PDA

View Full Version : Sài Gòn và Hà Nội


Quận Chúa Quỳnh Anh
14-12-2007, 11:53
Luận Văn Đàn không có chủ trương sưu tầm, nhưng đọc được bài viết hay QA muốn chia sẻ. Nếu bạn nào có "cảm đề" thì tùy hứng mà bình văn thơ nhé, xin cám ơn!

Sài Gòn, niềm nhớ không tên (HYL)

Ngàn sương lóng lánh ánh quang huy
Phấp phới nồm trương ngọn quốc kỳ
Cửa đón tân xuân lồng thược dược
Trà dâng nguyên đán ngát tường vy
Mộng phiền ba tỉnh hồn phấn điệp
Điềm thái hòa ứng giọng hoàng ly
Tấm lòng đất nước chung hoan hỷ
Hương khói thơm lừng nhịp trúc ty

Những vần thơ tỏ lòng tin tưởng vào tương lai dân tộc, lạc quan trước thời cuộc và xúc động tuôn trào trước cảnh vật đẹp tươi: mặt trời rọi ánh dương quang, làm tan màn sương giá lạnh, ngọn quốc kỳ phấp phới bay trong gió, Nam-Ngãi-Bình, ba tỉnh đã qua rồi cơn ác mộng, giờ đây hoa lồng trước dậu, trà ngát thư trai, oanh ca trên cành hòa điệu thái hòa cùng nhịp rung của lòng người hoan hỷ với tiếng tơ tiếng trúc chung quanh thôn xóm. Thi gia nào đã viết những vần thơ ấp áp và tươi vui trên vào lúc nào nhỉ?

Xin thưa đó là bài "Tân xuân" cảm tác của Quách Tấn viết vào năm 1955 tại Nha Trang sau khi Sài Gòn trở thành thủ đô và trước khi vua Bảo Đại bị truất phế.

Nhờ niềm tin, nguồn vui và nhờ nguồn sống nơi người viết và người đọc nên đã diễn ra cảnh Thịnh Đường về văn học ở Miền Nam sau 1954.

Sài Gòn 1954-1975 văn học rộ nở và nhà văn có thể sống bằng ngòi bút vì hàng triệu độc giả sẵn sàng đón nhận vần châu ngọc và những đứa con tinh thần của họ.

Nhân đó các nhà xuất bản thi nhau in ấn và phát hành nên sách, một món hàng phổ thông dùng để trân trọng tặng nhau, dùng để lưu niệm trong tủ sách gia đình. Dĩ nhiên trong giới văn nghệ thời nào chẳng có lái buôn chữ nghĩa thấy sách hay thì in trộm nên sách in quá nhiều và trở thành hạ giá. Chợ sách xuất hiện trên hè phố có thể làm cho một số thức giả đau lòng "vì văn chương hạ giới rẻ như bèo" như Tản Đà khi xưa từng than nhưng phần đông độc giả thích thú vì có thể có sách quý bán đại hạ giá, vừa túi tiền của mình và họ không muốn mất cơ hội ngàn năm một thuở trang bị cho tủ sách gia đình của mình.

Ta hãy nghe Đông Hồ tả thị trường sách vở ở Miền Nam lúc ấy dồi dào như thế nào khi sách tràn đầy vỉa hè Lê Lợi và Pasteur.

Nhà thơ vốn đa cảm đi bên cạnh chợ sách vỉa hè "Từng bước noi lề kim cổ, Đôi bờ cỏ thánh hoa hiền" tuy "đau lòng chữ nghĩa" nhưng có niềm tin sách vở "giữ chút niềm trinh trắng, gởi lòng tri kỷ muôn phương."

Từng bước noi lề kim cổ
Đôi bờ cỏ thánh hoa hiền
Bè bạn bốn mùa trăng gió
Rừng em suối chị giao duyên
Giấy mực đau lòng chữ nghĩa
Tài hoa phô giữa chợ đời
Những nghĩ e hèn thẹn tía
Chỉ cho bướm cợt ong cười
Mấy độ phai sương nhạt nắng
Mắt xanh còn luyến gót đường
Giữ chút niềm Trinh ý Trắng
Gởi lòng tri kỷ muôn phương

Có niềm tin, có tài hoa lại có tri kỷ bốn phương nên các thi nhân tài danh đã thay đổi nguồn cảm hứng cho hợp với lòng mong mỏi của độc giả. Họ đã hướng về khát vọng tự do của dân tộc.

Vũ Hoàng Chương trước 1945 được coi là "Chàng Say", thơ của ông là Thơ Say, là Mây (tên người yêu thuở đầu đời của ông là Vân, ông thường gọi là Vân Muội.)

Chúng ta từng nghe giai thoại Huy Cận, tác giả Lửa Thiêng, rất thích thơ họ Vũ và một hôm gặp Vũ ở Cống Chéo, Hàng Lược, Huy Cận bắt tay Vũ và ngâm hai câu:

Đã lâu gặp lại chàng Say
Lửa thiêng xin đợi chờ Mây xuống trần

Ý của Huy Cận không giấu sự kiêu hãnh, cho rằng Mây phải hạ trần để gặp Lửa Thiêng của mình. Vũ Hoàng Chương hóm hỉnh đáp lại:

Mây kia chẳng chịu xuống trần
Lửa ơi theo khói lên gần với Mây !

Lời đáp thực hay vừa tỏ sự thân thiện và vừa giữ được cốt cách cao ngạo, tư cách phi thường của nhà thơ có tài, rằng Lửa muốn gần Mây thì chịu khó theo khói bay lên mới được.

Nhưng sau khi vào Nam tuy Vũ Hoàng Chương khó quên cố đô, quên người cũ mỗi độ xuân về như ông đã viết những câu trong bài "Nửa đêm trừ tịch" sau đây:

Bấy nay một mối tình cao quý
Tưởng đã chìm sâu cát bụi đời
Khoảnh khắc thiêu tàn duyên tục lụy
Nửa đêm Trừ tịch gió lên khơi
Giai nhân danh sĩ mấy người
Bốn phương tâm sự một trời Cố đô
Mười năm qua, đến bây giờ
Nhìn nhau thấy cả giấc mơ thuở nào

Rồi lòng ái quốc bừng sôi trong tâm trí một nhà thơ đa cảm. Nhớ mùa xuân chiến thắng Kỷ Dậu, ông đã viết bài anh hùng ca "Bài Ca Bình Bắc".

Đọc những câu sau đây chúng tại lại văng vẳng nghe lại bài "Hịch tướng sĩ" của Trần Hưng Đạo và "Bình ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi. Đặc biệt hình ảnh Quang Trung chiến thắng Đống Đa từ Ai tư vãn (Lê Ngọc Hân), Hoàng lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái), tới Xuân chiến thắng (Đằng Phương) lại một lần nữa hiện rõ và linh động trong tâm khảm người đọc:

Một phút oai thần dậy sấm
Tan vía cường bang
Cho bóng kẻ ngồi trên lưng bạch tượng
Cao chót vót với năm màu mây chiêm ngưỡng
Dài mênh mông vượt khỏi lũy Nam Quan
Và khoảnh khắc
đổ xuôi chiều vươn ngược hướng
Bao trùm lên đầu cuối Thời Gian
Bóng ấy đã ghi sâu vào tâm tưởng
Khắc sâu vào trí nhớ dân gian
Một bành voi che lấp mấy ngai vàng
Ôi Nguyễn Huệ người anh hùng áo vải
Muôn chiến công, một chiến công dồn lại
Một tấm lòng, muôn vạn tấm lòng mang
Ngọn kiếm trỏ, bao cánh tay hăng hái
Ngọn cờ vung , bao tính mệnh sẵn sàng
Người cất bước , cả non sông một dải
Vươn mình theo dãy Hoành sơn mê mải
Chạy dọc lên thông cảm ý ngang tàng
Cũng chồm dậy đáp lời hô vĩ đại
Chín con rồng bay ngược Cửu Long giang
Người ra Bắc, oai thanh mờ nhật nguyệt
Khí thế kia làm rung động càn khôn.
Lệnh ban xuống, lời lời tâm huyết
Nẻo trường chinh ai dám bước chân chồn
Gươm thiêng cựa vỏ,
Giặc không mồ chôn.
Voi thiêng chuyển vó,
Nát lũy, tan đồn
Ôi một hành ca hề, gào mây, thét gió,
Mà ý tướng, lòng quân hề, bền sắt, tươi son.
Hưởng ứng sông hồ giục núi non
"Thắt vòng vây lại" tiếng hô ròn
Tơi bời máu giặc, trăng liềm múa
Tan tác xương thù, ngựa đá bon.
Sim rừng, lúa ruộng, tre thôn,
Lòng say phá địch, khúc đồn tiến quân
Vinh quang hẹn với phong trần
Đống Đa gò ấy mùa xuân năm nào

Trong những năm cuối 50 sang thập niên 60, Vũ Hoàng Chương đã tích cực tham gia hội "Văn Bút Việt Nam" và đại diện xứ sở đi dự hội nghị thi ca thế giới (1959 tại Knokke, Bỉ). Nhà thơ như trẻ lại, tóc phơi phới bay, nụ cười tươi tỉnh, xông xáo trên văn đàn, sáng tác ra lối thơ "Nhị thập bát tú" dìu dắt thế hệ sau vào lãnh vực thi ca. Trong lòng ông lúc ấy tinh thần ái quốc dâng cao, lòng vì đời vì người, vì non sông Đất Việt ngun ngút trong tim và đã thể hiện tâm huyết trong bài "Trả ta sông núi" với những câu kêu gọi thống thiết:

Trải bốn nghìn năm dựng nước nhà
Sông khoe hùng dũng , núi nguy nga
Trả ta sông núi ! Bao người chết
Gào thét đòi cho bọn chúng ta ...
Trả ta sông núi ! Từng trang sử
Dân tộc còn nghe vọng thiết tha
Ngược vết thời gian còn nhắn nhủ
Không đòi ai trả núi sông ta !

Đọc thơ Vũ Hoàng Chương không thể quên giai đoạn trước 60, nhà thơ như trẻ lại, dồi dào niềm tin trước tương lai đất nước. Trong nhiều bài thơ sáng tác khi đó, nhà thơ đã hô hào thanh niên vì tiền đồ của dân tộc, hãy đứng lên trước "Giờ đã điểm" góp sức xây nền tự do và độc lập cho dân tộc. Tâm trạng gắn liền với thời cuộc của ông, có thể thấy trong thi phẩm "Hoa Đăng" xuất bản vào năm 1959.

Có người cho rằng vào giai đoạn này thơ Vũ Hoàng Chương bị lôi cuốn vào xu hướng thời sự. Nhận định này chưa hẳn chính xác. Nhiều nhân chứng được gặp nhà thơ họ Vũ vào những năm cuối thập niên 50 và năm đầu thập niên 60 kể lại, trong khi trò chuyện, nhà thơ đã tỏ ra nhiệt tình với thời cuộc và mệnh vận Miền Nam. Tình trạng sôi nổi trong lòng nhà thơ giàu cảm xúc đã giúp ông viết những dòng thơ khác hẳn nguồn thơ say, thơ tình và thơ mộng, vốn là nét đậm trong cảm xúc nơi thi nhân. Ta hãy nghe Vũ Hoàng Chương hô hào thanh niên bằng những lời thống thiết:

Con Người còn đấy
Nước Tổ còn đây !
Còn phải đấu tranh vì Lý tưởng
Kết trong hai chữ Tự do này
Ôi giờ đã điểm; nghe thần tượng
Phơi phới hào quang đẹp cánh bay !
Chúng ta nguyền: Đã đến ngày
Dâng lên nước Tổ vào tay con Người
Đẹp như thần tượng sáng ngời
Phải chăng các bạn? Một đời tự do !

Nếu không phát xuất từ lửa trong tim thì làm sao có những vần thơ thép luyện như trên?

**

Sài gòn mưa rồi nắng, trong cái khí hậu bất thường như tâm hồn một nhà nghệ sĩ. Ở đây trong những ngày gay gắt nắng, lạc vào những cơn mưa dữ dội, thình lình, đứt quãng. Lòng người Sài gòn cũng khác. Nó nóng nảy và hào hiệp trong nhiệt độ một mặt trời sáng rực suốt năm."
Cây bút nào viết về Sài Gòn bằng văn xuôi mà nghe như thơ vậy?

Không phải danh nho Trịnh Hoài Đức ca tụng cảnh và người của Gia Định trước 1862 trong "Gia định thống chí". Không phải Trương Vĩnh Ký trong "Souvenirs Historiques" và Vương Hồng Sển trong "Sài Gòn năm xưa" vẽ những nét đẹp về Bến Nghé trong dĩ vãng và cũng không phải Bàng Bá Lân viết những dòng nồng nàn về con người và tiếng miền Nam trong bài "Tôi yêu".
Tác giả những dòng trên từng giới thiệu về mình:

Tôi chỉ là người lữ khách
Màu chiều khó làm khuây
Ngỡ lòng mình là rừng
Ngỡ hồn mình là mây
Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên cây !

Xin thưa, người đó chính là Hồ Dzếnh. Có lẽ chưa có cây viết nào viết về Sài Gòn qua những cảm giác chân thành và mới lạ như Hồ Dzếnh. Tại sao? Hồ Dzếnh hay Hà Triệu Anh, là một nhà thơ Việt có nửa dòng máu Trung Hoa, và đã nhận Việt Nam là "quê ngoại". Ông ra đời ở miền quê Thanh Hóa và trưởng thành ở Hà Nội. Hồ Dzếnh vào văn đàn từ 1937 và cho tới 1953 ông gắn bó với quê hương miền Bắc trong văn xuôi (như Một chuyện tình 15 năm về trước, Chân trời cũ" cũng như trong thơ ca (Quê Ngoại, Hoa xuân Đất Việt).

Mãi tới năm 1953, bước dần vào tuổi 40 (Hồ Dếnh sinh năm 1916), Hồ Dzếnh vào Sài gòn lấy bút hiệu là Hoàng Liên viết cho tờ Thần Chung. Trong thời gian một năm ở Hòn Ngọc Viễn Đông, Hồ Dzếnh đã tiếp xúc với một nguồn cảm hứng mới trước vẻ đẹp mới và quê hương mới. Nhờ cảm xúc tuôn trào, Hồ Dzếnh đã sáng tác thơ và tiểu thuyết ca tụng miền Nam, ca tụng Sài Gòn bằng những chi tiết rất độc đáo mà phần đông chúng ta vì quá thân quen nên không để ý.

Ta hãy nghe tiếng lòng của nhà thơ gửi gấm vào tâm sự của một cô gái quê hương miền Bắc theo mẹ vào Nam từ thuở ấu thơ. Dù nơi cô gái trẻ, tình hoài hương còn nặng nhưng đất mới có lòng người đậm đà, có cảnh sắc thân thương và nguồn sống thơm lành đã níu chân kẻ tha hương như câu ca dao quen thuộc đã ghi: "Xứ Nam dễ ở khó về. Trai đi có vợ, gái về có con."

Lời về

Thuở trước quê em ở Bắc
Vô Nam từ độ lên mười
Mây trắng ngày ngày xa tắp
Nhớ quê em buồn khôn nguôi
Mái tóc dừa xanh Thủ Đức
Ngọt ngào thay trái sầu riêng
Gió bãi phù sa Bến Lức
Nay thuần sữa mẹ linh thiêng
Em dẫu chỉ là con gái
Quê xinh soi bóng sông lành
Theo mẹ băng chừng quan tái
Bao giờ quên lũy tre xanh
Anh nhé giùm em nhắn với
Nhớ quê em ngại thăm quê
Lửa phượng trời duyên Khánh Hội
Bạc Liêu dễ ở khó về
Vó ngựa từ hồi vỗ xuống Nam
Truông mòn đưa lối Hải Vân San
Áo nâu phai lạt mùi cây cỏ
Lá rụng hoa rơi đất nước Chàm

Trong "Lời về", Hồ Dzếnh với cây bút phù thủy của một nhà thơ có tài, đã trộn lẫn quê hương Nam - Bắc trong một bức tranh cảnh, một bản tình ca cực kỳ cảm động, du dương và khéo léo. Đặc biệt ở đó chúng ta tìm thấy được những nét quyến rũ của miền Nam đã khiến cho những kẻ xa quê không bao giờ có thể nguôi quên.
Hồ Dzếnh còn viết về Sài Gòn nhiều lần nữa, nhất là về người Sài Gòn mà ông cho là thuần phác, hào hiệp và nhiệt tình.

Trong tác phẩm "Cô gái Bình Xuyên" (Tiếng Phương Đông xb - 1946), Hồ Dzếnh tạo ra nhân vật "Tăng", một thanh niên từ miền Bắc vào Sài Gòn khoảng 1940. Tăng đã chứng kiến một tình trạng lịch sử chuyển mình ở xứ thuộc địa khi Nhật vào Đông Dương và Thế chiến thứ hai bùng nổ được một năm. Tại đây, Tăng gặp một gái có tên là Kim Đính, Kim Đính không những tượng trưng cho cô gái Sài Gòn xinh đẹp và thực thà mà còn tiêu biểu cho gương ái quốc sôi sục và can trường của người miền Nam. Tác giả tiết lộ nàng là cô gái Bình Xuyên, và Bình Xuyên, một tổ chức giang hồ, mà ông cho rằng là một "hội kín" chống Pháp. Thế rồi cuộc tình trong chiến loạn của họ bắt đầu. Phần chúng ta muốn giới thiệu ở đây không phải là quan điểm lịch sử của Hồ Dzếnh mà là cái nhìn có phần khách quan của ông với Sài Gòn năm xưa. Ta hãy nghe ông ghi lại cảm xúc của khách ly hương lần đầu tiếp xúc với cảnh, với người Sài Gòn, nhất là người ấy lại là một thiếu phụ xinh đẹp có giọng nói như chim hót:
"Lần này, vì mới vào Sài Gòn, Tăng ước ao có đôi chút ý kiến xác đáng về tính tình Người Việt miền Nam... nghe cái giọng nói tròn và đứt, trong âm hưởng kỳ thú của ngôn ngữ Nam bộ, Tăng thấy lạ tai và đưa mắt nhìn thiếu phụ. Đôi lần, Tăng ngạc nhiên nghe nàng dùng tiếng chưa ai chua trong cuốn tự điển Việt Nam, những tiếng trái cựa và sường sượng, bắt cái lưỡi lăn tròn hay đưa dài ra, theo giọng nói. Tăng vụt nghĩ đến cách phát âm của người Anh, buông nhẹ và bỏ lửng, tắt ở gần cuối của mỗi tiếng dùng, đòi nhiều sự hiểu biết thông minh của thính giả. Yêu giọng Bắc, thích điệu Huế, một đằng đài các, một đằng phong tình, Tăng bây giờ mới chợt khám phá ra cái kho tàng phong phú thứ ba của tiếng nói Đất Việt: tiếng nói Sài Gòn. Tăng chưa hiểu thiếu phụ thuộc giai cấp nào của xã hội, một hạng người khó đoán, ở cách trang sức lộng lẫy, nhưng vẫn giữ được vẻ bình dân, đơn giản. Một chuỗi hạt ngọc thạch óng ánh quanh chiếc cổ nhỏ, đôi dây vàng và cái đồng hồ nhỏ xíu tăng thêm vẻ đẹp của đôi bàn tay. Hình dáng thiếu phụ khiến Tăng mang máng nhớ đến những cuốn truyện tả đời sống xa hoa của các công tử Bạc Liêu, tiểu thư Rạch Giá và những hành vi bán trời không văn tự của đất Sài Gòn. Tăng nhớ đến Phú Đức, đến Nguyễn Chánh Sắt, những cây bút Nam bộ đã tạo ra không biết cơ man nào là anh hùng, là tình trường huyết lệ.
Hồ Dzếnh cho ta biết thêm nữa về ngôn ngữ Sài Gòn mà một khách lạ như Tăng có lẽ cảm thấy nhiều ấn tượng kỳ thú khi lần đầu được cùng cô gái miền Nam đối đáp:
- Tôi vào đây hai ngày rồi mà chưa tìm thấy người quen. Họ đã đổi chỗ ở. Tôi lại chưa quen ai, à quên, tôi mới quen ôn chủ khách sạn.
Người đàn bà nhìn chàng chăm chú:
- Tại Sài Gòn thiếu chi "mèo", thầy. Thầy chịu khó kiếm vài cô cho vui.
Tăng bực bội vì sao một người thiếu phụ dự ít nhiều vào hạng nhan sắc, lại có thể dùng loại ngôn ngữ sỗ sàng như thế:
- Sao cô... Ba ăn nói mạnh bạo vậy?
Một nhịp cười giòn giã vang lên:
- Ai bảo cho Thầy biết tôi là cô Ba? Chỉ phiền một điều tôi lại là cô... Hai. Thầy gắng học giỏi tiếng Sài Gòn đi, nghen."

Không phải Sài Gòn chỉ ưu tú về cảnh và về người mà Bến Nghé còn là kho trời vô tận nuôi cả nước. Hồ Dzếnh ghi lại bằng lời thực thà những gì biết về Sài Gòn nên chưa hẳn đủ khách quan để làm vừa lòng tất cả chúng ta:

"Người ta cho Tăng biết rằng Sài Gòn giàu vô kể, đời sống Sài Gòn rộng rãi và phóng khoáng, nhân vật Sài Gòn xử sự ngay ngắn như con đường hỏa xa. Cơ man người Bắc vào đây lập nghiệp để rồi trở ra Bắc với những cái gia tài vĩ đại, kết quả những đêm trúng bạc rền ở Chợ Lớn, những chuyến chạy hàng lậu ngang tàng, và của những năm cần cù buôn bán nữa. Sài Gòn, kinh đô tứ chiếng, thành thị giang hồ, đứng án ngữ lấy đầu Nam bộ, chặn đường lên Nam Vang, và mở lối về Paksé. Sài Gòn ngày đêm rút màu mỡ của ba xứ để cung phụng cho một mãnh đất chỉ biết bão lụt quanh năm: Bắc bộ. Cho nên cái xương sống kinh tế là con đường xe lửa Hà nội - Sài gòn bao nhiêu chuyến tàu chở đầy đến nóc những con người lìa bỏ những mảnh đất khô cằn đằng ngoài để vào đằng trong màu mỡ."

Hồ Dzếnh vào Nam và Sài Gòn đã lôi cuốn tâm hồn đa cảm của một lữ khách như ông, nhưng sau hiệp định Genève vào tháng 10, 1954 ông lại trở ra Bắc? Nguyên nhân chính vì tình yêu. Lúc này nhà thơ gắn bó với người vợ thứ hai trong đời là Nguyễn Thị Hồng Nhật (góa phụ của nhà thơ Trần Trung Phương) còn ở Hà Nội. Hơn nữa, Hồ Dzếnh cho rằng ở lại Hà Nội sẽ có cơ hội trở về thăm quê Nội Trung hoa mà ông hằng ao ước. Nào ngờ, Hồ Dzếnh đã lầm và là mối lầm ghê gớm nhất đời của một kẻ có trái tim sôi nổi đối với quê ngoại, với tình yêu, với tự do và đối với nghệ thuật.
Sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm (1956 - 57) các nhà văn ở Hà Nội khi ấy, dù không trực tiếp tham gia chống đối cũng bị nghi ngờ và Hồ Dzếnh bị kết tội gián điệp chỉ vì đã từng vào Sài Gòn viết cho tờ Thần Chung. Thế là nhà thơ buộc gác bút và trở thành công nhân cho nhà máy cơ khí, nhà máy xe lửa Gia Lâm.

Cho tới những năm giữa thập niên 80, Hồ Dzếnh mới được nhắc tới. Thiệt hại cho một thi tài mấy chục năm không có nhiều cơ hội cầm bút và phải "gặm khối bất bình".
Có lẽ vì thế trước khi qua đời vào năm 1991, tác giả Quê Ngoại đã viết "Ngày xuân đọc lại Truyện Kiều" để gửi gấm ít nhiều hối tiếc của kẻ lầm lỡ trong đời chỉ vì lụy tình như Phạm Quý Thích đã nhắc nhở "nhất phiến tài tình thiên cổ lụy":

Gọi đời là "cõi người ta"
Sao nghe thấm thía xót xa nỗi mình
Tố Như ơi, lụy vì tình
Nghìn xưa như bóng với hình y nguyên !

Quận Chúa Quỳnh Anh
14-12-2007, 11:57
Hà nội, ngày tháng cũ (HYL)

Xắn gọn quần cánh bướm
Chèo thuyền con hái sen
Nước hồ đầy lai láng
Dưới nước bóng người đi
Tây Hồ mải hái sen
Hoa gương bỏ lên thuyền
Hoa tặng người mình sợ
Gương tặng người mình quen
Sáng nay đi hái sen
Hẹn cô kia đi với
Chẳng biết đến lúc nào
Cách hoa nghe cười nói

Đây là giấc mộng về cuộc tình dĩ vãng, nơi ghi dấu biển tình là Hồ Tây của Hà Nội ngày tháng cũ của Nguyễn Du. Nguyễn Du khi trở về Thăng Long vào năm 1813, đã có giấc mơ kỷ niệm với người tình thời tuổi trẻ ở cố đô và viết bài "Mộng thấy hái sen" (bản dịch của Phạm Khắc Khoan và Lê Thước). Học giả Hoàng Xuân Hãn cho rằng cô gái cùng tác giả hái sen ngày xưa ấy chính là nữ sĩ Hồ Xuân Hương mà ông quen vào tuổi 20 khi Bà Chúa Thơ Nôm mới ở tuổi đôi chín.

Nguyễn Du trở về Thăng Long và viết về Thăng Long, về cái riêng tư trước sóng phế hưng của lịch sử. Đó là nỗi lòng của kẻ đối cảnh sinh tình và là nguồn hoài cổ trong văn chương muôn đời. Nhưng khác với Đỗ Mục, Lý Thương Ẩn của Trung hoa và Chu Mạnh TRinh của ta, thường làm thơ hoài cổ ghi tâm tâm trạng trước sự biến thiên của lịch sử, cảnh dâu biển nói chung, những nhà thơ Hà Nội ngày xưa như Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Vũ Hoàng Chương, Tế Hanh... có nửa đời gắn bó với cố đô và khi có dịp trở về đất cũ nỗi cảm xúc dấy lên mãnh liệt và sống động như nung như nấu lòng mình và tới mủi lòng người đọc.

Chúng ta thử đọc bài "Những nẻo đường Hà nội" sau đây của Tạ Tỵ để thấy văn chương lưu lại tấc lòng để ngàn đời ra sao:

Hà nội, chao ôi, Hà nội !
Với những con đường đọng tím
Những con đường câm nín
Những con đường chết lịm ở tim tôi !
Tuổi hoa niên từng hát khúc yêu đời
Và nhảy múa khắp nẻo đường Hà Nội
Bao thương mến và bao nhiêu bối rối
Tôi về đây tàn phá cõi tâm linh
Trắng đêm thâu trắng cả khối yên tình
Từng xác lá thu về vàng lá cỏ
Mùa hoa giăng dâng đầy đôi mắt nhỏ
Em ơi, em có biết thuở nào khuây
Nhớ thương anh qua những cảnh đêm gầy
Mà gương mặt hãi hùng tan giấc ngủ
Ôi Hà nội, ôi những con đường cũ
Đâu Hàng Bông, Hàng Trống với Hàng Khai
Đâu Hàng Đào khoe nõn nà những bàn tay
Những đôi mắt nhìn nhau mà xa cách
Nước Hồ Gươm có xanh màu cẩm thạch
Tà áo ai còn đẹp buổi hoàng hôn
Nhớ thương xưa nhạt nắng những khung tường
Nghiêng nghiêng xuống mặt hồ ôm bóng nước
Những con đường những con đường năm trước
Của ngày xưa xa lắm, Hà nội ơi !
Đêm nay về ngự trị giữa hồn tôi
Đêm nay về với năm cửa ô nghẹn lối
Thao thức mãi từng canh gà báo vội
Rạng đông mà nổi lạnh tóc đêm thâu
Ở ngoài kia bóng tối đã phai màu

Trong mục này bút giả đã từng viết:

"Hà nội của Tạ Tỵ là hình ảnh của thành phố trước 1945 cho tới 1954 vì ông chào đời ở đây vào năm 1921 và đã có tuổi thơ, tuổi trưởng thành hòa nhịp với cảnh thăng trầm của nơi từng được xưng tụng là "Ngàn năm văn vật" và sau đó hồi cư, nhà thơ lại sống những năm đầu của thập niên 50 tại đây cho tới năm 1954 mới rời vào Sài Gòn.

Cái tuổi đẹp nhất của nhà thơ gắn liền với Hà nội nên Hà nội không phải chỉ là một địa danh trên bản đồ mà nó là chất của tâm hồn đa cảm, là huyết mạch và tâm trí của khách tài hoa đa sầu mộng. Tình yêu và danh vọng, khát vọng và mê say trong giai đoạn thanh xuân qua rồi nhưng còn có nhân chứng, đó là con đường Hà nội. Cũng vì thế khi viết bài này Tạ Tỵ đã xúc động tới cực điểm, mỗi lời là một tiếng than và mỗi chữ trở thành một giọt lệ. Tất cả đã trở thành tiếng gọi bên mồ dĩ vãng."

Đọc những câu sau đây mới thấy tâm trạng nhức nhối tới tận đáy hồn của kẻ về thăm cảnh cũ mà mình từng yêu từng giận, từng vui từng buồn:

Tôi về đây tàn phá cõi tâm linh
Trắng đêm thâu trắng cả khối yên tình
Từng xác lá thu về vàng lá cỏ
Mùa hoa giăng dâng đầy đôi mắt nhỏ
Em ơi, em có biết thuở nào khuây
Nhớ thương anh qua những cảnh đêm gầy
Mà gương mặt hãi hùng tan giấc ngủ

"Tàn phá cõi tâm linh", "những cảnh đêm gầy" và "gương mặt hãi hùng" không phải là lời thậm xưng mà là tâm trạng thực của kẻ gắn bó với Hà nội mà không ngờ thành phố thân yêu của mình trong dĩ vãng lại thay đổi tới mức trở thành xa lạ với những đứa con lưu lạc trở về. Người và cảnh hiện thực như những nét xám, đã xóa nhòa tấm chân dung Hà nội tuyệt đẹp, rất mực dễ thương, muôn ngàn trìu mến trong ký ức nhà thơ.

Chưa có dịp trở về thăm lại đường xưa lối cũ, nhà thơ tha hương sống với kỷ niệm và não lòng cảm thông tâm sự của Bạch Lạc Thiên khi xưa sống cảnh lưu đày ở Tầm Dương xa cách Trường An hang ngàn dặm đường. Đó là trường hợp Hà Thượng Nhân viết về Hà Nội. Hà Thượng Nhân, tác giả "Bên trời lận đận", có tuổi trẻ gắn bó với Hà nội (ông sinh vào khoảng trước sau 1930) và sau 1975 từng bị đày ải ở quê hương. Khi lưu đày ở xứ người, vào một lần nâng chén tìm quên, không ngờ nỗi nhớ Hà Nội của ông bùng lên theo hơi men và ông đã tâm sự với những vần thơ mang nặng chất thời đại:

Đêm nay đối bóng mình ta uống
Rượu cũng hình như có lệ pha
Đất trích Tầm Dương đưa tiễn bạn
Ngàn sau còn lại khúc Tỳ bà
Xa quê chỉ mới có vài trăm dặm
Bạch Lạc Thiên lòng đã xót xa
Ta nhớ bỗng dưng mà nhớ quá
Chùa khuya chuông đổ tiếng ngân nga
Tiếng ai chào hỏi bên hàng xóm ?
Những luống hoa tươi mận Ngọc Hà
Nhớ chợ Đồng Xuân, hồ Bảy Mẫu
Em ơi, em nhớ mách giùm ta
Liệu đê Yên Phụ khi trăng tỏ
Vạt áo tình nhân vẫn thiết tha ?
Nhiều lúc đi qua vườn Bách Thảo
Tóc ai có đẫm ánh trăng ngà ?
Mùa xuân mỗi độ hoa đào nở
Lòng rộn ràng chăng trận Đống Đa ?
Thê Húc, Ngọc Sơn chiều chủ nhật
Hồ Gươm, ghế đá tiếng rao quà
Em về Hàng Bột, Khâm Thiên hỏi:
Những bạn bè quen có nhớ ta ?
Em tới Bạch Mai, ra phố Huế
Mùa xuân còn vẳng khúc hùng ca
Gầm cầu những kẻ nghèo xơ xác
Phúc Xá còn chăng cảnh lúc xưa
Em trả lời giùm, tôi muốn hỏi
Hỏi bao nhiêu nữa, cũng không vừa
Mà thôi ! hãy để tôi thương nhớ
Đầu bạc dù cho mái tóc thưa
Hà Nội của ta ngày trẻ lại
Đường xa lòng vẫn thấy không xa

Tâm trạng "Tầm dương đất trích gối sầu hôm mai" của thi sĩ Phạm Xuân Ninh, được nhà thơ Dương Kiền (sinh năm 1939) của thế hệ sau chia sẻ:

Hà Nội của tôi
Hà Nội 50 mờ mờ trí nhớ
Hà Nội mùa hè Cổ Ngư phượng đỏ,
Hà Nội mùa thu Hoàn Kiếm mờ sương
Hà Nội 54 những đêm hấp hối
Giờ giới nghiêm lựu đạn nổ đâu đây
Thằng H. thất tình đi lính cho Tây
Suýt nhảy xuống Điện Biên những giờ phút cuối
Hà Nội ơi, Hà Nội ơi, thôi đi hấp hối
Nấc từng cơn, tháng 7, năm 54.

"Nhớ Thăng Long" tình buồn trải ngập tâm hồn, nỗi bi quan mãi mãi làm giảm vị đời, giọt lệ tiếp tục làm ố ấm xanh biết bao chàng Tư Mã ở chân trời góc biển. Nên chăng?

Có lẽ nên gượng bớt sầu và theo cách chàng trai Quang Dũng (sinh năm 1921, trưởng thành ở Hà nội) thuở nào đã mơ tưởng bóng hình giai nhân Hà Nội như chút men đời thơm tho để tạm lãng quên dặm đường trường chih với "đoàn quân không mọc tóc" trong hoàn cảnh "rải rác biên cương mồ viễn xứ":

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà nội dáng kiều thơm !

Có lẽ nên gượng vui và đợi "qua đêm dài bình minh sẽ trở lại." Phải chăng khách ly hương nên bắc chước nhà thơ Bàng Bá Lân (sinh năm 1921) khi xa Hà Nội tản cư vào năm 1946, đã "Mơ về Hà Nội" với những vần thơ bàng bạc chất chung thủy và lạc quan:

Cảnh đã xưa rồi, tình chửa xưa,
Nâng niu chuốt lại chút danh thừa
bao giờ đến hội tap phùng nhỉ ?
Xem nước hồ soi bóng liễu mơ
Liễu có gầy chăng? Tóc có thưa ?
Chao ôi ! Lòng nặng mãi thương hờ
Kiểu nhà xưa đã thay hình mới,
Hay vẫn còn nguyên dáng cũ xưa?
Nghiên đá Đền Sơn có sẫm rêu ?
Kinh Thiên bút nọ đã lên meo ?
Muốn về nâng bút dầm nghiên đá
Pha nước Hồ Gươm viết thật nhiều.
Giấy lụa: Trời xanh trải phẳng ra,
Bao nhiêu tứ đẹp đợi chờ ta.
Phen này thơ múa trên Hà Nội,
Vang rộn kinh kỳ khúc lạc ca.

**

Nói tới Hà nội, nhắc tới Thăng Long, nghĩ tới Đông Đô và xa hơn nữa là Đại La Thành có lẽ phần lớn chúng ta chỉ tìm thấy cái đẹp trong dĩ vãng và những tâm hồn giàu thơ mộng đã đồng điệu, khi để lòng cùng lưu luyến "dấu xưa xe ngựa" phảng phất "hồn thu thảo" và bâng khuâng trước "nền cũ lâu đài" nhuốm vàng dưới "bóng tịch dương".

Dĩ vãng thực đẹp, "ngàn năm văn vật đất Thăng Long", nhất là dĩ vãng văn học và lịch sử.
Nhắc tới Thăng Long không mấy ai quên Hội Tao Đàn của Lê Thánh Tông, nữ sĩ Hồ Xuân Hương ở phường Khán Xuân gần Hồ Tây, cuộc bút chiến giữa Nguyễn Huy Lượng (ca tụng triều Cảnh Thịnh với bài Tụng Tây Hồ viết vào năm 1801) và Phạm Thái (với bài Chiến Tụng Tây Hồ chỉ trích triều Tây sơn mạt niên cũng viết vào 1801), Nguyễn Văn Siêu với Tháp bút Ngọc Sơn... Nhất là khúc anh hùng ca có tên "Hà thành chính khí ca", ca tụng cái chết của Hoàng Diệu khi thành mất vào năm 1882.

Vào thời cận đại, ai cũng nhớ đó là nơi phong trào Thơ mới phát triển và Tự Lực Văn Đoàn ra đời với biết bao tác phẩm tiểu thuyết và thơ ca bất hủ, ghi dấu vết của Hà thành hoa lệ.
Ngày xưa thực đẹp nên 1954, khi tinh hoa Hà nội dời vào miền Nam, các nhà thơ, nhạc sĩ ra đi đã gọi Thăng Long thành bằng cái tên thân thương và luyến tiếc "thành đô" hay "cố đô" như Vũ Thành trong "Giấc mơ hồi hương" và Vũ Hoàng Chương trong một bài thơ viết vào mùa xuân 1963 ở thủ đô mới có tên là Sài đô:

Tin xuân lữ thứ nghẹn hồi chuông
Lệ vỡ mười hai nét nhạc cuồng
Sân khấu lùi xa vào ký ức
Phai dần hư ảnh, cánh màn buông.
Khói đâu mờ tím căn buồng
Thời gian ai đốt trên luồng thời gian
Cố đô lửa ấy gan nào?
Sài đô son sắt như bào như nung !

Chẳng phải chỉ có Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Tạ tỵ, Hà Thượng Nhân... trong thơ văn bày tỏ lòng luyến tiếc Hà nội ngày xưa mà trong nhạc hàng chục khúc ca mượt như nhung, buồn như tơ liễu rũ đã làm sống lại trong ta "Giấc mơ hồi hương" (Vũ Thành), "Nỗi lòng người đi" (Anh Bằng) và "Hà nội ngày tháng cũ" (Song Ngọc)...
Hễ có đồi dời là có tâm sự. Hễ có "hý trường" là có "tang thương" là có "cảnh đấy, người đây luống đoạn trường". Hình như đó là định lệ trong văn chương.
Đầu thế kỷ XIX cũng không ra ngoài lệ. Thăng Long trải qua một cuộc biển dâu rồi mất dần đại vì hoàng đô. Khi Gia Long lên ngôi, dời đô về Phú Xuân, cũng khiến cả một thế hệ nhà thơ hoài niệm cố đô.
Bà Huyện Thanh Quan đã giãi bày tâm sự trong "Thăng Long thành hoài cổ".
Sâu sắc hơn cả là Nguyễn Du. Nguyễn Du có cả thuở thiếu thời gắn bó với Thăng Long lừng danh là cậu Chiêu Bảy phong nhã, hào hoa, từng sống với anh là Nguyễn Khản, giữ chức tham tụng phủ Chúa. Cho tới khi trưởng thành, giữ một chức quan võ nhỏ ở Thái nguyên, ông cũng vẫn thường đi về cố đô.

Nguyễn Du rất mực tài hoa nhưng cũng rất mực đa tình. Học giả hiện đại đã tìm thấy tài liệu cho biết Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương từng xướng họa và đặt giả thuyết giữa hai nhà thơ nôm nổi danh này có một cuộc tình thật đẹp. Họ đã từng hái sen ở Hồ Tây và nhiều phen bên nhau "cuộc vui suốt sáng, trận cười thâu đêm". Sau này, khi Nguyễn Du trở lại Thăng Long, vào lúc giữ chức Cần chánh điện đại học sĩ, đã tìm và gặp lại người cũ. Nữ sĩ họ Hồ đã ghi lại tâm sự kẻ tri âm gửi người tri kỷ trong một bài thơ có những câu mượt mà, tha thiết tình hoài như sau:

Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng?
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn
Giấc mộng rồi xa nửa khắc không
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập
Phấn son càng tủi phận long đong...

Nhà Lê suy tàn, Chiêu Thống chạy sang Trung hoa khi Quang Trung ra Bắc đại phá quân Thanh. Nhà Tây sơn lên, Nguyễn Du đã từng mưu việc cần vương phù Lê chống Tây sơn. Thất bại, ông quay về quê hương sống ẩn dật, đóng vai thợ săn ở Hồng Lĩnh (Hồng sơn liệp hộ) và ngư phủ ở biển Nam hải (Nam hải điếu đồ) để quên "những điều trông thấy mà đau đớn lòng".
Rồi Tây sơn diệt vong, NGuyễn Du buộc phải ra làm quan với tân triều (Nguyễn Triều) và có cơ hội trở về Thăng Long, như lần đi sứ sang Trung hoa (1813) và lúc thi nhân xấp xỉ đã ngũ tuần. Tâm trạng của một người rời xa cố đô, có thể từ 1789 lúc nhà Lê mất tới năm 1813 khi đi sứ trên hai chục năm trời, từ lúc mái tóc còn xanh cho tới lúc đầu bạc, mới gặp lại cảnh cũ người xưa, chắc nhiều người ly hương chúng ta có thể dễ dàng cảm nhận và cảm thông.

Cảm xúc trong ta cũng như trong lòng thi nhân hẳn dâng trào khi núi sông còn đó như nhân chứng lịch sử bất biến, nhưng cảnh vật đã thay đổi khác xưa: Những ngôi nhà nguy nga ngày trước đã mất dấu vì trở thành đường cái, cung điện triều cũ đã bị tòa thành mới vùi lấp. Cảnh thay mới không bằng người đổi cũ. Khách đa tình nuôi hình bóng mỹ nhân dĩ vãng trong đầu "Hồng, Hồng, Tuyết, Tuyết mới ngày nào chửa biết cái chi chi" thì nay phải chứng kiến hình ảnh những thiếu phụ bồng bế con thơ. Còn nữa, bè bạn thuở tay trắng mộng đầy thì nay tóc cũng đã nhuốm màu sương.
Còn gì bi đát hơn là sự giằng co giữa thực và tâm tưởng, giữa ngoại cảnh vạn biến và tấc lòng chung thủy bất biến. Nếu ban ngày xe ngựa ồn ào, nhân sự phức tạp khách đa cảm, đa tình vì bận rộn có thể tạm nguôi quên thì đêm khuya tĩnh mịch, mình đối bóng, nghe tiếng địch vọng lại càng dễ khơi mối sầu đau tận phế phủ.
Tay hãy nghe Nguyễn Du ngỏ nỗi lòng khi trở về Thăng Long:

Tản lĩnh Lô giang tuế tuế đồng
Bạch đầu do đắc kiến Thăng long
Thiên niên cự thất thành quan đạo
Nhất phiến tân thành một cố cung
Tương thức mỹ nhân khan bão tử
Đồng du hiệp thiếu tận thành ông
Quan tâm nhất dạ khổ vô thụy
Đoản địch thanh thanh minh nguyệt trung

Tâm sự trên được Quách Tấn, một nhà thơ của thế hệ 32 - 45 dịch như sau:

Núi Tản, sông Lô vẫn núi sông
Bạc đầu còn được thấy Thăng Long
Nghìn năm cự thất thành quan lộ
Một giải tân thành lấp cô cung
Người đẹp buổi xưa đều bế trẻ
Bạn chơi thuở nhỏ thảy thành ông
Thâu đêm chẳng ngủ lòng thêm bận
Địch thổi trăng trong tiếng não nùng.

Bài Thăng Long thứ hai của Nguyễn Du cũng mang cùng chủ đề hoài cổ và trữ tình. Trong bài này, nhà thơ nhấn mạnh tới sự đối lập giữa hai hình ảnh mà ông phải chứng kiến khi trở lại cựu đô: giữa cái đẹp thuần túy thơ mộng ngày xưa và cái mới hỗn tạp, thô bạ hiện tại. Thực vậy, cũng vẫn vầng trăng ngày cũ, cũng là Thăng Long trước kia, nhưng theo lệnh của Gia Long khi lập Bắc thành, một tòa thánh mới mọc lên, phá hủy nhiều kiến trúc cũ, thu hẹp đất xưa. Cũng là đường phố nhưng chằng chịt đường mới mở ra lấp dấu cũ khiến khách ly hương ngẩn ngơ tìm lại vết chân kỷ niệm năm nào.

Gây bồi hồi tấc dạ thi nhân sâu đậm hơn cả là thế giới âm thanh, Nguyễn Khản, anh Nguyễn Du nổi tiếng là người mê ca vũ nhạc, Nguyễn Du cũng là khách tài tử của giáo phường. Thi nhân có tai của kẻ mộ điệu và sành điệu. Nhưng tiếng tơ, tiết trúc của triều cũ du dương biết mấy ngày xưa đâu còn. Thay vào đó là khúc mới, với những thanh âm, điệu hát hỗn tạp.
Buồn nản hơn nữa là con người chung quanh. Trước đây Thăng Long không phải không có kẻ tranh đoạt phú quý nhưng sự mâu thuẫn thường diễn ra ở Phủ Chúa, Cung Vua. Nhưng thời mới, mức tranh danh đoạt lợi xảy ra ở khắp nơi và tràn ngập hý trường.

Vẻ thân thương ngày cũ đã biến mất và bạn bè, thân quyến năm xưa nay kẻ còn người mất, tan tác thêm buồn. Chứng kiến thế cuộc phù trầm, nhà thơ đành tự tìm câu an ủi, rằng than thở làm chi vì chính bản thân mình cũng không tránh được sự tàn phá của thời gian, "mái tóc xanh như tơ buổi sáng, buổi chiều đã như sương":

Cổ thời minh nguyệt chiếu tân thành
Do thị Thăng long cựu đế kinh
Cù hạng tứ khai mê cựu tích
Quản huyền nhất biến tạp tân thanh
Thiên niên phú quý cung tranh đoạt
Tảo tuế thân bằng bán tử sinh
Thế sự phù trầm hưu thán tức
Tự gia đầu bạch diệc tinh tinh

Được Quách Tấn dịch như sau:

Thành mới trăng xưa bóng tỏ mờ
Thăng long ngàn trước chốn kinh đô
Dấu xưa khuất lấp đường xe ngựa
Điệu mới xô bồ nhịp trúc tơ
Danh lợi mồi ngon đua cướp đoạt
Thân bằng lớp trước sống lơ thơ
Nổi chìm thế sự đừng than nữa
Mái tóc mình đây cũng bạc phơ.

Cũng trong dịp trở lại Thăng Long, Nguyễn Du có lẽ đã gặp lại Hồ Xuân Hương. Tuy đó mới chỉ là giai thoại. Nhưng gặp lại một mỹ nhân thuở trước có tên là nàng Cầm là việc có thực. Tố Như tiên sinh vì việc này đã ghi lại một khúc trường ca, một chuyện tâm tình trong tác phẩm "Long thành cầm giả ca" và "Cầm giả dẫn". Xin trích mấy câu theo bản dịch của Hoài Châu để thấy tâm sự nhà thơ.
Thi nhân cho biết gặp nàng Cầm hương sắc một thời của Thăng Long thành nhân một bữa tiệc bên Hồ Giám vào lúc chàng ngoài hai chục còn nàng mới 21 xuân xanh:

Thành Thăng long có người con gái
Chẳng ai hay tên tuổi là chi
Cầm hay nổi tiếng một thì
Tên Cầm đồn khắp một khi đã nhiều
Học được khúc tiền triều một thuở
"Cung phụng" này khúc ở trong cung
Tiếng hay não nuột lạ lùng
Nhân gian mấy khúc hẳn không ví bằng
Ta khi trẻ đã từng gặp gỡ
Bên Giám hồ tiệc mở canh thâu
Nàng vừa hai mốt tuổi đầu
Gió xuân thoảng mặt hoa đào long lanh...

Mấy chục năm sau trở lại cựu đô, Nguyễn Du gặp lại nàng Cầm tình cờ trong một tiệc rượu. Nàng Cầm lúc đó đã như hoa tàn nhụy rữa, chỉ là một bóng mờ nhạt của tuổi yêu đào. Đổi thay của cuộc đời và của kiếp người làm thi nhân xúc động:

Cuối tiệc, một nghệ nhân già cả
Mình gầy mòn đầu nửa hoa râm
Nét mày son phấn biếng chăm
Ai hay là chính danh cầm ngày xưa
Hát mấy khúc thầm đưa giọt lệ
Tai lắng nghe dạ tẻ ngẩn ngơ
Cuộc cui sực nhớ ngày xưa
Bên hồ từng đã bấy giờ gặp nhau
Thành quách khác đời mau biến cải
Ngán bể dâu biến đổi mọi nơi
Tây sơn công nghiệp đâu rồi
Chỉ còn sót lại một người hát xưa !

Đọc thơ Tố Như chúng ta lại nhớ tới Đỗ Phủ, Đỗ Thiếu Lăng khi nhớ lại kinh đô Trường an và nghe nói cảnh đã đổi thay khác trước, thi thánh đã tâm sự:

Văn đạo Trường an tự dịch kỳ
Bách niên thế sự bất thăng bi
Vương hầu đệ trạch giai tân chủ
Văn vũ y quan dị tích thì
Tạm dịch như sau:
Nghe nói Trường an tựa cuộc cờ
Trăm năm thế sự xót xa chưa?
Lâu đài, dinh cũ thay người mới
Văn vũ xiêm y đã khác xưa !...

Có ai lại không chứng kiến cảnh mà Nguyễn Du và Đỗ Phủ đã cảm khái ngày xưa, khi trở về Hà nội cũng như Sài gòn trong những năm gần đây.
Cảm ơn các thi hào đã nói giùm chúng ta những điều phần đông chúng ta muốn giãi bày bằng lời nhưng khó nói cho hay và cho đúng.