Quận Chúa Quỳnh Anh
14-12-2007, 11:53
Luận Văn Đàn không có chủ trương sưu tầm, nhưng đọc được bài viết hay QA muốn chia sẻ. Nếu bạn nào có "cảm đề" thì tùy hứng mà bình văn thơ nhé, xin cám ơn!
Sài Gòn, niềm nhớ không tên (HYL)
Ngàn sương lóng lánh ánh quang huy
Phấp phới nồm trương ngọn quốc kỳ
Cửa đón tân xuân lồng thược dược
Trà dâng nguyên đán ngát tường vy
Mộng phiền ba tỉnh hồn phấn điệp
Điềm thái hòa ứng giọng hoàng ly
Tấm lòng đất nước chung hoan hỷ
Hương khói thơm lừng nhịp trúc ty
Những vần thơ tỏ lòng tin tưởng vào tương lai dân tộc, lạc quan trước thời cuộc và xúc động tuôn trào trước cảnh vật đẹp tươi: mặt trời rọi ánh dương quang, làm tan màn sương giá lạnh, ngọn quốc kỳ phấp phới bay trong gió, Nam-Ngãi-Bình, ba tỉnh đã qua rồi cơn ác mộng, giờ đây hoa lồng trước dậu, trà ngát thư trai, oanh ca trên cành hòa điệu thái hòa cùng nhịp rung của lòng người hoan hỷ với tiếng tơ tiếng trúc chung quanh thôn xóm. Thi gia nào đã viết những vần thơ ấp áp và tươi vui trên vào lúc nào nhỉ?
Xin thưa đó là bài "Tân xuân" cảm tác của Quách Tấn viết vào năm 1955 tại Nha Trang sau khi Sài Gòn trở thành thủ đô và trước khi vua Bảo Đại bị truất phế.
Nhờ niềm tin, nguồn vui và nhờ nguồn sống nơi người viết và người đọc nên đã diễn ra cảnh Thịnh Đường về văn học ở Miền Nam sau 1954.
Sài Gòn 1954-1975 văn học rộ nở và nhà văn có thể sống bằng ngòi bút vì hàng triệu độc giả sẵn sàng đón nhận vần châu ngọc và những đứa con tinh thần của họ.
Nhân đó các nhà xuất bản thi nhau in ấn và phát hành nên sách, một món hàng phổ thông dùng để trân trọng tặng nhau, dùng để lưu niệm trong tủ sách gia đình. Dĩ nhiên trong giới văn nghệ thời nào chẳng có lái buôn chữ nghĩa thấy sách hay thì in trộm nên sách in quá nhiều và trở thành hạ giá. Chợ sách xuất hiện trên hè phố có thể làm cho một số thức giả đau lòng "vì văn chương hạ giới rẻ như bèo" như Tản Đà khi xưa từng than nhưng phần đông độc giả thích thú vì có thể có sách quý bán đại hạ giá, vừa túi tiền của mình và họ không muốn mất cơ hội ngàn năm một thuở trang bị cho tủ sách gia đình của mình.
Ta hãy nghe Đông Hồ tả thị trường sách vở ở Miền Nam lúc ấy dồi dào như thế nào khi sách tràn đầy vỉa hè Lê Lợi và Pasteur.
Nhà thơ vốn đa cảm đi bên cạnh chợ sách vỉa hè "Từng bước noi lề kim cổ, Đôi bờ cỏ thánh hoa hiền" tuy "đau lòng chữ nghĩa" nhưng có niềm tin sách vở "giữ chút niềm trinh trắng, gởi lòng tri kỷ muôn phương."
Từng bước noi lề kim cổ
Đôi bờ cỏ thánh hoa hiền
Bè bạn bốn mùa trăng gió
Rừng em suối chị giao duyên
Giấy mực đau lòng chữ nghĩa
Tài hoa phô giữa chợ đời
Những nghĩ e hèn thẹn tía
Chỉ cho bướm cợt ong cười
Mấy độ phai sương nhạt nắng
Mắt xanh còn luyến gót đường
Giữ chút niềm Trinh ý Trắng
Gởi lòng tri kỷ muôn phương
Có niềm tin, có tài hoa lại có tri kỷ bốn phương nên các thi nhân tài danh đã thay đổi nguồn cảm hứng cho hợp với lòng mong mỏi của độc giả. Họ đã hướng về khát vọng tự do của dân tộc.
Vũ Hoàng Chương trước 1945 được coi là "Chàng Say", thơ của ông là Thơ Say, là Mây (tên người yêu thuở đầu đời của ông là Vân, ông thường gọi là Vân Muội.)
Chúng ta từng nghe giai thoại Huy Cận, tác giả Lửa Thiêng, rất thích thơ họ Vũ và một hôm gặp Vũ ở Cống Chéo, Hàng Lược, Huy Cận bắt tay Vũ và ngâm hai câu:
Đã lâu gặp lại chàng Say
Lửa thiêng xin đợi chờ Mây xuống trần
Ý của Huy Cận không giấu sự kiêu hãnh, cho rằng Mây phải hạ trần để gặp Lửa Thiêng của mình. Vũ Hoàng Chương hóm hỉnh đáp lại:
Mây kia chẳng chịu xuống trần
Lửa ơi theo khói lên gần với Mây !
Lời đáp thực hay vừa tỏ sự thân thiện và vừa giữ được cốt cách cao ngạo, tư cách phi thường của nhà thơ có tài, rằng Lửa muốn gần Mây thì chịu khó theo khói bay lên mới được.
Nhưng sau khi vào Nam tuy Vũ Hoàng Chương khó quên cố đô, quên người cũ mỗi độ xuân về như ông đã viết những câu trong bài "Nửa đêm trừ tịch" sau đây:
Bấy nay một mối tình cao quý
Tưởng đã chìm sâu cát bụi đời
Khoảnh khắc thiêu tàn duyên tục lụy
Nửa đêm Trừ tịch gió lên khơi
Giai nhân danh sĩ mấy người
Bốn phương tâm sự một trời Cố đô
Mười năm qua, đến bây giờ
Nhìn nhau thấy cả giấc mơ thuở nào
Rồi lòng ái quốc bừng sôi trong tâm trí một nhà thơ đa cảm. Nhớ mùa xuân chiến thắng Kỷ Dậu, ông đã viết bài anh hùng ca "Bài Ca Bình Bắc".
Đọc những câu sau đây chúng tại lại văng vẳng nghe lại bài "Hịch tướng sĩ" của Trần Hưng Đạo và "Bình ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi. Đặc biệt hình ảnh Quang Trung chiến thắng Đống Đa từ Ai tư vãn (Lê Ngọc Hân), Hoàng lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái), tới Xuân chiến thắng (Đằng Phương) lại một lần nữa hiện rõ và linh động trong tâm khảm người đọc:
Một phút oai thần dậy sấm
Tan vía cường bang
Cho bóng kẻ ngồi trên lưng bạch tượng
Cao chót vót với năm màu mây chiêm ngưỡng
Dài mênh mông vượt khỏi lũy Nam Quan
Và khoảnh khắc
đổ xuôi chiều vươn ngược hướng
Bao trùm lên đầu cuối Thời Gian
Bóng ấy đã ghi sâu vào tâm tưởng
Khắc sâu vào trí nhớ dân gian
Một bành voi che lấp mấy ngai vàng
Ôi Nguyễn Huệ người anh hùng áo vải
Muôn chiến công, một chiến công dồn lại
Một tấm lòng, muôn vạn tấm lòng mang
Ngọn kiếm trỏ, bao cánh tay hăng hái
Ngọn cờ vung , bao tính mệnh sẵn sàng
Người cất bước , cả non sông một dải
Vươn mình theo dãy Hoành sơn mê mải
Chạy dọc lên thông cảm ý ngang tàng
Cũng chồm dậy đáp lời hô vĩ đại
Chín con rồng bay ngược Cửu Long giang
Người ra Bắc, oai thanh mờ nhật nguyệt
Khí thế kia làm rung động càn khôn.
Lệnh ban xuống, lời lời tâm huyết
Nẻo trường chinh ai dám bước chân chồn
Gươm thiêng cựa vỏ,
Giặc không mồ chôn.
Voi thiêng chuyển vó,
Nát lũy, tan đồn
Ôi một hành ca hề, gào mây, thét gió,
Mà ý tướng, lòng quân hề, bền sắt, tươi son.
Hưởng ứng sông hồ giục núi non
"Thắt vòng vây lại" tiếng hô ròn
Tơi bời máu giặc, trăng liềm múa
Tan tác xương thù, ngựa đá bon.
Sim rừng, lúa ruộng, tre thôn,
Lòng say phá địch, khúc đồn tiến quân
Vinh quang hẹn với phong trần
Đống Đa gò ấy mùa xuân năm nào
Trong những năm cuối 50 sang thập niên 60, Vũ Hoàng Chương đã tích cực tham gia hội "Văn Bút Việt Nam" và đại diện xứ sở đi dự hội nghị thi ca thế giới (1959 tại Knokke, Bỉ). Nhà thơ như trẻ lại, tóc phơi phới bay, nụ cười tươi tỉnh, xông xáo trên văn đàn, sáng tác ra lối thơ "Nhị thập bát tú" dìu dắt thế hệ sau vào lãnh vực thi ca. Trong lòng ông lúc ấy tinh thần ái quốc dâng cao, lòng vì đời vì người, vì non sông Đất Việt ngun ngút trong tim và đã thể hiện tâm huyết trong bài "Trả ta sông núi" với những câu kêu gọi thống thiết:
Trải bốn nghìn năm dựng nước nhà
Sông khoe hùng dũng , núi nguy nga
Trả ta sông núi ! Bao người chết
Gào thét đòi cho bọn chúng ta ...
Trả ta sông núi ! Từng trang sử
Dân tộc còn nghe vọng thiết tha
Ngược vết thời gian còn nhắn nhủ
Không đòi ai trả núi sông ta !
Đọc thơ Vũ Hoàng Chương không thể quên giai đoạn trước 60, nhà thơ như trẻ lại, dồi dào niềm tin trước tương lai đất nước. Trong nhiều bài thơ sáng tác khi đó, nhà thơ đã hô hào thanh niên vì tiền đồ của dân tộc, hãy đứng lên trước "Giờ đã điểm" góp sức xây nền tự do và độc lập cho dân tộc. Tâm trạng gắn liền với thời cuộc của ông, có thể thấy trong thi phẩm "Hoa Đăng" xuất bản vào năm 1959.
Có người cho rằng vào giai đoạn này thơ Vũ Hoàng Chương bị lôi cuốn vào xu hướng thời sự. Nhận định này chưa hẳn chính xác. Nhiều nhân chứng được gặp nhà thơ họ Vũ vào những năm cuối thập niên 50 và năm đầu thập niên 60 kể lại, trong khi trò chuyện, nhà thơ đã tỏ ra nhiệt tình với thời cuộc và mệnh vận Miền Nam. Tình trạng sôi nổi trong lòng nhà thơ giàu cảm xúc đã giúp ông viết những dòng thơ khác hẳn nguồn thơ say, thơ tình và thơ mộng, vốn là nét đậm trong cảm xúc nơi thi nhân. Ta hãy nghe Vũ Hoàng Chương hô hào thanh niên bằng những lời thống thiết:
Con Người còn đấy
Nước Tổ còn đây !
Còn phải đấu tranh vì Lý tưởng
Kết trong hai chữ Tự do này
Ôi giờ đã điểm; nghe thần tượng
Phơi phới hào quang đẹp cánh bay !
Chúng ta nguyền: Đã đến ngày
Dâng lên nước Tổ vào tay con Người
Đẹp như thần tượng sáng ngời
Phải chăng các bạn? Một đời tự do !
Nếu không phát xuất từ lửa trong tim thì làm sao có những vần thơ thép luyện như trên?
**
Sài gòn mưa rồi nắng, trong cái khí hậu bất thường như tâm hồn một nhà nghệ sĩ. Ở đây trong những ngày gay gắt nắng, lạc vào những cơn mưa dữ dội, thình lình, đứt quãng. Lòng người Sài gòn cũng khác. Nó nóng nảy và hào hiệp trong nhiệt độ một mặt trời sáng rực suốt năm."
Cây bút nào viết về Sài Gòn bằng văn xuôi mà nghe như thơ vậy?
Không phải danh nho Trịnh Hoài Đức ca tụng cảnh và người của Gia Định trước 1862 trong "Gia định thống chí". Không phải Trương Vĩnh Ký trong "Souvenirs Historiques" và Vương Hồng Sển trong "Sài Gòn năm xưa" vẽ những nét đẹp về Bến Nghé trong dĩ vãng và cũng không phải Bàng Bá Lân viết những dòng nồng nàn về con người và tiếng miền Nam trong bài "Tôi yêu".
Tác giả những dòng trên từng giới thiệu về mình:
Tôi chỉ là người lữ khách
Màu chiều khó làm khuây
Ngỡ lòng mình là rừng
Ngỡ hồn mình là mây
Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên cây !
Xin thưa, người đó chính là Hồ Dzếnh. Có lẽ chưa có cây viết nào viết về Sài Gòn qua những cảm giác chân thành và mới lạ như Hồ Dzếnh. Tại sao? Hồ Dzếnh hay Hà Triệu Anh, là một nhà thơ Việt có nửa dòng máu Trung Hoa, và đã nhận Việt Nam là "quê ngoại". Ông ra đời ở miền quê Thanh Hóa và trưởng thành ở Hà Nội. Hồ Dzếnh vào văn đàn từ 1937 và cho tới 1953 ông gắn bó với quê hương miền Bắc trong văn xuôi (như Một chuyện tình 15 năm về trước, Chân trời cũ" cũng như trong thơ ca (Quê Ngoại, Hoa xuân Đất Việt).
Mãi tới năm 1953, bước dần vào tuổi 40 (Hồ Dếnh sinh năm 1916), Hồ Dzếnh vào Sài gòn lấy bút hiệu là Hoàng Liên viết cho tờ Thần Chung. Trong thời gian một năm ở Hòn Ngọc Viễn Đông, Hồ Dzếnh đã tiếp xúc với một nguồn cảm hứng mới trước vẻ đẹp mới và quê hương mới. Nhờ cảm xúc tuôn trào, Hồ Dzếnh đã sáng tác thơ và tiểu thuyết ca tụng miền Nam, ca tụng Sài Gòn bằng những chi tiết rất độc đáo mà phần đông chúng ta vì quá thân quen nên không để ý.
Ta hãy nghe tiếng lòng của nhà thơ gửi gấm vào tâm sự của một cô gái quê hương miền Bắc theo mẹ vào Nam từ thuở ấu thơ. Dù nơi cô gái trẻ, tình hoài hương còn nặng nhưng đất mới có lòng người đậm đà, có cảnh sắc thân thương và nguồn sống thơm lành đã níu chân kẻ tha hương như câu ca dao quen thuộc đã ghi: "Xứ Nam dễ ở khó về. Trai đi có vợ, gái về có con."
Lời về
Thuở trước quê em ở Bắc
Vô Nam từ độ lên mười
Mây trắng ngày ngày xa tắp
Nhớ quê em buồn khôn nguôi
Mái tóc dừa xanh Thủ Đức
Ngọt ngào thay trái sầu riêng
Gió bãi phù sa Bến Lức
Nay thuần sữa mẹ linh thiêng
Em dẫu chỉ là con gái
Quê xinh soi bóng sông lành
Theo mẹ băng chừng quan tái
Bao giờ quên lũy tre xanh
Anh nhé giùm em nhắn với
Nhớ quê em ngại thăm quê
Lửa phượng trời duyên Khánh Hội
Bạc Liêu dễ ở khó về
Vó ngựa từ hồi vỗ xuống Nam
Truông mòn đưa lối Hải Vân San
Áo nâu phai lạt mùi cây cỏ
Lá rụng hoa rơi đất nước Chàm
Trong "Lời về", Hồ Dzếnh với cây bút phù thủy của một nhà thơ có tài, đã trộn lẫn quê hương Nam - Bắc trong một bức tranh cảnh, một bản tình ca cực kỳ cảm động, du dương và khéo léo. Đặc biệt ở đó chúng ta tìm thấy được những nét quyến rũ của miền Nam đã khiến cho những kẻ xa quê không bao giờ có thể nguôi quên.
Hồ Dzếnh còn viết về Sài Gòn nhiều lần nữa, nhất là về người Sài Gòn mà ông cho là thuần phác, hào hiệp và nhiệt tình.
Trong tác phẩm "Cô gái Bình Xuyên" (Tiếng Phương Đông xb - 1946), Hồ Dzếnh tạo ra nhân vật "Tăng", một thanh niên từ miền Bắc vào Sài Gòn khoảng 1940. Tăng đã chứng kiến một tình trạng lịch sử chuyển mình ở xứ thuộc địa khi Nhật vào Đông Dương và Thế chiến thứ hai bùng nổ được một năm. Tại đây, Tăng gặp một gái có tên là Kim Đính, Kim Đính không những tượng trưng cho cô gái Sài Gòn xinh đẹp và thực thà mà còn tiêu biểu cho gương ái quốc sôi sục và can trường của người miền Nam. Tác giả tiết lộ nàng là cô gái Bình Xuyên, và Bình Xuyên, một tổ chức giang hồ, mà ông cho rằng là một "hội kín" chống Pháp. Thế rồi cuộc tình trong chiến loạn của họ bắt đầu. Phần chúng ta muốn giới thiệu ở đây không phải là quan điểm lịch sử của Hồ Dzếnh mà là cái nhìn có phần khách quan của ông với Sài Gòn năm xưa. Ta hãy nghe ông ghi lại cảm xúc của khách ly hương lần đầu tiếp xúc với cảnh, với người Sài Gòn, nhất là người ấy lại là một thiếu phụ xinh đẹp có giọng nói như chim hót:
"Lần này, vì mới vào Sài Gòn, Tăng ước ao có đôi chút ý kiến xác đáng về tính tình Người Việt miền Nam... nghe cái giọng nói tròn và đứt, trong âm hưởng kỳ thú của ngôn ngữ Nam bộ, Tăng thấy lạ tai và đưa mắt nhìn thiếu phụ. Đôi lần, Tăng ngạc nhiên nghe nàng dùng tiếng chưa ai chua trong cuốn tự điển Việt Nam, những tiếng trái cựa và sường sượng, bắt cái lưỡi lăn tròn hay đưa dài ra, theo giọng nói. Tăng vụt nghĩ đến cách phát âm của người Anh, buông nhẹ và bỏ lửng, tắt ở gần cuối của mỗi tiếng dùng, đòi nhiều sự hiểu biết thông minh của thính giả. Yêu giọng Bắc, thích điệu Huế, một đằng đài các, một đằng phong tình, Tăng bây giờ mới chợt khám phá ra cái kho tàng phong phú thứ ba của tiếng nói Đất Việt: tiếng nói Sài Gòn. Tăng chưa hiểu thiếu phụ thuộc giai cấp nào của xã hội, một hạng người khó đoán, ở cách trang sức lộng lẫy, nhưng vẫn giữ được vẻ bình dân, đơn giản. Một chuỗi hạt ngọc thạch óng ánh quanh chiếc cổ nhỏ, đôi dây vàng và cái đồng hồ nhỏ xíu tăng thêm vẻ đẹp của đôi bàn tay. Hình dáng thiếu phụ khiến Tăng mang máng nhớ đến những cuốn truyện tả đời sống xa hoa của các công tử Bạc Liêu, tiểu thư Rạch Giá và những hành vi bán trời không văn tự của đất Sài Gòn. Tăng nhớ đến Phú Đức, đến Nguyễn Chánh Sắt, những cây bút Nam bộ đã tạo ra không biết cơ man nào là anh hùng, là tình trường huyết lệ.
Hồ Dzếnh cho ta biết thêm nữa về ngôn ngữ Sài Gòn mà một khách lạ như Tăng có lẽ cảm thấy nhiều ấn tượng kỳ thú khi lần đầu được cùng cô gái miền Nam đối đáp:
- Tôi vào đây hai ngày rồi mà chưa tìm thấy người quen. Họ đã đổi chỗ ở. Tôi lại chưa quen ai, à quên, tôi mới quen ôn chủ khách sạn.
Người đàn bà nhìn chàng chăm chú:
- Tại Sài Gòn thiếu chi "mèo", thầy. Thầy chịu khó kiếm vài cô cho vui.
Tăng bực bội vì sao một người thiếu phụ dự ít nhiều vào hạng nhan sắc, lại có thể dùng loại ngôn ngữ sỗ sàng như thế:
- Sao cô... Ba ăn nói mạnh bạo vậy?
Một nhịp cười giòn giã vang lên:
- Ai bảo cho Thầy biết tôi là cô Ba? Chỉ phiền một điều tôi lại là cô... Hai. Thầy gắng học giỏi tiếng Sài Gòn đi, nghen."
Không phải Sài Gòn chỉ ưu tú về cảnh và về người mà Bến Nghé còn là kho trời vô tận nuôi cả nước. Hồ Dzếnh ghi lại bằng lời thực thà những gì biết về Sài Gòn nên chưa hẳn đủ khách quan để làm vừa lòng tất cả chúng ta:
"Người ta cho Tăng biết rằng Sài Gòn giàu vô kể, đời sống Sài Gòn rộng rãi và phóng khoáng, nhân vật Sài Gòn xử sự ngay ngắn như con đường hỏa xa. Cơ man người Bắc vào đây lập nghiệp để rồi trở ra Bắc với những cái gia tài vĩ đại, kết quả những đêm trúng bạc rền ở Chợ Lớn, những chuyến chạy hàng lậu ngang tàng, và của những năm cần cù buôn bán nữa. Sài Gòn, kinh đô tứ chiếng, thành thị giang hồ, đứng án ngữ lấy đầu Nam bộ, chặn đường lên Nam Vang, và mở lối về Paksé. Sài Gòn ngày đêm rút màu mỡ của ba xứ để cung phụng cho một mãnh đất chỉ biết bão lụt quanh năm: Bắc bộ. Cho nên cái xương sống kinh tế là con đường xe lửa Hà nội - Sài gòn bao nhiêu chuyến tàu chở đầy đến nóc những con người lìa bỏ những mảnh đất khô cằn đằng ngoài để vào đằng trong màu mỡ."
Hồ Dzếnh vào Nam và Sài Gòn đã lôi cuốn tâm hồn đa cảm của một lữ khách như ông, nhưng sau hiệp định Genève vào tháng 10, 1954 ông lại trở ra Bắc? Nguyên nhân chính vì tình yêu. Lúc này nhà thơ gắn bó với người vợ thứ hai trong đời là Nguyễn Thị Hồng Nhật (góa phụ của nhà thơ Trần Trung Phương) còn ở Hà Nội. Hơn nữa, Hồ Dzếnh cho rằng ở lại Hà Nội sẽ có cơ hội trở về thăm quê Nội Trung hoa mà ông hằng ao ước. Nào ngờ, Hồ Dzếnh đã lầm và là mối lầm ghê gớm nhất đời của một kẻ có trái tim sôi nổi đối với quê ngoại, với tình yêu, với tự do và đối với nghệ thuật.
Sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm (1956 - 57) các nhà văn ở Hà Nội khi ấy, dù không trực tiếp tham gia chống đối cũng bị nghi ngờ và Hồ Dzếnh bị kết tội gián điệp chỉ vì đã từng vào Sài Gòn viết cho tờ Thần Chung. Thế là nhà thơ buộc gác bút và trở thành công nhân cho nhà máy cơ khí, nhà máy xe lửa Gia Lâm.
Cho tới những năm giữa thập niên 80, Hồ Dzếnh mới được nhắc tới. Thiệt hại cho một thi tài mấy chục năm không có nhiều cơ hội cầm bút và phải "gặm khối bất bình".
Có lẽ vì thế trước khi qua đời vào năm 1991, tác giả Quê Ngoại đã viết "Ngày xuân đọc lại Truyện Kiều" để gửi gấm ít nhiều hối tiếc của kẻ lầm lỡ trong đời chỉ vì lụy tình như Phạm Quý Thích đã nhắc nhở "nhất phiến tài tình thiên cổ lụy":
Gọi đời là "cõi người ta"
Sao nghe thấm thía xót xa nỗi mình
Tố Như ơi, lụy vì tình
Nghìn xưa như bóng với hình y nguyên !
Sài Gòn, niềm nhớ không tên (HYL)
Ngàn sương lóng lánh ánh quang huy
Phấp phới nồm trương ngọn quốc kỳ
Cửa đón tân xuân lồng thược dược
Trà dâng nguyên đán ngát tường vy
Mộng phiền ba tỉnh hồn phấn điệp
Điềm thái hòa ứng giọng hoàng ly
Tấm lòng đất nước chung hoan hỷ
Hương khói thơm lừng nhịp trúc ty
Những vần thơ tỏ lòng tin tưởng vào tương lai dân tộc, lạc quan trước thời cuộc và xúc động tuôn trào trước cảnh vật đẹp tươi: mặt trời rọi ánh dương quang, làm tan màn sương giá lạnh, ngọn quốc kỳ phấp phới bay trong gió, Nam-Ngãi-Bình, ba tỉnh đã qua rồi cơn ác mộng, giờ đây hoa lồng trước dậu, trà ngát thư trai, oanh ca trên cành hòa điệu thái hòa cùng nhịp rung của lòng người hoan hỷ với tiếng tơ tiếng trúc chung quanh thôn xóm. Thi gia nào đã viết những vần thơ ấp áp và tươi vui trên vào lúc nào nhỉ?
Xin thưa đó là bài "Tân xuân" cảm tác của Quách Tấn viết vào năm 1955 tại Nha Trang sau khi Sài Gòn trở thành thủ đô và trước khi vua Bảo Đại bị truất phế.
Nhờ niềm tin, nguồn vui và nhờ nguồn sống nơi người viết và người đọc nên đã diễn ra cảnh Thịnh Đường về văn học ở Miền Nam sau 1954.
Sài Gòn 1954-1975 văn học rộ nở và nhà văn có thể sống bằng ngòi bút vì hàng triệu độc giả sẵn sàng đón nhận vần châu ngọc và những đứa con tinh thần của họ.
Nhân đó các nhà xuất bản thi nhau in ấn và phát hành nên sách, một món hàng phổ thông dùng để trân trọng tặng nhau, dùng để lưu niệm trong tủ sách gia đình. Dĩ nhiên trong giới văn nghệ thời nào chẳng có lái buôn chữ nghĩa thấy sách hay thì in trộm nên sách in quá nhiều và trở thành hạ giá. Chợ sách xuất hiện trên hè phố có thể làm cho một số thức giả đau lòng "vì văn chương hạ giới rẻ như bèo" như Tản Đà khi xưa từng than nhưng phần đông độc giả thích thú vì có thể có sách quý bán đại hạ giá, vừa túi tiền của mình và họ không muốn mất cơ hội ngàn năm một thuở trang bị cho tủ sách gia đình của mình.
Ta hãy nghe Đông Hồ tả thị trường sách vở ở Miền Nam lúc ấy dồi dào như thế nào khi sách tràn đầy vỉa hè Lê Lợi và Pasteur.
Nhà thơ vốn đa cảm đi bên cạnh chợ sách vỉa hè "Từng bước noi lề kim cổ, Đôi bờ cỏ thánh hoa hiền" tuy "đau lòng chữ nghĩa" nhưng có niềm tin sách vở "giữ chút niềm trinh trắng, gởi lòng tri kỷ muôn phương."
Từng bước noi lề kim cổ
Đôi bờ cỏ thánh hoa hiền
Bè bạn bốn mùa trăng gió
Rừng em suối chị giao duyên
Giấy mực đau lòng chữ nghĩa
Tài hoa phô giữa chợ đời
Những nghĩ e hèn thẹn tía
Chỉ cho bướm cợt ong cười
Mấy độ phai sương nhạt nắng
Mắt xanh còn luyến gót đường
Giữ chút niềm Trinh ý Trắng
Gởi lòng tri kỷ muôn phương
Có niềm tin, có tài hoa lại có tri kỷ bốn phương nên các thi nhân tài danh đã thay đổi nguồn cảm hứng cho hợp với lòng mong mỏi của độc giả. Họ đã hướng về khát vọng tự do của dân tộc.
Vũ Hoàng Chương trước 1945 được coi là "Chàng Say", thơ của ông là Thơ Say, là Mây (tên người yêu thuở đầu đời của ông là Vân, ông thường gọi là Vân Muội.)
Chúng ta từng nghe giai thoại Huy Cận, tác giả Lửa Thiêng, rất thích thơ họ Vũ và một hôm gặp Vũ ở Cống Chéo, Hàng Lược, Huy Cận bắt tay Vũ và ngâm hai câu:
Đã lâu gặp lại chàng Say
Lửa thiêng xin đợi chờ Mây xuống trần
Ý của Huy Cận không giấu sự kiêu hãnh, cho rằng Mây phải hạ trần để gặp Lửa Thiêng của mình. Vũ Hoàng Chương hóm hỉnh đáp lại:
Mây kia chẳng chịu xuống trần
Lửa ơi theo khói lên gần với Mây !
Lời đáp thực hay vừa tỏ sự thân thiện và vừa giữ được cốt cách cao ngạo, tư cách phi thường của nhà thơ có tài, rằng Lửa muốn gần Mây thì chịu khó theo khói bay lên mới được.
Nhưng sau khi vào Nam tuy Vũ Hoàng Chương khó quên cố đô, quên người cũ mỗi độ xuân về như ông đã viết những câu trong bài "Nửa đêm trừ tịch" sau đây:
Bấy nay một mối tình cao quý
Tưởng đã chìm sâu cát bụi đời
Khoảnh khắc thiêu tàn duyên tục lụy
Nửa đêm Trừ tịch gió lên khơi
Giai nhân danh sĩ mấy người
Bốn phương tâm sự một trời Cố đô
Mười năm qua, đến bây giờ
Nhìn nhau thấy cả giấc mơ thuở nào
Rồi lòng ái quốc bừng sôi trong tâm trí một nhà thơ đa cảm. Nhớ mùa xuân chiến thắng Kỷ Dậu, ông đã viết bài anh hùng ca "Bài Ca Bình Bắc".
Đọc những câu sau đây chúng tại lại văng vẳng nghe lại bài "Hịch tướng sĩ" của Trần Hưng Đạo và "Bình ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi. Đặc biệt hình ảnh Quang Trung chiến thắng Đống Đa từ Ai tư vãn (Lê Ngọc Hân), Hoàng lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái), tới Xuân chiến thắng (Đằng Phương) lại một lần nữa hiện rõ và linh động trong tâm khảm người đọc:
Một phút oai thần dậy sấm
Tan vía cường bang
Cho bóng kẻ ngồi trên lưng bạch tượng
Cao chót vót với năm màu mây chiêm ngưỡng
Dài mênh mông vượt khỏi lũy Nam Quan
Và khoảnh khắc
đổ xuôi chiều vươn ngược hướng
Bao trùm lên đầu cuối Thời Gian
Bóng ấy đã ghi sâu vào tâm tưởng
Khắc sâu vào trí nhớ dân gian
Một bành voi che lấp mấy ngai vàng
Ôi Nguyễn Huệ người anh hùng áo vải
Muôn chiến công, một chiến công dồn lại
Một tấm lòng, muôn vạn tấm lòng mang
Ngọn kiếm trỏ, bao cánh tay hăng hái
Ngọn cờ vung , bao tính mệnh sẵn sàng
Người cất bước , cả non sông một dải
Vươn mình theo dãy Hoành sơn mê mải
Chạy dọc lên thông cảm ý ngang tàng
Cũng chồm dậy đáp lời hô vĩ đại
Chín con rồng bay ngược Cửu Long giang
Người ra Bắc, oai thanh mờ nhật nguyệt
Khí thế kia làm rung động càn khôn.
Lệnh ban xuống, lời lời tâm huyết
Nẻo trường chinh ai dám bước chân chồn
Gươm thiêng cựa vỏ,
Giặc không mồ chôn.
Voi thiêng chuyển vó,
Nát lũy, tan đồn
Ôi một hành ca hề, gào mây, thét gió,
Mà ý tướng, lòng quân hề, bền sắt, tươi son.
Hưởng ứng sông hồ giục núi non
"Thắt vòng vây lại" tiếng hô ròn
Tơi bời máu giặc, trăng liềm múa
Tan tác xương thù, ngựa đá bon.
Sim rừng, lúa ruộng, tre thôn,
Lòng say phá địch, khúc đồn tiến quân
Vinh quang hẹn với phong trần
Đống Đa gò ấy mùa xuân năm nào
Trong những năm cuối 50 sang thập niên 60, Vũ Hoàng Chương đã tích cực tham gia hội "Văn Bút Việt Nam" và đại diện xứ sở đi dự hội nghị thi ca thế giới (1959 tại Knokke, Bỉ). Nhà thơ như trẻ lại, tóc phơi phới bay, nụ cười tươi tỉnh, xông xáo trên văn đàn, sáng tác ra lối thơ "Nhị thập bát tú" dìu dắt thế hệ sau vào lãnh vực thi ca. Trong lòng ông lúc ấy tinh thần ái quốc dâng cao, lòng vì đời vì người, vì non sông Đất Việt ngun ngút trong tim và đã thể hiện tâm huyết trong bài "Trả ta sông núi" với những câu kêu gọi thống thiết:
Trải bốn nghìn năm dựng nước nhà
Sông khoe hùng dũng , núi nguy nga
Trả ta sông núi ! Bao người chết
Gào thét đòi cho bọn chúng ta ...
Trả ta sông núi ! Từng trang sử
Dân tộc còn nghe vọng thiết tha
Ngược vết thời gian còn nhắn nhủ
Không đòi ai trả núi sông ta !
Đọc thơ Vũ Hoàng Chương không thể quên giai đoạn trước 60, nhà thơ như trẻ lại, dồi dào niềm tin trước tương lai đất nước. Trong nhiều bài thơ sáng tác khi đó, nhà thơ đã hô hào thanh niên vì tiền đồ của dân tộc, hãy đứng lên trước "Giờ đã điểm" góp sức xây nền tự do và độc lập cho dân tộc. Tâm trạng gắn liền với thời cuộc của ông, có thể thấy trong thi phẩm "Hoa Đăng" xuất bản vào năm 1959.
Có người cho rằng vào giai đoạn này thơ Vũ Hoàng Chương bị lôi cuốn vào xu hướng thời sự. Nhận định này chưa hẳn chính xác. Nhiều nhân chứng được gặp nhà thơ họ Vũ vào những năm cuối thập niên 50 và năm đầu thập niên 60 kể lại, trong khi trò chuyện, nhà thơ đã tỏ ra nhiệt tình với thời cuộc và mệnh vận Miền Nam. Tình trạng sôi nổi trong lòng nhà thơ giàu cảm xúc đã giúp ông viết những dòng thơ khác hẳn nguồn thơ say, thơ tình và thơ mộng, vốn là nét đậm trong cảm xúc nơi thi nhân. Ta hãy nghe Vũ Hoàng Chương hô hào thanh niên bằng những lời thống thiết:
Con Người còn đấy
Nước Tổ còn đây !
Còn phải đấu tranh vì Lý tưởng
Kết trong hai chữ Tự do này
Ôi giờ đã điểm; nghe thần tượng
Phơi phới hào quang đẹp cánh bay !
Chúng ta nguyền: Đã đến ngày
Dâng lên nước Tổ vào tay con Người
Đẹp như thần tượng sáng ngời
Phải chăng các bạn? Một đời tự do !
Nếu không phát xuất từ lửa trong tim thì làm sao có những vần thơ thép luyện như trên?
**
Sài gòn mưa rồi nắng, trong cái khí hậu bất thường như tâm hồn một nhà nghệ sĩ. Ở đây trong những ngày gay gắt nắng, lạc vào những cơn mưa dữ dội, thình lình, đứt quãng. Lòng người Sài gòn cũng khác. Nó nóng nảy và hào hiệp trong nhiệt độ một mặt trời sáng rực suốt năm."
Cây bút nào viết về Sài Gòn bằng văn xuôi mà nghe như thơ vậy?
Không phải danh nho Trịnh Hoài Đức ca tụng cảnh và người của Gia Định trước 1862 trong "Gia định thống chí". Không phải Trương Vĩnh Ký trong "Souvenirs Historiques" và Vương Hồng Sển trong "Sài Gòn năm xưa" vẽ những nét đẹp về Bến Nghé trong dĩ vãng và cũng không phải Bàng Bá Lân viết những dòng nồng nàn về con người và tiếng miền Nam trong bài "Tôi yêu".
Tác giả những dòng trên từng giới thiệu về mình:
Tôi chỉ là người lữ khách
Màu chiều khó làm khuây
Ngỡ lòng mình là rừng
Ngỡ hồn mình là mây
Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên cây !
Xin thưa, người đó chính là Hồ Dzếnh. Có lẽ chưa có cây viết nào viết về Sài Gòn qua những cảm giác chân thành và mới lạ như Hồ Dzếnh. Tại sao? Hồ Dzếnh hay Hà Triệu Anh, là một nhà thơ Việt có nửa dòng máu Trung Hoa, và đã nhận Việt Nam là "quê ngoại". Ông ra đời ở miền quê Thanh Hóa và trưởng thành ở Hà Nội. Hồ Dzếnh vào văn đàn từ 1937 và cho tới 1953 ông gắn bó với quê hương miền Bắc trong văn xuôi (như Một chuyện tình 15 năm về trước, Chân trời cũ" cũng như trong thơ ca (Quê Ngoại, Hoa xuân Đất Việt).
Mãi tới năm 1953, bước dần vào tuổi 40 (Hồ Dếnh sinh năm 1916), Hồ Dzếnh vào Sài gòn lấy bút hiệu là Hoàng Liên viết cho tờ Thần Chung. Trong thời gian một năm ở Hòn Ngọc Viễn Đông, Hồ Dzếnh đã tiếp xúc với một nguồn cảm hứng mới trước vẻ đẹp mới và quê hương mới. Nhờ cảm xúc tuôn trào, Hồ Dzếnh đã sáng tác thơ và tiểu thuyết ca tụng miền Nam, ca tụng Sài Gòn bằng những chi tiết rất độc đáo mà phần đông chúng ta vì quá thân quen nên không để ý.
Ta hãy nghe tiếng lòng của nhà thơ gửi gấm vào tâm sự của một cô gái quê hương miền Bắc theo mẹ vào Nam từ thuở ấu thơ. Dù nơi cô gái trẻ, tình hoài hương còn nặng nhưng đất mới có lòng người đậm đà, có cảnh sắc thân thương và nguồn sống thơm lành đã níu chân kẻ tha hương như câu ca dao quen thuộc đã ghi: "Xứ Nam dễ ở khó về. Trai đi có vợ, gái về có con."
Lời về
Thuở trước quê em ở Bắc
Vô Nam từ độ lên mười
Mây trắng ngày ngày xa tắp
Nhớ quê em buồn khôn nguôi
Mái tóc dừa xanh Thủ Đức
Ngọt ngào thay trái sầu riêng
Gió bãi phù sa Bến Lức
Nay thuần sữa mẹ linh thiêng
Em dẫu chỉ là con gái
Quê xinh soi bóng sông lành
Theo mẹ băng chừng quan tái
Bao giờ quên lũy tre xanh
Anh nhé giùm em nhắn với
Nhớ quê em ngại thăm quê
Lửa phượng trời duyên Khánh Hội
Bạc Liêu dễ ở khó về
Vó ngựa từ hồi vỗ xuống Nam
Truông mòn đưa lối Hải Vân San
Áo nâu phai lạt mùi cây cỏ
Lá rụng hoa rơi đất nước Chàm
Trong "Lời về", Hồ Dzếnh với cây bút phù thủy của một nhà thơ có tài, đã trộn lẫn quê hương Nam - Bắc trong một bức tranh cảnh, một bản tình ca cực kỳ cảm động, du dương và khéo léo. Đặc biệt ở đó chúng ta tìm thấy được những nét quyến rũ của miền Nam đã khiến cho những kẻ xa quê không bao giờ có thể nguôi quên.
Hồ Dzếnh còn viết về Sài Gòn nhiều lần nữa, nhất là về người Sài Gòn mà ông cho là thuần phác, hào hiệp và nhiệt tình.
Trong tác phẩm "Cô gái Bình Xuyên" (Tiếng Phương Đông xb - 1946), Hồ Dzếnh tạo ra nhân vật "Tăng", một thanh niên từ miền Bắc vào Sài Gòn khoảng 1940. Tăng đã chứng kiến một tình trạng lịch sử chuyển mình ở xứ thuộc địa khi Nhật vào Đông Dương và Thế chiến thứ hai bùng nổ được một năm. Tại đây, Tăng gặp một gái có tên là Kim Đính, Kim Đính không những tượng trưng cho cô gái Sài Gòn xinh đẹp và thực thà mà còn tiêu biểu cho gương ái quốc sôi sục và can trường của người miền Nam. Tác giả tiết lộ nàng là cô gái Bình Xuyên, và Bình Xuyên, một tổ chức giang hồ, mà ông cho rằng là một "hội kín" chống Pháp. Thế rồi cuộc tình trong chiến loạn của họ bắt đầu. Phần chúng ta muốn giới thiệu ở đây không phải là quan điểm lịch sử của Hồ Dzếnh mà là cái nhìn có phần khách quan của ông với Sài Gòn năm xưa. Ta hãy nghe ông ghi lại cảm xúc của khách ly hương lần đầu tiếp xúc với cảnh, với người Sài Gòn, nhất là người ấy lại là một thiếu phụ xinh đẹp có giọng nói như chim hót:
"Lần này, vì mới vào Sài Gòn, Tăng ước ao có đôi chút ý kiến xác đáng về tính tình Người Việt miền Nam... nghe cái giọng nói tròn và đứt, trong âm hưởng kỳ thú của ngôn ngữ Nam bộ, Tăng thấy lạ tai và đưa mắt nhìn thiếu phụ. Đôi lần, Tăng ngạc nhiên nghe nàng dùng tiếng chưa ai chua trong cuốn tự điển Việt Nam, những tiếng trái cựa và sường sượng, bắt cái lưỡi lăn tròn hay đưa dài ra, theo giọng nói. Tăng vụt nghĩ đến cách phát âm của người Anh, buông nhẹ và bỏ lửng, tắt ở gần cuối của mỗi tiếng dùng, đòi nhiều sự hiểu biết thông minh của thính giả. Yêu giọng Bắc, thích điệu Huế, một đằng đài các, một đằng phong tình, Tăng bây giờ mới chợt khám phá ra cái kho tàng phong phú thứ ba của tiếng nói Đất Việt: tiếng nói Sài Gòn. Tăng chưa hiểu thiếu phụ thuộc giai cấp nào của xã hội, một hạng người khó đoán, ở cách trang sức lộng lẫy, nhưng vẫn giữ được vẻ bình dân, đơn giản. Một chuỗi hạt ngọc thạch óng ánh quanh chiếc cổ nhỏ, đôi dây vàng và cái đồng hồ nhỏ xíu tăng thêm vẻ đẹp của đôi bàn tay. Hình dáng thiếu phụ khiến Tăng mang máng nhớ đến những cuốn truyện tả đời sống xa hoa của các công tử Bạc Liêu, tiểu thư Rạch Giá và những hành vi bán trời không văn tự của đất Sài Gòn. Tăng nhớ đến Phú Đức, đến Nguyễn Chánh Sắt, những cây bút Nam bộ đã tạo ra không biết cơ man nào là anh hùng, là tình trường huyết lệ.
Hồ Dzếnh cho ta biết thêm nữa về ngôn ngữ Sài Gòn mà một khách lạ như Tăng có lẽ cảm thấy nhiều ấn tượng kỳ thú khi lần đầu được cùng cô gái miền Nam đối đáp:
- Tôi vào đây hai ngày rồi mà chưa tìm thấy người quen. Họ đã đổi chỗ ở. Tôi lại chưa quen ai, à quên, tôi mới quen ôn chủ khách sạn.
Người đàn bà nhìn chàng chăm chú:
- Tại Sài Gòn thiếu chi "mèo", thầy. Thầy chịu khó kiếm vài cô cho vui.
Tăng bực bội vì sao một người thiếu phụ dự ít nhiều vào hạng nhan sắc, lại có thể dùng loại ngôn ngữ sỗ sàng như thế:
- Sao cô... Ba ăn nói mạnh bạo vậy?
Một nhịp cười giòn giã vang lên:
- Ai bảo cho Thầy biết tôi là cô Ba? Chỉ phiền một điều tôi lại là cô... Hai. Thầy gắng học giỏi tiếng Sài Gòn đi, nghen."
Không phải Sài Gòn chỉ ưu tú về cảnh và về người mà Bến Nghé còn là kho trời vô tận nuôi cả nước. Hồ Dzếnh ghi lại bằng lời thực thà những gì biết về Sài Gòn nên chưa hẳn đủ khách quan để làm vừa lòng tất cả chúng ta:
"Người ta cho Tăng biết rằng Sài Gòn giàu vô kể, đời sống Sài Gòn rộng rãi và phóng khoáng, nhân vật Sài Gòn xử sự ngay ngắn như con đường hỏa xa. Cơ man người Bắc vào đây lập nghiệp để rồi trở ra Bắc với những cái gia tài vĩ đại, kết quả những đêm trúng bạc rền ở Chợ Lớn, những chuyến chạy hàng lậu ngang tàng, và của những năm cần cù buôn bán nữa. Sài Gòn, kinh đô tứ chiếng, thành thị giang hồ, đứng án ngữ lấy đầu Nam bộ, chặn đường lên Nam Vang, và mở lối về Paksé. Sài Gòn ngày đêm rút màu mỡ của ba xứ để cung phụng cho một mãnh đất chỉ biết bão lụt quanh năm: Bắc bộ. Cho nên cái xương sống kinh tế là con đường xe lửa Hà nội - Sài gòn bao nhiêu chuyến tàu chở đầy đến nóc những con người lìa bỏ những mảnh đất khô cằn đằng ngoài để vào đằng trong màu mỡ."
Hồ Dzếnh vào Nam và Sài Gòn đã lôi cuốn tâm hồn đa cảm của một lữ khách như ông, nhưng sau hiệp định Genève vào tháng 10, 1954 ông lại trở ra Bắc? Nguyên nhân chính vì tình yêu. Lúc này nhà thơ gắn bó với người vợ thứ hai trong đời là Nguyễn Thị Hồng Nhật (góa phụ của nhà thơ Trần Trung Phương) còn ở Hà Nội. Hơn nữa, Hồ Dzếnh cho rằng ở lại Hà Nội sẽ có cơ hội trở về thăm quê Nội Trung hoa mà ông hằng ao ước. Nào ngờ, Hồ Dzếnh đã lầm và là mối lầm ghê gớm nhất đời của một kẻ có trái tim sôi nổi đối với quê ngoại, với tình yêu, với tự do và đối với nghệ thuật.
Sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm (1956 - 57) các nhà văn ở Hà Nội khi ấy, dù không trực tiếp tham gia chống đối cũng bị nghi ngờ và Hồ Dzếnh bị kết tội gián điệp chỉ vì đã từng vào Sài Gòn viết cho tờ Thần Chung. Thế là nhà thơ buộc gác bút và trở thành công nhân cho nhà máy cơ khí, nhà máy xe lửa Gia Lâm.
Cho tới những năm giữa thập niên 80, Hồ Dzếnh mới được nhắc tới. Thiệt hại cho một thi tài mấy chục năm không có nhiều cơ hội cầm bút và phải "gặm khối bất bình".
Có lẽ vì thế trước khi qua đời vào năm 1991, tác giả Quê Ngoại đã viết "Ngày xuân đọc lại Truyện Kiều" để gửi gấm ít nhiều hối tiếc của kẻ lầm lỡ trong đời chỉ vì lụy tình như Phạm Quý Thích đã nhắc nhở "nhất phiến tài tình thiên cổ lụy":
Gọi đời là "cõi người ta"
Sao nghe thấm thía xót xa nỗi mình
Tố Như ơi, lụy vì tình
Nghìn xưa như bóng với hình y nguyên !