PDA

View Full Version : Bàn Về Hai Chữ Việt Nam


Ngốc
20-08-2007, 09:12
Có một đoạn viết như vậy mà ngốc vẫn chưa hiểu hết??
Mong được dạy dỗ thêm.
Thân

Những sử liệu liên quan đến việc đặt tên nước Việt Nam

Tuy vào năm Sùng Hưng Đại Bảo thứ 6 [1054] vua Lý Thái Tông đặt tên nước ta là Đại-Việt, nhưng quốc hiệu này chỉ được dùng trong nội bộ; bấy giờ Trung-Quốc vẫn gọi nước ta là Giao-Chỉ. Thời vua Lý Anh Tông Chính Long Báo Ứng năm thứ 2 [1164], nhà Tống đổi Giao-Chỉ thành An-Nam quốc. Kể từ đó cho đến cuối thời Hậu Lê, tên nước An-Nam được dùng trong việc bang giao với Trung-Quốc; Riêng trong nước, muốn chứng tỏ sự độc lập, vẫn dùng quốc hiệu là Đại-Việt (Ngoại trừ nhà Hồ đặt quốc hiệu là Đại-Ngu). Điều này giải thích tại sao hai nhà viết sử dưới đời nhà Trần, Sử-thần Lê Văn Hưu đặt tên cho bộ sử là Đại-Việt sử ký; trong khi Lê Trắc, sống lưu vong tại Trung-Quốc, phải đặt tên cho bộ sử là An-Nam chí lược.

Trong văn thư giao dịch với nước ta dưới thời Tây Sơn, nhà Thanh vẫn dùng quốc hiệu An-Nam. Sau khi thống nhất đất nước, Gia Long gửi biểu văn sang nhà Thanh xin đặt lại tên nước là Nam-Việt. Việc làm này khiến vua Gia Khánh cực lực phản đối, vì sợ Gia Long dùng tên nước cũ thời Triệu Đà để đòi lại đất của Nam-Việt gồm cả hai tỉnh Quảng-Đông, Quảng-Tây. Gia Khánh lại còn lo Gia Long thừa thắng xông lên, dùng võ lực để dành lại đất, nên ra lệnh báo động đề phòng tại hai tỉnh này. Dưới đây là chỉ dụ của vua Gia Khánh ra lệnh cho Tổng-đốc Lưỡng-Quảng Tôn Ngọc Đình phải đối phó với tình hình, cùng bác bỏ điều xin của Gia Long:

Ngày 20 tháng 12 năm Gia Khánh thứ 7 [13/1/1803]

Dụ các Quân Cơ Đại Thần: Hôm qua Tôn Ngọc Đình tấu dâng biểu văn thỉnh phong của Nguyễn Phúc Ánh [Gia Long], Trẫm đã duyệt đọc kỹ, việc xin phong tên nước hai chữ “Nam-Việt” không thể chấp nhận được. Địa danh “Nam-Việt” bao hàm rất lớn, khảo sử xưa hai tỉnh Quảng-Đông, Quảng-Tây đều nằm ở trong đó. Nguyễn Phúc Ánh là tiểu Di nơi biên giới, tuy hiện nay có được toàn đất An-Nam, bất quá lãnh thổ bằng đất Giao-Chỉ xưa là cùng, làm sao lại được xưng là Nam-Việt. Biết đâu đây không phải là ý muốn khoe khoang tự thị của ngoại Di, xin thay đổi quốc hiệu, để thử bụng [Thiên triều] trước, đương nhiên đáng bác đi. Đã ra lệnh cho Quân Cơ Đại-thần soạn thay một tờ hịch dụ, cùng mang nguyên biểu giao cho Tôn Ngọc Đình trả lại; để xem sau khi nhận được chúng sẽ bẩm báo phúc đáp ra sao, rồi đợi chiếu chỉ mà liệu biện. Ngoài ra Nguyễn Phúc Ánh cầu phong quốc hiệu Nam-Việt, rõ ràng tự thị võ công muốn đòi xin thêm đất. Sợ bọn chúng âm mưu bất trắc, nên lệnh truyền các quan địa phương tại hai tỉnh Quảng-Đông, Quảng-Tây lưu tâm phòng bị vùng biển cùng biên giới, quan ải; không được trễ nải lơ là. Nay truyền dụ các nơi để hay biết. [1]

Nội dung chỉ dụ nêu trên cho thấy triều đình nhà Thanh xử sự theo lối trịch thượng, vua Gia Khánh không trực tiếp gửi chỉ dụ cho vua Gia Long, chỉ giao cho viên Tổng-đốc Lưỡng-Quảng trả lời mà thôi. Gia Long cũng không vừa, coi như văn thư nhận được chỉ là ý kiến riêng của Tôn Ngọc Đình, không xứng đáng là một quốc thư, nên lại một lần nữa yêu cầu thẳng vua Gia Khánh cho đặt tên nước là Nam-Việt.

Ngày 6 tháng 4 năm Gia Khánh thứ tám [26/5/1803]

Dụ các Quân Cơ Đại-thần: Tôn Ngọc Đình dâng tấu triệp xin chiếu chỉ để tuân hành về việc tờ bẩm phúc đáp của Nguyễn Phúc Ánh. Trẫm đã đọc kỹ, Nguyễn Phúc Ánh cho rằng lời dụ lần trước là ý kiến riêng của Tôn Ngọc Đình, biểu văn của y chưa tấu lên trên để được nghe quyết định [của Hoàng-đế], nên lần này vẫn thỉnh phong quốc hiệu Nam-Việt và khẩn xin tấu thay. Trẫm duyệt biểu văn, lời và ý rất mềm dẻo, hết sức cung thuận. Xưng rằng nước y trước kia có đất Việt-Thường, nay lấy thêm đất An-Nam [của Tây Sơn]; không dám quên gốc đã giữ đời nối đời, bèn dùng tên cũ Nam-Việt, đấy là tình thực. Tôn Ngọc Đình hãy truyền hịch cho viên Quốc-trưởng rằng:

“Lần trước đến xin thỉnh phong quốc hiệu, danh nghĩa chưa hợp, nên không dám mạo muội tấu đầy đủ. Nay nhận được biểu phúc đáp, tường thuật đầu đuôi việc dựng nước, xin được phong tên mới, đã thể theo thực tình tâu lên đại Hoàng-đế. Nay nhận được chỉ dụ rằng:

“Viên Quốc-trưởng có lòng thành, lần trước cung kính giao nạp sắc ấn trước đây ban cho [An-Nam] bị Nguyễn Quang Toản bỏ lại, cùng trói giải bọn giặc cướp ngoài biển; lại cung kính thỉnh mệnh, nên được soi xét kỹ tấm lòng thành. Việc cầu phong và dâng biểu cống; đặc dụ chấp thuận. Đến việc xin đặt tên nước là Nam-Việt, thì nước này trước đây có đất cũ Việt-Thường, sau lại được toàn lãnh thổ An-Nam; vậy Thiên-triều phong quốc hiệu cho dùng hai chữ “Việt-Nam”; lấy chữ “Việt” để đằng trước tượng trưng cương vực thời xưa; dùng chữ “Nam” để đằng sau, biểu tượng đất mới được phong; lại còn có nghĩa là phía nam của Bách-Việt; không lẫn lộn với tên nước cũ “Nam-Việt”. Một khi tên nước đã chính, nghĩa của chữ cũng tốt lành; vĩnh viễn thừa hưởng ân trạch của Thiên triều. Hiện đã ra lệnh cho Bồi-thần đến kinh khuyết thỉnh phong, sắc ấn ban sẽ lấy hai chữ đó làm tên. Nước ngươi được ban tên đẹp, xếp vào nước ngoại phiên thần phục, càng đầy đủ sự vinh hiển.”

Tôn Ngọc Đình tiếp nhận chiếu chỉ này, một mặt truyền hịch dụ Nguyễn Phúc Ánh, một mặt sai Ủy-viên bạn tống Sứ-thần nước này đến kinh đô dâng biểu tiến cống. Lưu ý tiết trời nắng nóng, nên cho đi từ từ để tỏ lòng thể tuất. Vào khoảng cuối tháng 7 đến kinh đô, lúc này Trẫm tránh nóng tại sơn trang, gặp dịp Cáp Tát Khắc vào triều cận, lệnh cùng dự yến luôn một thể. Vẫn để viên Sứ-thần khởi trình từ Quảng-Tây, nhật kỳ nhớ báo trước khi đi. Đem dụ này truyền để hay biết.” [2]


Văn bản nêu trên đề cập lời đối đáp khéo léo giữa hai lãnh tụ Việt, Trung. Gia Long tránh né bàn về tên nước thời nhà Triệu, giải thích một cách hợp lý rằng Nam-Việt là tên ghép đất cũ Việt-Thường của cha ông [địa danh xưa thuộc miền nam Việt-Nam từ Thanh-Hóa trở vào] và An-Nam của nhà Tây Sơn. Gia Khánh cũng không vừa, chấp nhận lời giải thích đó, nhưng ghép hai địa danh Việt-Thường và An-Nam theo một cách khác, thành hai chữ Việt và Nam. Kể từ đó ta có tên nước là Việt-Nam.

Theo sử Việt, Thượng-thư Lê Quang Định cầm đầu sứ bộ dâng biểu cầu phong. Ngoài nhiệm vụ này, sứ bộ đã cố gắng bắt liên lạc với người Việt lưu vong tại Trung-Quốc để tìm hậu thuẫn. Lúc bấy giờ, có một di thần nhà Lê tên là Lê Quýnh rất nổi tiếng tại Trung-Quốc, vì khẳng khái không chịu theo lệnh vua Càn long cạo đầu gióc tóc theo phong tục Mãn Thanh. Lê Quýnh bị giam hơn mười năm tại nhà tù Bắc-Sở, Bắc-Kinh; đến đời Gia Khánh thì được tha, nhưng bi quản chế tại một trại lính trong thành. Có lẽ tiếng tăm Lê Quýnh được nhóm phản Thanh phục Minh truyền sang Nông-Nại [Đồng-Nai], nên vua Gia Long biết tiếng Lê Quýnh [3] . Con Lê Quýnh là Lê Doãn Trác xin gia nhập vào phái đoàn để được sang Trung-Quốc tìm cha, được chấp thuận cho làm Hành-nhân.

Chắc Sứ-bộ Lê Quang Định đã bố trí gặp Lê Quýnh tại Trác-Châu để bàn bạc, trước khi vào cung đình triều yết. Nhưng chẳng may việc Lê Quýnh đến Trác-Châu bị tiết lộ; căn cứ vào chỉ dụ của vua Gia Khánh đề cập sau đây, vụ án liên lụy đến một số người:

Ngày 30 tháng 7 năm Gia Khánh thứ tám [15/9/1803]

Dụ Nội Các: Bọn Miên Chí tâu “Người An-Nam tên Lê Quýnh ngầm đến Trác-Châu tìm gặp con y, nay xin giao cho phủ Thuận-Thiên chiếu theo lệ xét xử.”

Lê Quýnh là viên quan của phiên bang nơi biên giới, phạm tội nên bị giam. Vào năm Gia Khánh thứ 5 [1800] được Trẫm đặc cách phóng thích, mệnh an sáp tại ngoài doanh hỏa khí, cấp lương tiền như lính Bát Kỳ; vẫn giao cho quan phụ trách trông coi, không được tự ý đi ra ngoài. Nay Lê Quýnh cùng Lý Bỉnh Đạo nói dối xin đi thăm mộ Lê Duy Kỳ [vua Lê Chiêu Thống], được doanh này cho hai người lính hộ tống. Đi đến khoảng phụ cận cầu Lư-Cấu, Lê Quýnh thừa lúc sơ hở bỏ đi, quân hộ tống chỉ đưa được Lý Bỉnh Đạo trở về, riêng Lê Quýnh thì đi thẳng đến Trác-Châu. Qua viên Tri-châu này thẩm vấn, y khai rằng “Nhân nghe tin trong số Cống-sứ Việt-Nam có con y là Lê Doãn Trác giữ chức Hành-nhân, trên đường đến kinh đô; nên y đi thăm hỏi sự tình.” Bọn Lê Quýnh trú tại xưởng Lam-Điện, làm sao biết được Lê Doãn Trác theo phái đoàn Cống-sứ Việt-Nam đến kinh đô? Huống Sứ-thần nước này đến Trác-Châu vào ngày 25, Lê Quýnh đến ngay vào ngày hôm sau, cớ sao được tin nhanh như vậy? Vả lại bọn Lê Quýnh muốn đi ra ngoài để thăm gặp, thì cứ bẩm lên viên Đại-thần cai quản, để được tâu lên, đợi chiếu chỉ chấp thuận mới có thể đi được. Sao y chưa trình rõ ràng lại ngầm đi [đi chui], quả thực không tuân lệnh quản thúc. Ngoại trừ việc giáng chỉ đem các quan viên trong doanh phân biệt xét xử; nay truyền lệnh doanh phụ trách cùng phủ Thuận-Thiên giải giao bọn Lê Quýnh, Lý Bỉnh Đạo hai người đến bộ Hình để thẩm vấn. [4]

Lời đàn hạch nêu trên có vẻ nghiêm trọng, nhưng cuối cùng chỉ là “giơ cao đánh sẽ.” Những câu hỏi quan trọng như “Tại sao Lê Quýnh biết được con mình đến kinh đô? Tại sao biết Sứ-thần Việt-Nam đến vào ngày 25?” ắt phải liên quan đến sứ bộ Việt-Nam lúc bấy giờ, nhưng có lẽ vì lý do ngoại giao nên lờ đi không nhắc đến. Sau khi thẩm vấn, Lê Quýnh được tha, cho quản chế tại xưởng Lam-Điện như cũ, riêng viên quan chuyên trách quản lý Lê Quýnh thì bị đày đi Ô-Lỗ-Mộc-Tề; nội dung được đề cập qua chỉ dụ dưới đây:

Ngày 15 tháng 8 năm Gia Khánh thứ tám [30/9/1803]

Lại dụ Nội Các: Bộ Hình đã đem viên Tham-lãnh Bảo Thiện đối chất xác minh với Lê Quýnh rồi soạn tấu triệp trình lên như sau:

“Bọn người An-Nam Lê Quýnh cư trú tại xưởng Lam-Điện, do Tham-Lãnh Bảo Thiện chuyên trách quản lý. Nhân Lê Quýnh xin phép đi thăm Cống-sứ, Bảo Thiện không bẩm lên quan Đại-thần cai quản, bèn tự chấp thuận cho đi, hành động thuộc loại chuyên quyền tự ý. Khi Lê Quýnh cung khai việc này, viên Đại-thần cai quản đích thân hỏi viên Tham-lãnh, y không thừa nhận; rồi Quân Cơ Đại-thần chuyển chiếu chỉ hỏi tường tận, sau ba bốn lần cung khai y vẫn không nói rõ sự thực. Đến khi giải giao Bảo Thiện đến bộ Hình đối chất với Lê Quýnh, y không còn bao che được, rốt cuộc phải thừa nhận.”

Y thuộc lọai giảo hoạt, nếu chỉ giao về bộ nghị xử thì e quá nhẹ; nay truyền lệnh cách chức Bảo Thiện, phát vãng đến Ô-Lỗ-Mộc-Tề [5] hiệu lực, để chuộc tội. Còn bọn Lê Quýnh, Lý Bỉnh Đạo đã được hỏi rõ và cũng không phải ngầm đi, mọi việc đều hợp lẽ; nay lại giao cho doanh Hỏa-Khí an sáp tại xưởng Lam-Điện, hãy lưu tâm quản thúc, không được tự ý đi ra ngoài sinh chuyện. Điều cung khai rằng Lê Quýnh trên đường đi tình cờ gặp viên quan Mông-Cổ họ A, còn đơn vị hiệu cờ cùng tên thì không nhớ rõ; cũng không cần tra cứu thêm nữa. [6]
.........
[1]Hồ Bạch Thảo, bản dịch Cao Tông Thực Lục trang 250, phần chữ Nho trang 411.
[2]Bản dịch Cao Tông Thực Lục, trang 251, phần chữ Nho trang 413
[3]La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập 2, trang 924; trích lại từ Quốc Sử Di Biên của Thám-hoa Phan Thúc Trực.
[4]Bản dịch Cao Tông Thực Lục, trang 253, phần chữ Nho trang 414.
[5]Ô-Lỗ-Mộc-Tề: Địa danh, thuộc tỉnh Tân-Cương.
[6]Bản dịch Cao Tông Thực Lục, trang 255, phần chữ Nho trang 416.
........

kim nữ nhi
21-08-2007, 10:45
Ui trời,tỷ hiểu làm chi dài dòng,tỷ chỉ cần biết các thời đại vua đặt tên cho nước thì tên đó có ý nghĩa của riêng nó,vua nghĩ gì,mong gì và muốn gì cho nước thì họ đặt tên cho nước như vậy thôi.Còn bây giờ nước ta có tên là Việt Nam thì là Người có chủ ý nói đất nước này chỉ của riêng người việt ta từ bắc vô nam và mãi mãi vẫn là đất nước việt của ta,vậy thôi.Còn ý nghĩa thi tùy theo suy nghĩ của người,khó hiểu nổi hết lắm

Lạc Y Khách
22-08-2007, 06:20
Muội đặt câu hỏi mơ hồ quá , có lẽ không ai hiểu muốn hỏi về cái gì nữa, muội thắc mắc về vấn đề gì ?
Mà đoạn trên thì có ngắn gì đâu, đọc nãy giờ cũng mất cả 5 phút , đoạn thoáng qua cái thôi , có gì khó hiểu đâu

Thôi thì cứ coi như thắc mắc của muội là như chủ đề: muốn biết tại sao Việt Nam lại lấy tên là Việt Nam phải không ?!!
Trong bài trên của muội có đoạn này
... ghép hai địa danh Việt-Thường và An-Nam theo một cách khác, thành hai chữ Việt và Nam. Kể từ đó ta có tên nước là Việt-Nam...
:)

Góp ý: Muội copy bài viết trên ở đâu thì nên ghi rõ nguồn gốc để mọi người dễ tham khảo và nghiên cứu.

nghoangtuan2204
26-08-2007, 09:37
Làm gì dài dòng như thế, nước ta có tên chữ Việt lại nằm ở phía nam bán cầu nên lấy tên là Việt Nam là phải rồi. Trung Quốc gọi là An Nam bao gồm 3 quận Cửu Chân, Nhật Nam và Giao Chỉ là chỉ mục đích phân chia dân để dễ cai trị.

nguyentuthang
30-11-2007, 23:28
Về vấn đề “Quốc hiệu” Việt Nam

Quan niệm phổ biến từ trước và nhiều kết quả nghiên cứu gần đây thường khẳng định quốc hiệu Việt Nam xuất hiện từ đầu thời Nguyễn, bởi vì chính sử của nưóc ta lẫn Trung Quốc đều ghi nhận cụ thể việc này. Năm 1802, sau khi lên ngôi, Nguyễn Ánh (vua Gia Long) phái hai đoàn sứ giả sang Trung Quốc. Một đoàn do Thượng thư Bộ Hộ là Trịnh Hoài Ðức làm Chánh sứ, đem giao trả lại sách ấn mà triều Thanh phong cho nhà Tây Sơn. Ðoàn kia do Thượng thư Bộ Binh là Lê Quang Ðịnh làm Chánh sứ, xin phong vương cho Nguyễn Ánh và xin đặt lại quốc hiệu là Nam Việt.

Cũng năm 1802, nhà Thanh chuẩn danh xưng quốc hiệu nước ta là Việt Nam. Nhưng đến năm Gia Long thứ 3 (năm 1804), sứ giả nhà Thanh là Tề Bá Sâm mới cáo sắc, quốc ấn đến Thăng Long để làm lễ phong vương cho Nguyễn Ánh.

Như vậy quốc hiệu Việt Nam đưọc công nhận từ năm 1802, nhưng phải đến năm 1804 nó được chính thức thừa nhận hoàn toàn về mặt ngoại giao. Sở dĩ nhà Thanh muốn sửa Nam Việt thành Việt Nam là vì hai lý do. Thứ nhất, trong lịch sử Trung Quốc từng có Triệu Ðà nổi dậy cát cứ, lập ra nước Nam Việt, tự xưng là Hoàng đế; các triều đại trung ương ở Trung Quốc đều không thừa nhận Nam Việt, nhà Thanh cũng không muốn gợi lại quá khứ kém hùng mạnh ấy. Thứ hai, Nam Việt theo cách hiểu truyền thống, có thể gồm cả miền đất nước ta và các xứ Việt Ðông, Việt Tây (tức Quảng Ðông, Quảng Tây) của Trung Quốc, nên nếu đặt làm quốc hiệu nước ta, sau này sẽ rắc rối về mặt lãnh thổ.

Sách Đại Nam thực lục chép: “Giáp Tý, Gia Long năm thứ 3 (1804), tháng 2, ngày Đinh Sửu, đặt quốc hiệu là Việt Nam, đem việc cáo Thái miếu. Xuống chiếu bố cáo trong ngoài”.

Trong Dụ Am văn tập của Phan Huy Ích có chép nguyên bản bài Tuyên cáo về việc đặt quốc hiệu mới của vua Gia Long vào năm 1804, nội dung như sau:

"Xuống chiếu cho thần dân trong thiên hạ đều biết:
Trẩm nghĩ, xưa nay các bậc đế vương dựng nước, ắt có đặt quốc hiệu để tỏ sự đổi mới, hoặc nhân tên đất lúc mới khởi lên, hoặc dùng chữ nghĩa tốt đẹp, xét trong sử sách chứng cớ đã rõ ràng. Nước ta: sao chùa Dực, Chân, cõi Việt hùng cường. Từ lâu đã có tên Văn Lang, Vạn Xuân còn thô kệch. Ðến đời Ðinh Tiên Hoàng gọi là Ðại Cổ Việt nhưng người Trung Quốc vẫn gọi là Giao Chỉ. Từ thời Lý về sau, quen dùng tên An Nam do nhà Tống phong cho ngày trước. Tuy thế, vận hội dù có đổi thay nhưng trải bao đời vẫn giữ theo tên cũ, thực là trái với nghĩa chân chính của việc dựng nước vậy. Trẫm nối nghiệp xưa, gây dựng cơ đồ, bờ cõi đất đai mở rộng nhiều hơn trước. Xem qua sổ sách, trẫm xét núi sông nên đặt tên tốt để truyền lâu dài... Ban đổi tên An Nam làm nước Việt Nam, đã tư sang Trung Quốc biết rõ".

Đây là lần đầu tiên, hai chữ “Việt Nam” được dùng với tư cách là Quốc hiệu. Trong mấy nghìn năm lịch sử, cha ông ta đã nhiều lần đặt cho đất nước thân yêu của mình những tên gọi khẳng định quá trình sinh tụ lâu dài, vừa thể hiện khát vọng vươn lên của các cộng đồng thuộc tộc Bách Việt (gồm hai nhóm chính là Lạc Việt và Âu Việt) ở dải đất phương Nam này. Đó là Văn Lang (thời Hùng Vương), Âu Lạc (thời An Dương Vương, ghép hai chữ của hai tộc Âu Việt và Lạc Việt), Vạn Xuân (Đất nước bền vững vạn mùa xuân, Lý Nam Đế đặt năm 544), Đại Cồ Việt (Nước Việt cực lớn, Đinh Tiên Hoàng, năm 968, lần đầu tiên yếu tố “Việt” được có trong quốc hiệu), Đại Việt (Nước Việt lớn, Lý Thái Tông, năm 1054, yếu tố “Việt” tiếp tục được khẳng định), Đại ngu (đất nước đại thái bình, thịnh trị như thời vua Ngu Thuấn ở Trung Quốc, Hồ Quý Ly, năm 1400), Đại Việt (Nước Việt lớn, Lê Thái Tổ đặt năm 1428), Hoàng Việt (Nước Việt tốt đẹp, thời Tây Sơn).

Gia Long đặt Quốc hiệu Việt Nam là sự thể chế hóa nguyện vọng lâu đời của các tầng lớp trí thức, quan lại và nhân dân; khẳng định tính pháp lý về chủ quyền của một Nhà nước Việt ở phương Nam; thể hiện ý chí, sức mạnh muôn đời của các cộng đồng cư dân Việt trên dải đất phương Nam này, cũng là một sự khiêm nhường, đúng mực, “biết người biết ta” trong quan hệ bang giao với nhà Thanh và các nước.

Sau khi lên nối ngôi Gia Long, vua Minh Mạng cho đổi quốc hiệu là Ðại Nam (1838), tên Việt Nam không còn thông dụng như trước nữa. Tuy nhiên từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, hai tiếng Việt Nam được sử dụng trở lại bởi các nhà sử học và các chí sĩ yêu nước, trong nhiều tác phẩm và tên tổ chức chính trị: Phan Bội Châu viết Việt Nam vong quốc sử (1905), Việt Nam Công hiến hội (1908), Việt Nam quang phục hội (1912); Phan Chu Trinh viết Pháp- Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam, Trần Trọng Kim viết Việt Nam sử lược, Nguyễn Ái Quốc thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội (1925) và Việt Nam độc lập đồng minh hội (1941 )...

Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, trao chính quyền hình thức cho Bảo Ðại. Bảo Ðại đổi lại quốc hiệu từ Ðại Nam thành Việt Nam. Ngày 19/8/1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Bảo Ðại thoái vị. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Hiến pháp năm 1946 chính thức thể chế hóa danh hiệu này. Từ đấy, quốc hiệu Việt Nam được sử dụng phổ biến, với đầy đủ ý nghĩa thiêng liêng, toàn diện nhất của nó

Về “tên gọi” Việt Nam (không phải là Quốc hiệu)

Hai từ “Việt Nam” xuất hiện lần đầu tiên ở tiêu đề cuốn sách Việt Nam thế chí (ghi chép về các đời ở Việt Nam) của Trạng nguyên Hồ Tông Thốc vào cuối thời Trần, và đặc biệt, trong Dư địa chí (soạn năm 1434), Nguyễn Trãi khẳng định “Vua đầu tiên (của nước ta) là Kinh Dương Vương, sinh ra có đức của bậc thánh nhân, được phong sang Việt Nam, làm tổ Bách Việt”.
Cho đến thời Mạc, tuy tên nước ta là “An Nam” do phong kiến Trung Quốc áp đặt, song trong dân gian, tên gọi “Việt Nam” xuất hiện nhiều hơn, ở những tấm bia-biểu hiện cao của trí tuệ người Việt bởi hầu hết những người soạn văn bia đều là bậc khoa cử, như bia ở chùa Bảo Lâm (nay thuộc huyện Kinh Môn, Hải Dương) dựng năm 1558; bia chùa Cam Lộ (Phú Xuyên, Hà Tây, 1590). Trong một số bài thơ chữ Hán và chữ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm-trí thức có danh tiếng nhất thời Mạc cũng có từ Việt Nam.

Thời Lê Trung Hưng (1533-1787), nước ta (cả Đàng Trong và Đàng Ngoài) trở lại tên Đại Việt, song hai chữ “Việt Nam” xuất hiện khá nhiều trong văn bia có niên đại sớm như bia chùa Thiên Phúc (làng Đại Lâm, xã Tam Đa, huyện Yên Phong, Bắc Ninh, soạn năm 1648), bia làng Phú Mẫn (thị trấn Chờ, cùng huyện, tỉnh trên, 1649), bia chùa Phúc Thánh (làng Mộ Đạo, huyện Quế Võ, Bắc Ninh, 1666), bia chùa Am Linh (làng Hà Lỗ, xã Liên Hà, Đông Anh, Hà Nội, 1670) và đặc biệt, bia Thủy môn đình (cùng soạn vào năm 1670) dựng sát ải Nam Quan (Đồng Đăng, Lạng Sơn) có câu “Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan” (đây là cửa ngõ yết hầu của Việt Nam). Ngô Thì Nhậm (1746-1803), một trí thức lớn của nước ta ở cuối thế kỷ XVIII cũng nhận mình là “kẻ hậu học của Việt Nam”.

Song, tất cả các từ “Việt Nam” trên đây chỉ là danh xưng, thể hiện ý thức của các tầng lớp quan lại và nhân dân về sự tồn tại lâu đời và liên tục của một quốc gia của người Việt ở phương Nam. Đó chưa phải là quốc danh hay quốc hiệu. Chỉ đến năm 1804, danh xưng “Việt Nam” mới trở thành quốc hiệu, bởi nó được hình thành bằng một cách làm bài bản hay theo một quy định thống nhất. Điều này được Gia Long nêu rõ trong tờ Chiếu nêu trên
Nguyễn Thị Tam Hùng

BáoTửĐầuLâmXung
01-04-2008, 08:14
Hai chữ viết Nam có từ thời Minh Mạng, có điều ít gọi thôi.