ. Đặc biệt sinh ca là hình thức sinh hoạt văn nghệ phong phú hấp dẫn nhất của người Sán Chay. Các điệu múa Sán Chay có: múa trống, múa xúc tép, múa chim câu, múa đâm cá, múa thắp đèn... Nhạc cụ cũng phong phú, gồm các loại thanh la, não bạt, trống, chuông, kèn... Vào ngày hội đình, hội xuân, tết nguyên đán... đồng bào Sán Chay vui chơi giải trí, có những trò diễn sôi nỗi nh­ư: đánh quay, "trồng cây chuối", "vặn rau cải", tung còn...

http://cema.gov.vn/images/uploaded/sanchay2.jpg
Bàn thờ của người Sán Chay khá đơn sơ, nhiều khi chỉ là một ống tre để cắm hương. Nhưng hàng năm đến trước tết Nguyên Ðán các bàn thờ được quét dọn và dán lên một mảnh giấy đỏ.


Nhà cửa
Nói là nhà Cao Lan, như­ng đây chỉ là của một nhóm nhỏ ở Sơn Động - Hà Bắc. Nhà của người Cao Lan ở các địa phư­ơng khác cũng nh­ư nhà của người Sán Chỉ có nhiều nét gần với nhà Tày - Nùng. Riêng nhóm Cao Lan ở Sơn Động nhà cửa của họ có những nét rất độc đáo, chúng tôi không thấy giống bất kỳ nhà cửa của một dân tộc nào khác trong nước. Nhà sàn, vách che sát đất, xa trông tư­ởng là nhà đất. Bộ khung nhà với vì kèo kết cấu đơn giản như­ng rất vững chắc. Có hai kiểu nhà là : "nhà trâu đực" và "nhà trâu cái". Nhà trâu cái vì kèo bốn cột. Nhà trâu đực vì kèo ba cột. Về tổ chức mặt bằng sinh hoạt giữa nhà trâu cái và trâu đực đều có những nét t­ương tự như­ vậy là để phân biệt nhà trâu cái và nhà trâu đực chỉ là ở vì kèo khác nhau. Cao Lan là một bộ phận của dân tộc Sán Chay. Cao Lan tiếng nói gần giống tiếng Tày.

http://cema.gov.vn/images/uploaded/sanchay3.jpg
Nhà sàn là ngôi nhà truyền thống của nhiều dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái.
Nhà của người Sán Chay thương quay lưng lên đồi phía trước
nhìn ra ruộng và xung quanh là vườn cây lưu niên.

Trang phục
Hiện nay trang phục của người Sán Chay thường giống người Kinh hoặc người Tày. Thường ngày phụ nữ Sán Chay dùng chiếc dây đeo bao dao thay cho thắt l­ưng. Trong những dịp lễ tết, hội hè, các cô gái thường thắt 2-3 chiếc thắt l­ưng bằng lụa hoặc bằng nhiễu, với những màu khác nhau.

http://cema.gov.vn/images/uploaded/sanchay1.jpg
Bộ nữ phục truyền thống của Sán Chay bao gồm váy, áo, yếm, thắt lưng và khăn. Chiếc áo uyên ương mà họ gọi là pù đăn đinh có trang trí hoa văn ở lưng áo và hò áo. Loại hoa văn thường thấy là ngôi sao 8 cánh.

__Phi*Tuyết__
16-05-2009, 08:18
33. DÂN TỘC RƠ MĂM

http://www.binhthuan.gov.vn/khtt/datnuoc/0002/images/DTV44103.gif

Nhóm ngôn ngữ
Môn - Khmer
Dân số
230 người.

Cư trú
Sống ở làng Le, xã Mo Rai, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum

Đặc điểm kinh tế
Người Rơ Măm sinh sống bằng nghề làm rẫy, lúa nếp là lương thực chủ yếu. Khi gieo trồng, đàn ông cầm hai gậy nhọn chọc lỗ, đàn bà theo sau bỏ hạt giống và lấp đất, săn bắt và hái lượm vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế. Trong số các nghề phụ gia đình, nghề dệt vải phát triển nhất nhưng ngày nay đã suy giảm vì đồng bào đã quen dùng các loại vải công nghiệp bán trên thị trường.

Tổ chức cộng đồng
Đơn vị cư trú của người Rơ Măm là đê (làng), đứng đầu là một ông già trưởng làng do dân tín nhiệm. Làng Le của người Rơ Măm nay chỉ còn khoảng 10 ngôi nhà ở, có cả nhà rông. Mỗi nhà có từ 10 đến 20 người gồm các thế hệ, có quan hệ thân thuộc với nhau. Các cặp vợ chồng dù vẫn sống chung dưới một mái nhà, nhưng đã độc lập với nhau về kinh tế.

Hôn nhân gia đình
Việc cưới xin của gia đình Rơ Măm gồm 2 bước chính: ăn hỏi và lễ cưới. Sau lễ cưới vài ba ngày, vợ chồng có thể bỏ nhau, nhưng khi đã sống với nhau lâu hơn thì họ không bỏ nhau.

http://cema.gov.vn/images/uploaded/Roma2.jpg
Khi nuôi con, đặc biệt lúc địu con đi xa, những phụ nữ Rơ Măm đeo trên đầu chiếc vòng có tác dụng trừ tà ma, theo quan niệm của họ. Trên chiếc vòng, ngoài các chùm chỉ màu, những quả lục lạc nhỏ bằng đồng, còn có một củ tham hụi mầu vàng, được gia đình trồng trên rẫy.

Tục lệ ma chay
Khi có người chết, sau 1-2 ngày đưa đi mai táng. Nghĩa địa nằm về phía Tây của làng, các ngôi mộ được sắp xếp có trật tự, khi chôn, tránh để người dưới mộ "nhìn" về phía làng. Người Rơ Măm không bao giờ làm nghĩa địa phía Đông, vì sợ cái chết sẽ "đi" qua làng như hướng đi của mặt trời.

http://cema.gov.vn/images/uploaded/Roma3.jpg
Nét tiêu biểu trong kiến trúc nhà mồ truyền thống của người Rơ Măm là hình tượng những cặp ngà voi, được đẽo gọt công phu, trên đỉnh 4 cây cột dựng ở góc nhà mồ.

Nhà cửa
Nhà ở đều có hành lang chính giữa, chạy suốt chiều dài sàn, ở trung tâm nhà có một gian rộng là nơi tiếp khách và diễn ra các sinh hoạt văn hóa nói chung của các gia đình.

http://cema.gov.vn/images/uploaded/Roma1.jpg
Cho dù những ngôi nhà kiểu cũ không còn nữa, nhưng hàng năm các cột nêu ngày lễ đâm trâu, cái nọ tiếp cái kia vẫn đang và sẽ còn mọc lên với hàng cột vượt lên trên chiều cao của mái nhà, những hàng cây. Ðó là sự kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại ở làng Le của người Rơ Măm hôm nay.

Trang phục
Có phong cách riêng trong tạo dáng và trang trí trang phục, đặc biệt là trang phục nữ. Người Rơ Măm có tục "cà răng, căng tai". Đến tuổi trưởng thành, trai gái đều cưa cụt 4 hay 6 răng cửa hàm trên. Hiện nay lớp trẻ đã bỏ tục này. Phụ nữ thích đeo khuyên, hoa tai, vòng tay và đeo những chuỗi cườm ở cổ.

+ Trang phục nam
Nam cắt tóc ngắn ở trần, đóng khố. Vạt trước khố dài tới gối, vạt sau dài tới ống chân. Khố thường dùng màu trắng nguyên của vải mộc. Lưng được xăm hoa văn kín, nhất là những người cao tuổi. Trai gái đến tuổi thành niên phải cưa răng ở hàm trên (4 hoặc 6 chiếc).

+ Trang phục nữ
Phụ nữ thường để tóc dài búi sau gáy. Aáo là loại cộc tay vai thẳng (không khoét cổ như Brâu), thân thẳng, hình dáng gần vuông giống áo Brâu. Aáo màu sáng (màu nguyên của sợi bông) các đường viền cổ và cửa tay cộc màu đỏ. Gấu áo có dải băng trang trí (cao 1/4 thân áo) bằng màu đỏ, hoa văn hình học. Váy là loại váy hở màu trắng nguyên sợi bông. Bốn mép váy và giữa thân váy có các đường viền hoa văn màu đỏ với mô típ hoa văn hình học và sọc ngang. Họ thường đeo hoa tai vòng to, nặng xệ xuống. Người khá giả đeo hoa tai bằng ngà voi, người nghèo đeo hoa tai bằng gỗ. Vòng tay là loại bằng đồng nhiều xoắn. Lý do được chọn của trang phục Rơ Măm chính là màu sắc và phong cách trang trí áo, váy phụ nữ.

__Phi*Tuyết__
17-05-2009, 22:21
34. DÂN TỘC PÀ THẺN


Tên dân tộc: Pà Thẻn (Pà Hưng, Tống).
Dân số: 5.569 người (năm 1999).
Ðịa bàn cư trú: Hà Giang, Tuyên Quang.


Phong tục tập quán:
Ở nhà sàn, nhà nền đất và nhà nửa sàn nửa đất. Thờ cúng tổ tiên trong nhà, thờ thổ công, cúng cơm mới, cúng cầu mưa, cúng hồn sung... Người trong cùng dòng họ không được lấy nhau. Có tục ở rể tạm thời, nếu gia đình không có con trai mới lấy rể về ở hẳn. Người ở rể phải thờ ma họ vợ. Con cái một nửa theo họ bố, một nửa theo họ mẹ.Ngôn ngữ: Ngôn ngữ thuộc nhóm Mông - Dao.

http://vnexplore.net/files/dantoc_pathen.jpg

Văn hoá: Văn hoá dân gian khá phong phú như: có kho tàng truyện cổ tích, các làn điệu dân ca, hát ru, các điệu múa, các loại nhạc cụ (khèn bè, đàn tày nhậy, sáo trúc...).

http://www.vietnamtourism.com.vn/upload/image/_news/2007530/image/dtoc%20pa%20then1.jpg

Trang phục: Trang phục rực rỡ. Nam giới mặc áo cánh, quần dài, đầu quấn khăn. Nữ giới mặc váy dài, áo, yếm, khăn đội đầu với nhiều hoa văn trang trí, đeo vòng trang sức bằng bạc.

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/5/5e/Pa_Then.JPG/250px-Pa_Then.JPG

Kinh tế: Làm nương rẫy, trồng lúa và ngô.



Lễ hội nhẩy lửa của dân tộc Pà Thẻn

http://i96.photobucket.com/albums/l187/nguyentuongvan/anh%20le%20hoi/DSC00012-5.jpg?t=1202738642
Thầy cúng bắt đầu làm lễ
Đến nơi vào lúc gần 7h tối tại viện bảo tàng dân tộc . Tôi đã thấy lửa được đốt một đống rất to . Chen chúc mãi mới len được vào vòng dây thừng , nhận ra phỏm quen thế là cùng nhau giơ máy bắt hình. Được nghe đã lâu về tục nhẩy lửa của người dân tộc Pà Thẻn từ xã Tân Lập, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang đến Hn .

http://i96.photobucket.com/albums/l187/nguyentuongvan/anh%20le%20hoi/DSC00017-2.jpg?t=1202739023
Nhập đồng cùng thầy cúng

Đây là một lễ hội độc đáo, mang đậm nét huyền bí hoang sơ của người Pà Thẻn. Lễ hội này được coi như lễ mừng lúa mới, cầu cúng thần linh ,bắt đầu vào giữa tháng 10 âm lịch và kéo dài qua Tết Nguyên đán. Cứ đến 30 tết khoảng 7h tối họ tập trung nhau lại trong một bãi đất rộng của bản cùng thầy cúng làm lễ và nhập đồng . Cả thầy cúng và khoảng 7 thanh niên ngồi người cứ giật theo tiếng gõ nhịp và tiếng khấn của thầy cúng. Đựoc biết trước 3 ngày những người nhẩy vào lửa này phải kiêng rượu , thuốc , quan hệ vợ chồng và bạn tình.

http://i96.photobucket.com/albums/l187/nguyentuongvan/anh%20le%20hoi/DSC00009-2.jpg?t=1202739147
Đồ cúng

Lễ vật cúng tế gồm có một bát hương, một chiếc đàn sắt, một con gà, đĩa xôi đỗ đen 10 chén rượu, tiền giấy. Một đống lửa lớn được đốt lên và thầy mo bắt đầu làm lễ. Thời gian làm lễ kéo dài 1-2 giờ đồng hồ trước khi lễ hội bắt đầu. Khi thầy mo gõ vào chiếc đàn sắt nhanh và người giật nhanh thì những người thanh niên này bắt dầu rời vị chí chuyển động theo thế nhẩy cóc và họ lao nhanh vào giữa đóng lửa dùng chân tay hất tung lửa và than ra xung quanh . Một người có thể tham gia nhảy nhiều lần, qua đó thể hiện sức mạnh, lòng dũng cảm. Tiếng hò reo , trầm trồ không ngớt trong lòng những người tham dự lễ hội

http://i96.photobucket.com/albums/l187/nguyentuongvan/anh%20le%20hoi/DSC00020-2.jpg?t=1202739409
Nhảy Lửa
http://vtc.vn/newsimage/original/vtc_252974_77777.jpg

Hiện nay, tại các bản làng của người Pà Thẻn, lễ hội nhảy lửa vẫn được gìn giữ nguyên sơ. Là phong tục k thể thể thiếu trong đời sống tâm linh của họ. Lửa mang lại cho họ sự no ấm , mùa màng tươi tốt .

(Theo diendanvanhoathethao.net)

LSB-Sun
03-03-2010, 11:24
Thấy topic này rất hay nhưng Phi Tuyết dừng đã lâu nên Sun mạn phép xin được tiếp tục. Có thể không được đầy đủ như Phi Tuyết nên mọi người thông cảm cho.

Theo số liệu thống kê năm 2000 Việt Nam có 54 dân tộc. Dân tộc đông nhất là dân tộc Kinh (Việt), chiếm 87% dân số. Các dân tộc thiểu số đông dân nhất: Tày (1.190.000), Thái (1.040.000), Mường (914.000), Hoa (900.000), Khmer (895.000), Nùng (706.000), Hmông (558.000), Dao (474.000), Giarai (242.000), Êđê (195.000). Những dân tộc còn lại có dân số dưới 100.000 người, một nửa trong số đó có dân số dưới 10.000 người. Đa số các dân tộc này sống ở miền núi và vùng sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Cuối cùng là các dân tộc Brâu, Ơ đu và Rơ Măm chỉ có khoảng vài trăm người.

Sống trên mảnh đất Đông Dương - nơi cửa ngõ nối Đông Nam Á lục địa với Đông Nam Á hải đảo, Việt Nam là nơi giao lưu của các nền văn hóa trong khu vực. Ở đây có đủ 3 ngữ hệ lớn trong khu vực Đông Nam Á, ngữ hệ Nam đảo và ngữ hệ Hán - Tạng. Tiếng nói của các dân tộc Việt Nam thuộc 8 nhóm ngôn ngữ khác nhau.

Nhóm Việt - Mường có 4 dân tộc là: Chứt, Kinh (Việt), Mường, Thổ.

Nhóm Tày - Thái có 8 dân tộc là: Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Sán Chay, Tày, Thái.

Nhóm Môn-Khmer có 21 dân tộc là: Ba Na, Brâu, Bru-Vân Kiều, Chơ Ro, Co, Cơ Ho, Cơ Tu, Giẻ Triêng, Hrê, Kháng, Khmer, Khơ Mú, Mạ, Mảng, M'Nông, Ơ đu, Rơ Măm, Tà Ôi, Xinh Mun, Xơ Đăng, Xtiêng.

Nhóm Mông - Dao có 3 dân tộc là: Dao, Mông, Pà thẻn.

Nhóm Kađai có 4 dân tộc là: Cờ lao, La chí, La ha, Pu péo.

Nhóm Nam đảo có 5 dân tộc là: Chăm, Chu Ru, Ê đê, Gia Rai, Raglay.

Nhóm Hán có 3 dân tộc là: Hoa, Ngái, Sán dìu.

Nhóm Tạng có 6 dân tộc là: Cống, Hà Nhì, La hủ, Lô lô, Phù lá, Si la.

Mặc dù tiếng nói của các dân tộc thuộc nhiều nhóm ngôn ngữ khác nhau, song do các dân tộc sống rất xen kẽ với nhau nên một dân tộc thường biết tiếng các dân tộc có quan hệ hàng ngày, và dù sống xen kẽ với nhau, giao lưu văn hóa với nhau, nhưng các dân tộc vẫn lưu giữ được bản sắc văn hóa riêng của dân tộc mình. ở đây cái đa dạng của văn hóa các dân tộc được thống nhất trong qui luật chung - qui luật phát triển đi lên của đất nước, như cái riêng thống nhất trong cái chung của cặp phạm trù triết học.

LSB-Sun
03-03-2010, 12:06
35. DÂN TỘC KINH

http://i815.photobucket.com/albums/zz75/lsb-sun/Nonla2.jpg

Tên gọi khác: Việt

Dân số: 55.900.224 người, chiếm 86,83% dân số toàn quốc.

Ngôn ngữ: Người Việt có tiếng nói và chữ viết riêng. Tiếng Việt nằm trongnhóm ngôn ngữ Việt Mường (ngữ hệ Nam Á).

Lịch sử: Tổ tiên người Việt từ rất xa xưa đã định cư chắc chắn ở Bắc bộ và bắc Trung bộ. Trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam, người Việt luôn là trung tâm thu hút và đoàn kết các dân tộc anh em xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Cư trú: Người Kinh cư trú khắp tỉnh, nhưng đông nhất là các vùng đồng bằng và thành thị.

Đặc điểm kinh tế:

Nông nghiệp lúa nước đã được hình thành và phát triển ở người Việt từ rất sớm. Trải qua bao đời cày cấy, ông cha ta đã tổng kết kinh nghiệm làm ruộng rất sâu sắc: "Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống". Hệ thống đê điều kì vĩ ngày nay là sự chứng minh hùng hồn tinh thần ngoan cường chế ngự tự nhiên để sống và sản xuất nông nghiệp của ông cha ta. Chăn nuôi lợn, gia súc, gia cầm, thả cá... cũng rất phát triển. Ðặc biệt con trâu trở thành "đầu cơ nghiệp" của nhà nông. Người Việt nổi tiếng "có hoa tay" về nghề thủ công nghiệp, phát triển bách nghệ - trăm nghề mà nghề nào dường như cũng đạt đến đỉnh cao của sự khéo léo tài hoa. Không ít làng thủ công đã tách khỏi nông nghiệp. Chợ làng, chợ phiên, chợ huyện... rất sầm uất. Hiện nay, các đô thị và các khu công nghiệp đang ngày càng phát triển trong tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.

Tổ chức cộng đồng:

http://i815.photobucket.com/albums/zz75/lsb-sun/untitled.jpg

Làng truyền thống có trật tự, kỷ cương. Ðằng sau luỹ tre xanh và cổng làng là một cộng đồng tương đối khép kín.

Ðại bộ phận người Việt sinh sống thành từng làng, dăm ba làng họp lại thành một xã.

Làng người Kinh thường trồng tre bao bọc xung quanh, nhiều nơi có cổng làng chắc chắn. Mỗi làng có đình là nơi hội họp và thờ cúng chung.
Nhiều xã cũng chỉ bao gồm một làng lớn và một số xóm độc lập mới tách ra từ làng lớn. Trong làng thường có nhiều xóm, có xóm lớn tương đương với thôn và thôn Bắc bộ gần tương tự như một ấp của Nam bộ. Trước Cách mạng tháng Tám, mỗi làng có một tổ chức hành chính - tự quản riêng khá chặt chẽ. Tổ chức Phe Giáp làm nơi quy tụ của dân làng để lo toan nhiều công việc của làng xã từ quản lý nhân đinh đến việc hiểu, việc tế lễ Thành hoàng. Những làng thủ công còn có tổ chức phường hội của những người cùng nghề nghiệp. Ðặc biệt, trong làng, sự phân chia dân nội tịch và dân ngoại tịch (ngụ cư) được quy định rõ trong Hương khoán ước của làng. Lệ làng được quy định một cách tương đối toàn diện và chặt chẽ về các mặt hoạt động của làng buộc mọi người thừa nhận và tự giác thực hiện.
Người Kinh có tập quán ăn trầu cau, hút thuốc lào, thuốc lá, uống nước chè, nước vối. Ngoài cơm tẻ, cơm nếp, còn có cháo, xôi. Mắm tôm, trứng vịt lộn là món ăn độc đáo của người Kinh.

Hôn nhân gia đình:

Trong gia đình người Kinh, người chồng (người cha) là chủ. Con cái lấy họ theo cha và họ hàng phía cha là "họ nội", còn đằng mẹ là “họ ngoại”. Con trai đầu có trách nhiệm tổ chức thờ phụng cha mẹ, ông bà đã khuất. Mỗi họ có nhà thờ họ, có người trưởng họ quán xuyến việc chung. Hôn nhân theo chế độ một vợ một chồng. Việc cưới xin phải trải qua nhiều nghi thức, nhà trai hỏi vợ và cưới vợ cho con. Người Kinh coi trọng sự trinh tiết, đức hạnh của các cô dâu, đồng thời chú ý đến gia thế xuất thân của họ.

Gia đình của người Việt hầu hết và những gia đình nhỏ gồm 2 thế hệ theo chế độ phụ quyền nhưng phụ nữ vẫn giữ vai trò quan trọng, thường là người quản lý kinh tế trong gia đình.
Người Việt có rất nhiều dòng họ, có những họ rất phổ biến như Nguyễn, Trần, Lê, Phạm, Vũ... dường như địa phương nào cũng có. Mỗi tộc họ, thường có nhà thờ tổ riêng, họ lại chia ra làm nhiều chi phái và mỗi chi phái lại bao gồm nhiều nhánh. Mỗi nhánh lại bao gồm các anh em cùng bố mẹ, ông bà. Quan hệ họ nội được truyền giữ bền chắc qua nhiều đời. Anh em họ hàng (kể cả họ nội và họ ngoại đều yêu thương giúp đỡ lẫn nhau).
Người Việt rất coi trọng tình yêu trong trắng chung thuỷ. Dưới thời phong kiến thường là "cha mẹ đặt đâu còn ngồi đấy", ngày nay nam nữ tự tìm hiểu. Ðể đi đến hôn nhân - thành vợ thành chồng, nghi lễ cưới xin truyền thống ở người Việt phải trải qua mấy bước cơ bản sau:

- Dạm: nhờ một người làm mối đến nhà gái ướm hỏi trước.
- Hỏi: Sắp lễ vật sang thưa chuyện chính thức với gia đình và họ hàng nhà gái.
- Cưới: Tổ chức lễ trình tổ tiên, ra mắt họ hàng làng xóm, tổ chức rước râu về nhà trai.
- Lại mặt: Cô dâu, chú rể về thăm lại nhà bố mẹ đẻ (nhà gái).

Qua các bước này và dĩ nhiên trước đó phải qua đăng ký kết hôn thì đôi trai gái chính thức trở thành cặp vợ chồng mới.

Văn hóa:

Vốn văn học cổ của người Kinh khá lớn: có văn học miệng (truyện cổ, ca dao, tục ngữ), có văn học viết bằng chữ (những áng thơ, văn, bộ sách, bài hịch). Nghệ thuật phát triển sớm và đạt trình độ cao về nhiều mặt: ca hát, âm nhạc, điêu khắc, hội họa, múa, diễn xướng. Hội làng hàng năm là một dịp sinh hoạt văn nghệ rôm rả, hấp dẫn nhất ở nông dân.

Nhà cửa:

- Nhà người Việt miền Bắc: Kiểu nhà ba gian hai chái với vì kèo suốt - giá chiêng - sáu hàng cột là tiêu biểu hơn cả. Cũng có thể là vì kèo chuyền (một biến dạng gần của vì kèo suốt). Tổ hợp hai nhà : nhà chính và nhà phụ kết hợp với nhau theo hình "thước thợ ". Mặt bằng sinh hoạt: gian giữa đặt bàn thờ tổ tiên, phản gỗ (ghế ngựa) dành cho chủ nhà và bàn ghế tiếp khách. Hai gian bên của gian giữa kê giường tủ giành cho các thành viên nam trong nhà. Hai gian chái có vách (đố hoặc tường) ngăn với ba gian giữa. Trong các gian này dành cho sinh hoạt của các thành viên nữ, đồng thời còn là nơi để cất lương thực và các thứ lặt vặt khác. Đó là ngôi nhà chính, còn nhà phụ: một gian hai chái, vì kèo thường đơn giản (vì kèo cầu hoặc vì kèo - ba cột). Nhà này thường là nhà bếp kết hợp làm nơi để nông cụ, cối xay, cối giã, và chuồng trâu...
- Nhà người Việt miền Trung: một kiểu nhà rất phổ biến của người Việt cở miền Trung là nhà rường. Vì kèo bốn cột không có giá chiêng, đặt trên lưng trếng (xà lòng) của hai vì kèo, gian giữa người ta đặt một cái rương dùng làm kho. Yếu tố này chúng ta có thể thấy ở nhà một số cư dân thuộc ngôn ngữ Môn-Khơ me cực nam Trung Bộ : Mạ, Chil. Cơ ho, Xtiêng...Cách bố trí trong nhà có khác nhà miền Bắc đôi chút. Nói đến nhà miền Trung còn phải kể đến một kiểu nhà khá đặc biệt, đó là nhà lá mái. Nhà gồm hai lớp nóc: lớp trong bằng đất, lớp ngoài lợp lá, chủ yếu là để chống gió Lào.

Người Việt thường ở nhà trệt. Trong khuôn viên thường được bố trí liên hoàn nhà - sân - vườn - ao. Ngôi nhà chính thường có kết cấu ba gian hoặc năm gian và gian giữa là gia trang trọng nhất, đặt bàn thời gia tiên. Những gian bên là nơi nghỉ ngơi, sinh hoạt của các thành viên trong gia đình, gian buồng được bố trí ở chái nhà làm chỗ ở của phụ nữ và cũng là nơi cất trữ lương thực, của cải của gia đình. Nhà bếp thường được làm liền với chuồng nuôi gia súc. ở nhiều tỉnh Nam bộ, nhà bếp thường được làm sát kề hay nối kề với ngôi nhà chính. Sân để phơi và để sinh hoạt gia đình và cũng để tạo không gian thoáng mát rất phù hợp với điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm.

Trang phục:

http://i815.photobucket.com/albums/zz75/lsb-sun/jh.jpg

Trang phục truyền thống áo dài cùng khăn đóng (nam) và khăn vấn (nữ) ngày nay vẫn được nhiều người dân Việt ưa dùng, đặc biệt là trong các dịp lễ, tết, cưới hỏi...


- Trang phục nam (xưa)

Trang phục truyền thống áo dài cùng khăn đóng (nam) và khăn vấn (nữ) ngày nay vẫn được nhiều người dân Việt ưa dùng, đặc biệt là trong các dịp lễ, tết, cưới hỏi...

Trang phục thường nhật:Nhìn chung người Việt (Bắc, Trung, Nam), thường ngày mặc áo cách nâu, xẻ ngực, cổ tròn, xẻ tà, hai túi dưới. Đây là loại áo ngắn mặc với quần lá tọa ống rộng. Đó là loại quần có cạp hoặc dùng dây rút. Trước đây nam để tóc dài, búi tó, hoặc thắt khăn đầu rìu, đóng khố...

Trong lễ, tết, hội hè:Nam thường mặc áo dài màu đen, hoặc loại vải the có lót trắng bên trong, đầu đội khăn xếp, quần tọa màu trắng. Đó là loại áo dài, xẻ nách phải không trang trí hoa văn, nếu có chỉ là loại hoa văn dệt cùng màu tinh tế trên vải. Chân đi guốc mộc

- Trang phục nữ (xưa)

Trang phục thường nhật: Phụ nữ miền Bắc và Bắc Trung Bộ thường mặc áo cách ngắn vải nâu phía trong mặc yếm. Đó là loại áo cổ tròn, viền nhỏ, tà mở; nếu mặc với yếm thì thường không cài cúc ngực. Chiếc yếm màu vàng tơ tằm hay hoa hiên, nâu non, là vuông vải mang chéo trước ngực, góc trên khoét tròn hay chữ V để làm cổ. Cổ yếm có dải vải buộc ra sau gáy, dưới có hai dải vải dài buộc sau lương hình chữ nhật hoặc tam giác. Váy là loại váy kín (ống), có nơi mặc ngắn đến ống chân như Bắc và Trung bộ. Thắt lưng là bao lương bằng vải màu (có nơi gọi là ruột tượng) quấn ra ngoài cạp váy. Khi ra đường họ thường mang khăn vuông đội theo lối "mỏ quạ" hoặc các loại nón: thúng, ba tầm... Phụ nữ Nam Bộ thường ngày mặc áo bà ba với các kiểu cổ tròn, cổ trái tim, cổ bà lai. Phụ trang đi kèm với bộ bà ba là chiếc khăn rằn thường có ô vuông xen kẽ hai màu, là loại khăn có nguồn gốc của người Khơ Me mà người Việt đã ảnh hưởng.

Trang phục trong lễ, tết, hội hè: Trong những dịp này phụ nữ Việt thường mang áo dài. Áo dài có hai loại: Loại xẻ ngực buông vạt không cài cúc bên trong thường mặc áo 'cổ xây' cho kín đáo; loại thứ hai là loại áo năm thân, xẻ nách phải cổ đứng. Có loại mặc theo lối vạt đè chéo lên nhau dùng dây lưng buộc ngang thân rồi buông xuống phía trước. Họ thường để tóc dài vấn khăn thành vành tròn quanh đầu, ngoài trùm khăn hoặc đội nón ba tầm, nón thúng. Các thiếu nữ thường vấn tóc đuôi gà. Mùa rét phổ biến quấn trên đầu chiếc khăn vuông màu thâm. Đồ trang sức thường mang là các loại trâm, vòng cổ, hoa tai, nhẫn, vòng tay mang phong cách từng vùng.
Chiếc nón lá có sườn nón gồm những nan tre xếp thẳng dọc và khoảng 16 vòng nan tre xếp tròn đường kính từ nhỏ xíu trên đỉnh nón đến lớn dần theo vành nón. Ngày nay, chiếc nón lá thường được sử dụng trong lớp phụ nữ bình dân và ở vùng nông thôn, vì chức năng của nó phần lớn che nắng cho người lao động vất vả, nên phải chắc bền và tương đối cứng cáp chớ không nhẹ nhàng, mỏng manh như nón lá bài thơ ở Huế.

Ăn:

"Cơm tẻ, nước chè" là đồ ăn, thức uống cơ bản hàng ngày của người Việt. Ðồ nếp chỉ gặp trong những ngày lễ tết. Trong bữa ăn hàng ngày thường có món canh rau hay canh cua, cá... Ðặc biệt người Việt rất ưa dùng các loại mắm (mắm tôm, cá, tép, cáy...) và các loại dưa (cải, hành, cà, kiệu). Tương và các loại gia vị như ớt, tỏi, gừng... cũng thường thấy trong các bữa ăn. Rượu được dùng trong các dịp lễ tết, liên hoan... ¡n trầu, hút thuốc lào trước kia chẳng những là nhu cầu, thói quen mà còn đi vào cả lễ nghi phong tục.

Phương tiện vận chuyển:

Phương tiện vận chuyển của người Việt rất phong phú và có thể phân hai loại như sau:

- Bằng đường bộ có: gánh (gánh quang, gánh cặp, đòn gánh, đòn sóc, đòn càn...) vác, khiêng (đòn khiêng), cáng, đội, đeo (bị, tay nải...), cõng (ba lô, bao tải...). Thồ, chở bằng các loại xe: xe đạp, xe kéo, xe đẩy, xe ngựa, xe trâu, xe bò...
- Bằng đường thuỷ có: thuyền, bè, xuồng, tàu... Mỗi loại này lại có nhiều kiểu dáng, to nhỏ, vật liệu chế tác và trang thiết bị khác nhau.

Ma chay:

Việc tổ chức tang ma của người Việt rất trang nghiêm, chu tất và thường được thực hiện qua các bước cơ bản sau: liệm, nhập quan, đưa đám, hạ huyệt, cúng cơm, cúng tuần "tứ cửu", cúng "bách mật", để tang, giỗ đầu, cải táng... và cứ mỗi độ Thanh Minh, mỗi kỳ giỗ tết, các gia đình lại đi đắp lại mộ và tổ chức cúng lễ. Cải táng là một phong tục rất thiêng liêng của người Việt.

Nhà mới:

Người Việt có câu: "Lấy vợ hiền hoà, làm nhà hướng nam". Nhà hướng nam thì ấm về mùa đông và mát về mùa hè. Khi làm nhà, ngoài việc chọn hướng còn phải xem tuổi và định ngày tháng tốt để khởi công xây cất. Và khi làm xong thì chọn ngày tốt cúng rước tổ tiên về nhà mới và ăn mừng nhà mới.

Thờ cúng:

http://i815.photobucket.com/albums/zz75/lsb-sun/e.jpg

Thờ cúng tổ tiên là hoạt động tinh thần quan trọng bậc nhất của người Việt. Có nhiều cách bố trí của bàn thờ. Bàn thờ có thể kê trên giường cao, giường cầu hay bàn. Trên bàn thờ có khám (ngai, ỷ hay ảnh), mâm triện (mâm bồng), mâm dài (đài rượu, đài trầu, kê trên tam sơn) cùng ngũ sự (đỉnh, hai cây nến, hai cây đèn) hay tam sự (đỉnh, hai cây nến), bát hương. Y môn có thể bằng gỗ hay vải.


Thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng quan trọng nhất của người Việt. Bàn thờ được đặt ở nơi trang trọng nhất trong nhà: được cúng lễ vào các ngày giỗ, tết và các dịp tuần tiết trong năm. Tục thờ thổ công, táo quân, ông địa phổ biến ở các nơi. Rất nhiều gia đình thờ Thành hoàng, chùa thờ Phật, nơi thờ Ðức Khổng Tử hay đền thờ phúc thần... Một bộ phận cư dân ở nông thôn hay thành thị còn theo đạo Thiên chúa, Tin lành và và các tôn giáo khác như Cao đài, Hoà hảo....

Lễ tết:

Tết nguyên đán là cái tết lớn nhất trong một năm. Sau tết âm lịch là các hội mùa xuân. Ngoài ra còn có nhiều lễ tết truyền thống khác trong một năm: Rằm tháng giêng, tết Thanh minh, lễ Hạ điền, lễ Thượng điều, tết Ðoan Ngọ, rằm tháng bẩy tết Trung thu, lễ cơm mới... Mỗi tết đều có ý nghĩa riêng và lễ thức tiến hành cũng khác nhau.

Lịch:

Âm lịch từ lâu đã đi vào cuộc sống, vào phong tục tập quán và tín ngưỡng của người Việt. Nhân dân ta dùng âm lịch để tính tuổi, tính ngày giỗ, tính thời vụ sản xuất, tính ngày tốt xấu để dùng cho các công việc lớn của cuộc đời như làm nhà, cưới hỏi, cải táng... Dương lịch là lịch pháp chính thức hiện nay, ngày càng được dùng rộng rãi trong đời sống.

Học:

Người Việt từ lâu đã sử dụng chữ Hán, chữ Nôm và ngày nay chữ Quốc ngữ. Và ở kinh thành Thăng Long, ngay từ thời lý đã lập Văn Miếu - Quốc Tử Giám đào tạo các trí thức bậc cao, được coi là Trường Ðại học đầu tiên của Việt Nam.

Văn nghệ:

Văn học dân gian với nhiều thể loại phong phú: truyện cổ tích, ca dao, dân ca, tục ngữ... phản ánh toàn bộ mọi mặt cuộc sống của dân tộc. Văn học dân gian góp phần to lớn vào việc giữ gìn bản sắc dân tộc. Văn học viết cũng đã đạt được những thành tựu to lớn ở giai đoạn Lý - Trần và đặc biệt từ thế kỷ XV về sau với các cây bút thiên tài: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bình Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương... Các bộ môn nghệ thuật như mỹ thuật, âm nhạc, sân khấu... phát triển cao, được chuyên nghiệp hoá.

Chơi:

Người Việt có rất nhiều trò chơi cho mỗi lứa tuổi, mỗi giới, mỗi mùa, cho cá nhân và cho tập thể. Có những trò chơi thể hiện thú thưởng thức rất thanh cao như thả chim, thả diều, cờ tướng... Lại có những trò chơi mang tính thể thao và cộng đồng mạnh mẽ như kéo co, đánh đu, đánh vật, đua thuyền. Rất nhiều trò chơi mang dấu ấn lịch sử và đậm đà bản sắc như vật cù, nấu cơm thi, đánh pháo đất. Trò chơi trẻ em thì rất nhiều và mỗi địa phương mỗi sắc thái khác nhau. Lễ hội mùa xuân là nơi tập trung rất nhiều cho chơi dân tộc.

LSB-Sun
03-03-2010, 17:02
36. DÂN TỘC GIÁY

http://i815.photobucket.com/albums/zz75/lsb-sun/q.jpg

Tên gọi khác: Nhắng, Giảng, Pâu Thìn, Pu Nà, Cùi Chu, Xạ

Nhóm ngôn ngữ: Tày - Thái

Dân số: 54.002 người (ước tính năm 2003)

Cư trú: Chủ yếu ở Lào Cai, Hà Giang, Lai Châu và Cao Bằng

http://i815.photobucket.com/albums/zz75/lsb-sun/u.jpg

Bản làng của người Giáy ở Lào Cai

Đặc điểm kinh tế:

Người Giáy làm ruộng nước là chính, rẫy chỉ là nguồn thu nhập thêm và thường cũng là chỗ chăn nuôi lợn, gà. Đồng bào nuôi nhiều trâu, ngựa, lợn, gà, vịt, có truyền thống dùng ngựa để cưỡi, thồ, dùng trâu kéo cày, kéo gỗ.

http://i815.photobucket.com/albums/zz75/lsb-sun/e-1.jpg

Cối xay bột bằng đá của người Giáy

Hôn nhân gia đình:

Theo phong tục Giáy, trong các gia đình vị thế nổi bật là người chồng, người cha. Con cái lấy họ theo cha. Nhà trai chủ động việc cưới xin, sau lễ cưới, cô dâu về ở cùng gia đình nhà chồng, tuy vậy việc ở rể cũng là phổ biến. Phụ nữ Giáy khi mang thai phải kiêng cữ và cúng cầu mong sinh nở yên lành. Dịp đứa bé đầy tháng, có lễ trình báo với tổ tiên và cầu xin tổ tiên phù hộ. Tên, ngày tháng năm sinh của mỗi người được thầy cúng ghi vào miếng vải đỏ, sẽ dùng để so tuổi khi tính chuyện cưới xin và chọn giờ trong việc đám ma của chính người đó.


Văn hóa:

Người Giáy không có chữ viết riêng, một số rất ít người già, thầy cúng ở xen kẽ người Tày sử dụng thành thạo chữ nôm Tày, còn đa phần trí nhớ là phương tiện duy nhất để lưu truyền. Người Giáy vốn có truyện cổ, thơ ca, tục ngữ, câu đố, đồng dao... Có nhiều truyện giải thích hiện tượng tự nhiên, có nhiều truyện thơ dài, có truyện kết hợp lời kể với lời hát. Dân ca phong phú, gồm nhiều loại, mỗi loại có nhiều bài, điệu khác nhau, đặc biệt các hình thức hát giao duyên nam nữ là sinh hoạt sôi nổi và hấp dẫn. Nội dung các bài hát của người Giáy phong phú về đề tài hát giao duyên, mỗi chủ đề đều có kịch tính và phong cách thể hiện riêng. Người Giáy hát bên mâm rượu, hát qua đêm điệu “Phướn” của mình, còn được người Tày, người Thái cùng vui vào rằm tháng bảy, các dịp làm quen, giải hạn.

http://i815.photobucket.com/albums/zz75/lsb-sun/r.jpg

Ném cơm-trò chơi truyền thống của người Giáy

http://i815.photobucket.com/albums/zz75/lsb-sun/t.jpg

Biểu diễn nhạc cụ truyền thống của người Giáy

Nhà cửa:

Nhóm Giáy vùng Hà Giang, Cao Bằng ở nhà sàn. Nhóm Giáy vùng Lào Cai, Lai Châu ở nhà đất. Nhưng qua tài liệu văn học dân gian thì người Giáy vốn ở nhà sàn. Hiện nay đồng bào ở nhà đất vẫn còn dựng một sàn trước cửa để sử dụng. Nhà sàn hay nhà đất, gian giữa đều là nơi trang nghiêm: đặt bàn thờ tổ tiên, tiếp khách. Buồng các cặp vợ chồng trong gia đình ở các gian bên. Phụ nữ không nằm gian giữa. Bếp thường đặt ở gian bên; nay có nhiều nơi đã làm nhà để đun nấu riêng.

Trang phục:

Trang phục nam: Nam mặc áo cánh xẻ ngực, cổ tròn, đứng, cài cúc vải. Áo thường có ba túi, hai túi dưới, một túi trên bên phải. Thân áo hơi ngắn, màu chàm. Nam mặc quần ống đứng (rộng 35 - 40 cm), cạp to bản, không dùng dây cút mà chỉ vận vào người. Trước đây nam giới thường quấn khăn trên đầu. Có nhóm nam cũng mặc áo xẻ nách.

Trang phục nữ: Phụ nữ Giáy phổ biến mặc loại áo xẻ nách phải, trùm kín mông, xẻ nách phải. Áo mặc trong là loại áo cánh ngắn cộc tay, xẻ ngực, cổ tròn thấp và có hai túi dưới. Phụ nữ Giáy thường đội khăn quấn thành nhiều kiểu khác nhau, cổ đeo vòng bạc. Nhóm Giáy Lao Cai, Lai Châu mặc quần chàm ngắn đến mắt cá chân, ống rộng. Tóc vấn theo kiểu vành khăn và thường đeo túi vải thêu hoa văn ở đáy túi, phổ biến là hình răng chó. Giày chủ yếu là giày vải thêu hoa văn nhiều loại.


LỄ HỘI ROÒNG POỌC CỦA NGƯỜI GIÁY

http://i815.photobucket.com/albums/zz75/lsb-sun/Giay-roongpooc1.jpg

Hàng năm vào ngày Thìn tháng Giêng âm lịch người Giáy ở Tả Van (huyện Sa Pa - Lào Cai) lại mở hội Roòng Poọc để cầu mùa màng bội thu, người yên vật thịnh, mưa thuận, gió hoà.

Tại lễ hội, lễ vật trên bàn cúng bao gồm: Đĩa hoa quả, bánh kẹo, năm bát xôi màu xanh, đỏ, tím, phỏng gạo bốn bát, hai nắm xôi trắng nắm ý nghĩa vị thần mang theo trên đường đi. Bên cạnh có bát nước trong có đồng xu tượng trưng sự sung túc về tiền bạc. Cạnh bát hương là 5 chén nước chè, 9 chén rượu và 9 quả trứng màu xanh, đỏ, trắng tượng trưng cho màu trang phục của 9 nàng theo hầu vị thần. Ngoài ra còn có trang sức dành cho các nàng hầu như khuyên tai, vòng đeo tay, đeo cổ. Bên cạnh bát nước là quả Còn để ném vòng nhật nguyệt. Một con lợn con, một con gà, con vịt sống để gầm bàn lễ khi nào già bản khấn cúng xong dâng lên vị thần (hiến tế) với ý nghĩa cảm ơn vị thần đã cho dân bản nhiều gia súc. Trên ghế vị thần ngồi bên trái có gánh củi, ý nghĩa trên đường đi vị thần và người hầu có củi để nấu ăn và sưởi. Bên phải có gánh cỏ, ý nghĩa để trên đường đi ngựa của vị thần có cỏ để ăn. Trên ghế ngồi của vị thần có trải chăn màu đỏ vì theo dân tộc Giáy màu đỏ là màu may mắn.

http://i815.photobucket.com/albums/zz75/lsb-sun/Giay-roongpooc-levat.jpg

Lễ vật cho buổi lễ

Sau khi chuẩn bị các lễ vật xong thầy cúng khấn cúng, đọc tên các lễ vật và xin vị thần bản phù hộ cho dân bản một mùa bội thu, gia súc đầy chuồng, làm được của ăn của để.

http://i815.photobucket.com/albums/zz75/lsb-sun/ww.jpg

Chuẩn bị đồ cúng

Lễ cúng xong thì thầy cúng sẽ đưa quả Còn cho những người già uy tín trong bản ném vòng Nhật Nguyệt treo ở độ cao 30m. Trong ngày làm lễ cúng phải ném thủng vòng Nhật Nguyệt, vì người Giáy quan niệm rằng nếu vòng Nhật Nguyệt không được ném thủng thì cả năm đó bản sẽ đen đủi. Khi vòng Nhật Nguyệt được ném thủng thì từng gia đình đến bàn thờ chính để thắp hương vái lạy thần linh, cầu may mắn cho gia đình và làng bản.

http://i815.photobucket.com/albums/zz75/lsb-sun/Giay-roongpooc-trochoi.jpg

Tham gia trò chơi

Tham gia lễ hội là tất cả già trẻ, lớn bé trong bản. Người Giáy cũng rất cởi mở khi đón tiếp bạn bè các dân tộc anh em đến xem và chia vui. Sau phần lễ (cúng tế) là đến phần hội. Nhiều trò chơi dân gian diễn ra rất vui, trong đó đặc biệt là có cuộc thi tài cày ruộng của những chàng trai.

http://i815.photobucket.com/albums/zz75/lsb-sun/Giay-roongpooc-thieunu.jpg

Thiếu nữ đang trò chuyện tại lễ hội

Mở đầu là trò chơi ném còn. Những người cao tuổi (nam một bên, nữ một bên) lấy 6 quả còn cùng ném tượng trưng 3 lần khai mạc, rồi sau đó mọi người vào cuộc chơi. Những quả còn tua xanh đỏ vun vút lao lên phông còn.Tiếng xuýt xoa hò reo cổ vũ rền vang. Phông còn bị ném thủng là báo hiệu cho một năm mùa màng tươi tốt.

http://i815.photobucket.com/albums/zz75/lsb-sun/Giay-roongpooc-trochoi2.jpg

Chuẩn bị cho các trò chơi


Cùng với ném còn là chơi kéo co. Tốp nam đứng phía đông cầm phần gốc dây song (dây kéo co).Tốp nữ đứng phía tây cầm phần ngọn. Hồi trống kèn nổi nên thùc giục.Bên nam (đằng đông tượng trưng cho dương, mặt trời) luôn kéo thắng. Bên nữ (tượng trưng cho âm) giả vờ thua. Và như vậy, năm đó cả làng sẽ được mùa.

http://i815.photobucket.com/albums/zz75/lsb-sun/Giay-roongpooc-dungneu.jpg

Dựng cây nêu


Lễ hội Roòng Poọc (xuống đồng) của người Giáy là sự giao hoà giữa thiên nhiên và con người, làm mỗi người trong cộng đồng nơi đây biết trân trọng giá trị của lịch sử (ghi nhớ công lao người mở đất lập bản), biết trân trọng thiên nhiên (tâm linh tôn trọng các thế lực siêu nhiên, biết yêu thương cỏ cây, tài nguyên đất và nước), biết yêu thương con người (giao lưu, đồng cảm, đoàn kết). Vì vậy, lễ hội này vừa có nét đẹp văn hoá cổ truyền, vừa phù hợp với điều kiện cuộc sống hiện đại mà ta vẫn kỳ vọng là sự phát triển bền vững. Ngoài ra, lễ hội còn thu hút rất nhiều du khách trong và ngoài nước, là nguồn tài nguyên nhân văn để tiếp tục phát triển kinh tế du lịch nơi vùng đất huyền thoại Mường Hoa-Sa Pa.

http://i815.photobucket.com/albums/zz75/lsb-sun/Giay-roongpooc-amnhac.jpg

Dụng cụ âm nhạc cho buổi lễ


Tuy vốn là lễ hội dân tộc truyền thống của người Giáy ở Tả Van, nhưng nhiều năm nay đã lan rộng, trở thành lễ hội chung của cả vùng thung lũng Mường Hoa. Từ sáng sớm, làn sương còn giăng mù mịt từng đoàn người tíu tít nói cười trong mây, hồ hởi về dự hội. Người Mông từ Hầu Thào, Lao Chải dồn xuống, người Dao từ Bản Hồ, Bản Phùng ngược lên, du khách từ thị trấn SaPa cũng tới dự làm cho lễ hội đông vui tới vài nghìn người.

LSB-Sun
05-03-2010, 17:49
37. DÂN TỘC CHƠ RO

http://i815.photobucket.com/albums/zz75/lsb-sun/Choro1.jpg



Tên gọi khác: Đơ-Ro, Châu Ro, Chro, Thượng

Nhóm ngôn ngữ: Môn - Khmer

Dân số: 26.455 người (ước tính năm 2003).

Cư trú: chủ yếu ở Đồng Nai, một số ít ở Bình Thuận.

Đặc điểm kinh tế:

Trước kia người Chơ Ro sống chủ yếu bằng nghề làm rẫy, cuộc sống nghèo nàn và không ổn định. Về sau đồng bào đã biến rẫy thành đất định canh, đồng thời nhiều nơi phát triển làm ruộng nước, nhờ vậy cuộc sống có phần khá hơn. Chăn nuôi, hái lượm, săn bắn, đánh cá đều góp phần quan trọng trong đời sống của người Chơ Ro. Ngoài ra họ chỉ đan lát, làm các đồ dùng bằng tre, gỗ.

http://i815.photobucket.com/albums/zz75/lsb-sun/a.jpg

Lễ rước thần lúa trên nương

Hôn nhân gia đình: Người Chơ Ro không theo chế độ mẫu hệ hay phụ hệ mà coi trọng cả hai như nhau. Trong hôn nhân, tuy nhà trai hỏi vợ cho con, nhưng lễ cưới tổ chức tại nhà gái, chàng trai phải ở rể vài năm rồi vợ chồng làm nhà ở riêng.

Tục lệ ma chay: Khi chôn người chết theo truyền thống Chơ Ro, đồng bào dùng quan tài độc mộc, đắp mồ hình bán cầu. Sau 3 ngày kể từ hôm mai táng, gia đình có tang làm lễ "mở cửa mả".

http://i815.photobucket.com/albums/zz75/lsb-sun/20090705.jpg

Nhà dài của người Chơ ro

Văn hóa: Vốn văn nghệ dân tộc của người Chơ Ro phong phú. Nhạc cụ có bộ chiêng 7 chiếc, đây đó còn thấy đàn ống tre, có ống tiêu và một số người còn nhớ lối hát đối đáp trong lễ hội.

Nhà cửa: Người Chơ Ro vốn ở nhà sàn, lên xuống ở đầu hồi. Từ mấy chục năm nay, đồng bào đã hoàn toàn quen ở nhà trệt. Trong nhà đồ đạc thường đơn giản, chỉ có chiêng và ché được coi là quý giá. Gần đây nhiều gia đình có thêm tài sản mới, hiện đại.

http://i815.photobucket.com/albums/zz75/lsb-sun/Choro.jpg

Ngôi nhà sàn của người Chơ Ro

Trang phục: Xưa phụ nữ Chơ Ro quấn váy, đàn ông đóng khố; áo của người Chơ Ro là loại áo chui đầu; trời lạnh có tấm vải choàng. Nay đồng bào mặc như người Kinh trong vùng, chỉ còn dễ nhận ra người Chơ Ro ở tập quán thường đeo gùi và ở sở thích của phụ nữ thường đeo các vòng đồng, bạc, dây cườm trang sức nơi cổ và tay.

http://i815.photobucket.com/albums/zz75/lsb-sun/20090700.jpg

Thiếu nữ bên nhà sàn mới

Lễ hội Sa Yang Va của dân tộc Chơ Ro

(Không tìm thấy tư liệu)