PDA

View Full Version : Thơ HÀN MẶC TỬ - Cùng suy ngẫm !


Donquijote.nd
05-06-2008, 00:04
Dưới đây là bài viết của tôi, có tham khảo nhiều bìa trên mạng và cũng chỉnh swar thêm thắt ít nhiều sao cho chất lượng hơn. Mong các huynh đài góp ý








Cách đây sáu mươi tám năm , Hàn Mặc Tử - nhà thơ kiệt xuất của thời kỳ hiện tại - đã hoàn tất sứ mạng của mình với cõi đời này và đi vào cõi vĩnh hằng. Một thiên tài đã chết ! Một nguồn thơ làm bằng máu, bằng lệ, bằng hồn với tất cả say sưa, rung động của con người toàn khổ đau đã tắt lịm. Chuyện Hàn Mặc Tử lúc sinh thời bị mắc một chứng bệnh khốc hại (bệnh phong) thì ai cũng biết. Nhưng với khối tác phẩm khá đồ sộ ông để lại cho đời, cũng như những “cuộc tình” của ông, thì suốt mấy mươi năm qua, thiên hạ vẫn không ngừng xôn xao bàn tán và tranh cãi.

Không ai còn nghi ngờ việc Hàn Măc tử là một hiên tượng nổi bật của văn học Việt nam giữa thời kỳ hoàng kim của Thơ Mới (những năm 30 của thế kỉ XX). Thơ của Hàn MặcTử là tiếng kêu thảm thiết của một linh hồn thương nhớ cảnh chiêm bao, ước ao trở lại cõi trời là nơi đã sống ngàn kiếp vô thuỷ vô chung với những hạnh phúc bất diệt, là sự ham muốn vô biên những nguồn khoái lạc trong trắng của cõi trời cách biệt. Chẳng thế mà Hàn MặcTử đã dể lại cho đời những sáng tác “ trơ gan cùng tuế nguyệt” đúng như lời nhận xét của bậc thầy thơ triết lý - Chế Lan Viên: “ Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, những cái tầm thường mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại ở cái thời kì này chút gì đáng kể đó là Hàn Mặc Tử”

Hơn nửa thế kỷ qua, không thể đếm xuể những con người thuộc mọi tầng lớp, mọi trình độ đã nghiêng mình kính cẩn trước anh linh Hàn Mặc Tử, không thể đong được những dòng lệ mà người đời đã nhỏ xuống khóc người thi sĩ tài hoa bạc mệnh ấy.

Mộng Liên Đường chủ nhân, người viết đề tựa Truyện Kiều trước đây có câu:

"Người đời nay khóc người đời xưa, người đời sau khóc người đời nay, đó là cái thông lệ của bọn tài tử trong gầm trời này vậy!"

Thật chí lí lắm thay!

Muốn hiểu được Hàn Mặc Tử, nhất thiết phải hiểu bản chất con người nói chung và bản chất của con người Hàn Mặc Tử nói riêng.

Nhà ngoại cảm Nguyễn Hoàng Phương đã rất có lý khi khẳng định rằng con người không phải một sinh vật thông thường mà là "Linh Vật", nghĩa là một vật linh thiêng. Nguyễn Du xưa cũng cảm nhận rõ điều này qua câu thơ:

Nàng rằng: Những đấng tài hoa
Thác là thế phách, còn là tinh anh


Cái “tinh anh” bất tử ấy xác nhận con người là linh vật. Hàn Mặc Tử là linh vật ở trình độ tuyệt đích. Chính vì vậy, lúc sinh thời Hàn Mặc Tử vừa là một con người trần tục vừa là một người hoàn toàn thoát tục thực thụ.

Với trí tuệ của một nhà thơ thời hiện đại, đồng thời với tầm vóc của một bậc “thánh thi”, Hàn Mặc Tử đã “giải mã” được mối liên hệ thống nhất, khăng khít giữa thi sĩ với vũ trụ vô thuỷ vô chung. Ông cũng hoàn toàn ý thức được sứ mệnh, thiên chức của một thi sĩ chân chính. Ông viết:

“Loài thi sĩ là những bông hoa rất quí và hiếm, sinh ra đời với một sứ mạng rất thiêng liêng: phải biết tận hưởng những công trình châu báu của đức ChúaTrời đã gây nên, ca ngợi quyền phép của Người và trút vào linh hồn người ta những nguồn khoái lạc đê mê nhưng rất thơm tho, rất tinh sạch. Bởi muốn cho loài thi sĩ làm tròn nhiệm vụ ở thế gian này - nghĩa là tạo ra những tác phẩm tuyệt diệu, lưu danh lại muôn đời, Người bắt chúng phải mua bằng giá máu, luôn có một định mệnh tàn khốc theo riết bên mình”.

Đại thi hào Shakespeare cũng đã viết một câu tương tự trong vở bi kịch Otenlô: “Phải chăng định mệnh của những đấng vĩ nhân vẫn là không được may mắn như những kẻ tầm thường...”

Với thiên năng siêu việt của linh vật, Hàn Mặc Tử thoắt ở trên mặt đất, thoắt lại bay vào vũ trụ bao la, tựa như những nhà du hành vũ trụ sau này:

Ta bay lên! Ta bay lên!
Gió tiến đưa ta tới nguyệt thềm
Ta ở trên cao nhìn trở xuống
Lâng lâng mây khói quyện trăng đêm
(Chơi trên trăng)


Và hơn thế nữa, linh hồn nhà thơ còn siêu thăng lên tầng “thượng thanh khí”. Lên cõi trời, hoà hợp với vĩnh cửu. Những ấn tượng mà Hàn Mặc Tử lượm được từ những cõi cao vời đó đã biến thành những câu thơ kinh hoàng, tưởng chừng có ma quỉ ở bên trong :


Máu tim ta tuôn ra làm bể cả
Mà sóng lòng rồn rập như mây trôi

Người trăng ăn vận toàn trăng cả
Gò má riêng thôi laị đỏ hườm...

Trong thơ Hàn Mặc Tử, nhân vật Hồn xuất hiện một cách khá sắc nét:

Hồn đã cấu, đã cào, nhai ngấu nghiến:
Thịt da tôi sượng sần và tê điếng
Tôi đâu vì rùng rợn đến vô biên...

... Hai chúng tôi lặng yên trong thổn thức
Rồi bay lên cho tới một hành tinh
Cùng nghả nghiêng lăn lộn giữa muôn hình
Để gào thét một hơi cho rởn ốc
Cả thiên đường, trần gian và địa ngục...
(Hồn là aỉ)

Thấy mọi người kinh ngạc với thơ mình, Hàn Mặc tử bèn giải thích rằng đó chính là loại thơ... Điên!

Thực chất cái Điên đó là gì... ?
Trong lời tựa Điêu tàn(Chế Lan Viên) - vẫn được xem là bản tuyên ngôn chung của trường thơ loạn mà Hàn Mặc Tử là “chủ nhân – hay kẻ cai trị” có viết:
“ Cái gì của nó cũng tột cùng. Nó gào vỡ sọ, nó thét đứt hầu, nó khóc trào máu mắt, nó cười tràn cả tuỷ là tuỷ. Thế mà có người tự cho là hiểu được nó, rồi đem so sánh nó với Người, và chê nó là giả dối, không chân thật. Vâng ! Nó không chân thật, nó giả dối với Người. Với nó, cái gì nó nói đều có cả”. Cái gì nó cũng đều có cả, đó là nguyên tắc sự thật. Cái gì của nó cũng tột cùng, đó là bản chất mĩ học đặc thù của Thơ điên.

Thơ điên là cuộc giao thoa kỳ diệu của cõi người với cõi trời, là sự khám phá tới tận cùng của tâm linh con người, là thứ thơ đạt tới trình độ lãng mạn tột đích. Nguồn cảm hứng đặc thù của Hàn Mặc Tử trong Thơ điên là đau thương, thi sĩ họ Hàn đã biến nỗi đau đớn thân xác thành chất liệu cho thơ để biểu hiện nỗi đau tinh thần của mình. Điều này là một sự khó hiểu, phức tạp nhưng cũng chính là thứ ma lực thu hút sự chú ý quan tâm của bạn đọc với thơ ông. Đọc thơ Hàn Mặc Tử ta có thể cảm, nghe được cả một thế giới vô hình đang lâm vào tuyệt vọng qua những tiếng rên rỉ rướm máu của thân xác bên ngoài.

Tuy nhiên Hàn Mặc Tử vẫn hoàn toàn là con người của chủ nghĩa nhân bản. Không bao giờ ông muốn rời bỏ cuộc đời này để đi tìm những cái hư ảo, những hình tượng siêu nhiên nhạt thếch. Khối tinh thần cực kỳ sáng láng của nhà thơ chỉ giúp ông nhìn nhận cuộc sông trần gian một cách thấu triệt, để rồi tận hưởng những vẻ tuyệt vời của nó. Vâng! Đúng vậy. Hàn Mặc Tử có thể tuyệt vọng nhiều khía cạnh nhưng may mắn thay thi sĩ không chấm dứt tình yêu. Tình yêu của Hàn Mặc Tử càng mãnh liệt thì càng tuyệt vọng, càng tuyệt vọng thì cành mãnh liệt như một nghịch lí. Không có ai tha thiết với cuộc đời bằng người sắp lìa đời. Nhìn cuộc đời ở điểm chót cùng của sự sống, đó là tâm thế trữ tình, tâm thế sáng tạo đặc thù của Hàn Mặc Tử trong Thơ điên. Chính vì thế mà Thơ điên là tiếng kêu rỉ máu của một con chim sắp lìa trần, là tiếng nói hụt hẫng tan hoang, là tiếng nói của một thân phận bị dồn đẩy đến miệng vực của cái chết, chới với bên miệng vực mà ngoái nhìn đời, nuối đời, níu đời,… Mỗi tiếng thơ khác nào một lời nguyện cuối, một lời tuyệt mệnh:

Ta còn trìu mến biết bao người
Vẻ đẹp xa hoa của một thời
Đầy lệ, đầy thương, đầy tuyệt vọng
Ôi! Giờ hấp hối sắp chia phôi…!
( Trút linh hồn )

Hay:

Ta trút linh hồn giữa lúc đây
Gió sầu vô hạn nuối trong cây
Còn em sao chẳng hay gì cả?
Xin để tang anh đến vạn ngày.
( Trút linh hồn )
Có thể nói, bước vào Thơ điên là bước vào cái thế giới quằn quại của tinh thần. Nó là biểu hiện của những giằng xé quyết liệt giữa bóng tối của bệnh tật, chết chóc, ma quỷ… với ánh sáng của tình yêu, sự sống, thần thánh…; giữa cố chấp, thù hận, hẹp hòi với khoan dung, độ lượng, cao cả; giữa Địa ngục hắc ám với Thiên đường quang minh, … Tất cả những phản trái, nghịch lí của nó đều là ngôn ngữ đau thương.


Con trai khi bị hạt cát hay hạt sạn chui vào cứa tan thân mềm yếu thì nó nhả ra thứ dãi để bao bọc, bảo vệ cho mình mà vô thức đã để lại cho đời thứ trang sức đầy giá trị - ngọc trai. Bị bệnh tật hành hạ khốc liệt, quyền sống làm người càng bị bóp nghẹt, bị hắt hủi, cô đơn, Hàn Mặc Tử càng yêu điên cuồng thế giới này, càng sáng tạo mạnh mẽ và là có ý thức khi để lại cho đời khối lượng tác phẩm mà giá trị của nó chưa ai định hết được. L. Tonstoi từng nói: "Khó khăn hơn cả là yêu cuộc sống với những nỗi đau khổ của mình". Hàn Mặc Tử đã làm được.Với một chí hướng phi thường, Hàn Mặc Tử không chỉ biết ném mình vào cuộc sống sáng tạo triền miên mà còn luôn trăn trở đổi mới, làm mới lạ những tác phẩm của mình.

Hàn Mặc Tử đã ngắm nhìn và cảm thụ thiên nhiên và quê hương đất nước trong vẻ diễm lệ nhất của nó:

Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều
Để nghe dưới đáy nước hồ reo
Để nghe tơ liễu run trong gió
Và để xem trời giải nghĩa yêu...
(Đà lạt trăng mờ)

Với tình yêu, dường như Hàn Mặc Tử đã dành cả trái tim cháy bỏng cho nó. Ông cũng là “nhà thơ của tình yêu” không kém gì Xuân Diệu hay Nguyễn Bính. Hình ảnh những người con gái yêu đương trong thơ ông thật tuyệt vời.

Từ lúc em bỏ trái đào
Tới chừng cặp má đỏ au au
Tôi đều nhận thấy trong con mắt
Một vẻ ngây thơ và ước ao...
(Gái quê)

Hay:

Tôi cũng trông thấy người tôi yêu
Ngồi cạnh suối trong cởi yếm đào
Len lén đưa tay vốc nước rửa
Trong khi cành trúc động và xao...
(Tôi không muốn gặp)

Ngoài tình yêu nồng say với cuộc sống, thơ Hàn Mặc Tử còn là bức thông điệp bi thiết nhất gửi cho đồng loại, phô lộ nỗi đau nhân thế của nhà thơ và nỗi đau khổ của một con người phải hứng chịu cái nghịch cảnh “nhất phiến tài tình thiên cổ luỵ” (một mảnh tài tình vẫn là cái luỵ muôn đời). Từ nỗi bất hạnh tột độ ấy đã ứa ra những câu thơ ròng ròng máu chảy, thê thiết đau buồn:

Máu đã khô rồi, thơ cũng khô
Tình ta chết yểu tự bao giờ
Từ nay trong gió - trong mây gió
Lời thảm thương rền khắp nẻo mơ.
(Trút linh hồn)

Hàn Mặc Tử cảm thấy ghê sợ nỗi cô đơn của một con người bị tách khỏi đồng loại:

Chao ơi! Ghê quá trong tư tưởng
Một vũng cô liêu cũ vạn đời!
( Cô liêu )

Trong cảnh cô đơn tuyệt vọng ấy, nhà thơ khao khát đón nhận những tín hiệu yêu thương cứu giúp của mọi người:

Sao trìu mến thân yêu đâu vắng cả
Trơ vơ buồn và không biết kêu ai...

Hoặc:

Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với sao sương, anh nằm chết như trăng
Không tìm thấy ngàng tiên mô đến khóc
Đến hôn anh và rửa vết thương lòng.
(Duyên kỳ ngộ)

Hoặc:

Còn em, sao chẳng hay gì cả...
Xin để tang anh đến vạn ngày!
(Trút linh hồn)

Bên bờ huỷ diệt, tưởng như tất cả đã hết, tất cả đều vô vọng, thế nhưng vẫn còn lại đây niềm say mơ, còn mối Trường tương tư vói đời, rang rịt cho đến ngày tận thế:

Đấy là tất cả người anh tiêu tán
Cùng trăng sao bàng bạc xứ say mơ
Cùng tình em tha thiết như văn thơ
Ràng rịt mãi cho đến ngày tận thế
( Trường tương tư )

Con người đã mất tất cả nhưng vẫn còn lại đây một tâm hồn thơ để hiến dâng cho đời:

Xin dâng này máy đang tươi
Này đây nước mắt giọng cười theo nhau
( Bến Hàn giang )


Trong nền thơ ca Việt nam cổ kim, thơ Hàn là khúc bi ca, là bản tường trình đầy đủ, sâu sắc, khúc chiết và da diết vào bậc nhất về số phận của con người. Đó chính là thứ thơ huyết lệ được diễn đạt bởi một nghệ thuật cao vời, kỳ tuyệt. Chính vì thế thơ Hàn Mặc Tử đã thấm sâu vào não tuỷ của chúng ta, mãi còn lay động tâm hồn chúng ta. Thơ Hàn Mặc Tử là thứ thơ mẫu mực khó bắt chước, đáng để cho các nhà thơ đời sau ngưỡng mộ và học tập.

Về nghệ thuật, thơ Hàn Mặc Tử là ngôi sao sáng chói trên nền trời của thơ ca Việt nam. Rất ít nhà thơ viết được những câu thơ kinh nhân (Làm kinh hoàng người ta - Đỗ Phủ) như ông. “ Nguyện suốt đời đi tìm sự lạ” đó là quan điểm, chí hướng bao trùm của thi sĩ họ Hàn khi dấn thân vào con đường nghệ thuật. Chí hướng ấy như một động lực ngầm ẩn khiến người thi sĩ nghèo suốt đời mải miết đi theo “ tiếng gọi nơi xa xăm, thiêng liêng và huyền bí làm rung động cõi lòng”. Bao trùm lên tất cả , chí hướng ấy đã khiến cho quan niệm của Tử về người thi sĩ “ là người khát khao vô tận”, khát khao đến tột cùng. Việc làm thơ đối với Hàn Mặc Tử là:

Tôi làm thơ ?
Nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng

Hay:

Tôi làm thơ ?
Nghĩa là tôi yếu đuối quá ! Tôi bị cám dỗ, tôi phản lại tất cả những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật.
Và cũng có nghĩa là tôi đã mất trí, tôi phát điên.
Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú.
Có ai ngăn cản được tiếng lòng tôi
( Việc làm thơ )


Chỉ vẻn vẹn trong khoảng ba năm trời, ông đã đạt tới cực đỉnh của nghệ thuật Thơ Mới. Một nghệ thuật đặc sắc - nghệ thuật Thơ điên - đã ra đời để chuyển tải cái nội dung sâu sắc, gay gắt mà phức tạp mà Hàn Mặc tử muốn thét lên trong những phút “nhập Thần”, trong những cơn yêu đương, đau đớn, oán hận điên cuồng. Đó chính là những câu thơ “thần bút” mà một người thường không bao giờ viết nổi.

Hàn Mặc Tử đã khai thác tất cả những tinh hoa của tiếng Việt vốn giàu ý tứ, giầu sắc thái và nhạc tính, đặt những từ thuần Việt ấy đúng chỗ và thổi sinh khí cho chúng, tạo nên những câu thơ kì lạ và tuyệt diệu, làm chấn động tâm trí người đọc:

Trăng nằm sóng soài trên cành liễu

Tôi toan hớp cả ráng trời
Tôi toan đớp cả tiếng cười trong khe.

Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng
Cho bay lên hí hửng với ngàn khơi.

Ta đi thuyền trên mặt nước lòng ta
Ta cắm thuyền chính giữ vũng hồn ta!

Những câu thơ như vậy của Hàn Mặc Tử đã để lại những vết cháy bỏng, những vầng sáng vĩnh viến trong tâm trí chúng ta.

Bằng tài năng xuất chúng, dưới áp lực của định mệnh cực kì nghiệt ngã, nhà thơ Hàn Mặc Tử đã để lại cho đời một di sản quí báu với nhiều bài thơ “thần bút”. Nhà thơ cho chúng ta thấy tầm vóc siêu việt biết bao mà con người có thể và cần phải đạt tới. Đồng thời cuộc đời và thơ Hàn Mặc tử gợi mở về một lối sống không phải chỉ có phần “xác” mà còn có phần “ hồn” ngàn lần kì diệu hơn.

Thế đấy! Tôi đã khá dài dòng và lan man không chủ định khi hành hương vào thế giới thơ Hàn Mặc Tử theo cái sợi dây mong manh và bí mật của tình yêu tuyệt vọng vốn chìm khuất trong thế giới thi phẩm để rồi thu lượm được biết bao tặng vật mà thi sĩ họ Hàn đã sắp sẵn cho những ai ham muốn có nó thực sự. Cũng phải cảm ơn cái sợi dây tình yêu tuyệt vọng bởi nếu không có nó thì tôi không tránh khỏi sự bế tắc mà sa vào ngõ cụt. Trước khi dừng cho tôi xin nói thêm một câu: Thơ Hàn Mặc Tử vẫn là một bài toán khó mà ẩn số của nó chưa được tìm ra thực sự, vẫn còn nhiều bí ẩn sẵn chờ và mời mọc những cuộc hành hương khác.