PDA

View Full Version : Xuân Diệu


Nhiệt Mặc Sinh
18-07-2007, 13:01
Trần Đăng Khoa


Xuân Diệu là thầy dạy nghề của tôi, là một trong những nhà thơ tôi ngưỡng mộ và kính trọng sâu sắc. Tôi đặc biệt phục hai câu thơ của ông:
Trái đất ba phần tư nước mắt
Đi như giọt lệ giữa không trung...

Cứ theo cách hiểu của tôi thì đây là câu thơ rất giản dị mà kỳ vỹ, có tầm khái quát rất cao, lại rất điêu luyện trong kỹ nghệ đưa thực tế đời sống vào thơ, một công việc bếp núc nhà nghề không mấy dễ dàng mà ngay cả Xuân Diệu cũng không phải lúc nào cũng làm được.
Xuân diệu từng viết về việc khai thác than, phải chọn lọc bao nhiêu tấn đất đá mới chọn ra được một tấn than như thế nào. Rồi chuyện đóng hộp dưa chuột. Ông kể rất tỉ mỉ là phải chọn loại dưa như thế nào, hình dáng kích cỡ ra sao, dưa không được vẹo vọ hay sứt sẹo, rồi rửa dưa như thế nào, không được để lẫn một hạt cát khi đóng hộp. Đọc chỉ thấy quý tấm lòng của ông với công việc sản xuất, còn bài thơ thì đã chệch ra khỏi văn chương và trượt xuống việc bốc đất bốc đá hay kỹ thuật muối dưa chuột mất rồi, không còn là thơ nữa. Xuân Diệu viết về việc mở đường ở Mã Pí Lèng cũng thế. Cái thực tế rất cụ thể, rất chính xác như thế này cũng không phải là thơ:

Đá nhỏ bắt đầu rơi lộp bộp
Sau lôi đá lớn đổ ầm ầm...

Chiêm ngưỡng Xuân Diệu một cách khách quan và sòng phẳng như thế để chia sẻ nỗi vất vả cực nhọc trong công việc sáng tạo thi ca với ông, càng thấy quý hơn,trân trọng hơn hai câu thơ tuyệt vời ở mọi phương diện của ông: " Trái đất ba phần tư nước mắt - Đi như giọt lệ giữa không trung". Tôi đọc đã nhiều, lục lọi cũng rất nhiều trong kho tàng thi ca nhân loại, nhưng cho đến nay, tôi chưa thấy câu thơ nào kỳ vỹ hơn thế, tài nghệ đến như thế torng lĩnh vực xây dựng hình tượng thơ và đặc biệt là kỹ nghệ đưa cuộc sống vào thơ.

Trong nền thi ca nhân loại, nếu xét về mặt tổng thể, nhà thơ Xuân Diệu của chúng ta chỉ ở một vị trí khiêm nhường, nếu đặt ông bên cạnh Lý Bạch, Đỗ Phủ, R. Tagor, Nguyễn Du, A. Puskin, walt Witman v.v... Nhưng nếu mỗi thi sĩ chỉ được chọn ra hai câu thơ và chỉ hai câu thơ thôi, tôi ngờ rằng tất cả các bậc thiên tài kia đều phải ngã mũ trước Xuân Diệu. Hồn vía của hai câu thơ rất tuyệt vời ấy nằm trong một chữ. Đó là chữ "đi". Còn nếu tách bạch ra thì câu thơ " Trái đất ba phần tư nước mắt" chỉ là chuyện thực tế đời sống được nâng cao. Vì ai cũng biết, trái đất của chúng ta ba phần tư là biển. Nước biển lại mặn, dễ gợi nhớ đến nước mắt. Nhưng từ đấy Xuân Diệu nhìn thấy Trái Đất "đi" như một giọt lệ thì hay thật. Nó hay ở chính cái chữ "đi" này. "Đi" là ở thế chủ động, và phải "đi" thì trái đất mới trở thành một sinh linh, mới ra một thân phận. Vậy mà có nhà phê bình khi tranh luận với tôi về câu thơ này, lại đề nghị đổi chữ "đi" thành chữ "trôi". "Trôi" thì thành nước thật mất rồi, trái đất hóa vô cảm như dòng nước vô tri, câu thơ dễ dãi và lười nhác. Vả lại, nếu cứ phân tích theo lối bắt bẻ, chẻ hoe ra cái ông phê bình ấy thì giọt lệ cũng không thể trôi được. Nó có thể "rơi" hoặc "bay" trong không trung, chứ là sao có thể "trôi" ? Trôi phải có dòng. Một giọt lệ làm sao có thể trôi được như một dòng nước và ở trong nước. Thật buồn cười. Chữa thế là ngớ ngẩn và làm mất cả câu thơ.

Trong bài viết của mình, khi khẳng định câu thơ này bay ra ngoài quỹ đạo quen thuộc của thơ Xuân Diệu, là trong lòng tôi có một chút băn khoăn. Thực tình trong thâm tâm, tôi ngờ rằng câu thơ này không phải của Xuân Diệu vì nó nhuốm màu Huy cận. Cái hay của thơ Xuân Diệu thường hay theo kiểu khác. Xuân Diệu có hai chặng đường thơ rõ rệt mà bất cứ người đọc nào cũng có thể nhận ra ( Trừ Nhiệt Mặc Sinh ). Trước cách mạng là rạo rực yêu đương và sống cuống quýt, vội vàng. Thơ không phải là hiện thực trần trụi:

Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây...

Sau Cách Mạng ông kéo thơ từ trăng sao mây gió về mặt đất trần trụi và cố gắng đưa thật nhiều thực tế cuộc sống vào thơ. Ông nhiều lần phàn nàn với tôi: "Cái mồm của thơ ta bé quá. Phài rạch nó ra để nhét đất đá của đời sống vào". Ông quan niệm thơ phải "Chân chân chân. Thật thật thật. Câu thơ này chẳng nằm trong khỏang nào trong cả đời thơ Xuân Diệu, đã thế, nó lại có "hơi" Huy Cận rất rõ.

Nỗi băn khoăn ấy cứ đeo đẳng tôi mãi. Một lần, tình cờ gặp Huy Cận, không hiểu sao nhìn cái dáng phục phịch của Huy Cận, tôi lại đâm ngờ vực cái linh cảm ấy của mình. Hình như tôi đã nhầm. Câu thơ rất siêu thoát ấy không chắc của Huy Cận. Và rồi một lần khác, chẳng biết do giời xui đất khiến thế nào đó, tôi lại bộc lộ nỗi băn khoăn ấy với Huy Cận. Huy Cận đột ngột kêu lên:

- Trời ơi, sao cậu biết chuyện đó ? Ai nói với cậu thế ?

Huy Cận tỏ ra rất ngạc nhiên. Rồi ông bộc bạch:

- Đúng là câu thơ ấy của mình. Mình viết năm 1940 ở Huế. Xuân Diệu rất thích nên mình tặng Diệu. Bây giờ thì mình thấy câu thơ ấy là của Diệu chứ không phải của Cận nữa...

Đến lúc ấy, tôi mới biết cái linh cảm của tôi đã không phản tôi. Câu thơ ấy đúng là của Huy Cận thật. Kể lại với bạn đọc của Hồn Việt điều này, tôi nghĩ mình cũng chẳng làm điều gì phương hại đến uy tín của Xuân Diệu. Xuân Diệu như một trái núi. Có tách riêng ra một tảng đá, cho dù đó là vàng ròng đi nữa, thì cũng không phải vì thế mà trái núi đó nhỏ đi. Ngược lại, ta còn biết thêm một vẻ đẹp nữa của tình bạn giữa hai thi sĩ lớn: Xuân Diệu và Huy Cận.

khuong-tu-nha
19-07-2007, 19:37
nói đến thơ tình thì phải nói đến Xuân Diệu.Ông có nhiều bài quá "đỉnh" và mỗi người có 1 sở thích riêng.
Tôi thì thích câu :

"Tôi biết yêu từ khi chưa có tuổi
Lúc chưa sinh vơ vẩn giữa dòng đời..."

thật ngạc nhiên ! chưa sinh mà đã biết yêu sao ?! Để phân tích thì mênh mông lắm !
mấy ai hiểu đc tâm hồn thi sĩ,những kẻ "ĐA TÌNH"...

"Kẻ đa tình yêu không cần thịt da
Khi chết rồi tôi sẽ yêu ma..." (bài Đa Tình).

mạo muội vài lời tham gia topic.

Rapidshare
13-08-2007, 19:31
"Yêu là chết ở trong lòng 1 ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu
Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu"

Vẫn là bài thơ tình yêu ấy, ở phổ thông tôi đã từng học. Nhưng mỗi khi nhắc đến Xuân Diệu tôi lại nghĩ ngay đến bài thơ này. Nó gợi lên cho tôi hoài niệm về mái trường xưa, về kĩ niệm cấp 3 thân thương. Vẫn là câu nói này, nhưng hôm nay tôi lại nhận dc tình yêu ko trọn vẹn.

nhuhuyen
17-08-2007, 07:43
Uhm,mỗi lần giở lại thơ Xuân Diệu lại có cái gì lâng lâng khó tả trong con người
,nó có sự nồng nàn cũng như thấ vọng chán nản ,những câu thơ như:
'yêu là chết...
..... bao nhiêu" không ai là không biết
Lại có những câu về cái tôi rất hay như
"Tôi là con nai bị chiều giăng lưới"
Ý tưởng trong thơ Xuân Diệu là cái tôi lãng mạn hòa nhập vói thiên nhiên con người,nó chứa cả một triết lý nhân sinh
"Vô tâm nhưng giữa bài thơ diệu
Anh với em như một cặp vần"

Tiêu dao tú tài
18-08-2007, 07:58
Xuân Diệu,Tố Hữu,Chế Lan Viên,không hiểu sao đọc thơ mấy vị đó chỉ thấy 1 chữ chán .Vậy mà sắp phải thi Đại học cùng họ mới đau.
Giá mà đưa vào chương trình những bài thơ như Trần Dần thì tốt quá

Nhiệt Mặc Sinh
13-10-2007, 02:48
Thế Lữ: 100 năm khối vuông rubic


TTO - Nếu còn sống, năm nay Thế Lữ tròn trăm tuổi. Năm 2007 kỉ niệm 100 năm ngày sinh của ông (6-10-1907) trùng kỉ niệm 50 năm tuổi của Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam (1957).

Sống động như một khối vuông rubic, Thế Lữ là một tài năng muôn mặt: Thế Lữ - nhà báo, nhà phê bình văn chương, nghệ thuật, Thế Lữ - thi sĩ, Thế Lữ - nhà văn của truyện trinh thám kinh dị, lãng mạn đường rừng… Và, cuối cùng, tất cả quy tụ vào phương diện chói sáng nhất: Thế Lữ của sân khấu.

1. Khởi từ hoa-hồng-ngây-thơ-xứ-Lạng…

Cha của Thế Lữ nguyên là sếp ga xe lửa tuyến đường sắt Lạng Sơn -Thanh Hóa. Sinh con năm 1907, cha đặt tên khai sinh là Nguyễn Thứ Lễ. Hoài Thanh nhận xét hóm hỉnh trong Thi nhân Việt Nam: “NNơi sinh: Thế Lữ lấy làm lạ thấy người nhà nói là Thái Hà ấp, Hà Nội, còn Thế Lữ cứ tưởng là Lạng Sơn, nơi đã ở từ năm còn bé đến năm 11 tuổi”.

Mới vài ba tháng tuổi, Thế Lữ-kết quả cuộc tình lãng mạn của chàng kí ga, quê gốc Kinh Bắc, với cô gái ngoan đạo (Thiên Chúa giáo) nhà lành người Hải Phòng, quê gốc Nam Định-đã bị dứt khỏi vú mẹ, bế lên Lạng Sơn ở với bà nội, cha đẻ và u (vợ chính thức của cha). Sau này, vào tuổi thất thập, ông vẫn buồn rầu nhớ lại: chủ đề chính thời bé dại của ông, từ lúc ẵm ngửa đến năm 10 tuổi là xa cách, nhớ thương dằng dặc người mẹ đ, một mình ở Hải Phòng, còn mình thì bé bỏng ở mãi Lạng Sơn.

Suốt thời thơ ấu trôi qua ở xứ Lạng, nơi non nước cây rừng/Nước non thanh sạch cách chừng phồn hoa (thơ Thế Lữ), Thế Lữ sống hoang dại, sinh năm Đinh Mùi, cầm tinh con dê, bà nội gọi là “con dê núi”. Cả nhà gọi tên cúng cơm là “cậu Gầy”, bởi người cậu gầy nhẳng chỉ xương là xương. Bố Gầy làm sếp ga, theo tàu quanh năm suốt tháng, chả mấy lúc ở nhà. Về nhà, bố hay đánh Gầy vì tội rong chơi lêu lổng. Gầy sợ bố, quan hệ cha con thưa thớt, sượng sùng. Nhưng bố Gầy giỏi chữ Tây, chữ Tàu, dạy Gầy học chữ từ bé. Gần gũi cậu Gầy nhất trong tuổi ấu thơ hóa ra là bà nội, nhưng bà cay nghiệt với u, không bằng lòng thấy Gầy thương u.

Người Gầy thương nhớ nhất vẫn là mẹ đẻ, mỗi năm được lên thăm Gầy đôi ba bữa. Mỗi lần dứt áo biệt Gầy về Phòng (Hải Phòng), mẹ con đều chứa chan nước mắt. Mẹ lên tàu, tàu lăn bánh, Gầy nhớ mẹ quặn thắt cả lòng, chỉ biết phục xuống đường tàu, vuốt ve sắt lạnh, dõi theo tàu chở mẹ tuốt luốt xuống Hải Phòng, xa biền biệt…

Giời xui đất khiến, tâm hồn đa cảm của Gầy từ bé dại đã biết yêu hoa. Một sớm xuân thức dậy, mới tí tuổi đầu, cậu Gầy đã tê điếng hồn vía khi ngó thấy một nụ hồng nhung xứ Lạng đang nhè nhẹ cựa mình mở cánh. Cảm giác rợn ngợp mê cuồng trước cái đẹp xâm chiếm lập tức trái tim thơ dại của Gầy, và mãi mãi ở lại trái tim nghệ sĩ của Thế Lữ suốt cả một đời. Cho đến khi thành ông già đau yếu, sống nốt phần đời cuối ở TP Hồ Chí Minh (ông mất năm 1989), trong trí nhớ không tàn phai của Thế Lữ vẫn còn nguyên tươi niềm ngạc nhiên khờ dại với nét mong manh, thấp thoáng cánh hoa bay của những-ngày-hoa-hồng-ngây-thơ-xứ-Lạng… Và xứ Lạng thành thế giới đầu tiên về cái đẹp của Thế Lữ, với những ấn tượng đầu đời: vừa lãng mạn hoang vu, vừa ngất ngây sợ hãi…

2. Hành trình săn đuổi cái đẹp

Rốt cuộc, cái thế giới tràn ngập ấn tượng nguyên sơ ấy đã ám ảnh chủ thể sáng tạo Thế Lữ, kiến tạo trong tâm hồn ông cảm giác rợn ngợp luôn luôn trước những vẻ đẹp thoáng qua (tên một bài thơ của ông).

Ngoan đạo, đắm đuối mê man tìm cái đẹp trong Kinh Thánh, song Thế Lữ lại thấy bông hồng xứ Lạng hắt bóng không phải trên vườn địa đàng xa ngái, mà ở ngay cõi trần, trong vẻ đẹp ngồn ngộn da thịt của vườn-trần-gian. Ông thường đọc cho con trai Nguyễn Đình Nghi đoạn Kinh Thánh: “Chúa Jesus bảo môn đồ: Dù vua Salomon ăn vận quá ư quý phái, sang trọng, nhưng vẫn không mặc đẹp bằng bông huệ trắng tươi ngoài đồng”.

Từ ấy, Thế Lữ phải lòng cái đẹp hồng trần. Ông thú nhận hân hoan trong Cây đàn muôn điệu: "Tôi chỉ là một khách tình si/Ham vẻ đẹp muôn hình muôn vẻ/ Mượn cây bút nàng Ly Tao tôi vẽ/ Mượn cây đàn ngàn phím tôi ca".

Và ông lãng du không mỏi trên đường truy tìm cái đẹp. Tuổi hoa niên, từ Lạng Sơn về Hải Phòng ở với mẹ chẳng được lâu, lại biệt mẹ già, tuổi xuân dấn thân lên chốn Hà thành, Thế Lữ chính thức bước vào nghiệp văn chương. Hình ảnh thanh xuân của Thế Lữ là kẻ lang bạt kì hồ, “mũ lợt bốn phương trời sương nắng gội”,“tóc lộng tơi bời gió bốn phương”. Cái phút giây hoan lạc nhất, theo ông, là trên đường thiên lí: Rũ áo phong sương trên gác trọ/ Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang”.

Trong tín ngưỡng riêng về cái đẹp, Thế Lữ không chấp nhận trạng thái nửa vời, nửa mùa. Ông nghiêng lệch hẳn về duy mĩ, duy cảm. Rất tự nhiên, đó là những lý do thẩm mĩ xui khiến ông thoạt đầu chọn thơ trữ tình làm nơi thờ phụng thiêng liêng cái đẹp, và khởi hành chặng đường săn đuổi cái đẹp. Ông coi văn hóa phương Tây là phương tiện hữu hiệu, để biện hộ cho mục đích mà ông hằng theo đuổi suốt đời: sáng tạo theo tín niệm riêng về cái đẹp trong thế giới tác phẩm riêng của mình.

Và không ngẫu nhiên, Thế Lữ thành thi sĩ tiền phong của Thơ Mới ngay từ những năm 30 của thế kỉ XX.

Theo Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam: “ Độ ấy Thơ Mới vừa ra đời, Thế Lữ như vừng sao đột hiện ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam. Dầu sau này danh vọng Thế Lữ có mờ đi ít nhiều, nhưng người ta không thể không nhìn nhận cái công của Thế Lữ đã dựng thành nền Thơ Mới ở xứ này. Thế Lữ không bàn về thơ mới, không bênh vực thơ mới, không bút chiến, không diễn thuyết, Thế Lữ chỉ lặng lẽ, chỉ điềm nhiên bước những bước vững vàng mà trong khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ xưa phải tan vỡ. Bởi không có gì khiến người ta tin ở thơ mới hơn là đọc những bài thơ mới hay. Mà thơ Thế Lữ về thế cách mới không chút rụt rè, mới từ số câu, số chữ, cách bỏ vần, cho đến tiết tấu âm thanh".

Tưởng không còn lời nào huy hoàng, đích đáng hơn Hoài Thanh khi viết về sức mạnh riêng của con chữ thơ Thế Lữ, với vai trò thi sĩ tiền phong của Thơ Mới.

Khai sáng Thơ Mới, mở mang cho mình một “cõi thơ” riêng độc đáo, thành người thứ sáu trong văn phái Tự Lực Văn Đoàn (sau anh em dòng họ Nguyễn Tường: Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), Nguyễn Tường Long ( Hoàng Đạo), Nguyễn Tường Lân ( Thạch Lam) và Trần Khánh Giư ( Khái Hưng), nhà thơ trào phúng Tú Mỡ, nhưng Thế Lữ không dừng ở đó. Ông tiếp tục chiêm nghiệm cái đẹp ở một góc khác.

Và những ấn tượng ấu thơ xứ Lạng hoa hồng của ông lại được phát sáng trong một thể loại văn xuôi, mà rốt ráo, ông lại vẫn là người mở đường: “tiểu thuyết trinh thám Annam” đầy bí hiểm, li kì, hồi hộp: Vàng và máu (1934), Bên đường Thiên Lôi (1936), Gói thuốc lá (1940), Gió trăng ngàn (1941), Trại Bồ Tùng Linh (1941). Thêm nữa, Thế Lữ còn là tác giả những truyện ngắn “lãng mạn đường rừng”, như thể ông đã hái lượm vô tình trên các nẻo đường lang bạt: Một đêm trăng, Vì tình, Câu chuyện trên tàu thủy, Mau trí khôn, Một người say rượu, Câu chuyện đường rừng…

Khi hành nghề phóng viên, được báo Phong Hóa giao việc “gác gôn” chuyên mục Thơ, và đề xuất giải thưởng “Tự lực văn đoàn” hàng năm, chính con mắt xanh tinh đời của Thế Lữ đã phát hiện Xuân Diệu, ngay trong buổi đầu bỡ ngỡ với Thơ Mới, sẽ là kẻ lên ngôi ông hoàng thơ tình Việt Nam hiện đại thế kỉ XX. Lúc ấy, chàng thi sĩ tóc quăn này mới chớm tuổi đôi mươi và chưa hề biết mình sẽ đăng quang. Vậy mà, Thế Lữ đã hoan hỉ tuyên bố: Từ nay, chúng ta đã có Xuân Diệu. Và Xuân Diệu chính là một vẻ đẹp của người trần, trong thế giới của người đời mà ông phát hiện.

3. Cha và con và thánh đường sân khấu

Song, có lẽ vì qúa yêu cái đẹp và yêu mê hơn nữa sự không ngừng phát hiện vẻ đẹp mới lạ trong vườn- trần- gian mà Thế Lữ đã đủ nhẹ lòng để giã từ thơ, khi ông thấy Thơ Mới đã ngõ cụt đường cùng, khi tiểu thuyết trinh thám, lãng mạn đường rừng đã nhàm nhạt cũ phai và các bài báo cũng trở nên bức bối chật hẹp so với chí tang bồng văn nghệ của ông.

Buông bỏ hết sau lưng, Thế Lữ đến với kịch, cõi nghệ thuật hữu hình (so với văn chương), lại rất mới lạ, đầy hương sắc Tây phương, chưa in dấu chân người khai phá. Lại vận vào người cái si mê của kẻ mở đường, Thế Lữ lại một lần nữa động lòng chinh phục, khẩn hoang cõi bờ mới mẻ mênh mang của cái đẹp. Vào đúng lúc xuất hiện thể loại kịch, vừa đủ lạ lùng để ông khai phá, vừa đủ rộng rinh cho Thế Lữ thâu góp tinh túy của các thể loại văn chương mà ông từng trải, để đổ vào kịch những sáng tạo đầy tràn…

Rốt cuộc, Thế Lữ đã làm kịch với con mắt và tấm lòng của nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà mĩ thuật…Những ban kịch do ông gây dựng đã có tiếng vang : Ban kịch Tinh Hoa, Thế Lữ, Anh Vũ. Thế Lữ tự học mà thành “nhà dàn cảnh” (ông khiêm tốn, không tự nhận mình là đạo diễn). Những hoạt động dàn cảnh và diễn kịch của Thế Lữ lừng lẫy tiếng tăm trên sân khấu Hà Nội, Hải Phòng những năm 30,40. Vào thời điểm ấy, đúng là Thế Lữ có công “Việt Nam hóa” kịch nói, một thể loại rặtTây phương mà người Pháp đô hộ không hề có ý định mang tặng cho sân khấu Việt Nam. Ông cũng là người có công đầu đặt nền móng cho một thánh đường sân khấu mang vẻ đẹp riêng biệt Việt Nam.

Hơn thế nữa, Thế Lữ có công đặc biệt: con trai trưởng của ông, NSND, đạo diễn Nguyễn Đình Nghi, là một sản phẩm nghệ thuật mà Thế Lữ tạo tác trong cuộc hạnh ngộ với cái đẹp của sân khấu. Sâu xa hơn nữa, đó là cuộc hạnh ngộ những tinh túy của hai nền văn hóa Việt Nam và Pháp.

Năm 1982, lần đầu đặt chân đến Paris, Nguyễn Đình Nghi đã thấy thân mật như đi giữa lòng ngõ phố Hà Nội. Ông thấy Nhà thờ Đức Bà sao vừa nhỏ nhoi vừa như to lớn hơn so với những mô tả của V.Hugo. Và ông hơi áy náy thấy mình dửng dưng trước vẻ kì vĩ của tháp Eiffel, song lại rưng rưng hoài cảm khi rảo bước trên đường phố Paris, được sống lại những giờ phút say mê đọc sách tiếng Pháp ngày xưa, dưới ảnh hưởng rất lớn của văn chương và sân khấu Pháp từ người cha – Thế Lữ.

Nguyễn Đình Nghi từng thú nhận: Thế Lữ-cha đã di truyền cho ông một tín niệm về nghề đạo diễn rất giản dị và hệ trọng: Thể loại kịch Việt Nam hiện đại phải biết kể chuyện một cách Việt Nam. Và cách kể chuyện Việt Nam phải biết tiếp nhận, tích hợp sân khấu cổ truyền Việt Nam, bằng cách kể chuyện theo nguyên tắc mĩ học: tả ý, tả thần.

Nguyễn Đình Nghi biết ơn cha, biết ơn sân khấu cổ truyền đã như một thứ của kho vô tận cho nghề đạo diễn của sân khấu Việt hiện đại. Rút ra từ sân khấu truyền thống phương pháp miêu tả giàu sức biểu hiện cho thể loại kịch, vốn là thể loại tả thực, là nguyên tắc ứng xử quan trọng nhất của Nguyễn Đình Nghi với nghề đạo diễn. Đỉnh cao nhất trong nghề đạo diễn của ông là hai vở cuối đời: Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Rừng trúc, đã đạt tới số phận văn hóa. Hồn Trương Ba, da hàng thịt đoạt giải nhất Liên hoan sân khấu kịch quốc tế tại Maxcơva 1990, từng lưu diễn cho sinh viên hơn 20 trường đại học Mỹ năm 1998. Biết kể chuyện trên sân khấu theo cách Việt Nam, nghĩa là biết “Việt Nam hóa” cách kể chuyện của thể loại kịch phương Tây bằng ngôn ngữ ước lệ của sân khấu truyền thống Việt Nam.

Nguyễn Đình Nghi suốt đời nghiệm sinh cách kể chuyện ấy. Và suốt đời ông nguyện dàn dựng kịch theo cách ấy, một lòng vâng theo lời cha Thế Lữ dạy khi nhắm mắt, xuôi tay, đã trích lời Jouvet mà căn dặn rằng: Sân khấu giống như Chúa Ba N gôi: Nhà viết kịch là Đức Chúa Cha, diễn viên là Đức Chúa Con và khán giả là Đức Chúa Thánh thần… Bởi vậy, Nguyễn Đình Nghi hài lòng về nhận xét của đạo diễn Pháp V.Colin, trên báo Sân khấu (Pháp) số tháng 11,12-1992: “Vẫn luôn luôn là sự tồn tại bền chặt của một ảnh hưởng văn hóa Thiên Chúa giáo xa xôi, cộng với tư tưởng Khổng giáo và đào tạo macxit, đã hình thành một Nguyễn Đình Nghi, người sân khấu đầy cảm hứng mà ta rất vui sướng được gặp gỡ."

Nhiệt Mặc Sinh
13-10-2007, 13:36
Thế Lữ (06.10.1907 - 03.6.1989) tên thật là Nguyễn Thứ Lễ, sinh tại Hà Nội, quê gốc Bắc Ninh. Bút danh Thế Lữ là do đọc lái tên thật mà thành, còn có nghĩa là "quán trọ của đời".

Thế Lữ viết truyện trinh thám, làm thơ. Thế Lữ chỉ có hai tập thơ, được sáng tác trong vòng bảy năm, nhưng lại có ý nghĩa khai sinh một chặng phát triển mới cho thơ ca VN, đó là phong trào Thơ Mới. Những năm đầu thập niên 30 của thế kỷ 20, thơ cũ theo luật Đường không thể chuyên chở những tình cảm mới. Ngay từ Tản Đà đã phải có những yếu tố cách tân. Năm 1932, nhiều thi sĩ thổi vào thơ những đổi mới cả về nội dung lẫn hình thức. Tranh luận giữa mới - cũ rất sôi nổi. Thế Lữ chỉ lặng lẽ làm Thơ Mới, không tham gia tranh luận! Khi Thế Lữ cho xuất bản tập "Mấy vần thơ" vào năm 1935, cũng là đặt dấu chấm hết cho các cuộc tranh luận triền miên vì "phái thơ cũ" đã hết lý lẽ để công kích Thơ Mới nữa. Qua Thế Lữ lần đầu công chúng thơ được thưởng thức một loại thơ ca mới mẻ...

¤


Thế Lữ (06.10.1907 - 03.6.1989)

Bài "Nhớ rừng" của Thế Lữ thực chất là một tuyên ngôn của chủ nghĩa lãng mạn, không chấp nhận cái tầm thường...

Sự đa tầng, đa nghĩa thường làm cho thơ giàu sức khái quát và cũng là thuộc tính tất yếu làm cho thơ có thể thành thi phẩm bất hủ. Sụ lay động và lấp lánh của thơ thường loé lên, toả sáng từ nhiều tầng cảm xúc. Phải chăng chính những cảm xúc hợp lý vẫn cứ mở rộng thơ ra về kích cỡ để tạo nên từng nét thơ, hoặc cả dung mạo một bài thơ bất tử? Đọc "Nhớ rừng" của Thế Lữ chừng như nhiều thế hệ đã nhận định như vậy...

Xưa nay, sự bí mật và kỳ vĩ của thơ ca thường khởi nguyên từ bút pháp rất dung dị mà đậm chất hàm súc. Chỉ một "lốt" hổ trong "Nhớ rừng", Thế lữ cũng đã tạo ra biết bao tầng nghĩa rất khác nhau, biến con hổ trong thơ hoá thân thành muôn hình vạn trạng của muôn điều suy tưởng từ những "gốc rễ" nhận thức rất riêng của từng người đọc.

Với Thơ Mới, Thế Lữ không luận chiến mà ông ung hoành dùng ngọn bút của chủ nghĩa lãng mạn để lột tả cái khí phách của vị chúa sơn lâm khi bị hãm mình trong "cũi sắt".

Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé riễu oai linh rừng thẳm
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.

Thơ cũ giam mình trong lốt hổ, nhà thơ tả hổ sa cơ bằng bút pháp và kích cỡ vung ngang, chém dọc rất tự nhiên, ngẫu hứng, sắc bén bằng tố chất mới lạ của Thơ Mới?

Nếu trước đó, nhà thơ miền Nam Đông Hồ đã ví thơ cũ như "Chiếc áo năm xưa đã cũ rồi", cũ về màu sắc đặt định, cũ cả về kích thước của cảm xúc... thì giờ đây Thế Lữ không muốn chỉ ra hết tất thảy nhược điểm của thơ cũ. Trái lại, chừng như ông nhìn thấy hồn thơ cũ vẫn còn âm vang trong Thơ Mới, có điều nó được diễn đạt thoải mái hơn, tự do hơn. Con hổ bị giam nhưng vẫn cố ánh lên thứ khí phách phi thường bằng đặc chất của chủ nghĩa lãng mạn qua những ngôn từ cực mạnh của của "gió rừng", của "giọng nguồn hét núi", của những động từ dữ dội: "thét, dõng dạc, cuộn, quắc...":

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng, Thế Lữ không đi tận cùng với thơ. Từ năm 1937, ông chuyển sang kịch và cũng có nhiều thành tựu ở lĩnh vực này. Nhưng Thế Lữ đã được coi là người cách tân số một của thơ Việt Nam thế kỷ 20, mở đường cho một loạt thi sĩ tài năng xuất hiện trong thời gian 1932-1945. (Vũ Quần Phương)


Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể muôn của loài
Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi.

"Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi" phải chăng là câu thơ làm cho mãnh lực phi thường của chúa sơn lâm trước muôn loài vụt tan biến... mọi oai linh? Bởi quyền uy đó chẳng có gì để đối chứng, để xác tín chăng? Cái siêu phàm chợt đồng nghĩa với nỗi cô đơn? Trong bài thơ "Hi Mã Lạp Sơn" Xuân Diệu chừng như cũng chỉ ra điều đó:

Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta
(.....)
Ta bỏ đời, mà đời cũng bỏ ta
Giữa vắng ngắt, giữa lạnh lùng thế tuyệt!

Phải chăng hình ảnh hổ bị giam là một ẩn dụ về sự độc đáo trong khuôn khổ của thơ cũ, cũng chính là một thứ độc đoán tự giam mình? Khuôn khổ thơ hay là chiếc "cũi sắt" giam hổ trong thơ:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

"Đâu... đâu... đâu...?" điệp động liên hồi về một quyền năng chỉ còn trong hoài niệm của hổ. Sự khuôn định, niêm luật khắt khe chưa hẳn là thế mạnh của thơ cũ, ngược lại nó gò bó thơ cũ. Nhưng tính súc tích, cô đọng về ngôn từ của thơ cũ vẫn có thể vận dụng để làm giàu đẹp cho Thơ Mới. Yêu tự do, muốn vượt mọi khuôn định, nhưng sự dài dòng, khuynh hướng viết "thoải mái", "tràng giang" nhất địng không thể là thế mạnh của Thơ Mới, mà nó đã vấp phải trong giai đoạn sơ khai.

Phải chăng ngoài sự thắng lợi của Thơ Mới, vị chủ tướng Thế Lữ vẫn còn rất trân trọng với thơ cũ về năng lực đậm đặc và súc tích của nó? Nếu như vậy, "Nhớ rừng" của Thế Lữ đã mở ra triển vọng cho Thơ Mới về cả hai cực: tiến tới sự phóng khoáng của ngày mai trong sự kế thừa, chắt lọc bao tinh túy của cái hôm qua?

Theo http://www.nguoivienxu.vietnamnet.vn/butviet/2005/10/497049/