PDA

View Full Version : Trấn yểm bùa trên Sông Tô Lịch


LSB-PhongThienVu
21-04-2007, 09:56
Ngày 21/9/2002, Báo Kinh Tế và Xã Hội đã đăng một bài về sự phát hiện trên sông Tô lịch, phía cửa Tây của La Thành, một hiện tượng chấn yểm của người xưa. Hiện tượng này đã gây xôn xao dư luận của Hà Nội và cả nước về những kỳ bí đang xẩy ra vào đầu thế kỷ 21 - Khi mà KHKT đang phát triển như vũ bão.


Phần I


Cty liên doanh XD VIC trúng thầu gói thầu 07 dự án cải tạo hệ thống thoát nước HN. Công việc cụ thể là nạo vét và kè đá dọc bờ sông Tô Lịch. Tác giả bài viết này là ông Nguyễn Hùng Cường đội trưởng đội XD số 12 trực tiếp chỉ huy thi công đoạn sông qua làng An Phú, P Nghĩa Đô, Q Cầu Giấy. Và mọi việc kỳ bí và đáng sợ bắt đầu từ đây. Có thể là sự trùng hợp ngẫu nhiên nhưng cũng có thể là chuyện tâm linh chúng ta chưa giải thích được.

Trước khi thi công, với tư cách chỉ huy công trường tôi có mời ông Phạm Ngọc Anh kỹ sư thủy lợi làm chuyên viên kỹ thuật. Ngay ngày đầu tiên khi khảo sát thực địa, ông Anh phát hiện một ngôi Đền rất lớn ở bờ sông phía An Phú. Đó là ngôi Đền Quán Đời có từ thời Lý. Ông Anh nói luôn: "cậu không nên nhận thi công đoạn sông này. Nguy hiểm lắm". Rất ân hận, tôi đã không nghe theo lời khuyên này.

Ngày 15/8/2001 tôi vừa làm lễ trong đền Quán Đời, vừa cho máy xúc, máy ủi xuống bờ sông khơi công. Vừa thắp được mấy nén hương thì tự nhiên lửa trong nắm hương cứ bùng bùng cháy rực, đồng thời ngực tôi đau buốt. Mãi mới dập được lửa, cắm lên bát hương thì công trường báo có sự cố. Vái vội mấy vái, tôi chạy ra ngoài. Thì ra ngoài công trường sau khi đắp đe bơm nước ra, anh em phát hiện rất nhiều cọc gỗ lim đóng theo những hàng ngắn, bố trí rất lạ. Cũng là vô sự, vô sách, tôi chỉ huy cho máy nhổ cọc lên. Máy vừa nhổ được 2 chiếc cọc, thì tự nhiên như có một lực gì đẩy, chiếc máy xúc tự trôi xuống sông, không có cách gì giữ được. Đồng thời đê ngăn nước vỡ, nước tràn vào ngập kín chiếc máy xúc. Cũng gần như cùng lúc ấy có tiếng người hét lên. Trong đống bùn mà máy xúc đã xúc lên bờ có lẫn rất nhiều xương người, xương thú vật, rất nhiều đồ gốm, đồ sắt, đồ dùng như bát đĩa, dao, liềm, kim khâu, tiền đồng, tiền cổ. Biết là gặp chuyện lớn, tôi cho dừng thi công, yêu cầu công nhân gom tất cả đồ cổ, xương người lại và báo với Bảo tàng HN. Ông Phạm Kim Ngọc GĐ Bảo tàng HN và nhiều nhà khoa học đã đến hiện trường thu nhặt cổ vật mang về bảo tàng. Tối hôm đó, anh Hùng, người lái máy xúc nhổ cọc, đang khoẻ mạnh vừa về đến nhà chợt lên cơn động kinh, mắt trợn, miệng sủi bọt mép, người cứ quay tròn như gà bị cắt tiết. Cả nhà anh Hùng biết có sự lạ, sắm lễ ra bờ sông vừa khóc vừa lễ. Thật sợ, vừa lễ xong, đốt vàng mã được một nửa thì điện thoại ở nhà báo tin anh Hùng đã tỉnh lại.

Không biết làm cách nào, nghe bạn bè mách, tôi phóng xe đi Hải Phòng mời 1 thầy pháp nổi tiếng về trừ tà. Vừa nói chuyện với thầy, tự nhiên thầy trừng mắt: "Này, chỗ ấy âm khí nặng nề, sức tôi không trừ được". Năn nỉ mãi thầy mới đi về HN mà cũng chỉ dám làm lễ cầu an ở bờ sông và ngay đêm đó về HP.

Mấy ngày sau, Bảo tàng HN tổ chức 1 hội thảo khoa học, hội tụ rất nhiều các nhà khoa học cả về sử học, bảo tàng, tâm linh... Kết luận của giáo sư Trần Quốc Vượng được chất nhận: đây là trận đồ bát quái yểm trấn giữ cửa thành Đại La từ thế kỷ IX. GS cũng đề cập đến lực lượng âm binh tại đây và dặn tôi phảỉ cẩn thận kẻo ảnh hướng đến sức khoẻ và tính mạng công nhân.

Tôi cùng anh em công nhân thu nhặt hết tất cả xương người liệm vào tiểu và chôn ở bờ sông, hàng ngày cắt cử người hương khói. Nhưng công việc không tiến triển được. Cứ đắp đê lên, lại vỡ. Anh em công nhân ở công trường thì luôn luôn mơ thấy ma quỷ và thường gặp tai nạn lao động. Vét được chút bùn nào lên thì cũng thấy xương người, có khi cả đầu lâu. Chúng tôi liệm hết vào tiểu đêm chôn gần đó.

Một mặt tích cực đổi mới kỹ thuật thi công, mặt khác tôi vẫn tiếp tục mời thầy cúng trừ tà giải hạn. Nhưng tất cả các thầy bắc, nam đều bất lực. Công nhân toàn nằm mơ thấy những người mặc áo the, khăn xếp đánh đuổi không cho nằm. Nhiều người đã bỏ việc không dám ở lại. Anh Thương quê ở Nghệ An là công nhân xây lắp ngủ ở lán công trường, đêm nào cũng mơ thấy 1 bà cụ hiện lên nắm tóc đuổi đi và nói "Đây không phải chỗ kiếm ăn của mày, về quê mà sống". Anh Thưởng không chịu bỏ đi, còn khuyên nhiều công nhân ở lại làm. Được 3 hôm vợ anh làm cấp dưỡng cho công nhân bị bỏng độ 3 toàn thân. Sợ quá anh đưa vợ đi bệnh viện và bỏ việc luôn.

Đến tháng 11/2001 nhờ tích cực vận động tôi đã mời được thượng toạ Thích Viên Thành ở chùa Hương về làm lễ cúng cho tôi ở hiện trường. Vừa đến hiện trường thầy đã ngồi xuống nhắm mắt niệm Phật. Niệm 1 lúc thầy đứng lên nói. Đây là trận đồ trấn yểm rất nguy hiểm. Vì các đệ tử thầy sẽ lập đàn tràng hoá giải. Sau đó thầy lập đàn tràng ở bờ sông hoá giải trấn yểm. Lễ xong thầy Thích Viên Thành nói với mọi người, "mặc dù thầy đã cố hoá giải nhưng anh em phải cẩn thận, còn anh Cường thì phải chịu nhiều hậu quả, gia đình, anh em con cháu cũng gặp hoạ. Rồi buồn buồn thầy nói: vì cái đàn tràng này tính mạng thầy cũng khó giữ", Ba tháng sau thầy Thích Viên Thành viên tịch. Các đệ tử nói trước khi mất thầy còn nói thầy mất vì trận đồ yểm ở sông Tô Lịch.

Nhưng công việc cũng không tiến triển được. Đê đắp lên là vỡ, kè thép không vỡ thì nước xói từ dưới lên. Đặt đá xuống thì đá chìm ngỉm. Để kiểm tra địa tầng tìm kiếm biện pháp thi công mới tôi thuê 1 dàn khoan thăm dò đến khoan mấy mũi. Dàn khoan dựng ở giữa sông, đội khoan hạ mũi khoan. Lạ thay cứ hạ mũi khoan xuống 1 đoạn là mũi khoan gãy. Ba lần như vậy họ lẳng lặng tháo dàn khoan đi mất, không cần đòi tiền. Công nhân thì vẫn hoang mang vô cùng. Anh Hoàn quê ở Ninh Bình làm đốc công, có hôm vừa dẫm chân lên đầu cột gỗ thì ở quê nhắn lên bố anh ốm thập tử nhất sinh phải cấp cứu. Anh Nguyễn Văn Nông, thủ kho là người tích cực trong việc thu lượm các hài cốt và di vật thì mẹ bị tai biến mạch mãu lão. Sau khi thầy Thích Viên Thành làm lễ hoá giải yểm trừ, anh Trần Văn Lợi người Bắc Giang xông xáo nhất nhẩy xuống lòng sông vét bùn. Vừa lên bờ tắm rửa xong thì nghe tin nhà ở quê bị cháy rụi, một đứa cháu rất thân với anh đột nhiên chết.

Các công nhân sợ hãi nghỉ việc cả. Chiều chiều đứng bên bờ sông hoang vắng lòng tôi bỗng chua xót. Tôi có tội gì đâu mà thánh thần hại tôi đến nỗi này....

LSB-PhongThienVu
21-04-2007, 10:01
Phần II


Thấm thoắt đã cuối năm, trời trở rét, chỉ còn anh em thân thiết với tôi là ở lại làm. Tôi cho đóng cọc thép sâu tới 4m rồi làm cữ thép chấm nước: Lạ thay, cứ bơm sạch nước thì cữ lại vỡ. Lúc này một số báo chí đã nói tới những sự kỳ là xung quanh công trình sông Tô Lịch đoạn qua làng An Phú này. Bảo tàng Hà Nội, rồi Viện tâm lý, các nhà ngoại cảm cận tâm lý đều đã tổ chức các cuộc họp tại công trình. Kết luận cuối cùng là... không giải thích được. Phía các nhà sử học, khảo cổ học thì giải thích đây là di tích nằm trong quần thể chính của Tây thành Đại La, ( có thể là Ngọ Môn ), nhiều người còn yêu cầu khôi phục di tích này, phía các nhà tâm linh, dịch học thì nói đây là một trận đồ trấn yểm tà ma, không cho xâm phạm kinh thành, vì là trận đồ cho nên đã giam giữ rất nhiều ma mãnh, những bộ xương người mà tôi đào được rất có thể là xương người bị tế sống chôn lúc làm lễ trấn yểm. Cũng theo họ tôi đã động đến trận đồ, phá huỷ nó, giải thoát cho bao nhiêu tà mà nên nó ám vào làm hại những người có mặt lúc đó, mặt khác Thánh, Thần cũng oán giận việc làm của chúng tôi nên ra tay trừng phạt. Chuyện Thánh, Thần, Ma, Quỷ thì không ai nhìn thấy, nhưng những rủi ro mà chúng tôi phải chịu đựng thì quả đáng sợ.

Có một hôm đóng cữ mới, bơm nước cạn chuẩn bị đào để chuẩn bị kè bờ thì phát hiện có thêm một cọc gỗ. Dùng máy xúc nhổ mãi không được, tôi giao nhiệm vụ cho anh Thuý ( người Ninh Bình ) xuống chặt cụt đi để lấy chỗ làm. Ngay đêm hôm đó anh bị cảm nặng sốt cao, phải đưa vào viện. Nhưng kinh khủng hơn, sáng hôm sau điện thoại từ gia đình anh điện lên Mẹ anh bị tai nạn giao thông chấn thương sọ não. Đến chiều thì tin lên đứa con anh đang học lớp 7 bước từ trên hè xuốgn sân ngã gãy xương đùi, mặc dù từ hè và sân chỉ chênh nhau 30cm. Đến sáng hôm sau thì Mẹ anh bị đứt mạch máu não. Đang sốt hừ hừ anh Thuý cũng phải vùng dậy chạy vào Đền làm lễ mới bỏ về. Sau này tôi mới biết nhà anh còn gặp nhiều chuyện không may nữa, phải cũng lễ rất nhiều anh mới sống sót được.

Nhưng bỏ không làm nữa cũng không được, đã đổ hết vốn liếng vào đây rồi bỏ đi thì không chỉ chết một mình tôi mà còn chết cả nhà, cả họ. Xin nhắc là công ty VIC trúng thầu nhưng làm từng đoạn, các đội nhận khoán lại, phải tự bỏ tiền ra làm rồi thanh toán sau. Mặc dù tôi đã báo cáo lãnh đạo công ty nhiều lần, báo chí cũng đã nói đến chuyện này, nhưng ông Nguyễn Quang Hưng - Giám đốc công ty vẫn không quan tâm giúp đỡ, ngược lại ông còn nhạo báng chê trách chúng tôi không biết làm việc. Vì vốn liếng, vì sĩ diện của một kỹ sư xây dựng, tôi bàn với anh em thân tín quyết tâm làm đến cùng. May tha có ông Nguyễn Trường Tiểu - Chủ tịch hội đồng quản trị VIC ủng hộ tôi rất nhiều trong công việc ( hiên nay ông Tiểu đang làm phó Tổng Giám đốc công ty xây dựng Hà Nội ). Được sự giúp đỡ của ông, tôi đã mời được thầy Mão và cuối cùng đên 6/2002 ông Mão nhận lời lập đàn tràng giải trận đồ bát quái cho tôi. Đàn lớn lắm, có đủ cờ phướn hương án, lễ mặn, hoa quả có đủ. Trong danh sách chủ lễ có toàn bộ Ban Giám đốc công ty VIC, nhưng ông Hưng không đến dự. Cúng lễ hai ngày, hai đêm, hàng trăm người đến xem ầm ĩ một khúc sông. Cúng xong ông Mão nói với tôi: " Cậu đào khúc sông này là cậu khổ rồi. Bây giừo cậu có thể làm xong việc, nhưng nhà cậu sẽ gặp nhiều tai vạ lớn, cậu sẽ mất tất cả những gì quý giá nhất, anh em cậu sẽ tan gia, bại sản, gặp nhiều sự oan khuất. Tôi làm lễ cho cậu tôi cũng sẽ bị trả giá. Mặc dù tôi không chết nhưng e rằng khó được như trước".

Ngay sau khi ông Mão lễ xong, chúng tôi cùng về đến nhà thì ông Mão ngất đi. Từ lúc đó trong gần nửa tháng người nhà ông Mão đưa ông đi khắp các bệnh viện, không bác sĩ nào biết ông mắc bệnh gì, còn ông Mão thì lúc mê lúc tỉnh, lúc kêu khó chịu trong người, lúc thì kêu đau đầu... Cứ vậy, mãi sau ông mới khỏi, nhưng từ đó sức khoẻ yếu hẳn đi. Trước đây tôi không tin là là thầy Thích Viên Thành chết vì tai hoạ sông Tô Lịch, nhưng từ khi chứng kiến ông Mão ốm thì tôi tin rằng thầy Thích Viên Thành chết vì ma tà sông Tô Lịch thật. Nhưng lạ nhất là từ lúc lập đàn tràng lần thứ 2 do ông Mão chủ lễ công việc có vẻ suôn sẻ hơn. Cữ dựng lên không bị phá vỡ nữa, kè đập cũng không bị sụt lở, chúgn tôi đã làm được gần 150m dài, quá 1/3 đoạn sông tôi nhận. Đến đay thì tôi kiệt sức, vốn liếng vay mượn khắp nơi rồi không thể vay thêm được nữa. Tôi quyết định dừng công việc tại đây. Nhưng tai hoạ thì không dừng lại, vào đúng ngày tôi hết sạch tiền, định cho anh em nghỉ việc thì tự nhiên một anh công nhân lên cơn động kinh ngay tại công trường, miệng sùi bọt mép, mất hoàn toàn ý thức. Lúc tan cơn co giật, anh vân mê sảng mồm lảm nhảm: Trả tao đây, trả tao đây. Ngay hôm sau tôi được tiếp một người quen mới từ Lào về. Đó là anh Tuấn một cán bộ ở Uỷ ban dân tộc Trung Ương. Năm trước, trong lúc chúng tôi đào trong trận bát quái anh có đến thăm và chọn trong số các đồ cổ xúc dưới sông lên xin một cái bát hoa cúc đời Lý. Anh mang về bày ở trong nhà. Từ ngày ấy gia đình lúc đục, làm ăn thất bại. Vừa rồi anh có đi công tác sang Lào, có một ông thày cũng vừa nhìn thấy anh đã hốt hoảng: " Anh có cầm vật gì của người âm không ?" Anh trả lời: "không có ạ". Ông thầy cúng lắc đầu: " anh phải nhớ lại thật kỹ đi, tôi thấy sau lưng anh có rất nhiều người âm đang đòi anh cái gì đấy, hình như là bát ăn cơm thì phải. Anh lấy của họ ở dưới sông, làm họ không có bát ăn cơm. Anh phải trả họ ngay không thì gay go đấy."

Anh Tuấn nhớ lại chuyện cái bát sợ quá phải bỏ dở chuyến công tác, quay về Hà Nội sắm lễ vật làm lễ tạ tội và trả cái bát vào lòng sông đúng chỗ tôi đã múc lên. Hôm đó là ngay 24/7/2002.

Chuyện còn rất dài, tai hoạ còn rất nhiều, ba ngày sau đó Bố đẻ tôi đột ngột ra đi và nhiều chuyện nữa đã sảy ra, tôi sẽ kể chi tiết sau. Bởi ngay đến hôm nay, gia đình tôi hãy còn chịu nhiều oan khuất. Em gái tôi là Nguyễn Thị Bích Hợp, Bán bảo hiểm cho PJICO chỉ bán bảo hiểm cho công ty Việt Thái Phong, không tham ô tham nhũng đồng nào, chỉ vì các Giám đốc, phó Giám đốc tham ô tiền tỷ mà phải ra toà. Ai biết chuyện cũng thương mà không giúp gì được. Dự kiến phiên toà sẽ bắt đầu vào ngày 10/4/2007. Tôi lo em tôi sẽ bị tù oan. Thế là em đi tù là tại tôi, tại tôi ngu ngốc đã nhận thi công đoạn sông ấy, đã đụng chạm vào trận đồ bát quái ghê gớm ấy. Đã có quá nhiều người chết, quá nhiều người bị tai nạn, bị thương tật. Tôi cầu mong Thần Thánh mười phương, cầu mong các vị quan toà anh minh cứu giúp em tôi, cứu giúp gia đình tôi.


(Nguyễn Hùng Cường)

LSB-PhongThienVu
21-04-2007, 10:04
Phần III



Như số báo trước đã kể, thầy tứ phủ Phạm Văn Mão sau khi lập đàn tràng đã hóa giải được trận đồ bát quái công trình kè sông Tô Lịch, đoạn qua đền Quán Đôi, nhưng đổi lại gia đình tôi và cả anh em tôi sẽ bị trận đại nạn mất tất cả. Đúng như vậy, ngay sau đó công việc trên đoạn sông này bỗng nhiên thuận lợi, chẳng mấy chốc tôi đã làm xong khoảng 150m chiều dài kè sông. Đến lúc xảy ra sự kiện anh Tuấn bị người âm đuổi theo, trả lại cái bát hoa cúc xuống lòng sông. Bố để tôi ở quê là một người đàn ông trẻ khỏe hơn tuổi 70 của mình, ông vẫn làm việc và lao động như mọi tráng niên. Sau khi anh Tuấn trả cái bát về lòng sông đúng 3 hôm, ngày 27/7/2002, bố tôi đi chơi về đang ngồi uống nước ở nhà đột nhiên đứt mạch máu não và chết ngay sau 6 tiếng đồng hồ cấp cứu. Đây là mất mát lớn nhất của cuộc đời tôi. Biết là mọi sự nguy hiểm đang rình rập, ngay sau khi đám hiếu bố tôi kết thúc, tôi ra ngay công trình, đào toàn bộ 8 hài cốt moi từ dưới sông đang chôn tạm dọc bờ sông lên, rửa ráy sạch sẽ, xếp vào tiểu đẹp và làm lễ trọng, đưa toàn bộ lên nghĩa trang Bát Bạt an táng, cho mát mẻ vong linh người chết. Trong đau khổ và mất mát cha, trước đàn lễ tôi vừa khóc vừa khấn rất to nhiều người nghe thấy: “Tín chủ xin các vong hồn tha thứ cho sự xúc phạm vào nơi yên nghỉ của các vong, nhưng tín chủ cũng chỉ là người làm thuê, thừa lệnh cấp trên mà làm, nay con đã sức cùng, lực kiệt, người thì chết, người thì ốm, tiền thì hết, nếu các vong có bắt tội thì bắt tội ông Nguyễn Quang Hưng, Giám đốc công ty VIC và ông Nguyễn Trọng Doanh, Giám đốc dự án. Xin các vong nhẹ đỡ trừng phạt con”. Tôi cũng nói thêm, trong suốt thời gian xảy ra chuyện ở đoạn sông Tô Lịch này, hai ông Hưng và Doanh lúc nào cũng tỏ vẻ không tin và không hề có sự hỗ trợ nào, thậm chí còn nhạo báng và gây thêm khó khăn cho công việc thi công của tôi.

Và cũng thật đáng sợ, chỉ 2 ngày sau khi tôi an táng toàn bộ 8 bộ hài cốt ở nghĩa trang Bát Bạt, trong chuyến công tác ở Quảng Binh xe ô tô chở ông Nguyễn Quang Hưng cùng một số cán bộ công ty đã bị tai nạ. Chiếc xe Toyota bị phá hủy hoàn toàn, Ông Nguyễn Quang Hưng bị chấn thương nặng, gãy 3 chiếc xương sườn nhiều cán bộ cũng bị vạ lây. Vẫn chưa hết sau đó khoảng 1 tháng, văn phòng ban quản lý do ông Nguyễn Trọng Doanh trực tiếp phụ trách đặt tại Yên Sở, Hà nội bỗng bốc cháy dữ dội. Ngôi nhà 2 tầng đặt văn phòng dự án và văn phòng một số công ty tham gia thi công dự án bị thiêu rụi hoàn toàn.

Sau khi làm xong 150m trên chiều dài 360m tôi nhận thi công, do các sự việc nghê ghớm xảy ra và cũng do sức cùng lực kiệt, tiền vốn không còn, tôi xin thanh lý hợp đồng. Lạnh lùng không có chút nhân đạo, không thương xót, Công ty VIC thanh lý hợp đồng mà không hỗ trợ lấy một xu nhỏ. Tôi bị lỗ 500 triệu đồng vì công trình này. Quay trở về Nghệ An tôi đi cầu khấn ở mọi nơi, nơi nào cũng báo cho tôi biết tôi đang bị nạn.

Cũng nói thêm, khi thi công công trình ngoài số cổ vật moi ở trong trận đồ bát quái tôi đã nộp cho Bảo tàng Hà Nội, các công nhân có moi được lên nhiều bát đĩa, cốc chén cổ. Tôi có giữ lại mấy cái lành lặn. Trong đó có một chiếc tước màu đen mà nói như GS Trần Quốc Vượng, đó là một đồ cổ rất quý hiếm. Khi về đến Nghệ An, do hết tiền, tôi định bán chiếc tước đó. Khách mua từ Hà nội vào, sau một ngày trả giá đã thỏa thuận mua chiếc tước ấy với giá 10.000USD. Thỏa thuận xong, khách quay lại khách sạn lấy tiền để trả tôi, trong lúc đó chiếc tước vẫn để trên mặt bàn. Khách mang tiền đến, chưa kịp đếm tiền thì thật là kinh hãi, chiếc tước không ai đụng tay vào tự nhiên vỡ đôi, rồi vỡ vụn. Khách co giò bỏ chạy. Ngay sau đó tôi cũng sợ hãi quá, mang nốt mấy cái đồ cổ còn lại ra Hà nội gặp GS Trần Quốc Vượng và cho hết ông. GS Trần Quốc Vượng lúc đó vừa mới lấy vợ mới, đang rất vui vẻ, ông cứ cười tôi về sự yếu bóng vía. Ông giải thích cho tôi là đồ ngâm lâu dưới nước khi đưa ra ngoài không khí nước bốc hơi làm cho gốm bở ra rất dễ vỡ, nhấc lên nhấc xuống nhiều nó sẽ tự nứt vỡ. Chuyện cái tước không có gì liên quan đến tâm linh. Tôi thì quá sợ nên không giám giữ một món đồ nào nữa. Tôi không ngờ đó là lần gặp gỡ cuối cùng của tôi với GS Trần Quốc Vượng, vì chỉ ít lâu sau ông mất đột ngột. Trong thâm tâm tôi có cảm giác mấy món đồ cổ từ trận đồ trấn yểm đã làm hại ông. Tôi cũng nhớ ông có xin mấy món đồ.

Từ đó đã 4 năm qua. Tôi từ một tỷ phú trước khi làm công trình kè sông đã trở nên một kẻ tay trắng, phải phiêu dạt lên biên cương, sang cả Lào để kiếm ăn. Có lúc tưởng như không còn mái nhà, không còn gia đình để về. Ông anh trai thứ hai của tôi, người tham gia công trình cùng tôi, gặp những sự trớ trêu, cay đắng trong hạnh phúc gia đình đến mức đôi lúc ông đã có những ý định tiêu cực. Đến năm 2006 vừa qua, ông ấy gây tai nạn giao thông làm chết người và vướng vào vòng lao lý. Ông anh thứ ba, người đã cho tôi vay tiền để làm kè sông Tô Lịch cũng là người làm ăn phát tài, sau đó gặp nhiều sự rủi ro, phá sản toàn bộ. Cô em gái út của tôi là Nguyễn Thị Bích Hợp công tác tại Sài Gòn thì đang vướng phải một sự oan khuất. Chỉ vì lòng tận tâm tận lực với công ty PJICO mà đang phải ra tòa và lúc tôi viết những dòng này, tòa đã tuyên tạm hoãn xử lần thứ 2. Lạ nhất cô em gái tôi đi xem lễ nhiều nơi, các thầy đều nói hạn của em tôi bẵt đầu từ đại hạn của gia đình tôi từ năm Tân Tỵ 2001 là năm tôi phạm phải trận đồ trấn yểm Đại La trên sông Tô Lịch.

Còn nhiều chuyện nhỏ nữa cũng đều đáng sợ, nhưng nếu kể nữa e rằng chỉ làm bạn đọc bận tâm. Tôi xin dừng bài viết ở đây. Cũng có thể toàn bộ chuyện này chỉ là ngẫu nhiên mà rơi xuống số phận tôi, hoàn toàn không có yếu tố tâm linh, chỉ biết rằng theo GS Trần Quốc Vượng địa điểm mà tôi thi công là điểm giao hòa của 3 con sông cổ: Sông Tô Lịch, sông Thiên Phú và sông Nhuệ. Do vậy, cấu tạo địa chất rất phức tạp và hình thành những vực sâu và rồi những vực sâu cũng được bồi lấp bởi mọi thứ đã từng trôi nổi trên ba dòng chảy của con sông chính, vì vậy việc thi công rất khó khăn. Nhưng cũng có thầy địa lý đã nói: đây là điểm giao và là một huyệt phong thủy rất quan trọng. Vì vậy, một thế lực nào đó đã lập trận đồ trấn yểm để huyệt này không phát được. Mọi việc tôi không biết rõ, nhưng chuyện của và gia đình thì quá đau khổ. Tôi cầu mong mọi sự chia sẽ của bạn đọc.

LSB-PhongThienVu
21-04-2007, 10:16
Phát hiện những di vật kỳ lạ giữa lòng sông Tô Lịch


Đã hơn 10 ngày nay, Đội 12 thuộc Công ty liên doanh Xây dựng (VIC) ngừng thi công kè bờ sông Tô Lịch, đoạn thuộc phường Nghĩa Đô, Hà Nội, sau khi phát hiện những vật lạ giữa lòng sông. Trong đống bùn đất mà máy xúc vét lên, có 3 cọc gỗ lớn dài hơn 3 mét, nhiều xương răng động vật (của voi, ngựa, trâu?) với số lượng lớn. Đặc biệt, có 3 hộp sọ người.

Những chiếc liễn tìm thấy.

Ngoài ra, còn có hơn 10 cái liễn lớn nhỏ bằng sành và một bộ dụng cụ sinh hoạt như dao, liềm, móc bằng kim loại sắt đã sét rỉ gần hết, một số mảnh gốm men ngọc đã bị vỡ, đồng tiền hình tròn có lỗ vuông… Tại khu vực này còn phát hiện thấy nhiều vật liệu xây dựng cổ xưa như ngói cổ, đá.

Hiện trường nay vẫn đang được giữ nguyên vẹn. Chỉ có điều răng, xương động vật và nhiều đồ tuỳ táng khác như dụng cụ sinh hoạt thì vẫn nằm phơi trên đất, chờ đến lượt được “phán xét”.

Tiến sĩ Đặng Kim Ngọc, Giám đốc bảo tàng Hà Nội cho biết, thật sự khó hiểu khi phát hiện cả bộ hài cốt cũng được chôn với xương động vật, đồ sinh hoạt, có cọc gỗ cắm xung quanh và nằm sâu giữa lòng sông Tô Lịch. Một số mảnh gốm men ngọc rõ ràng là thuộc đời nhà Trần và Lê Sơ, nhưng để có kết luận cụ thể thì còn phải chờ các nhà khoa học vào cuộc.


(Theo Tiền Phong)

LSB-PhongThienVu
21-04-2007, 10:21
Theo báo Bảo vệ Pháp luật cuối tháng, GS Vượng chỉ vì lấy mấy thứ đồ cổ ở dưới sông Tô Lịch do đội trưởng đội 12 đưa cho, sau đúng 1 tháng thì ông chết.

Di tích ở sông Tô Lịch có thể là cửa Tây La Thành


Các đồ gốm thời Trần - Lê


Sau phát hiện hồi tháng 9/2001 về 8 bộ hài cốt và nhiều di vật khác tại khúc sông Tô Lịch, nơi đội 12 Công ty xây dựng VIC đang thi công, các nhà khảo cổ nhận định rằng, vị trí đào được có thể là cửa phía Tây của La Thành (thành Đại La). Nếu đúng, thì đây là một di tích rất quý, cần được giữ gìn, tôn tạo.

Giáo sư Trần Quốc Vượng cho biết, theo kinh nghiệm của ông, vị trí này nằm trong phạm vi cửa Tây La Thành, được xây dựng từ trước đời Lý - Trần - Lê (thế kỷ 9-14). Điều đó còn được khẳng định dựa trên hai bằng chứng sau: 1- vị trí nơi đây thuộc thôn Đoài Môn (Cửa Tây); 2 - hiện trường di tích chồng chất rất nhiều gạch cổ, đặc biệt là gạch vồ thời Lê. Như vậy, có thể thấy đây chính là chiếc Ủng Môn duy nhất còn sót lại của toàn bộ Đại La Thành.

Mặt khác, cũng theo giáo sư Vượng, trước đây, thường thì ở cổng Hoàng thành, ngoài lính canh, còn có thần trấn giữ 4 cửa và có yểm bùa, làm lễ hiến sinh người và các động vật khác như trâu, bò, lợn, chó mèo… Như vậy, các di vật được phát hiện trên sông Tô Lịch như bát đĩa, gốm sứ cổ, tiền đồng, xương răng động vật, di cốt người… có thể là một bằng chứng nữa chứng tỏ đây là cổng Tây La Thành.

PGS-TS Đỗ Văn Ninh (Viện Sử học) thì cho biết thêm, những phát hiện ở đoạn sông Tô Lịch gần cửa Đoài là do máy xúc lên chứ không phải bóc lớp di vật theo phương pháp khai quật khảo cổ học, nên không thể xác định được niên đại. Ngoài ra, ở mỗi cửa thành, người xưa thường hay trấn yểm bằng một ngôi mộ động vật, nhưng không có ngôi mộ nào trấn yểm bằng người. Vậy mà di tích này lại có lẫn xương người, do đó chắc không thể là mộ trấn yểm ma quỷ. Người dân xã Đoài Môn cũ (đã di chuyển đi nơi khác) ngày nay vẫn về khu vực này để di chuyển mồ mả. Như vậy, rất có khả năng đây là xương cốt của ngôi mộ vô thừa nhận nào đó lở xuống sông Tô Lịch.

Về hiện tượng thân nhân của các công nhân ở đội 12 gặp nhiều chuyện bất hạnh liên tiếp trong thời gian qua, khiến cả đội hoang mang, Tiến sĩ Ninh nhận định: “Là người làm khảo cổ, đã từng tham gia đào hàng trăm ngôi mộ các loại, các thời, nhưng tôi và đồng nghiệp chưa ai bị ốm đau vì lý do khai quật mộ táng cả. Cho nên những trường hợp ốm đau, kể cả bị chết của công nhân và người nhà của họ ở công trường này, không nên tìm nguyên nhân ở những hài cốt tìm thấy dưới sông Tô Lịch”. Về vấn đề này, quan điểm của Giáo sư Vượng là nên có những tìm hiểu, suy nghĩ thêm và đưa ra lời giải thích hợp lý.

Tuy nhiên, theo phản ánh của các công nhân xây dựng, cho đến nay, họ vẫn không nhận được một sự hồi âm hay quan tâm nào từ phía các cơ quan chuyên môn, chính quyền thành phố. Vì thế, theo kiến nghị của đội thi công 12, chính quyền và các cơ quan chuyên môn nên tổ chức một cuộc khai quật mở rộng, đánh giá khoa học và cụ thể về di chỉ này. Giáo sư Nguyễn Quốc Vượng còn đề nghị tiến hành khai quật cả ở khu vực 42 Trần Phú và trong Hoàng thành (ngay sát Trường Lang phía Tây của Hoàng Thành và thành Hà Nội cũ), là những nơi cũng tìm thấy các di vật tương tự.


(Theo Văn Hóa, Tiền Phong)

LSB-PhongThienVu
21-04-2007, 10:30
TÌM HIỂU VỀ SÔNG TÔ LỊCH


Điều đáng nói là tên sông và tên làng này lại có nguồn gốc từ tên của một con người: ông Tô Lịch, người sống vào khoảng cuối thế kỷ thứ III đầu thế kỷ thứ IV, sau được tôn làm thần và được phong tới hàm Quốc đô Thăng Long Thành Hoàng Đại Vương (vị Đại Vương là Thành Hoàng của kinh đô nước nhà là Thăng Long).

Sách Việt Điện u linh tập chép về Tô Lịch Đại Vương như sau:“Vương họ Tô, huý là Lịch, sinh thời từng làm quan ở Long Đỗ, tiên tổ cư ngụ ở đó đã lâu đời, dựng làng bên bờ một con sông nhỏ. Gia đình của Vương lấy sự thanh bạch và hoà thuận, hiếu thảo làm trọng, ba đời cùng nhân nhượng mà ở chung với nhau, không chút riêng biệt.

Thời nhà Tấn đô hộ, triều đình xét những nhà có hiếu, gia đình Vương được khen. Gặp năm mất mùa đói kém, nhà Vương sẵn lòng cho dân vay thóc, triều đình lại ban khen, nhân đó, cho lấy hai chữ Tô Lịch làm tên làng.

Đời vua Đường Mục Tông, niên hiệu Trường Khánh năm thứ ba (tức là năm 823), Lý Nguyên Gia được sai sang làm quan đô hộ nước ta. Lý Nguyên Gia thấy phía Bắc thành Thăng Long có dòng nước chạy ngược, địa thế rất xinh đẹp, bèn cắm đất xây thành, dời phủ trị đến đó. Thành có nhiều cửa, phía trong có nhiều dinh thự. Phủ trị này dựng trên nền nhà cũ của Vương. Lý Nguyên Gia sai giết trâu bò, mở tiệc mời các bậc kì lão trong làng tới dự, nhân đó, hỏi chuyện về Vương, có ý muốn thờ Vương làm Thành hoàng. Mọi người thuận theo, cùng nhau xây dựng một ngôi đền rất tráng lệ. Lễ khánh thành được tổ chức nhộn nhịp khác thường. Đêm hôm đó, Lý Nguyên Gia nằm nghỉ, chợt thấy có trận gió mát thổi vào, bức mành lay động, có một người cưỡi con hươu trắng từ trên không xuống, râu tóc bạc phơ, áo quần lịch sự, bước đến nói với Lý Nguyên Gia rằng:


- Cám ơn sứ quân đã tôn tôi làm Thành hoàng đất này. Nhân đây, tôi xin khuyên sứ quân rằng: nếu ngài hết lòng dạy dỗ cho dân cư trong thành thì mới là người xứng chức và có lòng nhân chính.

Lý Nguyên Gia chắp tay vái tạ và xin vâng rồi dò hỏi họ tên nhưng cụ già không đáp. Lý Nguyên Gia giật mình thức giấc và mới biết đó là mộng. Sau, đến thời Cao Biền đắp thành Đại La, cũng nghe tiếng anh linh của Vương, bèn sắm sửa lễ vật tới tế, tôn vương làm Đô Phủ Thành Hoàng Thần Quân.

Vua Lý Thái Tổ dời kinh đô ra thành Đại La, đổi gọi Đại La là Thăng Long. Nhà vua thường nằm mơ thấy một cụ già đầu bạc, đứng trước bệ rồng mà tung hô vạn tuế. Nhà vua gạn hỏi họ tên, Vương mới thực lòng tâu lên. Nhà vua cười nói:

- Tôn thần muốn giữ hương khói mãi mãi hay sao?

Vương đáp:

- Chỉ mong thánh thọ bền lâu, cơ đồ vững chắc, trong ngoài yên vui. Đó chính là hương khói đời đời rồi vậy.

Vua tỉnh dậy, sai quan đến tế, phong Vương làm Quốc Đô Thăng Long Thành Hoàng Đại Vương. Từ đó, dân cư trong vùng đến cầu đảo hoặc thề nguyền, hết thảy đều linh ứng. Năm Trùng Hưng thứ nhất (tức năm 1285), nhà vua Trần Nhân Tông gia phong hai chữ Bảo Quốc, đến năm Trùng Hưng thứ tư (tức là năm 1288), gia phong hai chữ Hiển Linh và sau, đến năm Hưng Long thứ hai mươi mốt (tức năm 1313), vua Trần Anh Tông lại gia phong thêm hai chữ Định Bang nữa”.

Lời bàn: Trong trường hợp đại loại như thế này, hiểu được lai lịch tên làng và tên sông, không phải chỉ đơn giản là hiểu thêm được một tên gọi thân thương nào đó. Tên sông và tên làng ấy là biểu tượng của lòng nhân ái và nghĩa khí ở đời, kính cẩn tôn thờ là chí phải.

Tiếng nói nửa như nhắc nhở, nửa như cảnh cáo của cụ già trong giấc mơ của Lý Nguyên Gia, nào có khác gì tiếng nói của trăm họ bị trị đương thời? Sau Lý Nguyên Gia, đến cả những quan đô hộ khét tiếng như Cao Biền cũng phải sắm sửa lễ vật và thân hành tới tế.

Hư thực ra sao khoan bàn, chỉ biết dân mong như vậy và... bắt chuyện này phải kể như vậy.

Các vị đế vương của nước nhà thời độc lập và tự chủ, nối nhau tôn vinh và gia phong cho thần Tô Lịch, ấy cũng là sự thường.



(Theo Việt sử giai thoại của Nguyễn Khắc Thuần – NXB Giáo dục)

to be continued

LSB-PhongThienVu
21-04-2007, 17:17
SỰ TÍCH SÔNG TÔ LỊCH

Miếu thờ ông Dầu bà Dầu hàng năm dân vùng Bưởi vẫn mang lễ vật theo sở thích của hai vợ chồng đến cúng lễ vào ngày ba mươi tháng mười một.

Ngày xưa về đời nhà Lý có một ông vua bị bệnh đau mắt. Mấy ông thầy thuốc chuyên môn chữa mắt ở trong kinh thành cũng như ngoài nội thành đều được mời vào cung chạy chữa, trong số đó cũng có những lương y nổi tiếng, nhưng tất cả mọi cố gắng đều vô hiệu. Cặp mắt của vua cứ sưng húp lên, đêm ngày nhức nhối rất khó chịu. Ðã gần tròn hai tháng vua không thể ra điện Kinh Thiện coi chầu được. Triều đình vì việc vua đau mắt mà rối rít cả lên. Những cung giám chạy khắp nơi tìm thầy thuốc, và lễ bái các chùa đền, nhưng mắt của thiên tử vẫn không thấy bớt.

Một hôm có hai tên lính hầu đưa vào cung một thầy bói từ núi Vân Mộng về. Ông thầy chuyên bói dịch nổi tiếng trong một vùng. Sau khi gieo đốt mấy cỏ thi, ông thầy đoán:


- Tâu bệ hạ, quẻ này có tượng vua rất linh nghiệm. Quả là bệ hạ bị "thuỷ phương càn tuất" xuyên vào mắt cho nên bệ hạ không thể bớt được, trừ phi trấn áp nó đi thì không việc gì.

Vua bèn sai hai viên quan trong thành. Thuở ấy ở phía Tây bắc thành Thăng Long có hai con sông nhỏ: Tô Lịch và Thiên Phù đều hợp với nhau để thông ra sông Cái ở chỗ cứ như bây giờ là bến Giang Tân. Họ tới ngã ba sông dựng đàn cúng Hà Bá để cầu thần về bệnh của hoàng đế. Ðêm hôm đó, một viên quan ăn chay sẵn nằm trước đàn cầu mộng. Thần cho biết: "đến sáng tinh sương ngày ba mươi cho người đến đứng ở bên kia bến đò, ai đến đó trước tiên lập tức bắt quẳng xuống sông phong cho làm thần thì trấn áp được"

Nghe hai viên quan tâu, vua lập tức sai mấy tên nội giám chuẩn bị làm công việc đó. Một viên đại thần nghe tin ấy, khuyên vua không làm việc thất đức, nhưng vua nhất định không nghe. Con mắt của hoàng đế là rất trọng mà mạng của một vài tên dần thì có đáng kể gì. Hơn nữa sắp sửa năm hết tết đến, việc đau mắt của vua sẽ ảnh hưởng nhiều đến nghi lễ long trọng và quan hệ của triều đình.

Ở làng Cảo thuộc về tả ngạn sông Tô hồi ấy có hai vợ chồng làm nghề bán dầu rong, người ta vẫn quen gọi là ông Dầu bà Dầu. Hàng ngày hai vợ chồng buổi sáng đưa dầu vào thành bán, buổi chiều trở ra: vợ nấu ăn chồng đi cất hàng.

Hôm đó là ngày ba mươi tháng một, hai vợ chồng định bụng bán mẻ dầu cho một số chùa chiền. Vào khoảng cuối năm, người ta cần dùng nhiều dầu để thắp Tết. Họ dậy thật sớm, chồng gánh chảo, vợ vác gáo cùng tiến bước đến ngã ba Tô Lịch- Thiên Phù. Ðến đây họ vào nghỉ chân trong lò canh đợi đò. Ðường vắng tanh chưa có ai qua lại. Nhưng ở trong chòi thì vẫn có hai tên lính đứng gác. Vừa thấy có người, chúng xông ra làm cho hai vợ chồng giật mình. Họ không ngờ hôm ấy lại có quân cấm vệ đứng ở đây. Tuy thấy mặt mũi chúng hung ác, nhưng họ yên tâm khi nghe câu hỏi của chúng:


- Hai người đi đâu sớm thế này?

Họ cứ sự thật trả lời. Họ có ý phân bua việc bán dầu hàng ngày của mình chỉ vừa đủ nuôi miệng. Chúng cứ lân la hỏi chuyện mãi. Chúng nói:

- À ra hai người khổ cực như thế đó. Vậy nếu có tiền thừa thãi thì hai người sẽ thích món gì nào. Nói đi! Nói đi, rồi chúng tôi sẽ kiếm cách giúp cho.

Thấy câu chuyện lại xoay ra như thế, ông Dầu bà Dầu có vẻ ngạc nhiên. Nhưng trước những lời hỏi dồn của chúng, họ cũng phải làm bộ tươi cười trả lời cho qua chuyện:

- Tôi ấy à? Người chồng đáp. Tôi thì thấy một đĩa cơm nếp và một con mái ghẹ là đã tuyệt phẩm.

Người vợ cũng cùng ý như chồng nhưng có thêm vào một đĩa bánh rán là món bà thèm nhất.

Thấy chưa có đò, hai vợ chồng lấy làm sốt ruột. Nói chuyện bài bây mãi biết bao giờ mới vào thành bán mẻ dầu đầu tiên cho chùa Vạn Thọ. Hai người bước ra nhìn xuống sông. Hai tên lính từ nãy đã rình họ, bấy giờ mới bịt mắt họ và lôi đi sềnh sệch. Họ cùng van lên:


- Lạy ông, ông tha cho chúng cháu, chúng cháu chẳng có gì.

Nhưng hai tên lính chẳng nói chẳng rằng, cứ cột tay họ lại và dẫn đến bờ sông. Chúng nhấc bổng họ lên và cùng một lúc ném mạnh xuống nước. Bọt tung sóng vỗ. Và hai cái xác chìm nghỉm. Rồi chúng cắm cổ chạy.

Lại nói chuyện mắt vua sáng một tháng chạp tự nhiên khỏi hẳn như chưa từng có việc gì. Nhưng ông Dầu bà Dầu thì căm thù vô hạn. Qua hôm sau hai tên cấm vệ giết người không biết vì sao tự treo cổ gốc đa trong hoàng thành. Rồi giữa hôm mồng một Tết, lão chủ quán ở bên kia Giang Tân phụ đồng lên giữa chùa Vạn Thọ nói toàn những câu phạm thượng. Hắn nói những câu đứt khúc, nhưng người ta đều hiểu cả, đại lược là:


- Chúng ta là ông Dầu bà Dầu đây... Chúng mày là quân tàn ác dã man, chúng mày là quân giết người lương thiện... Chúng mày sẽ chết tuyệt diệt... Họ Lý chúng mày sẽ không còn một mống nào để mà nối dõi... Chúng tao sẽ thu hẹp hai con sông Tô Lịch và Thiên Phù lại... Chừng nào bắt đầu thì chúng mày đừng hòng trốn thoát...

Những tin ấy bay về đến tai vua làm cho nhà vua vô cùng lo sợ. Vua sai lập một đền thờ ở trên ngã ba Giang Tân và phong cho hai người là phúc thần. Mỗi năm cứ đến ba mươi tháng một là có những viên quan bộ Lễ được phái đến đây cúng ông Dầu bà Dầu với những món ăn mà họ ưa thích.

Những ngôi báu nhà Lý quả nhiên chẳng bao lâu lọt về tay nhà Trần. Dòng họ Lý quả nhiên chết tuyệt diệt, đến nỗi chỉ người nào đổi qua họ Nguyễn mới hòng trốn thoát.

Sông Thiên Phù quả nhiên cứ bị lấp dần, lấp dần cho mãi đến ngày nay chỉ còn một lạch nước nhỏ ở phía Nhật Tân. Sông Tô Lịch cũng thế :ngày nay chỉ là rãnh nước bẩn đen ngòm. Duy có miếu thờ ông Dầu bà Dầu thì hàng năm dân vùng Bưởi vẫn mang lễ vật theo sở thích của hai vợ chồng đến cúng lễ vào ngày ba mươi tháng mười một.

LSB-PhongThienVu
21-04-2007, 17:22
Tiếp theo mới chư vị huynh muội THAM KHẢO THÊM TẠI ĐÂY (http://www.luongsonbac.com/forum/showthread.php?t=134282663) (post #8 - post #11 của VTTT)

LSB-PhongThienVu
21-04-2007, 17:29
Từ lâu, nhiều người luôn luôn đặt ra: Tại sao người Tàu thích chiếm Việt Nam như thế? Tại sao người Tàu thích đánh Việt Nam đến như vậy? Trong khi đó nếu ta quan sát sự liên hệ lịch sử Việt Nam với Tàu và các quốc gia lân bang, thì người Tàu đối với các quốc gia phía Bắc là Mông Cổ, Mãn Châu, Hung Nô thì Tàu chỉ xây Vạn Lý Trường Thành để ngăn chận Hung Nô mà thôi. Nhưng riêng với Việt Nam, thì bất cứ một vua chúa nào của Tàu đều muốn xâm lăng Việt Nam, theo cảm tưởng của tôi thì người Tàu dường như họ mắc phải một lời nguyền nào đó: Nếu họ không thị uy được với Việt Nam thì sự lãnh đạo của vua chúa người Tàu dường như không được chính danh cho lắm! Và chỉ trong một thời gian ngắn khi lên cầm quyền thì việc đầu tiên vua chuá Tàu suy nghĩ đến là: "Phải thôn tính Việt Nam". Nhưng lần thôn tính nào của người Tàu cũng đều gặp phải một sự kháng cự rất mãnh liệt từ phía dân tộc Việt Nam và lần nào cũng thế người Tàu đều phải thua cuộc!

Thật ra lịch sử cũng có lý do tiềm ẩn để cho người Tàu hành động như thế. Lý do tiềm ẩn đó có thể bao gồm những điều sau: Trước hết nền văn minh Trung Quốc cũng đã có đóng góp công sức vào việc làm thăng tiến thêm cái trí tuệ nền văn minh Bách Việt, cũng giống như các học giả Trung Ðông, Ai Cập, Hy Lạp đã đóng góp vào việc mở rộng thêm, phong phú thêm nền văn minh Thiên Chúa Giáo của phương Tây mà chúng tôi đã từng nêu ra. Nhưng, có lẽ người Tàu bị một mặc cảm tự ti là ăn cướp văn hóa Bách Việt, và mặc cảm của kẻ ăn cướp là luôn luôn muốn diệt người chủ sở hữu cái tài sản văn hóa đó. Ðó là lý do thứ nhất mà tôi nghĩ đến. Cho nên tôi mới nói "Người Tàu bị một thứ bệnh mà họ không thể nào từ bỏ được, đó là: Nếu họ không xâm chiếm được Việt Nam thì quyền uy "chính danh" của họ bị thách đố". Vì nó chứng tỏ là họ vẫn chưa thống nhất được nước Trung Hoa. Cho nên, sự kiện nước Việt Nam hiện tại là quốc gia "độc lập” nằm bên ngoài Trung Nguyên của nước Tàu là một cái gai nhức nhối đối với lãnh đạo Tàu.

Nói về phương diện địa lý phong thủy thì khi nhìn bản đồ Á Châu, đặt biệt là bản đồ Trung Hoa kéo dài đến Việt Nam, thì quí vị sẽ thấy các "vân đất” chạy dọc theo từ Hy Mã Lạp Sơn trải dài đến miền trung thổ của nước Tàu, tức là vùng sông Hoàng Hà, sông Dương Tử và trải dài xuống đến vùng Đông Nam Á dọc theo sông Cửu Long, thì có một điều rất kỳ thú là tất cả những vân đất đó đều hướng về châu thổ Bắc Việt. Người Tàu cũng hiểu rõ về phong thủy về địa lý, cho nên lý do thứ hai khiến cho họ thấy rằng về phương diện phong thủy địa lý, thì cái thế mạnh của vùng châu thổ Bắc Việt có thể mang tính chất "trấn áp", hoặc nó ngang ngửa với vùng sông Dương Tử của Tàu. Vì vậy người Tàu bằng mọi giá phải chiếm Việt Nam để chiếm lấy thế thượng phong hay là "trấn yểm phong thủy" của Bắc Việt, có như thế thì người Tàu mới yên lòng.

Ngoài ra còn những yếu tố khác như những yếu tố được phát hiện từ thời nhà Minh, như việc Hoàng Phúc và Trương Phụ đã cho quân Minh đào xới phần mộ tổ tiên của Vua Lê Lợi, để phá thế Ðế Vương của nhà Lê trước khi triều đình nhà Minh bị Lê Lợi đánh bại. Hoàng Phúc bị bắt, nhưng được Nguyễn Trãi hết lòng can gián vì "ân tình" (trước đây chính Hoàng Phúc cũng đã bao che cho Nguyễn Trãi thoát chết khỏi bàn tay tàn ác của Trương Phụ, vì Hoàng Phúc thấy ông thông minh và có biệt tài về địa lý. Vì vậy Nguyễn Trãi chỉ bị giam lỏng trong thành Đông Quan), cho nên Vua Lê Lợi đã tha tội chết cho Hoàng Phúc (ngoài ra những tướng tài của nhà Minh bị chém đầu như Thượng Thư Trần hạp bị chém trong trận Tuy Động, Chinh lự phó tướng quân An Viễn Hầu Liễu Thăng bị chém đầu tại núi Mã Yên, Chi Lăng, Binh Bộ Thượng Thư Lý Khánh biết không thể thoát nên cũng tự sát trong đám loạn quân tại chi lăng v.v.v. và còn vài chục tướng khác bị bắt cũng như bị giết không thể kể hết ra đây)

Nhưng cũng có những chuyện liên quan đến “cách thức” thuộc về thời tiết khí hậu (đây cũng là một cuốc chiến tranh về mặt khác nữa, nhưng thời điểm này chúng tôi không tiện tiết lộ). Đối với người Tàu, họ không thể tràn lên phương Bắc vì quá lạnh, cho nên họ phải lấn xuống phong thổ phía Nam, đó cũng là lý do bào chữa cho sự tàn bạo của nhà Minh (Minh Thành Tổ, tức Yên Vương Lệ). "Nhưng đặc biệt đối với người Bách Việt (Hoa Nam và người Việt) thì không ai có nhẫn tâm hay là có cái tâm tàn ác như nhà Minh cả". Tất cả các vua chúa nhà Minh họ bắt chước theo nhà Nguyên cho nên họ đã áp dụng những đường lối cai trị hà khắc, nhất là đối với các dân tộc lân bang, đặc biệt là vùng Hoa Nam và vùng Bắc Việt trong 20 năm, khi nhà Minh thôn tính Việt Nam, để sau đó nhà Minh bị nhà Lê đánh bại và thống nhất sơn hà. Sự tàn bạo của nhà Minh cho chúng ta thấy một việc quan trọng đó là chính sách "thiên di" ("thiên di-di dân" là một cách xâm lăng có hệ thống chặt chẽ của người Tàu. Họ dung số người đông đi xâm thực kinh tế và phá hỏng nên kinh tế của đối phương bằng phương thức đầu cơ tích trữ, hoặc dùng tiền bạc, hay mỹ nhân mua chuộc và làm lũng đoạn đối phương. "Thiên di" còn có một lợi điểm nữa là: Họ pha loãng giòng máu Bách Việt của những người Hoa Nam và hình thành một nước Tàu hải ngoại như hiện nay.

LSB-PhongThienVu
21-04-2007, 17:36
Thăng Long tứ trấn gồm bốn ngôi đền ở bốn phía trên vòng thành xác định địa giới Thăng Long, mỗi ngôi đền thờ một vị thần có nguồn gốc riêng và ý nghĩa khác nhau nhưng cùng chức năng bảo vệ kinh thành và hợp lại cho thấy ý thức của nhà Lý về việc xây dựng một nền văn hoá Đại Việt tiên tiến trên cơ sở Phát huy vốn cổ truyền thống kết hợp với việc tiếp thu tinh hoa nhân loại. Đó là các đền Voi Phục, đền Kim Liên, đền Bạch Mã và đền Quán Thánh.


Đền Voi Phục ở công viên Thủ cạnh cửa Ô Cầu Giấy phía tây kinh thành, xây trên bờ hồ. Nơi đây ngay trước khi được mở rộng thành vườn bách thú, vốn đã là một vườn hoa tự nhiên, cây cối um tùm cũng soi bóng mặt hồ, cảnh vật có phần hoang sơ hàm chứa một vẻ huyền bí, như kết tụ linh khí đất trời, là thắng cảnh truyền đời. Đền xưa quy mô ra sao không rõ, hai lần thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội vào các năm 1873 và 1882, chúng chiếm được thành nhưng đều bị quân dân Hà Nội dụ về quanh khu đền Voi Phục căng ra đánh, giết chết tướng giặc là Garnier và Riviere. Sau đó chúng đốt phá trả thù đã làm ảnh hưởng di tích, rồi năm 1947 khi chúng tái chiếm Hà Nội và mở rộng ra vùng ngoại vi đã phá trụi đền Voi Phục. Năm 1953 dân làng dựng lại, và cả một số lần tu sửa ở nửa sau thế kỷ XX cho tới nay ngôi đền vẫn còn khiêm tốn, nó bình dị dưới những tán cây cổ thụ, ngoại thất gắn với cả công viên lại trải ra như vô tận. Đầu lối vào đều có tượng hai con voi quỳ gợi lại một giai đoạn huy hoàng của vị thần được thờ, và do đó thành tên đền. Vị thần ở đây là Linh Lang đại vương, con của một cung tần nhà Lý đi tắm hồ Dâm Đàm (Hồ Tây) gặp rồng mà hoài thai 14 tháng sinh ra, được vua Lý Thánh Tông cho về sống ở trại Thủ Lệ. Khi quân Tống sang xâm lược nước ta, Linh Lang xin vua cho thớt voi rồi cưỡi đi đánh giặc. Thắng giặc rồi chàng xin về lại Thủ Lệ, không bao lâu mắc bệnh rồi hoá thành con giao long bò xuống hồ biến mất. Vua phong là thượng đẳng thần và sai lập đền thờ trên khu nhà cũ. Thực chất đây là nơi thờ thần sông nước, sau được nâng lên thành thờ rồng, rồi lịch sử hoá thành thờ anh hùng giữ nước, gắn với phương tây mang tính âm. Thần Linh Lang ở đây là cùng mô thức với việc thờ ông Cộc ông Dài tức thờ rắn của cư dân sông nước xứ Bắc mà sau lịch sử hoá thành thờ Trương Hống Trương Hát.


Đền Kim Liên thuộc làng Kim Liên phường Phương Liên ở phía Nam thành phố. Đền xưa đã bị phá chỉ còn toà miếu nhỏ với tấm bia rất lớn được khắc và dựng từ năm Hồng Thuận 3 (1510) ghi lại bài văn dài Cao Sơn đại vương thần bi minh trích tự. Mặt sau ghi thêm ít dòng nữa vào năm Cảnh Hưng 33 (1772) cho biết bia này vốn ở Phụng Hoá, sau trôi nổi về bến Bồ Đề, vào đời Hoằng Định dân bản phường vớt lên đưa về chùa, sau thấy thiêng lại rước ra đặt ở bên trái đình, đúng như ngày nay còn thấy, có cây đa cổ thụ trùm lên càng tạo vẻ cổ kính và thiêng liêng, đúng là nơi cư trú của thần linh. Văn bia cho biết vị thần ở đây là Cao Sơn đại vương, một trong số trăm con của Lạc Long quân và Âu Cơ, là thần núi xa xưa đã giúp Sơn Tinh đánh thắng Thuỷ Tinh, đầu thế kỷ XVI lại giúp vua Lê dẹp loạn giữ yên ngai vàng. Thực chất đây là việc thờ thần Núi, vốn rất phổ biến ở xứ Đoài - nơi có núi chủ Tản Viên/Ba Vì, được khái quát là Tản Viên sơn thánh, một biểu hiện của việc thờ các thần tự nhiên.

Đưa hai thần Linh lang và Cao Sơn về trấn giữ các cửa tây và cửa nam của kinh thành chính là đã kéo các thần của cư dân phía bắc trũng thấp và của cư dân phía tây cao ráo là những vùng ngày nay đưọc xem là đất tổ, gắn kết sông với núi, đất với nước để trở thành Tổ quốc là một khái niệm thiêng liêng nhất, đồng thời cũng là sự khẳng định văn hoá truyền thống, lấy vốn cũ làm cơ sở để xây dựng bản sắc dân tộc.


Đền Bạch Mã ở phố Hàng Buồm, xưa thuộc phường Hà Khẩu trên bờ sông Hồng cạnh cửa sông Tô Lịch, thuộc phía đông kinh thành là nơi thờ thần Long Đỗ với hiệu Quảng Lợi Bạch Mã đại vương.

Long Đỗ vốn là thần núi Nùng, trong thời bắc thuộc khi Cao Biền chôn đồng và sắt ở thành Đại La để yểm, thì thần đã gây mưa gió, sấm chớp đánh bật lên và nát vụn cả đồng và sắt. Cao Biền bèn lập đền thờ để mong được bình yên. Rồi khi vua Lý Thái Tổ xây thành Thăng Long, cứ xây xong lại đổ. Vua cho người đến đền Bạch Mã cầu thần thì có một con ngựa trắng từ trong đền đi ra chạy một vòng trong khép kín ngược chiều kim đồng hồ rồi vào đền rồi biến mất. Vua cứ theo vết chân ngựa xây thành, cho sửa lại đền và phong thần là Quảng Lợi Bạch Mã tối linh thượng đẳng thần. Ngày ấy quanh đền Bạch Mã dân mở phố chợ rất đông.

Với nhà Lý, phật giáo được xem là quốc giáo, mà Thăng Long đã thành một trung tâm, nó tiếp nhận một số thành tựu của văn hoá Ấn Độ từ nhiều thế kỷ trước mà trực tiếp là theo đường thuỷ có nghía là từ phía đông. Với văn hoá ấn Độ, ngựa trắng là biểu trưng của mặt trời, ngày nay nhiều chùa và đền vẫn còn tượng ngựa trắng, và trong nhân dân vẫn gắn ngựa với thời gian: "bóng câu qua cửa sổ". Lớp văn hoá ấy sau được lồng vào văn hoá mới, coi Long Đỗ là sự kết tụ khí thiêng sông núi làm chỗ dựa tinh thần của kinh thành. Thần Bạch Mã được thờ ở phía đông, nơi cửa ngõ đón nhận văn hoá ấn Độ đã ở một trình độ cao. Nền văn hoá phật giáo trong suốt thời bắc thuộc đã giao thoa với tín ngưỡng bản địa để tạo ra những gía trị mới cao hơn cho dân tộc, trong đó có gắn với nguồn gốc của Lý Công Uẩn và sự thành lập vương triều Lý.

Với những biến thiên của lịch sử, đền Bạch Mã đã qua nhiều tu sửa - nhất là ở thế kỷ XVII - XVIII, trong đó kiểu cách hiện thấy là thuộc thời Nguyễn. Do sự phát triển phố xá, khuôn viên đều thu hẹp nhưng còn khá rộng, các lớp kiến trúc gối nhau chạy sâu vào khang trang, nhiều bia đá và đồ thờ trọng thể.


Đền Quán Thánh ở góc đường Thanh Niên và đường Quán Thánh, bên sườn hồ Trúc Bạch nhìn ra Hồ Tây, ở phía bắc kinh thành. Đền thờ thần Huyền Thiên Chấn Vũ có nguồn gốc phương bắc đã hiển linh ở nước nam từng giúp các vua Hùng đánh giặc, lại theo sát lịch sử buổi đầu độc lập giúp dân trừ tà ma và chống hạn. Đây là biểu hiện của việc tiếp nhận đạo giáo, đưa thêm những phù phép vào sức mạnh dựng nước và giữ nước, tạo cuộc sống tâm linh sâu lắng ở mọi người.

Đền Quán Thánh đã qua nhiều lần sửa chữa, kiểu thức kiến trúc hiện nay là thuộc thời Nguyễn, khuôn viên khá rộng, kết hợp nhà cửa với cây muỗm cổ thụ, tất cả cứ ẩn hiện trong ánh sáng chập chờn lọc qua vòm lá. Trong đền phần chạm gỗ trang trí kiến trúc tinh xảo do gắn với bộ khung của nhà khá muộn, nhưng chuông và khánh đồng đều khá to được đúc sớm hơn, đặc biệt có pho tượng Huyền Thiên Chấn Vũ bằng đồng hun cao hơn 3m đúc từ nửa sau thế kỷ XVII, đến thế kỷ XIX được gia công trau chuốt lần nữa. Người nghệ sĩ đúc tượng trên là ông trùm Trọng được dân ngưỡng mộ cho tạc tượng bằng đá để phối thờ ngay trong cung thánh. Ngoài ra còn nhiều đồ thờ rất trang trọng.

Việc thờ Bạch Mã và Quán Thánh rõ ràng là biển hiệu tiếp nhận văn hoá ấn Độ và văn hoá Trung Hoa để làm giàu văn hoá dân tộc. Đây là bài học xuyên các thời kỳ lịch sử về tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.


to be continued

LSB-PhongThienVu
21-04-2007, 20:22
An Nam tứ đại khí là bốn khí vật bằng đồng cực lớn tương truyền được đúc ở thời Lý, là tháp Báo Thiên và chuông Quy Điền ở kinh đô Thăng Long, là vạc chùa Phổ Minh ở Nam Định (hay chùa Phả Lại ở Bắc Ninh?) và tượng phật chùa Quỳnh Lâm ở Quảng Ninh, Do bằng đồng nên quân Minh trong thời gian thống trị nước ta ở đầu thế kỷ XV đã phá huỷ lấy đồng. Dân gian còn nhớ vạc Phổ Minh còn có thể chạy được trên miệng, còn bia chùa Quỳnh Lâm kể rằng pho tượng Phật ở đây cao những 6 trượng (3,1m) đầu tượng chạm nóc điện cao 7 trượng, đứng ở bến đò Triều Đông xa mươi dặm ( chừng 5Km) còn trông thấy rõ.


Riêng hai công trình lớn ở kinh đô được ghi khá đầy đủ trong thư tịch, theo đó nó có thể xem như là huyền thoại, kỳ vĩ cả về ý tưởng chứ không phải chỉ ở hình thức.


Tháp Báo Thiên gọi theo tên chùa ở phía tây hồ Lục Thuỷ ( hồ Hoàn Kiếm). Nhẽ ra là tháp Phật như một số tháp đương thời ở các chùa Phật Tích, Tường Long, Chương Sơn... nhưng tháp Báo Thiên xây ngay trên đất bằng ở giữa kinh thành, có số tầng chẵn (12 hoặc 30?) và nhất là ở cái tên Đại Thắng Tư Thiên khẳng định ý nghĩa báo cáo trời chiến công lớn lao của dân tộc, cao những vài mươi trượng...tất cả biểu thị đây là công trình kiến trúc của nhà nước mang tính chất đài kỷ niệm chiến thắng như một thứ Khải hoàn môn.

Tháp có số tầng chẵn biểu thị sự cân bằng, ổn định, tĩnh tại , bền vững như triều đình nhà Lý đầy khí thế, sẽ tồn tại dài lâu. Ngọn tháp đúc bằng đồng khắc ba chữ Đao Ly Thiên tỏ ý tưởng của đấng tối cao xông lên tận trời thẳm. Đỉnh tháp có tượng người tiên bưng mâm ngọc hứng móc ngọt làm thuốc cho vua. Trong xã hội nông nghiệp xanh- sạch- đẹp, ở trên cao dường như không có bụi, hơi nước gặp lạnh đọng lại có thể xem như nước cất tinh khiết, là tinh tuý của tự nhiên, là lộc của trời ban. Có nhẽ vì thế, những tháp xây các thời sau không cao lắm, trên đỉnh thường kết thúc bằng một quả hồ lô như bầu rượu, cũng là mang ý nghĩa bình nước thiêng. Cây tháp báo Thiên đến thời Trần được Nho thần Phạm Sư Mạnh tả lại với hình tượng thật hoành tráng:

Trấn áp đông tây cũng đế kỳ
Tuy nhiên nhất tháp độc nguy nguy
Sơn hà bất động kình thiên trụ
Kim cổ nan nan lập địa chùng


Dịch:

Trấn giữ đông tây vững đế kỳ
Tháp cao sừng sững thật uy nghi
Là cột chống trời yên đất nước
Vượt mọi thời gian chẳng sợ gì.


Cái hình ảnh "cây cột trụ chống trời, cao sừng sững vượt trội hẳn lên trong cả không gian và thời gian để giữ vững kinh kỳ" hẳn phải nhoà trong mây, là cây thánh nối Trời với Đất, là sự giao hoà trời cha - đất mẹ để dân tộc phát triển, dân đông vật thịnh. Đến cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, các tác giả sách Tang thương ngẫu lục đã chứng kiến cuộc đào nền tháp (sau khi tháp bị quân Minh phá ở đầu thế kỷ XV) còn thấy nền tháp hình vuông, hai bên mỗi cửa có hai pho tượng kim cương đứng trấn giữ, bên trong lòng tháp còn có các tượng người tiên, chim muông đến cả giường, ghế, chén, bát không sao kể hết, tất cả đều bằng đá. Cho đến cuối thế kỷ XIX, các tác giả sách Đại nam nhất thống chí còn thấy tháp cao một trăm thước (chừng 40m), nhưng sau đó Pháp chiếm Hà Nội đã chuyển khu đất này cho bên đạo thiên chúa xây nhà thờ lớn Hà Nội.



Chùa Một Cột tên chữ là Diên Hựu tự, nay đã làm lại thu nhỏ nhưng vẫn trên khu đất cũ vốn xưa thuộc vườn cấm phía tây của hoàng thành nhà Lý, là ngôi chùa của hoàng gia có quả chuông Quy điền khổng lồ, do vua Lý Thái Tông cho xây để giải giấc mơ thấy quan Âm dắt lên đài sen. Chùa mang hình tượng bông sen thanh cao, tinh khiết biểu trưng của đạo phật và đất phật. Thư tịch xưa cho hay chùa được dựng trên đỉnh cây cột đá cao mươi trượng, vọt lên từ giữa ao thơm Linh Chiểu hình vuông ở trong một cái hồ Bích Trì hình tròn, xung quanh hồ có hành lang được vẽ nhiều hình về thế giới nhà Phật, các phía bắc cầu cong để đi vào, hai bên cầu đằng trước được xây tháp bằng sứ men trắng như lưu ly. Trong lòng tháp có tượng Quan Âm. Hàng tháng vào ngày mồng một và rằm Hoàng gia làm lễ đi vòng quanh chùa để cầu cho nhà vua sống lâu, vương triều bền thịnh. Hàng năm ở đây còn tổ chức lễ phóng sinh. Thời Trần, thiền sư Huyền Quang đã ghi nhận hình ảnh ngôi chùa này:

Thượng phương thu dạ nhất chung lan
Nguyệt sắc như ba, phong thụ đan
Xi vẫn đảo niên phương kính lành
Tháp quang song trĩ ngọc tiêm hàn...


Dịch:

Chùa xưa một tiếng chuông ngân
Trăng thu tãi sóng, lá bàng nhuộm son
Hồ vuông chim ngủ soi gương
Tháp cao sừng sững, búp tròn đôi tay...


Đặc biệt năm 1080 chùa được triều đình đúc quả chuông rất lớn, đúc xong chuông nặng không thể khiêng được mà tự di chuyển đến chùa. Tại chùa đã xây toà phương đình bằng đá cao 8 trượng (chừng 25m) vẫn không treo nổi, do đó phải để chuông dưới ruộng ẩm, rùa vào ở trong chuông, do đó chuông được mang tên là chuông Quy Điều. Chuông tồn tại đến đầu thế kỷ XV thì bị quân Minh phá huỷ lấy đồng. Chuông Quy Điều gắn với rùa là con vật thiêng từng giúp An Dương Vương làm nỏ thần và giúp Lê Lợi gươm báu để giữ nước và khôi phục nước, chuông cũng là sự thông đạt của dân chúng bị oan khuất đến nhà vua, là sự giác ngộ của đức Phật đối với các phật tử. Vì chuông thiêng nên tự di chuyển đến chùa (chính là việc lăn chuông từ nơi đúc đến chùa, dùng sức đẩy thay sức khiêng giảm nhẹ rất nhiều), cũng vì thiêng nên chuông phải luôn gắn với đất và rùa.

Trở lại ngôi chùa Một Cột, hình ảnh cây cột đá kỳ vĩ đội toà chùa, vọt lên ở giữa hồ nước còn có thể xem là cặp tượng Linga-Yoni hoành tráng, biểu thị sự trường tồn, sinh khí rộn bừng sức sống. Rất tiếc là cuối thời Nguyễn làm lại thu nhỏ nhiều lần, rồi tháng 9-1954 thực dân Pháp lại lén phá, sau khi tiếp quản thủ đô đã cho làm lại. Cột chùa ngày nay bằng xi măng cốt thép chỉ cao chừng 4m với đường kính 1,2m và ngôi chùa trên đầu cột mỗi cạnh cũng chỉ chừng 3m. Chùa nhỏ nhưng hình tượng bông sen vẫn giữ được và hoà hợp với cảnh trí cây xanh mang một vẻ đẹp duyên dáng. Sau chùa Một Cột từ năm 1958 còn được trồng cây bồ đề chiết từ cây mẹ mà đức Thích Ca đã tu thành Phật, do Tổng thống Ấn Độ Praxat tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Diện mạo Thăng Long thời Lý còn phải kể đến đền Đồng Cổ ở phố Thuỵ Khê thờ thần Trống Đồng. Trống Đồng là vật thiêng của dân tộc từ thời các Vua Hùng dựng nước đầu tiên, sau sự tìm huỷ của phong kiến phương Bắc trong thời gian chúng thống trị hơn ngàn năm, ngày nay chỉ còn giữ được rất ít. Năm 1996, Nhà nước ta đã đúc phục chế tặng Liên Hiệp Quốc nhân kỷ niệm 50 năm thành lập. Đền Đồng Cổ vốn ở Thanh Hoá, nhà Lý đã cho rước Thần về Thăng Long để thờ làm thần bản mệnh của triều đình, hàng năm tổ chức lễ tuyên thệ của các quan:"Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung thì thần minh tru diệt". Lời thề đề cao chữ hiếu trên cả chữ trung, có hiếu trong nhà mới trung giữ nước, tề gia tốt mới mong trị quốc giỏi. Trong đền lễ trọng thể, tất cả các quan văn võ phải thề hiếu trung trước thần vị Trống Đồng với sự chứng kiến của nhà vua. Ngoài đền thì trai thanh gái lịch mở hội tưng bừng. Lễ ở đây là hạt nhân của hội, lễ càng trọng thì hội càng vui, tất cả mới tạo sức sống mãnh liệt để tồn tại mãi về sau.

Đền Đồng Cổ qua những biến thiên, dấu tích hiện còn cũng cơ bản thuộc lần làm lại ở thời Nguyễn, quy mô nhỏ nhưng hoà với phong cảnh cây xanh, có sông Tô đằng sau và Hồ Tây phía trước, là chứng tích của sự rèn luyện đạo đức gia đình và đạo đức xã hội, cùng xây dựng một nền văn hoá Việt Nam, nó thật truyền thống nhưng cũng rất hiện đại.

Văn Miếu - Quốc Tử Giám được xây dựng từ năm 1070, sau ít năm, đến 1076 đã tổ chức cuộc thi cấp cao đầu tiên của dân tộc. Lâu nay vẫn coi đây là trường Đại học đầu tiên của Việt Nam, song thực ra nơi đây đào tạo và thi tuyển tiến sĩ vượt trội lên cấp cử nhân rất nhiều. Dấu tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám thời Lý không còn, nhưng các thời sau tu bổ vẫn khẳng định vị trí của trong không gian và trong lòng người, trong xã hội. Văn Miếu - Quốc Tử Giám ngày nay là thuộc những lần tu bổ ở thời Lê và thời Nguyễn, là cả một tổng thể có hồ Văn phía trước, có vườn hoa và nhà bia ở trong, có điện Đại Thành để bình văn và thờ Khổng Tử cùng Tứ Phối, có các dãy tả - hữu... vốn xưa thờ 72 học trò ngoan và giỏi của Khổng Tử. Phía sau Văn Miếu còn có khu vốn xa xưa là nhà Thái học đào tạo nhân tài cho cả nước, thời Nguyễn chuyển thành nhà Khải Thánh thờ bố mẹ Khổng Tử. Đầu kháng chiến bị thực dân Pháp phá tan, nay chúng ta đang dựng lại khang trang, xứng tàm nghìn năm Thăng Long - Hà Nội để thờ các danh nhân dân tộc, các vị vua hiền đã có công mở mang Văn Miếu - Quốc Tử Giám và việc học hành của dân tộc. Từ đây, ngọn đuốc văn hoá - giáo dục ngày càng thắp sáng và là ngọn đuốc truyền thống trí tuệ dân tộc truyền đời.

Diện mạo Thăng Long ban đầu qua thư tịch rất phong phú, xứng tầm một thành phố lớn thời trung cổ thế giới, thực sự là khí thế rồng bay của dân tộc, của vương triều, của hoàng đế. Gần nghìn năm biến đổi, dấu tích xưa còn lại quá ít ỏi, chỉ có thể hình dung với bức tranh phác hoạ, song thật rất quí. Hy vọng ngành khảo cổ sẽ dần từ lòng đất lấy ra những chứng cứ để bổ sung cho nó thêm đậm hơn, rõ hơn.

LSB-PhongThienVu
21-04-2007, 20:49
Ngày xưa ở Trung Quốc có Cao Biền rất giỏi nghề địa lý. Những phép hô thần tróc quỷ, ông đều thông thạo. Tiếng đồn vang khắp nơi. Hoàng đế Trung Quốc nghe tiếng liền triệu Biền vào cung ủy thác cho việc kiếm một ngôi đất xây dựng lăng tẩm. Cao Biền vâng lệnh và sau năm năm tìm tòi, đã kiếm được một kiểu đất quý mà theo ông có thể giữ ngôi nhà Đường vững như bàn thạch. Sau khi công việc hoàn thành, hoàng đế rất khen ngợi, sai ban nhiều vàng bạc cùng phong tước lớn cho Biền. Nhưng Biền vốn biết trong kho tàng của hoàng đế có một ngòi bút thần có phép mầu nhiệm mà chính hoàng đế và cả triều thần không một ai biết cả. Vì thế Biền không nhận vàng, chỉ nói:

- Tâu bệ hạ, hạ thần không muốn lấy vàng bạc của bệ hạ. Chỉ muốn xin một kho trong trăm ngàn kho đồ dùng của bệ hạ bằng cách là để hạ thần tự tay rút trong chùm chìa khóa kho tàng mà quan tổng quản đang nắm giữ, nhằm đúng chìa kho nào thì được phép lấy kho ấy.

Hoàng đế nghe nói hơi ngạc nhiên nhưng vốn trọng tài Biền, lại thấy ý kiến hay hay nên vui lòng để Biền làm chuyện may rủi xem thử thế nào. Quả nhiên kho mà Biền chỉ, đúng là kho đựng toàn bút lông dùng cho triều đình. Khi được sử dụng hàng vạn cây bút, Biền mang đến một hòn đá, lần lượt đem chọc mạnh từng ngòi lông vào đá. Nhưng chẳng có ngòi nào được toàn vẹn. Mỗi lần thấy tòe ngòi, ông lại vứt đi và tiếp tục chọc ngòi khác vào đá. Cứ thế cho đến lúc trong kho sắp vợi cả bút thì bỗng có một quản bút chọc thủng vào đá mà ngòi lông vẫn còn nguyên vẹn, Biền mừng quá reo lên:

- Ta tìm được ngòi bút thần rồi!

Biền liền cầm bút thần vẽ thử một con rồng lên mặt tường, chừa hai con mắt. Đến khi điểm nhãn, rồng tự nhiên cuộn mình được và tách ra khỏi bức tường. Rồi rồng vụt lên trời, bay biến vào đám mây trước con mắt kinh ngạc của mọi người. Biền lại vẽ thêm nhiều con vật khác và những con vật ấy đều hoạt động không khác gì những con vật có thực. Sau cùng Cao Biền vẽ một con diều rất lớn, dùng bút thần nhúng mực điểm mắt cho diều. Diều đập cánh bay lên. Lập tức Biền cưỡi lên lưng và diều đưa vút lên trên không. Thế là Biền cưỡi diều vượt qua muôn trùng núi sông sang đến nước Nam. Trên lưng diều, Biền đưa mắt xuống tìm huyệt đất quý. Quả nhiên không bao lâu, ông tìm thấy ở gần một con sông, cứ như bây giờ là sông Trà Khúc tỉnh Quảng Ngãi, một huyệt đất phát đế vương. Huyệt đất ấy quý không đâu bằng mà lại chỉ trong một ngàn ngày là phát. Đó là một cái hàm con rồng lấp dưới nước mà chỉ có con mắt của Biền mới khám phá được. Từ đó, Biền có ý muốn hưởng một cuộc sống sung sướng xa xỉ vào bậc nhất thiên hạ. Nhưng khi nghĩ lại thì hắn rất tiếc là không có con trai mà thân mình lại đã già mất rồi; nếu được làm vua cũng không còn hưởng được mấy nỗi. Biền mới tính sẽ nhường cho rể. Nếu nó làm vua thì ông bố vợ tất cũng được bội phần trọng đãi, mà dòng dõi con gái mình cũng hưởng phúc lâu dài. Nhưng muốn thực hiện công việc "đại sự" này cần phải giữ hết sức bí mật, nếu không sẽ mất đầu như chơi. Nghĩ vậy, Biền trở về Trung Quốc bảo người con rể đào lấy hài cốt cha y đem sang nước Nam để cải táng. Trong việc này Biền chỉ bàn kín với một người học trò mà thôi. Nhưng người học trò mà Biền tin cậy lại muốn miếng đất quý ấy hoàn toàn thuộc phần mình hưởng, nên khi được lệnh thầy mang hài cốt thì hắn cũng đào luôn hài cốt của cha mình sang Nam.

Bấy giờ hàm rồng đang thời kỳ há miệng. Biền bảo học trò lặn xuống ném gói xương vào giữa miệng rồng, chờ cho nó ngậm lại hãy lên. Người học trò đem gói xương của cha mình đánh tráo vào, còn gói xương kia thì bỏ ở một bên mép. Xong việc đó, Cao Biền bảo con rể chọn năm giống lúa, mỗi thứ một thúng mang đến huyệt đất nói trên, sai đào đúng vào chỗ vai rồng thành năm cái huyệt. Mỗi huyệt Biền sai rấm một thúng lúa rồi lấp đất lại thành năm ngôi mộ. Hắn giao cho chàng rể một ngàn nén hương, dặn mỗi ngày thắp một nén, đúng hai năm chín tháng mười ngày thì tự khắc quân gia dưới huyệt nhất tề dậy cả. Dặn đâu đấy, Biền trở về Trung Quốc. Thời gian trôi qua. Hôm ấy chỉ còn mười ngày nữa là hết hạn công việc mà Cao Biền đã dặn, thì tự nhiên con gái hắn ở nước Nam đẻ luôn một lúc ba bé trai, mặt mũi dị kỳ. Vừa mới sinh ra, ba đứa đã biết đi biết nói: một đứa mặt đỏ tay cầm ấn, một đứa mặt màu thiếc, một đứa mặt màu xanh, đều cầm dao sáng quắc. Cả ba nhảy tót lên giường thờ ngồi, đòi đem quân thu phục thiên hạ. Người nhà ai nấy xanh mặt.

Chỉ trong một buổi tiếng đồn rầm lên. Mọi người thấy sự lạ đổ tới xem như đám hội. Người rể của Biền sợ quá, bảo vợ: "Mày đẻ ra ma ra quỷ, nếu không sớm trừ đi thì khó lòng sống được với triều đình. Chẳng qua cha mày làm dại, nên mới sinh ra như thế". Thế rồi y chém tất cả. Trong lúc bối rối người nhà của y vì lầm nên đốt luôn một lúc hết thảy những nén hương còn lại. Bỗng dưng mặt đất chuyển động. ở dưới năm ngôi mộ có tiếng rầm rầm mỗi lúc một lớn. Rồi nắp mộ bật tung ra, bao nhiêu quân gia từ dưới đó nhảy lên. Nhưng vì còn non ngày nên sức còn yếu, đứng chưa vững, người nào người ấy đi lại bổ nghiêng bổ ngửa, cuối cùng đều chết sạch. Lại nói chuyện Cao Biền chờ cho đến tận ngày hẹn mới cưỡi diều bay sang nước Nam. Nhưng lần này diều bị ngược gió nên sang không kịp. Khi diều hạ cánh xuống thì người con rể đã phá hỏng mất công việc của hắn. Hắn bực mình vô hạn. Sau khi căn vặn để hiểu rõ câu chuyện, hắn rút gươm chém chết cả học trò lẫn rể. Từ đó Cao Biền sinh ra chán đời, chả thiết gì nữa. "Không được ăn thì đạp đổ", nghĩ thế, hắn bèn cưỡi diều đi khắp nước Nam để ếm huyệt và phá tất cả những long mạch của nước này. Ngay chỗ hàm rồng nói trên, hắn dùng phép chém đứt cổ con rồng đó đi. Cũng vì vậy mà ngày nay người ta nói nước sông Trà Khúc đỏ như máu là bởi máu tự cổ con rồng chảy ra đến nay vẫn chưa dứt.

Đến Nghệ An, Biền thấy trên một hòn núi mà ngày nay còn gọi là núi Đầu Rồng ở sát bờ biển có huyệt đế vương. Hắn bèn làm bùa bằng gang đóng vào đỉnh núi. Từ đó trở đi trên đỉnh núi ấy không một cây cối gì còn mọc được. Ở Thanh Hóa, Cao Biền cũng thấy có huyệt đất quý. Nhưng hắn thấy con rồng đó què một chân, cho rằng nếu có phát đế vương thì không thể phát to được. Cho nên hắn cho diều đi thẳng không ếm nữa. Cũng vì thế người ta nói mấy đời vua chúa trị vì ở nước Nam đều phát tích ở Thanh Hóa. Khi diều bay qua làng Thiên Mỗ (bây giờ là làng Đại Mỗ, tỉnh Hà Đông) Biền thấy có cái giếng ở vệ sông mà bây giờ là Nhuệ Giang cũng có huyệt đế vương. Hắn bèn cho diều hạ xuống là là sát mặt đất, đoạn thuận tay ném luôn cây bút thần của mình xuống lòng giếng. Người ta nói cây bút ấy sau rồi hóa thành một khúc gỗ cắm chặt xuống đáy giếng. Không một a i dám động đến nó. Mãi về sau trong làng có một ông thám hoa có tính hiếu kỳ mới tâu vua xin hai con voi về kéo thử khúc gỗ đó lên. Họ tết một chiếc thừng lớn: một đầu buộc vào khúc gỗ, còn một đầu buộc vào cổ voi. Nhưng khi voi cất bước thì tự nhiên ở những xóm làng bên cạnh, đất chuyển động ầm ầm, đồng thời nhà cửa phát hỏa tứ tung. Lần ấy ông thám đành bỏ dở công việc vì ông ta sợ con rồng bị đau giẫy giụa làm hại đến dân sự. Điều đặc biệt là từ bấy đến nay nước giếng ấy không bao giờ cạn. Mỗi khi nước trong, người ta vẫn thấy có bóng khúc gỗ đen đen ở dưới đáy. Để tâng công với hoàng đế, Cao Biền vẽ bản đồ từng kiểu đất một rồi viết thành sách ghi chú rất tinh tường đem dâng lên vua Đường. Đại ý nói tất cả những mạch đất quý nhất của nước Nam, hắn đều đã trấn áp xong.

Duy có kiểu đất ở chỗ trung độ (tức bây giờ là Hà Nội) thì hắn đã sai đắp một cái thành gọi là thành Đại La để chặn long mạch. Lễ trấn áp này Biền làm rất công phu và linh đình. Trên hòn núi ở xa xa về phía Bắc thành Đại La, hắn cho dựng một cái đàn tràng. Trong thành Đại La, hắn sai nung một lúc tám vạn cái tháp bằng đất nhỏ. Nung xong, Biền huy động tám vạn quân, mỗi tên quân vai vác giáo, mũi giáo xóc một cây tháp, đi từ Đại La tiến dần lên núi. Vừa đi họ vừa hô mấy tiếng "Thống vận hoàng đế". Đến nơi đặt tháp xuống đỉnh núi rồi tám vạn quân ấy lại rùng rùng kéo về Đại La. Cũng vì có những việc kỳ dị như thế nên núi ấy từ đó mang tên là núi Bát Vạn. Hoàng đế Trung Quốc đọc sách của Cao Biền lại càng khen ngợi hắn. Nhưng việc làm của Biền bị dân chúng nước Nam oán ghét. Họ lập tâm chờ dịp giết hắn cho bõ hờn. Một hôm, Biền cưỡi diều bay vào miền cứ như bây giờ là Ninh Bình. ở đây người ta đã chuẩn bị cung nỏ chờ khi diều của hắn bay qua là là mặt đất, là cả bao nhiêu người cùng nhất tề phóng tên. Diều bị gãy cánh rơi xuống núi. Biền bị trọng thương, sau đó phải đưa về Trung Quốc. Hòn núi ấy ngày nay còn mang tên là núi Cánh Diều, một trong ba ngọn núi ở gần trị sở Ninh Bình. Cao Biền về nước được ít lâu bị thủ hạ giết chết. Người ta theo lời dặn của hắn, đem hài cốt chôn ở một cái gò cát ở mé biển miền Nam, cứ như bây giờ thuộc tỉnh Phú Yên. ở đó mặc dầu sóng dồi gió dập thế nào đi nữa, cát ở mả vẫn cũng không bay đi chỗ khác. Người đi thuyền qua đó vẫn gọi là mả Cao Biền.

LSB-PhongThienVu
21-04-2007, 20:52
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.


Chuông Thiên Mụ nổi tiếng cả nước với tiếng ngân vang xa rộng của nó. Quả chuông này do chúa Hiến Tông (Nguyễn Phúc Chu) cấp tiền đúc vào năm Canh dần (1750). Tiếng chuông chùa Thiên Mụ biểu trưng cho sự hiện diện của Phật giáo hằng ngày, sớm và chiều tại cố đô Huế, trong lòng mỗi người dân tại cố đô Huế. Thiên Mụ là bà lão nhà Trời. Theo truyền thuyết, Cao Biền khi làm An Nam đô hộ phủ ở nước ta, dưới đời nhà Đường, theo lệnh vua Đường là Đường ý Tôn (860-873), đã đi khắp nơi ở nước ta, tìm những nơi đất tốt có vượng khí, đều lập phép trấn yểm. Cao Biền đã đến Thuận Hóa, xã Hà Khê, huyện Hương Trà, thấy giữa đồng bằng đột khởi một cái đồi hình đầu rồng, biết là nơi linh địa, bèn cho đào hào cắt ngang dưới chân đồi. Đêm đến, Biền mộng thấy một bà lão tóc bạc phơ, ngồi dưới chân đồi than vãn và nói to: "Đời sau, nếu có bậc minh chủ, muốn bồi đắp mạch núi lại, đem lại linh khí cho đồi núi này, thì hãy lập chùa thờ Phật ở đây..."

Nguyễn Hoàng khi vào Thuận Hóa, tìm cách gây dựng thế lực, để biệt lập và chống đối với họ Trịnh, đã đến nơi này, nghe các bô lão kể lại câu chuyện bà lão Trời và Cao Biền, thì rất mừng, lập tức cho xây chùa trên núi, và tự tay viết biển chùa là "Thiên Mụ tự" (chùa Thiên Mụ - chùa bà lão nhà Trời).

Người Việt Nam bình thường tin ở thuật phong thủy, nhưng đồng thời cũng tin ở Phật, Bồ-tát, và đạo Phật. Cao Biền có tài trấn yểm, nhưng dân Việt Nam có xây chùa thờ Phật là mọi phép yểm của Cao Biền đều bị phá hết. Ảnh hưởng của chùa Phật là ảnh hưởng của Tam Bảo, của đức Phật thường trú, của Chánh pháp mà bánh xe luôn luôn chuyển động, của Tăng là những người có trách nhiệm duy trì và hoằng dương Chánh pháp tại thế gian này.

to be continued

LSB-PhongThienVu
21-04-2007, 22:50
Liệu cái chết của một số người có như trường hợp này?

Bắc Giang: Làng ma ám


Chuyện về "làng ma ám" đã được người dân trình cả lên Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang với mong muốn các nhà khoa học về làng tìm ra lời giải đáp và có cách giúp dân thoát cảnh... "ma ám". Gần đây, khi Sở Khoa học Công nghệ tỉnh Bắc Giang vào cuộc, xóm Đầu bỗng trở nên nổi tiếng và là sự kiện đáng quan tâm.

Đi dưới những lũy tre xanh mướt, những con đường quanh co, tôi tìm đến xóm Đầu. Xóm Đầu cách thị trấn Thắng (Hiệp Hòa) chừng 6 km, nằm co cụm quanh những đụn cát, những ngôi nhà nghèo xác nghèo xơ lẫn trong những lũy tre.

Trưởng xóm Lưu Văn Lần vừa nói vừa thở dài thườn thượt: “Xóm có 34 hộ, có 37 con trâu bò thì cả 37 con đều lăn ra chết. Lợn, chó đếm không xuể, nhà có 1 con cũng chết, nhà có 10 con, 15 con, 40 con cũng chết sạch, chết không biết nguyên nhân”.


Từ một gia đình bị "ma ám"

Câu chuyện kỳ lạ này bắt đầu từ năm 1997, trong gia đình nhà anh Bùi Văn Thanh... Ngôi nhà anh Thanh tường đất, lợp rạ núp dưới bụi tre rậm rì. Đứng trước cái chuồng lợn trống hoác, anh kể: Ngày 21/4/1997, vợ chồng vẫn băm bèo, nấu cám cho đôi lợn 80 kg ăn. Hai con lợn đều béo tốt, khỏe mạnh và sắp đến ngày xuất chuồng. Bỗng nửa đêm, nghe thấy tiếng lợn kêu éc éc, rồi nó lao vào thành chuồng rầm rầm. Soi đèn pin thấy hai con lợn hiền lành mọi ngày bỗng đổi tính đổi nết lồng lộn như hoang thú, anh chị sợ dựng tóc gáy. Sau khi hộc lên mấy tiếng, cả hai con lăn ra chết. Từ mép chúng rỉ ra vài giọt máu tươi.

Lần nuôi lợn sau, anh Thanh tẩy chuồng sạch sẽ, đem vôi bột về rắc rồi mới dám thả đàn lợn mới. Đàn lợn 10 con của anh vừa nuôi được đúng một tháng, đang lớn nhanh như thổi bỗng dưng cũng như điên như loạn, rồi lăn ra chết y hệt như hai con lợn thịt trước. Anh gọi bác sĩ thú y đến xem xét, bác sĩ khẳng định không phải chết do bỏ độc, như vậy chỉ có thể do chúng mắc một loại bệnh dịch nào đó.

Lần ba, anh cẩn thận... đốt chuồng, phá tường cũ, xây lại tường mới, quét vôi trắng xóa, phun các loại thuốc phòng dịch khắp chuồng, khắp vườn. Nhưng lợn vẫn lên cơn điên và chết, mà càng ngày chết càng nhanh, có khi mới đưa về chuồng được một giờ đã "nổi đóa" rồi lăn ra chết.

Nghĩ nhà mình bị ma ám, anh Thanh mời thầy cúng về nhà. Sau một buổi khấn vái, thầy khẳng định đã đuổi được tà ma đi rồi và bảo anh Thanh bắt lợn về nuôi. Bắt lợn về, anh làm đúng theo "phép" của thầy, nhưng chưa kịp làm hết "phép", lợn đã lăn ra chết.

Năm 1998, tất cả gia súc trong nhà 5 anh em anh Thanh đều đồng loạt “lên cơn” và lăn ra chết. Tổng cộng số lợn nhà anh Hùng, anh trai anh Thanh, bị chết một cách bí ẩn từ năm 1998 đến năm 2001 lên tới 30 con. Đàn chó 7 con nhà anh Hùng cũng lần lượt nối đuôi đàn lợn về... chầu trời.

Để tìm hiểu xem có phải do trúng độc không, họ đem nửa chậu tiết của con vật xấu số cho đàn lợn trong xóm Đầu và nửa chậu cho đàn lợn xóm bên cạnh ăn. Kết quả: đàn lợn xóm Đầu sau khi ăn liền nổi điên rồi chết hết, còn đàn lợn của xóm bên vẫn sống nhởn nhơ.

Quá hoảng sợ, vợ chồng anh Hùng bàn nhau chuyển sang làng Đông sinh sống. Nhưng sang đến làng mới, đám gia súc cũng chẳng ở với vợ chồng anh lâu hơn, trong khi trâu bò hàng xóm nuôi vẫn khỏe mạnh bình thường.


Đến bi kịch của cả làng

Sau khi tất tật đàn gia súc gồm trâu, bò, lợn, chó của đại gia đình nhà anh Bùi Văn Thanh lần lượt chết sạch trong năm 1997 và 1998 thì năm 1999 đến lượt cả xóm Đầu chịu hậu quả nặng nề. Hộ gia đình ông Khiêm cùng một lúc chết 16 con lợn thịt đang khỏe như vâm. Ông phải lôi xe cải tiến rồi đẩy đi khắp làng để cho. Sau đấy ít bữa, những gia đình trong xóm được “hưởng lộc” từ nhà ông cũng lần lượt “trả lộc”, gia súc nhà họ cũng đồng loạt chết.

Trong số đó, có những kiểu chết kỳ dị đến mức khiến cả làng hoang mang tột độ. Theo chứng thực của ông trưởng xóm Lần và cả làng thì súc vật chết nhiều nhất vào những ngày làng có lễ lạt, hiếu hỉ. Đặc biệt nhất là chó, cứ đúng lúc diễn ra lễ đón dâu hoặc đưa dâu là y rằng chó khắp làng nổi cơn tru tréo kinh hồn, chạy quáng quàng khắp nơi rồi đâm vào tường vỡ đầu chết, hoặc lao xuống ao... tự vẫn. Và điều này cũng rất khác thường, mặc dù đàn chó “nổi điên” nhưng không bao giờ cắn người.

Trong làng, chỉ có gia đình anh Bùi Văn Tâm nuôi được gia súc khỏe mạnh. Trong suốt 10 năm trời, dân làng phải đối mặt với cả ngàn cái chết kỳ lạ của gia súc thì đàn gia súc nhà anh Tâm vẫn bình an vô sự.

Tin rằng gia đình anh Tâm được "thánh thần phù hộ", cho mảnh đất tốt nên cả làng mang gia súc đến vườn nhà anh thả nhờ... lấy may. Quả thực, tất cả số gia súc của dân làng thả vào chuồng trâu, chuồng lợn nhà anh Tâm đều sống rất khỏe mạnh và chưa con nào chết.

Hiện tại, khu vườn nhà anh Tâm mọc kín chuồng bò, chuồng lợn. Anh em, dân làng đem tre, đem rạ đến vườn nhà anh dựng chuồng để nuôi và vợ chồng anh đều sẵn sàng chấp nhận. Anh Tâm vui vẻ biến mảnh vườn nhỏ nhà mình thành cái trại nuôi gia súc của cả làng và chấp nhận mùi hôi thối nồng nặc khủng khiếp là bởi anh muốn “trả nghĩa” cho bà con, vì từ nhiều năm nay, gia đình anh đều được hưởng “lộc” từ những đàn gia súc đột tử của hàng xóm.

Sự hoang mang của dân làng càng lên đến đỉnh điểm khi mới đây, trong xóm nhỏ này có hai cái chết trẻ: một cậu thanh niên chết vì điện giật và một cháu bé con anh Bùi Văn Minh chết không rõ nguyên nhân khi mới hai tuổi rưỡi.

Cái chết của cháu bé con anh Minh tuy không biết có liên quan gì tới những cái chết bí ẩn của đàn gia súc trong làng không, song nó đã gây ra nỗi hoang mang rất lớn. Người dân rất mong các nhà khoa học lý giải hiện tượng này, để người dân yên tâm sống. Các cơ quan chức năng bao giờ mới vào cuộc để giải đáp thắc mắc cho người dân?

Theo ông Hà Văn Quê, Giám đốc Sở KH-CN Bắc Giang, để tìm ra nguyên nhân, phải phân tích, điều tra được ba yếu tố: Môi trường (đất, nước, không khí), các phông bức xạ, phóng xạ, từ trường và tình hình an ninh trật tự địa bàn (những đối tượng xấu gây thù hằn, hại nhau bằng cách bỏ độc). Thế nhưng, qua điều tra bước đầu, dường như cả ba yếu tố này đều đã gần như bị loại bỏ.

Từ nhiều năm nay, công an huyện, xã đã tích cực, ráo riết nằm vùng, điều tra, song đều không tìm thấy thủ phạm. Vả lại, chuyện gia súc, gia cầm chết vì thuốc độc là chuyện khó có thể xảy ra, bởi nếu gia súc, gia cầm trúng độc sao người dân cứ làm thịt rồi đánh chén vô tư từ 10 năm nay mà không thấy có triệu chứng bị nhiễm độc, vả lại, nếu bị bỏ độc tràn lan như vậy thì đâu chỉ có bốn giống loài trên bị chết?

Hơn nữa, nếu đàn gia súc ở thôn Đầu chết vì trúng độc thì các nhà khoa học với những phương tiện hiện đại đã tìm ra từ lâu rồi.

Để truy tìm được nguyên nhân dẫn đến việc gia súc ở thôn Đầu chết hàng loạt, vả lại cũng để giúp bà con vượt qua phần nào khó khăn, Sở KH-CN Bắc Giang tiếp tục tiến hành bước hai của đề tài, đó là đưa gia súc về xóm Đầu nuôi dưỡng.

Những con giống được Viện Thú y Trung ương kết hợp với Công ty Cổ phần Giống chăn nuôi chọn lọc rất kỹ càng, được khám bệnh, tiêm chủng, tiêm phòng cẩn thận trước khi đưa về địa bàn.

Toàn bộ số con giống, thức ăn đều do đề tài cung cấp và có cán bộ ngày đêm nằm ở địa bàn theo dõi sát sao, quản lý nghiêm ngặt cùng với một tủ thuốc để chữa trị khi đàn gia súc... lên cơn.

Đợt đầu tiên đã đưa về xóm Đầu 6 con bò, 11 con lợn và 9 con chó. Qua 3 tháng triển khai, cả 11 con lợn đều mạnh khỏe, đạt từ 65 đến 80kg và mới đây đã xuất chuồng, 6 con bò đều bình thường, hay ăn chóng lớn.

Đây là kết quả bước đầu đáng mừng, song người dân xóm Đầu vẫn không thực sự tin tưởng vào kết quả này, bởi vì theo họ, số gia súc, gia cầm này là do cán bộ chọn giống, cán bộ nuôi dưỡng, cán bộ cung cấp thức ăn, do vậy chúng mới không chết (người dân đưa ra lý do như vậy là vì thực tế người xóm cạnh thả nhờ gia súc ở xóm Đầu vẫn sống).

Nếu để dân làng tự bỏ tiền mua giống, tự tìm nguồn thức ăn, tự chăm bẵm mà nó vẫn sống thì họ mới tin. Điều này thể hiện người dân xóm Đầu đã bị ám ảnh rất nặng nề về những cái chết kỳ lạ của đàn gia súc trong xóm.

Tuy nhiên, theo anh Đào Trọng Nghĩa, chủ nhiệm đề tài kể: Ngày 25/8/2006, con chó của đề tài nuôi ở nhà anh Bùi Văn Hùng đột nhiên lên cơn điên chạy nhảy khắp nơi, anh Hùng liền điện cho anh Nghĩa.

Nhận được tin báo, anh Nghĩa cùng các cán bộ lập tức từ TP Bắc Giang về theo dõi, nghiên cứu. Anh Nghĩa yêu cầu mọi người vây bắt con chó đó lại để xem bệnh, nhưng vừa tóm được thì nó run lẩy bẩy rồi lăn ra chết sau hơn một tiếng “nổi đóa”. Trong số 9 con chó của đề tài đem về xóm Đầu thì 5 con đã chết cùng một triệu chứng, điều này khiến bà con vẫn rất hoang mang.

Để có kết luận chính xác về hiện tượng gia súc chết hàng loạt ở xóm Đầu không phải đơn giản. Những câu hỏi như: Tại sao chỉ có trâu, bò, lợn, chó ở xóm Đầu mới chết? Những giống khác như mèo, chuột, gà, ngan, vịt... không việc gì?

Tại sao gia súc, gia cầm cả xóm chết mà nhà anh Tâm cũng ở giữa làng lại không chết bất cứ một con nào? Và tại sao hàng trăm hộ dân ở những ngôi làng nằm cách xóm Đầu chỉ bằng cái ngõ rộng 1,5 mét lại vẫn chăn nuôi bình thường, không có hiện tượng gì xảy ra, mặc dù môi trường, điều kiện chăm sóc đều như nhau?

Hơn lúc nào hết, các nhà khoa học hàng đầu Việt Nam cần phải chung tay vào cuộc cùng với các cán bộ Sở KH-CN Bắc Giang nghiên cứu, tìm ra lời giải, bởi ngoài việc giúp người dân nơi đây tìm ra biện pháp tháo gỡ khó khăn, khôi phục lại nghề chăn nuôi, còn là một vấn đề khoa học rất thú vị, độc đáo.

Trao đổi với một số nhà khoa học chuyên nghiên cứu về tiềm năng con người và những hiện tượng lạ trong tự nhiên, tôi nhận được một số lời giải đáp bước đầu:

Nhà khoa học Nguyễn Phúc Giác Hải cho rằng: Hiện tượng gia súc chết hàng loạt vào những ngày trong làng có hiếu hỷ, rồi dân trong làng mang gia súc đi nơi khác chăn thả vẫn chết là hiện tượng rất lạ, phức tạp, khó giải thích.

Ông Hải cũng khuyên là, những chuyện mê tín như sửa sang miếu thờ, mời thầy cúng bái là không có căn cứ, việc này chỉ tốn công sức, tiền của lại gây thêm hoang mang trong dân, không mang lại lợi ích gì. Theo ông Hải, gia súc ở xóm Đầu chết hàng loạt có thể là do một loại virus và loại virus này chỉ trong những điều kiện thích hợp mới gây tác hại, hoặc chúng đã “biến tướng” nên rất khó có thể xác định trong ngày một ngày hai.

Theo nhà khoa học Tuệ Đức, Tổng Giám đốc Liên hiệp Khoa học tin học ứng dụng thì có thể nguyên nhân do khu vực này mới phát xạ một nguồn năng lượng đặc biệt nào đó mà những loại máy móc đo bức xạ hiện thời chưa phát hiện ra (?). Những chuyện “ma ám ma iếc” gì đó như lý giải của người dân trong làng là không có cơ sở.

Ông Đức cũng thông tin rằng, ông đang tập hợp các nhà khoa học chuyên nghiên cứu về những hiện tượng dị biệt, trực thuộc ba cơ quan gồm: Liên hiệp Khoa học tin học ứng dụng, Trung tâm Bảo trợ Kỹ thuật truyền thống và Viện Khoa học Hình sự (Bộ Công an) để lên Bắc Giang đi tìm lời giải đáp trong thời gian tới. Ông Đức khẳng định, hiện tượng này có thể giải thích bằng khoa học, không có gì ma quái, do vậy nhân dân ở xóm Đầu không phải lo sợ gì cả.

(Trích từ Dân Trí)

LSB-PhongThienVu
22-04-2007, 12:38
Một “Long mạch” tốt sẽ cho Khí tốt. Khí được dịch là “hơi thở” hoặc “năng lượng”, là khái niệm quan trọng nhất trong phong thủy. Một yếu tố quan trọng nữa trong phong thủy, đó là sự hiện diện của các vì sao (Cửu tinh) tác động đến môi trường xung quanh.


Tìm “Long mạch” của đất

Các chuyên gia phong thủy đã tìm kiếm Khí, để tìm ra mạch của đất, nó cũng giống như các thầy thuốc làm khơi dậy năng lực sống động của vũ trụ.

Lý thuyết phong thủy chỉ ra rằng, Khí lưu thông, xoay tròn xoắn ốc trong trái đất. Khí là nhân tố hàng đầu ảnh hưởng đến đời sống con người.

Được dịch là “hơi thở”, Khí là năng lượng hoặc sức mạnh để tạo ra núi non và các ngọn lửa, hướng chảy của các sông suối và xác định màu sắc và hình dạng cây cối. Năng lượng này cũng còn được hiểu như là “Long mạch”.

Trong phong thủy, các chuyên gia về lĩnh vực này sẽ dự đoán về những mạch tốt để “nuôi dưỡng” Khí và sau đó chỉnh nó để làm giàu cuộc sống và khí của những người cư ngụ.

Ở người, Khí là tinh thần hoặc là sức mạnh sống động để nâng đỡ cho cơ thể như: Cách chúng ta xuất hiện và hành động, cách di chuyển, giao dịch. Khí gắn liền với chúng ta từ lúc sinh cho đến lúc chết và nó cũng tồn tại khác nhau trong mỗi người, có thể ảnh hưởng đến vận mệnh của mỗi con người.

Các chuyên gia nhìn tư thế của bạn ngồi, di chuyển và nói chuyện để nhận ra dòng khí của mỗi người. Chuyển động của cơ thể, dáng vẻ, nét mặt, sự rạng rỡ của đôi mắt, sự mím chặt của đôi môi, màu da và giọng nói... tất cả sẽ phản ánh lại dòng khí của một người.

Phân tích dòng khí, các chuyên gia còn có thể dùng phong thủy để giúp người ấy gỡ rối được các nút ngăn chặn hạnh phúc, để đạt được mục đích và hy vọng cho con người.

Khí của con người có thể được tô điểm bằng một số cách như: thiền định, quan hệ tốt giữa con người, và một môi trường lành mạnh – một phong thủy tốt. Khí của nhà và khí của người có những điểm chung.

Khí của một căn nhà cũng ảnh hưởng đến không khí và do đó cũng ảnh hưởng đến người cư ngụ trong đó. Trong một vài nơi, chúng ta cảm thấy thoải mái, hạnh phúc và cảm thấy như ở nhà, và một trong vài nơi khác, chúng ta lại cảm thấy bồn chồn hoặc chán nản. Những chỗ khác thì lại lạnh lẽo, âm u và nặng nề... đó là tất cả những đặc tính của Khí của một ngôi nhà.

Sự điều tiết và nâng cao dòng khí là mục đích tiềm ẩn của phong thủy.

Dòng khí tốt trong một chỗ ở, sẽ cải thiện dòng khí của những người sống trong đó.

Khái niệm về Khí chủ yếu là để đánh giá về nhà cửa, văn phòng hoặc đất đai, và tất cả những yếu tố bên trong, bên ngoài của chúng. ở đây, các chuyên gia phong thủy cũng giống như một bác sĩ, tìm ra sự luân chuyển và mạch đập của Khí.

Họ tìm kiếm các môi trường êm dịu, cân bằng sự thay đổi các vùng xung quanh.



Tác động của Cửu tinh (9 sao)

Tất cả các môn phái phong thủy đều chú trọng đến đại hùng tinh do sự quan hệ của nó với sao Bắc Đẩu.

Phái phong thủy này là Cửu tinh, rồi bát môn, bát quái (đã được đề cấp trước đây). Trong phong thủy, có thể sử dụng Cửu tinh vào việc phân tích các khu vực tốt, xấu.

Trong Đại hùng tinh ở bầu trời đêm chỉ có 7 vì sao (Trường sinh, Diên niên, Họa hại, Lục sát, Ngũ quỷ, Lưu niên, Tuyệt mạng), nhưng trong phong thủy có thêm hai vì sao tưởng tượng ra (Tả phù và Hữu bật) và được biết như các thần sao được thêm vào để tượng trưng hai khuynh hướng chính của Kinh dịch, báo điềm tốt và xấu.

Cửu tinh tượng trưng cho những sự định hướng âm dương không gian và cũng là bản đồ phong thủy để phân tích một vị thế:


1. Sao Trường sinh (dương): Tốt cho tất cả các hoạt động, phòng ngủ, phòng khách, nhà bếp.

2. Sao Diên niên (dương): Tốt cho phòng ăn, nhà bếp, phòng ngủ, góc để trò chuyện và những khu vực thường có sự hoạt động.

3. Sao Họa hại (âm): Một vị trí xấu với hoạt động của con người. Có thể đặt đồ vật để hóa giải ảnh hưởng xấu của vị trí này như: tượng sư tử, rồng, cọp, vòi phun nước nhỏ, bể nuôi cá, bình hoa, cây xương rồng...

4. Sao Lục sát (âm): Đừng bao giờ thiết kế nhà bếp, phòng ăn, hay phòng ngủ, phòng khách... trong vị trí xui xẻo (phản bội) này, trừ phi các nhà phong thủy biết cách hóa giải. Có thể đặt kệ sách, ti vi, các đồ vật trang trí vào đây, nhưng không được đặt bàn ghế, bàn làm việc...

5. Sao Ngũ quỷ (âm): Đây cũng là vị trí lắm rắc rối. Phòng ngủ đặt nơi này không tốt, chỉ nên đặt đồ đạc, các vật dụng khác.

6. Sao Lưu niên (dương): Vị trí này tốt và hợp cho công việc của con người, phòng ngủ, phòng ăn, phòng khách, nơi làm việc... Nó được sự hỗ trợ của hai sao tưởng tượng (Tả phù, Hữu bật).

7. Sao Tuyệt mạng (âm): Đây là một vị trí xấu cho hoạt động của con người. Đừng bao giờ đặt phòng làm việc, phòng ăn, phòng ngủ, quầy rượu, nhà chứa xe hoặc bất cứ hoạt động nào ở nơi này. Chỉ nên để các kệ chứa đồ đạc, đồ phế thải... Có thể để một cây xương rồng, treo một đèn trần nhà thật lớn, hay một lá bùa... để hạn chế ảnh hưởng không tốt.

8-9. Sao Tả phù, Hữu bật (trung tính): Là hai sao tưởng tượng đi kèm với sao Lưu niên, giúp cho sao này thu hút những ảnh hưởng vô hình và được xem là những người bạn tốt.

LSB-PhongThienVu
22-04-2007, 12:47
Góp thêm một huyền thoại về Long Mạch ở dãy Hoành Sơn


Hoành Sơn một đại địa:

Hoành Sơn còn gọi là núi Ngang nằm trong dãy Tây Sơn thuộc địa phận xã Bình Tường quận Bình Khê tỉnh Bình Định. Hoành Sơn không cao (364m) nhưng dài và rộng, ở xa trông rất tuấn tú, khôi hùng. Theo các nhà phong thủy Tàu và địa phương cho biết thì Hoành Sơn là đại địa và hiện tại Hoành sơn là một trong “Nhị thập bác cảnh” của Bình Định. Vì chung quanh Hoành sơn có nhiều ngọn núi bao bọc, mỗi ngọn mang một dáng dấp cổ vật như Núi Bút (Trưng sơn), Núi Nghiên (Nghiên sơn), Núi Ấn (Ấn sơn), Núi Kiếm (Kiếm sơn), Núi Trống (Cổ sơn), Núi Chiếng (Chung sơn), trước mặt là ba dãy gò cao đá mọc giăng hàng rông như quân chầu, hổ phục, phía dưới là hai phụ lưu sông CÔN từ phía Tây và phía Bắc chay ra họp nhau ở địa đầu thôn Phú Phong như hai cánh tay người mẹ ôm chặt lấy Hoành sơn. Địa thế thật cũng đáng gọi là long bàn hổ cứ.

Tam kiệt TÂY SƠN Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ sinh trưởng trong một gia đình nông thôn tại làng Phú Lạc (Bình khê) hướng vọng về dãy Hoành Sơn này. Nhưng rồi thời thế tao anh hùng, địa linh sinh nhân kiệt hay long mạch do mồ mả tổ tiên mà ba anh em Tây sơn trở thành những trang anh hùng cái thế, lật đổ Nguyễn, diệt tan Trịnh, đánh bại Mãn thanh, thống nhất nước Việt Nam vào cuối thế kỷ thứ 18? Điều đó xin nhường lại cho lịch sử phân định. Nhưng theo các vị thức giả ở Bình khê kể lại thì nhà Tây Sơn phát Đế nghiệp là nhờ cuộc đất chôn thân sinh của ba Ngài trân dãy Hoành sơn.



Huyền thoại về Long Huyệt:

Các cụ kể rằng:

Trước ngày ba anh em Tây sơn khởi nghĩa, trong khoảng thời Định Vương Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777) trị vì, có một Ông Thầy địa lý Tàu thường ngày xách địa bàn đi đi lại lại trong vùng Tây Sơn để tìm phúc địa. Nguyễn Nhạc thấy vậy theo rình. Một hôm thầy địa lý dường như đã tìm ra long mạch nhưng còn phân vân không biết huyệt khí nằm ở đâu, Thầy mới đem hai cành trúc xanh tốt và đều nhau đến cắm ở triền phía đông dãy Hoành sơn hướng Phú Lạc (nơi sinh trưởng của ba anh em Tây Sơn) phía Bắc một cây và phía Nam một rồi bỏ đi. Nguyễn Nhạc ngày ngày để ý theo dõi hai cành trúc ấy. Hai tháng sau, cành trúc phía Bắc vẫn sống xanh tốt như khi mới trồng còn cành phía Nam thì héo khô. Nguyễn Nhạc cả mừng vì biết rằng long mạch đã ứng hiện nơi cành phía Bắc, bèn nhổ cây khô phía Nam đem cắm ở phía Bắc và nhổ cây tươi ở phía Bắc đem cắm vào phía Nam.

Đúng 100 ngày kể từ ngày trồng trúc, thầy địa lý Tàu trở lại thấy hai cành trúc đều chết cả, Thầy nhún vai, trề môi lắc đầu chê là “giả cuộc” rồi bỏ đi thẳng. Nguyễn Nhạc mừng rỡ về bàn với hai anh em rồi hốt hài cốt của Cha đem chôn nơi cành phía Bắc.

Lại có cụ kể rằng:

Có một thầy địa lý Tàu lúc đến tìm địa cuộc ở vùng đất Tây Sơn thường tá túc nơi nhà Nguyễn Nhạc và nhờ Nguyễn Nhạc dẫn đường cho thầy đi tìm long mạch khắp vùng Tây Sơn. Sau nhiều lần xem xét, ngắm nghía, đo đặt địa bàn, Thầy chú ý đến dãy Hoành sơn và tỏ vẻ đắc ý cuộc đất này lắm. Đoạn Thầy bỏ đi. Một thời gian sau Thầy trở lại cũng ghé nơi nhà Nguyễn Nhạc mà tá túc. Nhưng đặc biệt, lần này, ngoài chiếc địa bàn Thầy lại còn mang theo một chiếc trắp nhỏ ngoài bọc tấm khăn điều. Nguyễn Nhạc đoán biết là Thầy Tàu đã tìm ra được long huyệt và… chiếc tráp kia là hài cốt của Cha ông mang sang chôn. Nguyễn Nhạc bèn đóng một cái trắp giống hệt như cái trắp của thầy Tàu và hốt hài cốt của thân sinh mình đựng vào rồi tìm cách đánh đổi. Nhưng thật khó mà đánh đổi được vì cái trắp ấy Thầy Tàu luôn luôn mang theo bên người không lúc nào rời. Nguyễn Nhạc hội hai em lại và nghĩ ra một kế.

Đến ngày lành đã chọn, Thầy Tàu lẻn mang trắp cùng địa bàn đi lên dãy Hoành sơn. Vừa đến chân núi thì một con cọp to bằng người trong bụi rậm gầm lên một tiếng dữ tợn rồi nhày xổ ra vồ. Thầy Tàu thất kinh hồn vía văng trắp và địa bàn mà thoát thân. Hồi lâu hoàn hồn, không thấy cọp rượt theo Thầy mon men quay lại chỗ cũ, Thầy mừng quýnh vì chiếc trắp và địa bàn vẫn còn nằm lăng lóc ở đó, Thầy vội vã trèo lên nơi long huyệt đã tìm trước mà đào bới chôn cất. Xong, Thầy hớn hở trở về với hy vọng chờ ngày “long huyệt vương phát”. Không ngờ chiếc trắp Thầy chôn là hài cốt của Hồ Phi Phúc còn con cọp kia chỉ là người giả mà thôi.

Hai thuyết kể trên tuy có khác về tiểu thuyết nhưng vẫn giống nhau là hài cốt của Hồ Phi Phúc được chôn nơi long mạch trong dãy Hoành sơn.

Các cụ còn kể tiếp rằng:

Sau khi chôn mộ cha trên Hoành sơn thì ba anh em Nguyễn Nhạc vùng phát tướng. Mặt mày sáng rỡ, học hành thông thái. Thầy giáo Hiến dạy ba anh em Nhạc vốn là người có biệt nhãn lại thông thạo về khoa tướng số, xem biết anh em Nguyễn Nhạc đã vượng thời nên mới đem câu sấm “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công” ra mà khuyên Nguyễn Nhạc. Từ đó ba anh em Nguyễn Nhạc mới rắp tâm mưu đồ đại sự, chiêu tập hào kiệt, lấy dãy Hoành son làm căn cứ.

Mãi cho đến khi Nguyễn Huệ đại thắng 20 vạn quân Thanh tại gò Đống Đa, đuổi Tôn sĩ Nghị chạy về Tàu mình không kịp mặc giáp, nhựa chưa thắng yên cương, mà còn nuôi mộng lớn lấy lại đất Lưỡng Quảng, cầu hôn công chúa Vua Càn Long, tiếng tăm vang dội cả Trung Quốc.

Ông Thầy địa lý năm xưa nhớ lại chuyện cũ, bèn bôn ba sang lại Hoành sơn xem thử thì quả nhiên cuộc đất tìm ra năm trước đang phát. Hỏi thăm thì đó là mộ của Hồ phi Phúc thân sinh ba vua Tây sơn.

Thầy địa cả giận vì sự cướp đoạt long huyệt của mình đã tìm ra và để tránh hậu họa chiến tranh Việt-Trung, Thầy địa bèn lập mưu phá long mạch bằng cách bảo Nguyễn Nhạc hãy lấp mấy ngọn phụ lưu Sông Côn ở phía Nam và đào thêm mấy nhánh khác ở phía Bắc để dẫn thủy vào ruộng cho nhân dân cày cấy làm, ăn, Nguyễn Nhạc tưởng thật nghe lời.

Những nhánh sông vừa đào sông thì đùng một cái ở Phú Xuân Nguyễn Huệ băng hà ngày 29-7-1792 (có tài liệu lại ghi 6-9-1792). Ở trong Nam thì Nguyễn Ánh chiếm hết đất miền Nam rồi kéo quân ra đánh Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc chống không nổi phải cầu cứu cháu là Nguyễn Quang Toản, Nguyễn Quang Toản thừa thế cướp thành Quy Nhơn rồi lại sáp nhập lãnh thổ của Bác vào lãnh thổ của mình. Nguyễn Nhạc tức giận thổ huyết mà chết ngày 13-12-1793.

Nguyễn Huệ mất lúc 40 tuổi, làm vua được 5 năm. Con, Nguyễn Quang Toản 10 tuổi lên ngôi Thái sư Bùi Khắc Tuyên chuyên quyền làm bậy, triều thần chia rẽ, tướng tá giết hại lẫn nhau. Nguyễn Nhạc làm vua được 16 năm, sau khi chết con là Nguyễn Bảo cũng bị Nguyễn Quang Toản giết. Từ đó, nhà Tây Sơn suy dần và đến năm 1802 thì bị Nguyễn Ánh dứt hẳn.

Đối với thời đại nguyên tử, hỏa tiễn này, liệu người ta còn có thể tin những huyền thoại về long mạch là có thật không? Tin cũng không được mà không tin cũng không được! Vì con người làm sao giải thích nổi cái lẽ huyền vi của tạo hóa cũng như ai có ngờ rằng con người hôm nay đã lên được trên Cung Quảng?

LSB-PhongThienVu
22-04-2007, 17:59
Thăng Long Lược Phong Thủy Ký


Gọi là long mạch được chia ra thân (can long), cành (chi long), nhánh (cước long), ngoặt (bàng long)... Lớn thì gọi là đại can long, đại chi long, nhỏ thì gọi là tiểu can long, tiểu chi long... Long mạch được tạo nên do sự vận hành của Âm Dương, Thiên Địa, Ngũ hành, Can Chi, bát Quái... con người chỉ có thể vận dụng, không can thiệp vào được, cho dù có sử dụng hàng vạn tấn TNT hay thậm chí bom nguyên tử... Đó chính là một bộ nhớ vĩ đại, ghi chép những chu kì lặp lại của Không - Thời gian trong tổng thể cái gọi là quá khứ, vị lai... của vũ trụ. Sách "Địa giải Huyền thư" nêu rằng nằm trên đại can long thì có thể hình thành kinh sư (nơi đóng đô), chi long có thể lập nên thành, phủ, đô thị (tỉnh), cước long có thể lập nên trấn, xứ (huyện, xã)... Có long mạch, lại phải có ít nhất một đại can long hình thế khúc chiết, vững vàng thì mới được coi là đất đế vương. Đó là một trong những yếu tố tiên quyết để có thể lập quốc, hình thành một quốc gia. Trung Quốc rộng lớn có ba đại can long, hình thành bởi ba con sông là Trường Giang, Hoàng Hà và Áp Lục Giang. Nước ta cũng có một số đại can long. Trong đó sông Hồng chính là một trong những ranh giới giữa hai đại can long nước Việt từ xưa tới nay vậy.

Khoa học về long mạch xem xét sự vận hành của khí tương quan với địa hình, phương vị, các chòm sao... nên xem Trời là tĩnh mà Đất thì động. Đó là một kiệt tác quan sát của người xưa. Chỉ riêng một môn này thôi, cũng đủ thấy trí tuệ phương Đông xưa vĩ đại đến nhường nào. Long mạch tạo nên sự vận hành của "khí". Có chỗ bế (tắc), chỗ khai (mở), có nơi phát tán, có nơi ngưng tụ, có khi hung, khi cát... biến ảo tuỳ thời. Tất cả đều không thể xem thường. Đời Nguyên có Liêu Kim Tinh vốn là người nghèo rách, tầm thường. Nhờ học được sách phong thuỷ của Ngô Cảnh Loan đời Tống mà tìm được một nơi đắc địa, có thể phất lên nhanh chóng. Song chỗ đất ấy nếu ở quá hai mươi năm mà không tu tạo thì sẽ bị tuyệt tự. Liêu Công bèn dọn nhà đến đó ở. Quả nhiên vài năm sau trở thành một phú hộ giàu có nhất vùng, tiếng tăm vang dội thiên hạ. Bấy giờ, trong nước có họ Trương là một bậc quyền thế nghe tiếng liền đón Liêu về để nhờ xem đất. Trong vòng hơn chục năm, Liêu tìm cho họ Trương được bẩy mươi tư chỗ đất có kết huyệt tốt. Vậy mà họ Trương vẫn chưa thỏa lòng tham. Đến khi thấy thời hạn hai mươi năm gần hết, Liêu ngỏ ý xin về để tu tạo mồ mả thì họ Trương cố giữ lại thêm mấy năm nữa. Kết quả khi Liêu trở về nhà thì con cháu đã bị nạn chết sạch, chỉ còn bà vợ già và đứa cháu ngoại. Liêu Công từ đó đau buồn, sinh bệnh rồi mấy năm sau cũng mất nốt. Chuyện từ xưa mà buồn đến tận bây giờ.

Cách đây xấp xỉ một nghìn năm, Lý Công Uẩn, ông vua khai sáng triều Lý đã nhìn thấy ở thành Đại La, đô cũ của Cao Vương (Cao Biền) nằm trên đại can long sông Hồng là một nơi có long mạch lý tưởng: "Xem khắp nước Việt, đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời..." (Chiếu dời đô - Lý Công Uẩn). Càng đắc địa hơn vì trước khi chảy đến đất này, sông Hồng đã bao lần ngoằn ngoèo, uốn khúc để thải bớt khí hung. Đến đây vừa đủ để lập nên một vùng cát địa, có long mạch đạt tầm cỡ thượng đô kinh sư. Thế mà trước khi chảy ra với biển, dòng sông vẫn còn muốn ngoái lại, lưu luyến như tiếc nuối điều gì... Rồi cũng từ đại can long Hồng Hà vĩ đại ấy, tỏa ra các chi long, cước long... vây bọc, tạo nên bức gấm thêu giữa một vùng trời nước.

Cũng cần phải nói rằng Thăng Long (thành Đại La cũ) là một vùng đất ngưỡng diện (ngửa mặt lên trời), sách xưa gọi là thế Dương lai Âm thụ (khí dương phủ xuống, khí âm ngẩng lên đón). Đất này nhược (mềm mỏng), khí ngưng kết ở bên trên mà tiêu tán ở bên dưới. Địa huyệt kết ở nơi cao nhất, chính là khu vực có tên gọi núi Nùng ngày trước. Long mạch này không nộn (non), song cũng chưa phải lão (già), tuy "cát" đấy nhưng chưa hẳn đã hết khí "hung". Thăng Long ngược lại với nơi Lý Công Uẩn lên ngôi là kinh đô Hoa Lư trước đó. Nơi ấy có long mạch gọi là thế Âm lai Dương thụ. Đó là thế đất cường (cương mãnh), khí tiêu tán ở bên trên mà ngưng tụ ở bên dưới. Thiên huyệt kết ở chỗ thấp nhất. Long mạch Hoa Lư lợi cho phòng thủ, chiến tranh, có thể lập nghiệp đấy nhưng phúc trạch không dài. Ba triều vua trước (Ngô, Đinh, Tiền Lê), mặc dù triều nào cũng có võ công hiển hách. Nhưng không triều nào dài quá ba chục năm. Liệu đó có phải là lý do chính để Lý Thái Tổ, vị vua có tầm nhìn xa trông rộng phải tìm đến Thăng Long? Và long mạch của chốn này quả đã không phụ lòng vị vua ấy khi mà nhà Lý dời đô thì lập tức tồn tại hơn hai trăm năm. Không những thế, các triều đại sau (Trần, Hậu Lê...), vẫn đóng đô trên đất ấy cũng được hưởng phúc, kéo dài không kém. Tuy nhiên, khác với Hoa Lư, Thăng Long là nơi trống trải bốn mặt, giặc có thể xâm lấn bất cứ chỗ nào. Lịch sử từng chứng kiến Thăng Long bao lần bị tàn phá, vua quan phải bồng bế nhau chạy ra ngoài. Kể cả người Chiêm Thành, bao nhiêu đời bị coi là nhược tiểu, vậy mà cũng mấy phen đem quân ra cướp phá tận Kinh sư.

Long mạch để phúc trạch cho con người không phải là không có điều kiện, càng không phải thiên thu. Câu chuyện của Liêu Công trên đây là một ví dụ. Phải là người có đức mới ở được chốn đất thiêng. Đức càng kiên cố thì vận càng dài, đến khi nào đức cạn thì vận cũng tuyệt theo. Thăng Long chính là một nơi như thế. Hình như có một "giới hạn" đã định sẵn cho những "nhà" nào ngự trên long mạch ấy. Xin mạn phép có một cuộc đại thể đối với những triều đại từng định đô ở chốn này như sau:

Hoàng Đế Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Việc đầu tiên, đáng lẽ phải lập tông miếu, xã tắc... thì Ngài lại cho dựng tám ngôi chùa tại phủ Thiên Đức (trước là châu Cổ Pháp thuộc Bắc Giang) - quê Ngài. Các nhà chép sử đời sau sở dĩ đem điều đó ra trách Ngài vì hình như không hiểu được thâm ý của Ngài. Tại sao Ngài lại dựng đúng tám ngôi chùa? Có phải Ngài muốn chuẩn bị sẵn chốn về cho vong linh mình và con cháu sau này? Nghĩa là Ngài đã biết trước và hiểu rõ những bí mật về long mạch của đất Kinh Sư mới mà Ngài vừa chọn? Con số tám huyền bí ấy về sau như là cái giới hạn khó vượt qua đối với tất cả những chủ nhân của long mạch ấy. Nhà Lý do Ngài lập nên ngự trên đất Thăng Long hơn hai trăm năm (1010-1225). Tính từ Ngài (Lý Thái Tổ) đến Lý Huệ Tông, quả vừa đúng tám đời thì đức suy, cũng là lúc vận tuyệt, vạ từ trong nhà sinh ra, cơ nghiệp lọt hết vào tay người khác.

Nhà Trần giành cơ nghiệp từ tay nhà Lý, tồn tại được hơn một trăm bẩy mươi năm (1226-1399). Làm chủ Thăng Long bao gồm mười hai vị vua. Nhưng nếu tính từ đời thứ nhất là Thái Tông (Trần Cảnh) đến đời cuối cùng là Thiếu Đế (Trần An), thì thực chất cũng vừa đúng tám đời. Bởi có tới bốn vị vua là Hiến Tông, Dụ Tông, Nghệ Tông và Duệ Tông đều cùng đời thứ sáu (cùng là con Trần Minh Tông), hai vị: Phế Đế (con Duệ Tông) và Thuận Tông (con Nghệ Tông) là con chú con bác, đều cùng đời thứ bẩy. Cuối cùng, Thiếu Đế (con Thuận Tông) là đời thứ tám. Để cho rõ, xin hình dung theo sơ đồ sau:


Đời thứ nhất:......................................... Trần Thái Tông
Đời thứ hai:........................................... Trần Thánh Tông
Đời thứ ba:............................................ Trần Nhân Tông
Đời thứ tư:............................................. Trần Anh Tông
Đời thứ năm:......................................... Trần Minh Tông
Đời thứ sáu:... Trần Hiến Tông - Trần Dụ Tông - Trần Nghệ Tông - Trần Duệ Tông
Đời thứ bẩy:...............................Phế Đế - Trần Thuận Tông
Đời thứ tám:..........................................Thi ếu Đế.


Nếu tính theo đời vua thì từ Trần Thái Tông đến Trần Nghệ Tông - đúng vị vua thứ tám thì hết phúc, bấy giờ đức đã nghiêng ngả lắm rồi. Mấy đời sau thực chất chỉ còn hư danh, bởi thời vận đã đến hồi kết thúc, cơ đồ xuống dốc không phanh. Rốt cuộc vạ cũng từ trong nhà sinh ra, con cháu bị giết, cơ nghiệp về tay kẻ ngoại thích là Hồ Quý Ly.

Hai vị vua thời Hậu Trần (Giản Định Đế và Trùng Quang Đế) chẳng qua chỉ là vớt vát, vả lại cũng đã lưu lạc ra khỏi kinh thành, không còn liên quan đến long mạch Thăng Long nữa rồi.

Hồ Quý Ly cướp được ngôi nhà Trần nhưng phúc ngắn, đức mỏng, chỉ giữ được trong khoảng tám năm (1400-1407), cuối cùng cả hai cha con lẫn triều thần đều bị quân Minh bắt.

Lê Lợi đánh đuổi quân Minh, lập nên triều đại Hậu Lê (Lê Sơ). Triều Hậu Lê làm chủ nhân của Thăng Long chín mươi chín năm (1428-1527), bao gồm mười vị vua. Song tính theo đời thì chỉ có bẩy đời. Đó là một triều đại hiển hách nhưng đầu voi đuôi chuột (các vua càng về sau càng ngắn ngủi, chết non, chính sự càng ngày càng nát). Trong đó có ba vị là Túc Tông, Uy Mục Đế, Tương Dực Đế cùng đời thứ sáu, hai vị cuối cùng là Chiêu Tông và Cung Hoàng cùng đời thứ bẩy. Cả hai vị này (Chiêu Tông và Cung Hoàng) đều bị giết bởi Mạc Đăng Dung. Tại sao trước đó, Lý Công Uẩn (triều Lý), Trần Cảnh (triều Trần) và con cháu của hai vị ấy đều được ngự trên đất này tám đời, mà đến lượt Lê Lợi (triều Lê Sơ) thì con cháu chỉ được hưởng mệnh đế vương đến đời thử bẩy? Giật mình nhớ lại lời nguyền trước khi bị giết ở thành Cổ Lộng của Trần Cảo, vị vua do chính Lê Lợi lập nên và cũng do chính Lê Lợi sai người giết. Có phải con cháu Lê Lợi đã phải trả nợ bớt một đời (đế vương) cho Trần Cảo?


Lại nghe một cuốn gia phả có đưa ra một giả thuyết khác. Rằng Lê Lợi và con cháu không phải đã trả nợ cho Trần Cảo, mà là trả cho Lê Lai, người đã liều mình cứu Chúa (là Lê Lợi). Lê Lai về sau lại bị chính Lê Lợi giết tại chân thành Đông Quan (Thăng Long), đơn giản vì (Lê Lợi) không thể (và không muốn) thực hiện lời hứa chia đôi thiên hạ ngày trước(?). Gia phả ấy còn chép rằng khi giết Lê Lai, chính Lê Lợi đã tự làm giảm mất một đời (là đế vương) của con cháu mình. Nếu vậy thì đời còn thiếu kia của triều Lê Sơ trên long mạch Thăng Long, phải chăng đã được tính vào Lê Lai, kẻ bị giết oan vì (trót) có công lớn (là cứu Chúa) ấy? Tính vào chỗ nào? Lê Lợi có thể quên, các nhà chép sử (thời Lê) có thể quên. Nhưng nhân dân thì không quên điều ấy. Dân gian có câu: "hai mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi" nói về ngày giỗ của hai vị. Dù thế nào đi nữa, thì nếu không có Lê Lai, sẽ không có Lê Lợi. Cho nên Lê Lai phải được hưởng cúng trước, giỗ trước, tương đương với việc xem Lê Lai là... đời trước của Lê Lợi. Nghĩa là long mạch đã tính cho triều Lê Sơ phải bắt đầu từ Lê Lai (rồi mới đến Lê Lợi...). Thế là trước sau vẫn đủ... tám đời. Nếu quả như vậy thì cái long mạch kia xem ra vừa nghiêm khắc, lại vừa... công bằng. Từ đó cũng xin tạm đưa ra sơ đồ sau đối với triều Lê Sơ:


Đời thứ nhất:......................................... Trần Cảo (hoặc Lê Lai)??
Đời thứ hai:............................................ Lê Thái Tổ
Đời thứ ba:............................................. Lê Thái Tông
Đời thứ tư:.............................................. Lê Nhân Tông
Đời thứ năm:.......................................... Lê Thánh Tông
Đời thứ sáu:........................................... Lê HiếnTông
Đời thứ bẩy:.................... Lê Túc Tông - Uy Mục Đế - Tương Dực Đế
Đời thứ tám:............................ Lê Chiêu Tông - Cung Hoàng Đế


Người viết sở dĩ không tính triều Lê Trung Hưng sau này vào đây bởi các vị vua triều Lê Trung Hưng ngự ở Thăng Long thực chất không phải con cháu của chính Lê Lợi, vả lại cũng đã xiêu giạt rất lâu mới trở lại kinh thành, mà thực ra có trở lại thì cũng chỉ làm hư vị (như sau đây sẽ nói) mà thôi.

Mạc Đăng Dung tàn sát con cháu Lê Lợi, cướp cơ nghiệp nhà Lê, lập ra nhà Mạc, chiếm giữ Thăng Long sáu mươi lăm năm (1527-1592), trải năm đời. Nhưng long mạch ghê gớm này không phải nơi mà đức của họ Mạc có thể giữ được lâu dài. Mạc Đăng Dung về xây kinh đô ở Cổ Trai (gọi là Dương Kinh thuộc Hải Dương), tiếng là để làm thanh viện cho Thăng Long, song thực chất là ngại chính cái long mạch ở đó. Mà chẳng riêng gì Mạc Đăng Dung. Đời sau cũng có khối anh hùng từng ngại cái long mạch đó mà phải tìm nơi khác để lập đô. Bản thân con cháu Mạc Đăng Dung, trừ thời Mạc Đăng Doanh huy hoàng nhưng ngắn ngủi (trong khoảng mười năm), còn lại luôn luôn phải chạy giạt ra ngoài, thậm chí nhiều phen phải dựng hành cung ở ngoại thành, không dám vào ở trong nội cung. Triều Mạc rốt cuộc còn xa mới đạt tới cái giới hạn tám đời mà cách đó hơn năm trăm năm, Lý Thái Tổ trước khi dời đô đã xem xét long mạch mà tiên định trước.

Triều Lê Trung Hưng (Lê mạt) kế tiếp nhà Mạc. Song thực ra chỉ có hư vị, Thăng Long nằm trong tay chủ nhân đích thực là các Chúa Trịnh. Nhà Chúa kể từ khi Minh Khang Thái Vương Trịnh Kiểm nổi lên đã có lời "sấm": "phi bá, phi đế, quyền khuynh thiên hạ, truyền được tám đời, trong nhà dấy vạ". Lại đúng tám đời thì nhà Chúa phúc hết, vận tan...

Lịch sử đã đành không thiếu gì những sự trùng hợp lý thú. Song tác động ghê gớm của long mạch là một điều hoàn toàn có thật, từ xưa tới nay, không ai có thể xem thường. Đó chính là mối quan hệ nhân quả giữa quá khứ - hiện tại và tương lai... điều mà chính khoa học đang cố chứng minh và ngày càng tiến gần tới... cổ xưa. Kiến thức về long mạch của người xưa quả đã từng đạt tới những đỉnh cao kì vĩ. Tiếc rằng vì nhiều lí do, kiến thức ấy ngày nay hầu như đã bị thất truyền. Tuy nhiên, những tri thức của tiền nhân dù phong phú, kì bí đến mấy, thì tất cả đều được xây dựng trên một nền tảng là đạo lý làm người. Chỉ hy vọng rằng cái nền tảng ấy đừng bao giờ đổ nát, thì sự thất truyền chẳng qua chỉ là vận hạn, tạm thời. Nếu được như thế thì sẽ đến lúc, những tri thức ấy sẽ trở lại, sẽ tồn tại cùng với muôn đời con cháu chúng ta sau này.

LSB-PhongThienVu
22-04-2007, 23:57
Phong thuỷ có những điều đúng của nó. Ví dụ như Dinh Độc Lập hơn 30 năm này chỉ còn là nhà khách chớ không phải là nơi ở của một vị lãnh tụ nào cả? Có thể là phong thuỷ. Vì Diệm và Thiệu đã từng ở dó.Tuy nhiên Nguyễn Văn Thiệu phúc đức cao nên chỉ bị thương (không phải bởi Nguyễn Thành Trung mà do sự ám sát hụt). Đây là tin đồn từ 30 năm về trước. Sau năm 1975 tình cờ đọc báo cũ nói phong thuỷ Chùa Vĩnh Nghiêm sẽ phất nhưng Việt Nam quốc tự sẽ tàn. Điều này đúng đã xảy ra. Còn thầy địa lý thì không có phúc đức nên không phất.
Tuy nhiên phúc đức là chính. Phong thuỷ là phụ.


Con đường Thống nhất đâm vào dinh Độc Lập như con dao đâm vào tim nên đó không thể là nơi để ở.

Khi Việt nam quốc tự đang sửa soạn đất để xây, có người nói rằng chùa ấy sẽ gặp đại hoạ vì cái đầm đằng sau chùa. Khí theo nước mà đi, do đó, nước không nên ở phía sau nhà mà phải ở trước nhà. Cũng nguyên tắc khí theo nước mà đi, nước tụ ở trên cao đổ xuống, khí cũng tụ trên những đỉnh núi cao, rồi theo đường nước chảy mà đổ xuống. Tới chỗ nào "thắt cổ bồng, sa đít nhện" thì tụ lại thành long mạch. Thầy địa lý giỏi là thầy địa lý thấy được chỗ "thắt cổ bồng, sa đít nhện" này và chấm huyệt. Khí và nước nương nhau mà đi, nước không phải khí, khí không phải nước. Chỗ nào có núi cao chớn chở thì dễ có linh địa, thường phát sinh ra anh hùng, lãnh tụ. Đó là chỗ khó của môn địa lý phong thuỷ.
Ngày xưa Phật cầm ly nước mà nói trong đó có hằng hà sa số chúng sinh, chắc ngày đó cũng có người nói Phật điên, nhưng ngày nay khoa học, với kính hiển vi điện tử đã thấy được có vô số vi trùng trong một ly nước. Có nhiều thế giới, nhiều việc mình chưa thể thấy bằng con mắt trần thì nên dè dặt khi phê phán.



Trường Kiến Trúc

Như các bạn đã thấy thì vị trí cổng trường cũ, khối nhà từ U đến A, B , C đều nằm thẳng hàng với nhau trên cùng một trục, khi để ý đến việc phố Ao Sen đối diện trường KT và một phần cuối của đường Đại An sẽ cùng trục của nhà U, A, B, C của trường KT tạo lên một đường thẳng, các bạn để ý kỹ sẽ thấy, vậy ta có thể thấy rằng về các dòng sát khí thẳng từ phố Ao sen sẽ thẳng vào cổng cũ trường Kiến trúc đâm thẳng vào dãy nhà U, cùng trục đi thẳng ra qua các dãy nhà rồi phía đằng sau nguồng sát Khí cũng từ phần cuối của Phố Đại An cũng đâm thẳng vào trục chính của các khối học, khối hiệu bộ của trường, mà như các bạn biết, nhắc đến trường KT thì dãy nhà U rất quan trọng về Kiến Trúc và cũng là nơi phần lớn các cán bộ chủ chốt đang ngồi ở đó, chính vì thế việc đưa cổng chính từ vị trí cũ sang vị trí mới sẽ làm cho việc các dòng khí dữ sẽ ko trực tiếp ảnh hưởng đến các khối nhà nữa và vị trí cổng mới cho tới cuối cùng là dãy nhà E nơi các văn phòng làm việc người ta đã làm một LoGo như là một việc thay cho đặt một quả cầu thuỷ tinh làm phát tán nguồn khí dữ gây ảnh hưởng xấu đến việc tâm linh cũng như mọi cái bất trắc thường xảy ra cho sv cũng như hiệu trưởng thường gặp trước đây, mà đúng thế thật, 2 năm trở lại đây ko thấy nhiều tình hình phức tạp và rắc rối như xưa nữa, mong là việc vị trí phong thủy của trường ổn định mang lại tâm lý tốt cho sv học tập.

Về nguyên tắc dựng nhà thì mặt hướng thuỷ, lưng tựa sơn mới đúng nhưng đằng này cái mặt sau của trường KT là một cái ao, là một điềm kị.

Thứ nữa, ngày trường cả con đường cửa chính và cửa hậu thẳng với nhau tại thành đường xuyên tâm, lại là một điềm kị thứ hai.

Thứ ba, tác động của vùng khí xấu phải cần có không gian để tạo vùng gió quẩn, và khu vực thích hợp nhất chính là trong trường KT có sự tác động mạnh mẽ của vùng khí xấu. Điều này giải thích GV&SV trong trường chịu tác động mạnh hơn của luật phong thuỷ ở đây.

Thực tế Logo của trường KT được cách điệu từ Chùa Một Cột, rất linh thiêng và đó cũng là lý do mà hiệu trưởng cùng các thày cô giáo đã đặt ở đó làm trấn yểm cho vị trí cuối trường và đặt ở đó đèn chiếu nên buổi tối cũng khá đẹp, nhưng theo thuật phong thuỷ thì việc chấn luồng khí xấu thì thường phải có bình phong nhưng ở đây trường đã dùng Logo một hình tượng cách điệu một ngôi chùa nổi tiếng của Hà Nội.



Trường Thuỷ Lợi

Còn trường Thuỷ Lợi thì mọi người hãy chú ý đến vị trí của Gò Đống Đa và trường TL nằm cách nhau không xa, mà gò Đống Đa khi xưa là nơi chôn lấp của hàng vạn người Tàu xâm lược đó. Trên hình vệ tinh có thấy con đường của quảng trường nơi đặt vị trí tượng hoàng đế Quang Trung có một con đường đâm thẳng vào vị trí trung tâm của trường Thuỷ Lợi, mà nơi trung tâm đó là KTX và phòng hiệu trưởng.

Bố cố sinh viên Vũ Anh Tuấn (người đã bị sát hại tại Nga) chính là giảng viên của ĐHTL (bố VAT mất trước VAT một năm) và nhà ngay sát ĐHTL (nếu chiếu theo cái khoanh vùng như trên thì gia đình VAT là nằm trong đó). Do đó không thể chỉ chắc chắn rằng người dân sống xung quanh không chịu ảnh hưởng của tác động xấu.



Kết luận

Trong luật phong thuỷ nói riêng cũng như Kinh Dịch nói chung thì điềm xấu chỉ có thể xảy ra khi kết hợp của Thiên, Địa và Nhân. Không phải thời điểm nào cũng gây ra tác động và không phải thời điểm nào cũng bị tác động. Bên cạnh đó, những hiện tượng bí hiểm như vậy mà con người chưa có khả năng giải thích thì sự kiêng kị có phương pháp cũng là một liều thuốc bổ ích.

LSB-PhongThienVu
23-04-2007, 00:04
Bên lề về cọc trấn yểm sông Tô Lịch [Phần 1]
Vậy các cọc này là gì?


Là gì thì chưa thể biết rõ ràng được.

Nhưng chắc chắn đây không phải là Thánh Vật như cái tít bài báo trên. Trận Bát Quái Tiên Thiên Đô được sắp xếp để trấn long hãm địa như vậy mà lại dùng đến lối trấn ác độc mức cao nhất của Phong Thủy rõ ràng là hành động tàn ác phi nhân tính,không thể gọi là Thánh Vật được.

Theo như cách trấn long tàn độc này thì trong Huyền Không học có ghi rõ, cần 8 cái trụ để lập trận, chôn sống theo nó là 8 người con trai (tráng nam) khỏe mạnh, 8 người con gái trinh tiết (đồng trinh) và 8 đứa trẻ con (đồng tử) để dùng oán khí cộng hưởng của họ tạo thành bức tường bảo vệ trận. Về cơ bản đây là lối trấn mạnh mẽ nhất và cũng là tàn ác nhất.

Nếu như bài báo ghi là đã trục vớt được 7 cái cọc, tôi nghĩ vẫn còn sót 1 cái. Việc nhổ cọc và làm thoát tà khí-oán khí tích tụ hàng trăm năm khiến người xung quanh bị ảnh hưởng là chuyện dễ hiểu. Nhưng đã chôn cất hài cốt, làm lễ siêu độ rồi mà vẫn còn ảnh hưởng mạnh đến vậy có lẽ không hẳn trong đó chỉ có oan hồn không siêu thoát, hoặc là cách trấn ác độc này gìm giữ không cho các linh hồn siêu thoát, hoặc là trên chúng có diêm thần, diêm tướng chỉ huy nên việc phá trận là rất nguy hiểm với người phá trận.

Việc Thủ tọa Thích Viên Thành muốn hàn lại long mạch và phải hóa, có lẽ một phần do ý của thầy. Tôi vẫn nhớ hồi đó tôi đi theo chân sư phụ dạy Pháp cho tôi là Đại Đức Cổ Vân, theo đoàn của Thầy Thích Thanh Từ của phái Trúc Lâm lên Chùa Hương bởi lúc đó Thầy Thanh Từ và sư Ni Toan (sư Ni tu tại gia nhưng rất giỏi) gặp nhau có xem thiên tượng và tính ra được quẻ đại hung với thầy Thích Viên Thành nên lên Chùa Hương để giúp giải hạn. Thầy Thích Thanh Từ nói rằng sư thầy trụ trì chùa Hương cần lập đàn tràng cầu siêu, thỉnh 100 vị sư giỏi các nơi đến cùng làm lễ trong 49 ngày thì may ra mới giữ được tính mạng. Thầy Thích Viên Thành đã từ chối và nói sống chết có số, không nên vì cái nhục thân của mình mà làm khổ đến người khác phải lao tâm, cái chết cũng chỉ là 1 cách giải thoát để tới thế giới cực lạc. Thầy tự biết mình hết số và cũng không muốn xin kéo dài thêm dương thọ. Vì vậy sau đó thầy Thích Thanh Từ đã về lại Trúc Lâm dẫn 9 đại đệ tử lên núi nhập thất. Một thời gian sau, thầy Thích Viên Thành quả nhiên mất thật, trước lúc hóa, có nói nguyên nhân hóa của mình là vì không đủ sức mà vẫn cố phá giải trận Bát Quái Tiên Thiên Đồ trấn theo lối Thiên Môn ác độc kia.

Tôi thì không rõ nguyên nhân vì học vấn của mình về lý số và phong thủy rất nông cạn, nhưng tôi nhớ sư phụ tôi có lần nói lại rằng, sư phụ của thầy (thầy Thích Thanh Từ) có nói chuyện Thầy Thích Viên Thành mất vì cách thầy muốn hàn lại long mạch là sai, và sức của thầy cũng không đủ để phá trận nhưng vì giữ danh tiếng bản thân (là bậc thầy phong thủy trong chuyện hàn long mạch) nên vẫn cố thực hiện và kết quả dẫn đến vong thân. Khi tự biết hết số lại không muốn phải xuống nước nhờ vả người khác giúp mình nên tự chấp nhận xuôi tay, như vậy chưa dứt được hết trần tục.

Còn quan điểm của riêng tôi là không nên phá trận, bởi trận lập đã nhiều năm oán khí chất chồng giải không hết được. Dòng sông và long mạch cũng đã bé lại thành 1 cái cống thoát nước, dẫu hàn lại thì có được lợi ích bao nhiêu? Giả như 1 đoạn sông khác bị lập trận trấn vào mắt rồng, tạo thành thế Độc Nhãn Long (1 thế trấn ác độc nhằm hủy hoại long mạch) thì khi sống lại, con rồng lại thành tà ác quấy phá có khi lại làm hại hơn.

Thế đất Hà Nội là thế đất trũng, địa tầng địa chất kém, việc trấn sông làm con rồng chết cứng không thể vẫy vùng có thể cũng là 1 cách tốt làm cho đất cứng lại tiện cho xây dựng, nếu phá đi, thế đất sẽ xấu đi và hạ tầng đất sẽ bị lún, sạt lở khi long mạch chuyển động. Như vậy việc xây dựng và phát triển hóa đô thị còn tồi tệ hơn.

Cách giải quyết ổn thỏa ,tạm thời tôi không nghĩ được ra và cũng nhiều người vẫn đau đầu về vấn đề này. Nhưng hy vọng trong thời gian tới, sẽ có người tìm ra được câu trả lời thỏa đáng.

(Sưu tầm)

LSB-PhongThienVu
23-04-2007, 00:10
Bên lề về cọc trấn yểm sông Tô Lịch [Phần 2]
Một câu hỏi lớn không lời đáp? - Nên phá hay nên giữ?



1. Giống như cách chế thuốc giải độc, tốt nhất là biết thành phần độc tố, chế thuốc sẽ dễ dàng và chính xác hơn, tuy nhiên có những độc tố hoàn toàn không có cách giải. Các thầy đều là những vị cao tăng, uyên thâm phong thủy, giống như là dược sư, nhưng chất độc này hoàn toàn không rõ cách trấn thế nào, thành phần độc tố ra sao, nên e là sẽ khó mà giải được.

Còn ai trấn, trấn mục đích gì, theo tôi, chính Cao Biền trấn, trấn nhằn triệt tiêu khí vượng của Đại Việt. Nếu giải trấn chắc chắn sẽ phát khí, nước nhà sẽ hưng vượng. Vì bản chất vượng khí luôn phải là khí tốt, thầy Thích Viên Thành cũng biết điều đó, nên cố gắng tìm cách phá trấn, dù biết hại đến tính mạng. Nếu khí là tà khí thầy chắc chắn sẽ không phá làm gì.

Thời Pháp, Pháp cho lấp sông Tô Lịch, phá huỷ đền thờ đại vương Tô Lịch, chắc trong người Pháp có các thầy địa lí người Tàu, giúp đỡ người Pháp làm việc ấy. Vì long mạch kinh đô bị trấn làm đất nước ta suốt bao đời nay cứ đấu tranh chống ngoại xâm hoài, biết bao giờ khá được, chưa "triều đại" nào của đất nước ta hưng thịnh nổi quá 3 thế kỉ. Theo tôi, đây là cơ hội cực kì thuận tiện để phá thế trấn yểm quá ư tàn độc này, tồn tại ngay ở thủ đô đã hơn nghìn năm nay

2. Trận đồ trấn trên sông Tô Lịch thuộc về huyền cơ cao nhất của phong thủy phái Huyền Không. Cách phá giải trận là tìm ra điểm yếu của trận để phá trận. Người làm được điều này phải là người có kiến thức uyên thâm về Phong thủy am hiểu cả 2 phái Bát trạch và Hình thế.

Những nhà ngoại cảm bạn đề cập trên phần lớn những người có khả năng và tài năng cao nhất đều đã tham dự cuộc họp để làm sáng tỏ vấn đề này và họ cũng đều đã lắc đầu không giải thích được, bởi đơn giản đó không phải là sở trường của họ. Tôi rất khâm phục tài năng của chị Bích Hằng và chính gia đình đã được chị giúp tìm được mộ người thân như một huyền thoại, nhưng trong vấn đề này, tôi nghĩ chị không có khả năng. Thậm chí, nếu cố làm điều ngược với thiên ý thì bản thân chị sẽ mắc họa sát thân như chơi.

Như tôi đã nói trên kia, đầu tiên là việc phá trận không biết đã có ai đủ tài làm việc đó hay chưa, và phá trận rồi thì sẽ mang lại kết quả gì. Theo như sách vở để lại thì Hà Nội được bao bọc trọn trong hệ thống các sông (Hà Nội nghĩa Hán là trong sông), ngọn núi khởi nguồn của long mạch Việt Nam (Tổ Long Sơn) bắt nguồn từ khu vực núi Tản Viên-Ba Vì, như vậy Long Mạch của hệ thống sông Tô Lịch sẽ chạy từ núi Tản Viên dọc theo hình thế đất xuống đến Hà Nội và điểm trấn long huyệt nằm trong lòng con sông Tô Lịch. Do có thế đất trũng và hạ tầng đất yếu, việc xây dựng thành rất khó khăn vì móng không chắc chắn (bác nào học về xây dựng chắc biết vấn đề thoát nước và móng của Hà Nội phức tạp thế nào). Có lẽ do đó để xây dựng, 1 bậc đại tôn sư về dịch lý phong thủy nào đó đã dùng cách lập trận này để ép đất cứng hơn bằng cách trấn long bằng Bát Quái Tiên Thiên Đồ. Làm con rồng không cựa được và bị giam cứng trong đất, như vậy đất sẽ cứng hơn và xây dựng dễ dàng hơn. Nếu như mở lại được long huyệt, tất nhiên long khí sẽ được khai mở,nhưng con rồng bị giam lâu năm chưa chắc đã là vượng khí,thậm chí có khi còn thành tà khí. Nhưng điều quan trọng và nguy hiểm hơn khi mở huyệt sẽ dễ dấn đến động đất khi rồng hồi sinh,chuyển động của nó có thể làm suy chuyển và biến đổi cơ cấu hạ tầng đất,làm giảm độ cứng của nền móng và làm đất đai không vững chãi như trước. Nếu như vậy thì việc xây dựng và phát triển đô thị e rằng khi đó còn khó khăn hơn.

Trận đồ Bát quái hiện tại có lẽ không giải được vì đồ hình chi tiết và các yếu quyết của nó hiện nay đã thất truyền, nó cũng tương tự như thạch trận Khổng Minh dùng đá xếp để cầm chân quân Ngô trong Tam Quốc vậy. Việc hóa giải vô cùng phức tạp bởi không ai còn biết chính xác vị trí các phương vị và xắp xếp quẻ trong trận này, nếu như giải nhầm hướng sinh 1 bước mà lỡ chân đi vào hướng cửa Tử hay Họa Hại thì khó mà bình yên trở về. Việc này các nhà ngoại cảm không thể làm được,bởi các tà khí do các xác chết tụ hợp thành đã làm cho họ không thể có khả năng liên lạc được với cõi âm. Nơi nào mà la bàn phong thủy không thể xác định được vị trí phương hướng và điểm trung cung (rất hiếm) thì nơi đó là nơi được gọi là nơi không thuộc trời, cũng không thuộc đất.

Để giải quyết vấn đề này, có lẽ cách thích hợp nhất là làm 1 cuộc họp mặt các nhà phong thủy danh tiếng các nơi cùng ngồi bàn nhau tìm cách phá trận hoặc tìm cách giải quyết. Biết đâu ai đó còn giữ lại được đồ hình chi tiết của trận pháp huyền thoại Bát Quái Tiên Thiên đồ, hay trong Huyền Không học còn gọi là Bát Quái Thiên Môn trận.

(Sưu tầm)

LSB-PhongThienVu
23-04-2007, 12:25
Nếu nhánh Thanh Long được khơi lại thì Việt Nam sẽ phát triển như thế nào?

Phải kết hợp thành 1 bố cục phong thủy tài vượng để khai thông hết các vượng khí của nhánh Thanh Long, Bạch Hổ với 2 nhánh Chu Tước và Huyền Vũ. Để tính toán bố cục và vị trí chuẩn xác hơn thì còn phải tìm được vị trí hai nhánh con của nó là Câu Trận và Đằng Xà nữa.

Việc Việt Nam phát triển như thế nào, còn phải tùy vào vượng khí nhiều hay ít và cách xắp xếp ảo diệu đến đâu.



Tại sao các sư tăng lại có khả năng huyền diệu này (tức khả năng nhận ra "tà khí")?

Vì Phật Pháp tu luyện theo phái Mật Tông có những khả năng siêu phàm thoát tục khó có thể nói được. Đạo gia hay Đạo sĩ phái Huyền Không thì dùng trận phá trận,dùng trí đấu trí,dùng máu đổi máu. Nhà Phật lại chủ trương dùng 1 chư Tâm, dùng lòng từ bi hỉ xả để phổ độ chúng sinh,giải thoát nghiệp chướng.

Thông thường để trừ tà một cách bình thường, nhà Phật dùng chủ yếu là Kinh Kim Cương, phẩm Phục Ma, còn gọi là kinh Kim Cương Phục Ma-tâm pháp để trấn trạch,trừ tà,đuổi ác và song song dùng kinh A di đà siêu độ các vong linh. Nhưng tác dụng còn phụ thuộc vào mức độ tà khí và đạo hạnh của người lập đàn tràng. Nhiều vị cao tăng ngoài kinh pháp ra còn nghiên cứu và tinh thông phong thủy, lý số thì sẽ kết hợp các yếu tố trên để sử dụng.

Trường hợp của sông Tô Lịch, thực sự rất khó giải thích, chỉ có thể đoán là lực lượng đó quá mạnh và đạo hạnh người giải trấn là không đủ, thậm chí vong thân như sư thầy Thích Viên Thành. Người được như vậy hiện tại rất hiếm nên cách có thể khả thi được, đó là nghiên cứu tinh yếu của trận để phá trận.



Tại sao khi thượng tọa Thích Viên Thành phá trận lại bị họa sát thân?

Về các đạo nói chung, thực ra đều không có ranh giới, cũng như võ thuật không có môn phái nào là mạnh nhất và hoàn thiện nhất bởi mỗi môn có điểm mạnh và yếu riêng. Ta chỉ có thể nhận xét trình độ học về đạo của họ thôi. Ở đây tôi không chắc lắm về nguyên nhân, xong tôi thấy như thầy Thích Thanh Từ(Viện trưởng thiền viện Trúc Lâm) nói thì cách làm của thầy Thích Viên Thành hàn long mạch là không đúng. Bởi thầy dùng tấm lòng từ bi hỷ xả của nhà Phật (thầy tu theo mật tông và đã đạt đến trình độ thiên nhãn/nhĩ thông nên ở trên tôi nói đến khả năng của phái mật tông) , thầy cũng chấp nhận hy sinh cả bản thân mình để hóa giải oán khí. Nhưng sai lầm của thầy là oán khí quá nặng không thể giải mà lại ám vào mình, sau đó lại không muốn lập đàn tràng cầu xin dương thọ hưởng thêm 1 giáp nên kết quả là 1 tháng sau đó - thầy viên tịch.

Cách của thầy tứ phủ tôi không biết lắm, ở nhà cũng có sách vở nhưng toàn chữ Hán Nôm tôi không không đọc được, nhưng có lẽ cách của thầy tứ phủ không phải là siêu độ mà là làm triệt tiêu bớt oán khí, và cũng đã giữ ở mức độ vừa phải không để xâm hại đến mạng mình. Nên làm được công trình nhưng sau vẫn có chuyện xảy ra với mọi người và bản thân thầy cũng điêu đứng.

Tất cả những điều này tôi nói bằng suy đoán đơn phương của mình thôi.
Để giải được thế trận này thực tế không phải là không thể làm được.Vấn đề là phải tìm sao cho ra đồ hình và cách bố trận,trấn yểm chi tiết của trận đồ để tìm các phương vị trọng yếu của nó để phá hủy. Nôm na cách phá trận Thiên Môn của Bát Quái Tiên Thiên đồ cũng giống như cách bắt cua vậy, muốn con cua hết cựa quậy thì hãy tìm cách bẻ từ từ hết càng và các chân của nó, đến khi gãy hết càng hết chân thì dù để im nó cũng chỉ là vô dụng thôi và sự nguy hiểm của nó đã được phá bỏ. Vấn đề là đồ hình này đã bị thất truyền từ rất lâu, hiện ngay ở bên Trung Quốc cũng không còn gì ngoài những huyền thoại được tương truyền. Nếu như có được trong tay tấm đồ hình chi tiết này, chuyện phá giải trận pháp sẽ có 1 lối đi sáng sủa hơn rất nhiều.


Trận Bát Quái tiên thiên đồ có 8 cọc vậy một cọc nữa nằm ở đâu? Kinh Dịch ở đâu mà ra?

Trận Bát Quái không thể thiếu một phương vị, một đại tông sư cỡ Cao Biền cũng không thể đọc nhầm sách vở mà lập trận Bát Quái bằng ... 7 cái cọc được. Trong Phong thủy nếu lập trận sai thì sẽ không có tác dụng hoặc là không nằm trong tầm kiểm soát của mình. (Như vậy theo phỏng đoán là lận Bát Quái, nhưng thiếu mất một cọc. Có thể là do trong quá trình xây dựng bị bật gốc hay lâu ngày cọc bị bật tui (rongchaua) nghĩ vậy.)

8 cái cọc được dựng theo hình thế sau đây,mỗi cọc là 1 quẻ trong bát quái,trong 8 quẻ chia ra cửu cung và 64 quẻ nhỏ,trong 64 quẻ có chia ra các phương vị và sơn hướng từ điểm trung cung.

Cách chia cụ thể như thế nào thì hiện tại không còn tư liệu nào ghi chép cả. Chỉ còn lý thuyết ghi lại chung chung đại khái vậy thôi. Người phá được trận Bát Quái chắc chỉ là người thời xưa, khi mà đồ hình chi tiết chưa thất lạc. Người phá được thế trận này, theo tôi nghĩ lịch sử nước nhà có Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Còn chuyện bàn về Kinh Dịch ai nghĩ ra là chuyện cách đây khá lâu ,tầm 2 năm trước, hồi đó tôi thấy nhiều người cũng hùng hổ tranh cãi,xong kết luận lại,có là của ai thì cũng chỉ đến thế mà thôi. Điều quan trọng là hiện tại chúng ta đã gìn giữ và áp dụng nó như thế nào,có hiệu quả không chứ không phải là nhìn vào quá khứ và tự hào về mình. Mà thực tế đáng buồn là hiện tại di sản văn hóa này đang dần càng mai một,sách vở bậy bạ tràn lan mỗi người mỗi nhà viết 1 kiểu không biết thật giả thế nào nữa...


(Sưu tầm)

LSB-PhongThienVu
23-04-2007, 12:27
Chuyện tâm linh là có thật và không thể bàn cãi, chẳng qua dư luận cũng như những ai quan tâm muốn một câu giải thích chi tiết hơn, xác đáng hơn.

Thiết nghĩ bởi vì đây là một sự kiện mang tính lịch sử, chưa thể lý giải. Tôi đã hỏi một người - trưởng ban ngoại cảm Việt Nam. Và câu trả lời là Đó là thuộc về phạm trù lịch sử, nếu nói ra thì ta cũng không hiểu.

Vì đó là giao của 3 con sông, và là 1 trấn ải quan trọng của Đại La từ thời xưa. Như ta đã biết, những địa danh mang tính chất lịch sử và hào hùng như vậy, xưa kia biết bao con người đã đổ máu và hi sinh tại nơi đây, cần phải đc trân trọng và Nhà nước nên ghi nhận di tích và tu tạo. Tiếc thay, biết bao nhà lãnh đạo của Hà Nội lên nắm quyền đều không làm đc điều này, mặt khác họ lại còn san lấp để lấy đất cho dân ở... Di tích đã dần dần bị mai một và mất đi.

Và cái đền thờ ở đó thực chất là đã bị di dời.

Trong 3 nhánh sông hoà làm 1 đó, 1 nhánh tựa như Rồng bơi, 2 nhánh còn lại tựa như Hổ phục. Và chúng ta đã phá vỡ nó, lại không tôn thờ theo đúng nghĩa. Thiết nghĩ đó cũng là sự trừng phạt của thế giới bên kia, bởi nếu không xảy ra những chuyện thương tâm xung quanh những người liên đới tới công trình thì làm sao chúng ta lại phải nghiên cứu lại về di tích này và hiểu rõ giá trị của nó. Và nếu không có những chuyện như vậy liệu chúng ta có biết đc điều này không, và một di tích như vậy sẽ bị lãng quên theo thời gian không? Tôi nghĩ sự việc xảy ra như vậy cốt là để giữ lại di tích lịch sử và mong chúng ta phục hồi lại nó đúng như giá trị thật của nó.

Đó là những gì bề nổi chúng ta thấy, còn lại thì chuyện tâm linh khó lý giải...
Những con người trần mắt thịt chúng ta không có khả năng hiểu được điều đó, chỉ chờ thời gian khi có những bậc cao nhân, cao tay nghiên cứu và cho chúng ta biết mà thôi.

LSB-PhongThienVu
23-04-2007, 22:59
Bí ẩn ngôi nhà chôn nhiều hài cốt

Từ đầu tháng 3-2007 đến nay, trong khoảng 150m² nền nhà của bà Phạm Thị Rược ở thôn Thạnh Nghĩa, thị trấn Thạnh Mỹ (huyện Đơn Dương - Lâm Đồng), đã phát hiện và đào bới được hơn 20 bộ hài cốt.

Từ khung xương người chết và những vật dụng chôn theo như đạn, áo ngực phụ nữ, áo đầm, mắt kính... gia đình bà Rược tin rằng đây là hài cốt của người Pháp. Ngoài số hài cốt đã đào bới được, khả năng còn rất nhiều bộ hài cốt nữa. Đây là phát hiện gắn với một câu chuyện ly kỳ hơn 60 năm qua...


Căn nhà bà Rược từng là mồ chôn tập thể của hơn 20 người Pháp?

Chuyện khó tin qua lời kể của các "nạn nhân"

Nhà bà Rược ở ngay Quốc lộ 27B. Năm 1958, vợ chồng bà đến đây mua lại mảnh đất này làm nhà sinh sống. Lần lượt sau đó 10 người con ra đời. Ba thế hệ sống trong ngôi nhà này luôn có cảm giác lành lạnh, nhờn nhợn, phảng phất âm khí. Con cháu và những người thân của bà Rược từ Đồng Nai, Hải Dương... đến ở nhờ trong nhà đều nói rằng nhà này có ma. Những người đó sau này đều ăn nên làm ra, cuộc sống sung túc.

Trong khi đó, nhà bà Rược ngày một sa sút, tính toán làm ăn gì cũng thất bại. Chị Vũ Thị Kim Tháp (SN 1975) khá xinh đẹp nhưng thường xuyên ốm đau. 32 tuổi, cũng chừng ấy lần chị phải đi bệnh viện chữa đủ thứ chứng bệnh. Khi thì uể oải, tím tái như người đau gan, khi thì quặn như đau ruột thừa... lần nào chị cũng phải gấp rút đến bệnh viện điều trị. Nhưng rốt cuộc bác sĩ không chẩn đoán được chị bị bệnh gì. Mấy năm gần đây, đường tình duyên của chị có phần lận đận. Đã vài ba lần dợm bước lên xe hoa nhưng đều không thành.

Vào năm 2001, gia đình bà Rược đã đào dưới nền nhà một bộ hài cốt còn cả quai hàm và bộ râu quăn. Gia đình họ đã xây cất cho bộ hài cốt này một ngôi mộ khá khang trang tại nghĩa trang Thạnh Nghĩa. Hai năm sau, năm 2003, ông Năng bị bệnh mất. Nhiều đêm mẹ con bà Rược mất ngủ vì mơ hồ nghe thấy những âm thanh đập phá vào những vật dụng bằng gỗ trong nhà nghe rõ mồn một.

Từ chỗ sợ hãi, chị Tháp dạn dĩ hẳn lên. Bị mất ngủ, chị thức dậy bật điện la lối, một lúc sau những âm thanh đó mới chịu im. Khoảng đầu tháng 3-2007, chị Tháp đang ngủ chợt nghe tiếng người gọi chị dậy, chỉ chỗ và nói chị đào họ lên. Hố này có 5 - 7 xác người nằm chồng chất lên nhau. Nhiều hố, huyệt ở 4 góc - ước độ chu vi một chiếc quan tài, có 4 cái đinh to bẻ quặp xuống như đóng nắp quan tài. Có khi một chỗ là cả vốc 4 - 5 cái đinh gãy.

Khi mọi người đào lên, phát hiện một hài cốt có mái tóc dài. Trong bộ hài cốt đó có một chiếc áo ngực còn nguyên hình dáng được làm bằng chất liệu cotton đặc biệt, bên trong lót lớp lưới! Trước đó, chị Tháp nằm mơ thấy một đôi thanh niên nam nữ đi chơi ở bên một hồ nước. Cô gái da trắng, tóc vàng, tay cầm đôi dép khỏa nước. Ít bữa sau, một đêm chị Tháp đang ngủ thì mơ thấy một đôi nam nữ chỉ chỗ góc cầu thang nhà chị.


Chị Tháp và nắp hộp sữa hiệu Guigo tìm được cạnh một hài cốt

Quả nhiên, khi đào lên, thấy hài cốt của một cặp nam nữ nằm cạnh nhau, phía dưới toàn nước khiến anh em chị Tháp vừa đào vừa phải múc nước. Có chuyện lạ kỳ nữa là có lần vào nửa đêm, các con bà Rược đào bới mãi, khoét hầm hàm ếch mà vẫn chẳng thấy hài cốt như chị Tháp chỉ nên bắt đầu thấy nản. Lần lượt từng người leo lên khỏi miệng hầm không đào nữa, chỉ còn lại một mình anh Tịnh - con rể bà Rược.

Thấy vậy, anh Tịnh cũng vứt cuốc xẻng leo lên rồi qua nhà người em vợ liền vách ngồi hút thuốc lá. Bất ngờ, chiếc hầm đó đổ sập xuống. Sợ quá, mấy anh em họ chăng điện thắp sáng, tiếp tục đào thì phát hiện 3 bộ hài cốt. Mùa lễ Phục sinh (tháng tư vừa qua) nửa đêm, gia đình bà Rược thường bị đánh thức dậy bởi những tiếng đập bàn, đập tủ trong nhà. Dù mọi người thức dậy hẳn, nhưng phải lâu sau đó tiếng đập này mới chịu ngưng.

Hơn 40 ngày nay, gia đình chị Tháp tạm gác hết mọi công việc đồng áng, bán hàng (nhà chị bán cửa hàng tạp hóa), đóng cửa lại, mấy mẹ con chị tập trung, kiên tâm vào việc đào bới, tìm hài cốt còn sót dưới nền nhà với ý nguyện đưa họ lên, mang ra nghĩa trang chôn cất tử tế, gia đình cũng được yên. Trong nhà họ, hơn chục hầm hố được đào bới trông như một góc bãi vàng. Đến nay, họ đã đào được tổng cộng trên 20 bộ hài cốt, đem chôn thành 16 nấm mộ ở nghĩa trang Thạnh Nghĩa và vẫn đang tiếp tục đào bới, tìm kiếm...



Cần một kết luận khoa học

Chúng tôi được bà Rôda Nai Chuông (65 tuổi), người dân tộc K,Ho ở đây cho biết: bà sinh năm 1942, sống ở đây từ bé. Khi bà độ chừng 4 - 5 tuổi, thường được ông cậu của mình (sau đó là già làng ở đây) kể rằng có một đoàn người Pháp ăn tiệc trưa trong một vườn cây rất đẹp nằm ở phía bên kia đường (con đường này khi đó là đường mòn), sau đó bị ngộ độc, được chuyển đến trạm y tế của người Pháp (cách nhà bà Rược bây giờ chừng 500m) để sơ cứu, nhưng hầu hết đã chết.



Nền nhà bà Rược bị đào bới để tìm hài cốt

Theo tìm hiểu của chúng tôi, thị trấn Thạnh Mỹ này xưa có tên là thôn M,Lon - trung tâm quận Đran cách Đà Lạt một quả núi. Giữa đỉnh núi có một suối nước rất đẹp còn gọi là suối Lauria hay hồ Tiên. Thay vì đi theo đường vòng qua núi, người Pháp tính “thiết kế” một con đường băng qua đỉnh núi và đặt một đồn lính ở ngay gần hồ Tiên.

Thôn M,Lon khi đó chỉ toàn là người dân tộc ít người, thời điểm này (trước năm 1945) có thêm người Pháp sinh sống. Trong số các huyệt - hố đào lên, có cả đạn của Pháp. Chiếc áo ngực “bền” cỡ đó chắc chắn phải là phụ nữ châu Âu thời đó dùng, chứ đồng bào dân tộc làm sao có. Nắp hộp sữa hiệu Guigo bằng nhôm vẫn còn sáng loáng. Đây là loại sữa chỉ có giới tư sản thời đó dùng. Mắt kính tuy chỉ còn gọng, nhưng cũng nói lên chủ nhân của nó phải là giới thượng lưu. Gia đình bà Rược theo đạo Thiên Chúa. Họ làm việc này dựa trên tâm linh, tình cảm của con người với con người. Bà Rược bảo rằng “chúng tôi chẳng tin chuyện ma quái, cứ coi như làm phước đưa họ đi, xây mồ mả cho họ yên nghỉ”. Gia đình bà Rược chỉ thuộc diện đủ ăn, vậy mà lâu nay họ đã phải bỏ ra nhiều công sức để đào bới. Có đồng nào, họ lại dành dụm, gom góp mua áo quan, thuê xe đưa hơn 20 người xấu số đến nghĩa trang chôn cất.

Đường từ nhà bà Rược đến nghĩa trang gần một cây số, sợ nhầm, sót xương của người đã khuất, họ xúc hết đất trong các huyệt - hố lên bỏ vào hàng mấy chục bao tải chở lên theo. Nhìn các anh Thông, Diệm, Tịnh... đào bới một cách cẩn thận, say sưa, thỉnh thoảng họ lại thắp hương cầu nguyện, nói chuyện với người đã khuất, xin họ mau chóng hiện ra bỗng thấy thương đến lạ.

Các anh kể rằng, khổ nỗi là cứ phải đào đêm mới linh, mới dễ thấy hài cốt. Nhiều người được thuê đến đào bới đã lần lượt bỏ đi hết, trả tiền nhiều họ cũng không dám làm. Vậy nên, hàng bao đêm nay mẹ con bà Rược phải dùng đèn điện, nấu thêm bữa ăn đêm để tiếp tục công việc đào bới. Chị Tháp nói rằng, cứ sau một lần tìm được một bộ hài cốt, chị thấy người mình như nhẹ hẳn ra, cuộc sống gia đình cũng dễ chịu hơn.

Từ chỗ sợ hãi, nhờn nhợn, họ dần thấy quen thuộc. Mặc ai đàm tiếu, nghi ngờ, mẹ con bà Rược vẫn âm thầm miệt mài đào bới, cầu mong tìm kiếm được hết hài cốt để đưa đi một lượt. Sở dĩ chúng tôi biết câu chuyện này là nhờ anh Phạm Thành Trung - Tổng Giám đốc Công ty DRI (tập đoàn Accor của Pháp chuyên quản lý khách sạn 4 - 5 sao trên thế giới) - nhà điều hành, quản lý KS Palace, Novotel, sân golf Đà Lạt và Novotel Phan Thiết. Anh Trung đã lớn lên ở đất Đơn Dương, anh đã giúp gia đình bà Rược một số tiền nhỏ để họ làm công việc này. Có cách nào đó để những hài cốt người Pháp này được trở về cố quốc, mồ yên mả đẹp, đó là ý nguyện của mẹ con bà Rược.

Tuy nhiên, việc làm rõ gốc gác những bộ hài cốt nghi là của người Pháp này, chắc chắn phải cần đến những nhà nghiên cứu và cơ quan chức năng. Tất cả phán đoán của người dân được phản ánh trong bài viết này đang cần một kết luận thuyết phục hơn từ những bằng chứng lịch sử và khoa học. Có như vậy mới xóa được những tin đồn hoặc hành vi lợi dụng mê tín dị đoan làm ảnh hưởng đến ANTT tại địa phương xảy ra việc này.

LSB-PhongThienVu
23-04-2007, 23:21
Vài Nét Về Địa Mạch Hà Tây.


Trong bài HUYỀN THUẬT VÀ KHOA HỌC, người viết có nhắc đến việc Long mạch của dãy núi Chùa thầy - Hà tây bị cắt đứt và hậu quả của nó. Ngày hôm nay nhận được một bài viết của một Cao nhân ẩn danh, nhờ người viết gửi đến để các bạn tham khảo thêm về vấn đề này. Xin trân trọng cảm ơn Cao nhân họ PHẠM. Toàn bộ bài viết nguyên văn như sau :

Theo ngược dòng con sông Đáy từ cầu Mai Lĩnh đến dãy núi chùa Thầy có vài dãy núi đất có, đá có, mà địa mạch chạy ngược so với dòng sông, tạo nên một vùng bán sơn địa với nhiều danh lam,thắng cảnh nổi tiếng, đẹp đến nỗi tốn biết bao bút mực của các danh sĩ từ xưa đến nay. Riêng về Phong thủy cũng có rất nhiều người qua vùng đất này để tham quan, chiêm nghiệm vì nơi đây nghe đồn là vùng đất Địa linh có nhiều Huyệt quý như Sài sơn (Chùa Thầy) có Huyệt Đế vương, núi Phượng hoàng cũng có Huyệt Đế vương chắc là xuất phát từ cuốn "CAO BIỀN ĐỊA LÝ TẤU THƯ ". Khi mà các tin đồn này lan truyền trong dân gian thông qua truyền miệng từ đời này qua đời khác khiến cho dân chúng và các nhà chức trách Địa phương ra sức bảo vệ một phần di sản quý báu vừa vô hình, vừa hữu hình và họ hy vọng biết đâu đó sẽ có những ông Vua, ông Quan sinh ra từ đất này. Dãy núi đầu tiên từ chùa Hỏa tinh sang chùa Linh đến giáp dẫy núi đá Trầm. Dẫy núi này rất đặc biệt về đặc điểm Địa chất vì có nhiều loại Khoáng sản, thậm chí có cả than. Dãy tiếp theo là dãy núi đá Trầm và nơi đây ăn thông sang dãy núi đá có chùa Vô vi. Mạch đá núi Trầm tàng Phong tụ Thủy, kết Huyệt, Minh đường rộng rãi có dãy núi đất trước mặt làm án, sơn thủy hữu tình, cách đó không xa chùa Vô vi nằm trên một ngọn núi đá đơn độc với những điểm Kiến trúc mang đậm màu sắc Đạo giáo. Nhớ lại khi trước, lúc tôi còn là học sinh, sinh viên. Bạn bè thường rủ nhau đạp xe đi tham quan chùa Trầm Vô vi, cảm giác của tôi lúc đó như lạc vào thế giới Thần tiên, thì giờ đây lại thấy có phần tiêu điều xác sơ.

Những ngôi Chùa không chuông, không mõ, chỉ thỉnh thoảng mới có một ít khách Du lịch ghé qua, phải chăng Linh khí đã hết, Thần Phật bỏ đi rồi chăng?

Cách núi Trầm không xa, một dãy núi khác chạy từ Quốc lộ số 6 (Đường Hà Nội - Hòa Bình), chạy một đọan hơn 10 cây đến tận xã Đồng lư.

Trên đỉnh của ngọn núi Đồng lư có một ngôi chùa, hiện nay cũng đã bị tàn phá, chỉ còn dấu tích, phải nói rằng trên dãy núi này có khá nhiều chùa chiền nổi tiếng, ví như chùa Trăm gian, tọa lạc trên một thế đất Hữu Long vô Hổ. Đi tiếp ngược lên trên là dãy núi đá có hình con quái long mà đầu là núi Thầy, đuôi là động Hoàng xá. Các đốt của Long mạch này đều có Long hộ vệ, nói cách khác là có những mạch đất gặp mạch đá thì kết Huyệt và trên các Huyệt này đều có dựng chùa ở trên như chùa Long đẩu ở đốt thứ hai, chùa Hoa pháp ở đốt thứ ba. Đầu của con Long đá bao bọc lấy Huyệt nơi chùa Thầy tọa lạc, lấy đốt thứ hai làm án Long trì trước mặt làm Minh đường, nhưng thế đất đó cũng chỉ là hữu Hổ vô Long. Đốt thứ tư là núi Phượng hoàng có hình dáng giống như một con đại bàng đang xà xuống, theo sách CAO BIỀN ĐỊA LÝ TẤU THƯ thì đây cũng là một thế đất phát Đế vương. Phần đuôi của Long mạch là động Hoàng xá, núi này tương đối đẹp, bốn phía đều tàng phong tụ thủy, tuy nhiên chỉ có phía mặt chính là hình thể toàn diện nhất, Long Hổ đầy đủ ôm lấy Minh đường là hồ tự nhiên, phía xa trước mặt là sông Đáy chảy qua, lấy làng làm án. Thế đất này trong sách của Cao vương mô tả và kết luận là thế đất phát Công khanh. Quả thực là quái Long này có nhiều Huyệt kết, nhưng không đẹp và kết to như sách của Cao vương, hơn nữa hiện nay, linh khí của mạch đá đã cạn, thứ nhất do thời gian, thứ hai Long mạch bị cắt đứt ở nhiều nơi, nên các Huyệt khí còn lại rất yếu. Theo kiến thức về Phong thủy bao gồm hai khí Thiên khí và Địa khí, khi có chủ nhân thì thêm Nhân khí nữa. Thiên khí là khí mà Loan đầu của Huyệt như một cái antena thu. Địa khí là khí lưu chuyển qua địa mạch đến Huyệt. Nhân khí bao gồm một loạt các vấn đề như tri thức, phúc đức dòng họ, v.v… Nhìn chung những phần Địa mạch đã mô tả ở trên đã bị tàn phá nhiều, phần gây ra do chủ ý, phần gây ra do vô tình, quả thực đáng tiếc. Tuy nhiên phần Loan đầu của một số Huyệt lớn vẫn còn và nó có chức năng như một antena thu Thiên khí cho cả một vùng, vả lại những thế Huyệt này cũng là những nơi danh lam thắng cảnh đáng kể cho Nhà nước và nhân dân địa phương, bởi vậy Nhà nước và nhân dân địa phương bảo vệ và giữ gìn. Giống như các vùng bán sơn địa khác ở miền Bắc, nơi thường kết Huyệt lớn, sinh ra nhiều anh hùng, hào kiệt, nhưng sự khác biệt ở đây có lẽ về số lượng Huyệt kết và phong cảnh Thiên nhiên đa dạng, phong phú, đẹp say lòng người.

LSB-PhongThienVu
24-04-2007, 23:39
Sự hồi sinh của một vùng đất bị trấn yểm


Thời gian vừa qua, tôi có dịp đi khắp các vùng của Tổ Quốc. Đất nước ta thật là đẹp, nhìn theo cảnh vật hay theo con mắt của một Phong thủy sư cũng vậy. Trên đường Thiên lý, tôi gặp nhiều chuyện lạ về Phong thủy, xin từ từ kể lại cho các bạn thưởng thức về Non sông - Đất nước của mình.

Tôi xin kể cho các bạn về một vùng quê bị sự Trấn yểm của Cao biền gần 1.000 năm qua, nay nhờ vận trời thay đổi và Hữu duyên phá được sự Trấn yểm nên hồi sinh cực kỳ mạnh mẽ. Đó là khu vực của làng Liên lý - Xã PHÙ LỖ - HUYÊN SÓC SƠN - HÀ NỘI. Trong bài viết này, tôi sử dụng những tư liệu của các vị bô lão Địa phương truyền lại và một số tấm hình chụp trong qua trình đi khảo sát của mình, một số tư liệu nhặt nhạnh qua sách vở đây đó.


1. Vị trí địa lý:

Cách Hà nội hơn ba chục Km về phía Tây Bắc, nếu bạn đi theo đường qua cầu Thăng Long hay qua cầu Đuống đều có thể được. Khi đi theo đường cầu Thăng long, gần đến sân bay nội bài, nơi ngã tư, một đường đi Vĩnh phúc, rẽ bên tay phải bạn đi khoảng 7 Km nữa là bạn đã đến địa phận của khu vực của làng Liên lý - Xã PHÙ LỖ - HUYÊN SÓC SƠN - HÀ NỘI. Đây là con đường nằm ngang, cắt hai con đường đi Phú thọ và Thái nguyên. Nhân dân ở nơi đây vẫn còn xã này bằng hai từ nhiều khi lẫn lộn theo âm điệu bản xứ: PHỦ LỖ HAY PHÙ LỖ. Theo thiển ý của riêng tôi thì tên gọi là PHÙ LỖ mới có ý nghĩa từ xa xưa. Phù là Bùa, Lỗ là Lỗ ban chăng??? Ngay tên gọi có nói gì đến hiện tượng vùng này bị Cao biền Trấn yểm hơn một ngàn năm qua chăng???.

Trong bài viết này, luận điểm hoàn toàn là suy luận riêng của tôi, chưa thể có ý nghĩa quyết định đúng hay sai.

Nếu đi theo đường qua cầu Thăng Long, tiếp tục đi các bạn sẽ trở về với cầu Việt trì, Ngã ba sông Bạch Hạc, khu di tích ĐỀN HÙNG, và xa hơn chút nữa là dãy núi Tam Đảo vô cùng thơ mộng. Nếu bạn đi theo đường Bắc Ninh qua cầu Đuống, sau khi đi qua đường rẽ vào Phù Lỗ, bạn cứ thẳng đường đi tiếp theo hướng đi Thái nguyên khoảng hai chục Km nữa là bạn đến khu vực núi SÓC SƠN, có ĐỀN GIÓNG tọa lạc. Nơi đây dãy núi SÓC SƠN ẩn dưới mây mờ và chính là nơi mà theo truyền thuyết Thánh Gióng sau khi đánh tan giặc Ân đã bay lên Trời.

Như vậy địa phận của làng Liên Lý - Xã PHÙ LỖ - HUYÊN SÓC SƠN - HÀ NỘI nói riêng và cả khu vực Phù Lỗ nói chung có địa hình rất đẹp xét về mặt Phong Thủy. Phía trước trung Minh đường có sông Cà Lồ, uốn khúc liên tục, ẩn hiện sau những bãi lúa, nương dâu. Dòng sông không hề chẩy xiết mà như lưu luyến ôm lấy cuộc đất này. Chỗ đi qua con đường từ phía cầu Đuống lên có một cây cầu nhỏ và phía bên bờ ngay cạnh cầu là một đền thờ dân địa phương quen gọi là đền thờ Ba Voi vì có ba con Voi xếp hàng ở trước sân. Theo một số cụ bô lão ở địa phương cho biết, đây chính là đền thờ Trương Hống, Trương Hách, Trương Lừng, Trương Lẫy là những vị danh tướng chống quân Đường dưới thời Cao biền làm Tiết độ sứ. Ngày xưa, khu vực này là rừng rậm (Người ta còn đào được nhiều thân cây to trong qua trình làm thủy lợi). Các vị danh Tướng trên, sau khi đánh trận thất bại đã tử tiết tại bờ sông Cà Lồ, sau này nhân dân địa phương lập đền thờ tại đó.

Ngoại Minh đường của khu vực này chính là sông Hồng, ở phía vòng ngoài. Khu vực này có Huyền Vũ là hai dẫy núi hùng vĩ Sóc Sơn và Tam Đảo bao bọc, như chở che ngàn đời. Sông Cà Lồ cũng chính là dòng sông bắt nguồn từ dẫy núi Tam Đảo hùng vĩ, từ từ chẩy về xuôi.


2. Khảo cứu huyền sử:

Để tìm lại và xác minh những điều các bô lão trong vùng truyền tụng lại, tôi chỉ tìm thấy những tài liệu sau đây:

Trong cuốn VIỆT ĐIỆN U LINH TẬP của LÝ TẾ XUYÊN hồi đầu thế kỷ 14 có bài: KHƯỚC ĐỊCH THIÊN HỰU, TRỢ THUẬN ĐẠI VƯƠNG, UY ĐỊCH DŨNG CẢM, HIỂN THÁNH ĐẠI VƯƠNG như sau :

"Theo sử ký của Đỗ Thiện: Hai Vương là hai anh em một nhà. Xưa Vua Ngô Nam Tấn (951- 965) đi đánh Lý Huy ở Long châu, đóng quân tại cửa sông Phù lan, đêm mộng thấy hai người tướng mạo khôi ngô, ăn mặc lịch sự, đến trước tâu rằng: Bọn giặc cậy sức làm càn đã lâu, chúng tôi xin giúp đức Vua đi đánh. Vua nói: Các ngươi là ai? Đã có lòng giúp nên cho ta biết họ tên. Hai Vương tâu rằng: Chúng tôi là hai anh em, người ở Phù Lan, họ Trương, anh tên Hống, em tên Hát, cùng làm tướng cho Vua Triệu Việt Vương. Sau Triệu Việt Vương bị Lý Nam Đế (Phật Tử) đánh úp, cướp ngôi. Nam Đế cho người đem lễ mời chúng tôi ra làm quan. Chúng tôi nói: Kẻ trung thần không thờ hai Vua, cũng như người Liệt nữ không lấy hai chồng, huống chi đã bội nghĩa lại muốn khuất phục những người không đổi tiết tháo sao được. Chúng tôi nói rồi, cùng vào ẩn trong núi Phù long, Nam Đế triệu mãi không được, tức giận thuê người lùng bắt, biết rằng khó thoát, chúng tôi cùng uống thuốc độc chết. Đức Thượng Đế thương chúng tôi vô tội mà thiệt đời, mới bổ cho chúng tôi làm Long quân phó sứ, tuần hành trên hai chi sông Vũ Giang và Lạng Giang.Trước đây Tiên Đế đánh trận Bạch Đằng, chúng tôi cũng đã theo giúp. Vua Nam Tần thức dậy, liền sai làm tế lễ, khấn rằng: Nếu quả anh Linh giúp ta thắng trận, sẽ lập đền thờ. Hôm sau, Vua tiến binh vây núi Côn Lôn, giặc nhờ thế núi hiểm trở, giữ được vững vàng, đánh mãi không được, quân nhà Vua đến sinh nản chí. Một đêm, Vua lại mộng thấy hai Vương đốc xuất đội Thần binh: Hình dạng kỳ dị, đội ngũ chỉnh tề, họp ở cửa sông Phù Lan. Rồi quân người anh từ sông Vũ Giang qua sông Như Nguyệt, tiến lên đầu sông Phú Lương. Quân người em đi ven sông Lạng Giang vào sông Nam Bình. Vua tỉnh dậy, nói chuyện với các tướng, rồi thúc quân đánh mạnh, quả nhiên trận ấy tòan thắng. Tây Long đã dẹp yên, Vua Nam Tấn sai sứ chia nơi lập Đền thờ cho hai Vương. Phong người anh làm Đại Dương Giang Đô Hộ Quốc Thần Vương, đền thờ ở cửa sông Như Nguyệt. Phong người em làm Tiểu Dương Giang Đô Hộ Quốc Thần Vương, đền thờ ở cửa sông Nam Bình.

Đến đời Vua Lý Nhân Tông (1072- 1127), quân Tống sang xâm lấn, tiến vào trong cõi. Vua sai Thái úy Lý Thường Kiệt lập trại ở ven sông để chống giữ. Một đêm, quân sĩ nghe trong Đền có tiếng Thần ngâm thơ:

Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư,
Tuyệt nhiên định phận tại Thiên thư.
Như Hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.


Rồi quả nhiên quân Tống bị thua, phải rút về nước.

Năm Trùng Hưng thứ nhất, sắc phong Như Nguyệt Khước Định và Uy Địch Đại Vương. Năm thứ tư, gia phong Thiện Hựu và Dũng Cảm.

Coi lại trong VIỆT NAM SỬ LƯỢC của TRẦN TRỌNG KIM có đọan nói về TRIỆU VIỆT VƯƠNG như sau:

TRIỆU VIỆT VƯƠNG (549- 571):Năm Mậu Thìn (548) Lý Nam Đế ở trong Khuất Liêu phải bệnh mất, sang năm sau TRIỆU QUANG PHỤC ở Dạ Trạch được tin ấy bèn xưng là Việt Vương....

...Năm Ất Hợi (555) là năm thứ 7 đời Triệu Việt Vương, Lý Thiên Bảo mất, không có con,binh quyền về cả với Lý Phật Tử. Đến năm Đinh Sửu (557), Lý Phật Tử đem quân chống lại với Triệu Việt Vương. Đánh nhau mấy trận không được, Phật Tử mới xin đất giảng hòa, Triệu Việt Vương nghĩ tình họ Lý mới chia đất cho Phật Tử.....

...Năm Tân Mão (571 ), Phật Tử bất thình lình đem quân đánh Triệu Việt Vương. Triệu Việt Vương thua chạy đến sông Đại Nha (nay ở huyện Đại An, Tỉnh Nam Định ), nhẩy xuống sông tự vận.

Như vậy theo chính sử và Huyền sử, cũng đã có nói về hai anh em Trương Hống, Trương Hách (Hát ?? ), và địa bàn họat động của họ cũng nằm trong vùng Phù Lỗ mà ta đang xét.


3. Địa hình thực tế:

Khu vực này, nếu nhìn toàn cảnh từ trên cao có hình một con Quy, đang bò xuống uống nước sông Cà Lồ. Nhiều lần, tôi quan sát khu vực này qua cửa kính của máy bay, thấy thật là đẹp. Con sông Cà Lồ uốn khúc như một khúc ruột, quanh co chẩy qua những bãi mía, nương dâu, những xóm làng xanh mát. Con Quy có hình dáng thật rõ nét đang như muốn bò xuống sông uống nước. Hai nhánh Thanh Long - Bạch hổ cần phân như muốn ôm lấy cuộc đất quý. Tại Tiểu Minh đường là một cánh đồng lúa xanh ngắt, kéo dài ra sát bờ sông Cà Lồ. Làng Liên Lý, theo từ trước đến nay hình như được chia ra làm hai phần rõ rệt; Liên Lý thượng và hạ, hay trên dưới cũng vậy. Ngày xưa theo hình thế như đã khảo sát, chắc chắn, mặt làng phải quay mặt ra sông Cà Lồ. Ngày nay, nhờ có con đường nhựa chạy qua, nên hướng làng đã quay theo chiều ngược lại, tất cả đều quay ra đường cái. Hướng chính của làng ngày xưa là Tọa Bắc Triều Nam, nay có hướng ngược lại. Tại mỗi nửa làng Liên Lý, điều rất thú vị là đều có một ngôi đình làng cổ kính và một ngôi chùa hiện mới được trùng tu hoặc xây lại vài năm gần đây. Làng Liên Lý thượng (hay trên), có một ngôi Đình làng có niên đại cách đây cũng vài trăm năm. Đình làng được xây dựng theo hướng Tọa Bắc Triều Nam. Theo tấm bia đá còn lại thì Đình làng Liên Lý được xây dựng vào ngày 29 tháng mười năm Canh Tý - Niên hiệu Cảnh Hưng 41-1780. Thường thường hàng năm cúng giỗ Tổ vào ngày 7/7 âm lịch. Sau nhiều lần trùng tu, hiện nay Đình chỉ có hai căn Chánh Điện và Hậu cung Đình. Hình dáng của Đình theo dạng năm gian,có bậc Tam cấp đằng trước, với những cánh én cong vút. Đây cũng là một dạng đặc trưng cho Đình của miền Bắc.

Cũng theo các cụ truyền tụng lại, phần nửa làng này về Văn hóa, học hành và trong cách cư sử với nhau có vẻ VĂN hơn. Tôi có được ngồi nói chuyện với một số người trong làng, mặc dù cơn sốt bán đất đang phát triển rất mạnh trong vùng, nhưng những người Nông dân ở đây vẫn giữ được mảnh đất Cha Ông để lại, vẫn chăm chỉ cấy cầy và đối sử với nhau theo phong tục xưa. Phần làng này có ngôi Chùa tên là KIM LIÊN TỰ. Kim Liên Tự là một ngôi Chùa cũng có vài trăm năm Lịch sử. Chùa cũng có hướng Tọa Bắc Triều Nam. Khoảng vài chục năm gần đây, Chùa hầu như bị bỏ hoang phế vì không có Sư trụ trì, chủ yếu là do nhân dân Địa phương tự động coi giữ. Tới năm vừa rồi, mới có một vị Sư về làm Trụ trì và tiến hành sửa chữa, nâng cấp cho Kim liên tự. Ngày tôi về Khảo sát, làng đang sửa chữa lại Chùa, làm lễ Hô Thần nhập Tượng cho một số pho tượng ở Chính Điện. Hiện nay Kim Liên Tự còn một bia đá ghi lại quá trình xây dựng Chùa, nhưng thật tiếc vì tôi không có thời gian chép lại.

Phần làng Liên Lý hạ là phần đất từ con đường quốc lộ từ cầu Đuống đi Thái nguyên vào tới giữa làng. Dải phân cách hai phần làng này chính là Trung tâm của một Trận đồ Trấn yểm theo đánh giá của tôi là có từ thời Cao Biền của nhà Đường. Phần làng này, điều đáng ngạc nhiên là cũng có một ngôi Đình làng và một ngôi Chùa cũng mới xây dựng và tôn tạo lại. Một điều cũng cần nhận định lại là, thông thường các làng quê của miền Bắc, mỗi làng thường chỉ có một ngôi đình làng và thường cũng chỉ có một ngôi chùa. Như làng Liên Lý hiện nay có tới hai ngôi Đình và hai Chùa, như vậy phải chăng trước kia là hai làng riêng biệt ???

Ta cũng cần chú ý là tất cả các ngôi Đình và ngôi Chùa đều có hướng Tọa Bắc Triều Nam. Phần Liên Lý hạ có vẻ phát triển về Kinh tế mạnh hơn phần trên, gần đây do cơn sốt đất xây dựng nên người ta cũng thi nhau bán đất và kết quả là những dãy phố mới liên tục được mọc lên. Tất nhiên ai cũng phải hiểu rằng: Một khi những đồng tiền như tự trên Trời rơi xuống đó, ồ ạt đổ vào một miền quê từ xưa rất nghèo thì những hậu quả kèm theo của nó thật vô cùng khôn lường. Nhiều tệ nạn và sự phân hóa của tình làng, nghĩa xóm là lẽ đương nhiên.

Tại phía Thanh Long của cuộc đất, cách đây gần 1000 năm , người Trung quốc đã cho đào một con sông, khởi đầu từ trước cửa Đền Ba Voi và kéo dài hơn mười cây số. Con sông Đào này, cắt ngang nhánh Thanh Long và các bạn cũng nhớ lại rằng Thanh Long thuộc Dương và là đại diện của Nam nhân.

(Sưu tầm)

LSB-LyQuy
25-04-2007, 09:29
Ối giời, dài như cái bơm, đọc hoa hét cả mắt. Nói tóm lại là mấy cái trò ấy chỉ là do từ miẹng lưỡi của mấy bà nhiều chuyện hoặc từ những kẻ có liên quan mật thiết với mấy cha thầy bói, thầy cúng... Chúng nó phao mấy cái tin như thế để mua việc cho mấy thầy của chúng nó ý mà.
Cần quái gì cứ phải ở Tô Lịch chứ. Ở ngay cái LSB này cũng đầu bùa yểm đấy thôi. Đấy, vô Quân Cơ Mật Viện mà coi nhé, trong đó có cả đống bùa...kekeke...!

Mai Dao Lân
25-04-2007, 10:39
Khổ, bài viết đang hay thì lại có chã nhảy vào bi bô thế này, chán ghê gớm :no: :vio6: .
Cũng biết là trình còn non nhưng cũng ko cần cố tỏ ra hiểu biết thế đâu chã em :cuoilon: .
Hay là cứ phải post bài thì người ta mới biết là chã em anh lên LS nhỉ.
Chã em anh không đọc thì để người khác đọc và bàn luận, đừng tự nhiên nhảy vào ném cục đá như thế - thô lắm, anh buồn.

P/S: có QL nào đi qua đây thì xóa post này và của em chã ở trên đi hộ cái. Vấn đề đang hay, đang đến hồi hưng phấn :cuoilon: .

..::XxZodijiKenxX::..
25-04-2007, 12:26
Ba cái "thánh vật" gì gì ở sông Tô Lịch chẳng qua là mấy thứ "gỗ mục ,xác ướp, đài lễ" rơm rác gì trôi dạt từ đời nào đến giờ. Bà con chạy tới chạy lui tôn thờ lễ lạy trông thật tức cười quá đi mất. Mê tín dị đoan, tôn thờ ngoại cảnh.

Ngọc Diện Thư Sinh
25-04-2007, 12:49
Ối giời, dài như cái bơm, đọc hoa hét cả mắt. Nói tóm lại là mấy cái trò ấy chỉ là do từ miẹng lưỡi của mấy bà nhiều chuyện hoặc từ những kẻ có liên quan mật thiết với mấy cha thầy bói, thầy cúng... Chúng nó phao mấy cái tin như thế để mua việc cho mấy thầy của chúng nó ý mà.
Cần quái gì cứ phải ở Tô Lịch chứ. Ở ngay cái LSB này cũng đầu bùa yểm đấy thôi. Đấy, vô Quân Cơ Mật Viện mà coi nhé, trong đó có cả đống bùa...kekeke...!



Vẫn biết Lương Sơn Bạc nhiều kẻ bất tài mà vẫn ngoi cao . Nhưng bất tài đến mức độ này thì thật là hài hước .Mang tiếng là tổng binh đầu lĩnh mà khẩu xuất cuồng ngôn nói toàn những lời không có chút hiểu biết nào .Các cụ nói rồi :"biết thì còn khục khoặc, ko biết thì ngậm .. ... mà nghe " ai bảo ông đây chỉ là chuyện của mấy bà nhiều chuyện mà đây là một phạm trù lịch sử phao tin đồn nhảm mà bao nhiêu nhà lịch sử khoa học lịch sử đều đang nghiên cứu ,tin đồn nhảm mà từ năm 2001 kể từ khi việc trấn yểm bùa bị phát hiện và bị nhổ lên các tỉnh thuộc nhánh thanh long bị trấn yểm từ trước lại phát triển một cách mạnh mẽ vậy...

XU*XU
25-04-2007, 16:28
oài theo như báo chí và trụ trì chùa Hương bây giờ nói thì thầy Thich Viên Thành chưa bao giờ dến đó cả..ko tin thì mua báo Pháp Luật và Đời Sống số mới nhất mà xem...sự thật 100% đó

LSB-PhongThienVu
26-04-2007, 00:40
Khảo sát phong thuỷ của toàn vùng đất


Khu vực này có Minh Đường là cả một vùng đất rộng lớn tiếp giáp với Kinh thành Thăng Long. Trong địa phận Minh Đường này có hai con sông lớn chẩy qua là sông Hồng và sông Cà Lồ. Huyền Vũ của cả khu vực có hai dãy núi hùng vĩ là Tam Đảo và Sóc Sơn như một bức tường thành án ngữ. Hai nhánh Thanh Long - Bạch Hổ là hai dải đất cân phân như muốn ôm lấy tòan bộ khu vực. Tòan bộ cuộc đất này có dáng một con Quy (Rùa khổng lồ), đang muốn bò xuống sông Cà Lồ. Khi đứng trên địa hình của khu vực, người ta có thể thấy rất rõ đường đi của một Long mạch lớn và theo đánh gíá của tôi thì Khí của Long mạch này vẫn còn rất mạnh.

Như vậy xét về toàn cảnh thì cuộc đất này có một tầm quan trọng rất lớn về phương diện Phong thủy. Nơi đây là một vùng tập trung Linh khí của dãy Tam Đảo, Sóc Sơn là những vùng đất Linh thiêng, có quan hệ tới các Thế Đại Hùng Vương ngày xưa. Các Truyền thuyết về Thần Tản Viên, Sự tích Thánh Gióng đều nằm trong khu vực này. Mặt khác, hai con sông lớn là sông Hồng và sông Cà Lồ cũng chứa đựng những sự Linh thiêng. Nếu chỉ xét đơn thuần về Phong thủy theo các Trường phái Loan Đầu, Huyền Không ...thì khu vực này có chất chứa những Huyệt vị phát Đế Vương, Công Hầu, Khanh tướng...Nhưng thực sự, cho tới tận gần đây, khu vực này vẫn còn là một vùng quê rất nghèo khổ, Kinh tế chậm phát triển, đời sống còn lạc hậu và rất ít người làm nên những địa vị lớn. Mặt khác ta cũng để ý rằng: Nhánh Thanh Long, bao gồm cả con đường từ Đông Anh đi Phù Lỗ, Thái Nguyên có từ rất lâu rồi, nhưng sự phát triển của những vùng quê nó đi qua hầu như không đáng kể, so với nhánh Bạch Hổ là vùng đất bao gồm cả con đường từ Hà Nội, qua cầu Thăng Long, Nội Bài, Phú Thọ mới được xây dựng sau này???

Đi tìm câu trả lời đó, tôi phát hiện được những điều thú vị như sau:

Như đã trình bày ở phần trên, Long mạch này rất lớn và có nhiều Linh khí hội tụ. Các bạn cũng nên nhớ rằng, khu vực này rất gần Thành Ốc - Cổ Loa là nơi đã phát tích hai lần làm Kinh thành, Thủ đô của nước Việt; Đó là Thành ốc của Vua Thục Phán và Thủ đô Nước Việt Thời Ngô Quyền.

Nhằm Trấn yểm Long mạch lớn này, nơi có thể phát tích những vị Chân đế, Người Tàu đã thực hiện một cuộc Trấn yểm với một quy mô lớn và rất công phu. Trước hết, họ cho đào một con sông, cắt ngang nhánh Thanh Long của cuộc đất, nhằm triệt hạ Dương khí, tức là làm cho đàn ông trong khu vực này không thể ngóc đầu lên được. Con sông đào đó ngày nay vẫn còn. Mặt khác, người Tầu đã thực hiện một Trận đồ Trấn yểm ngay tại trung tâm của Long Huyệt là khu vực làng Liên Lý đang trình bày.

Xét lại các Truyền thuyết còn truyền lại được, tôi tìm thấy một trường hợp tương tự (Hay chính là chuyện về vùng đất này, tôi chưa có điều kiện để thẩm tra lại). Trong cuốn DƯ CÔNG TIỆP KÝ của Vũ Phương Đề, soạn vào năm Cảnh Hưng 16 (1755) - Các bạn cũng nhớ lại là đây chính là năm lập Đình làng Liên Lý có một Truyền thuyết như sau: "TRẦN TRIỀU TỔ MỘ KÝ: Tiên tổ nhà Trần ở xã Tức Mặc, Huyện Mỹ Lộc, đời đời làm nghề đánh cá, một dải trường giang ở phía Nam, đâu cũng là nhà. Bấy giờ có một thầy Địa lý Trung Quốc sang nước ta xem đất. Chú theo Long mạch từ núi Tam Đảo đi xuống, qua Thăng Long, Cổ Bi đến các xã Kệ Châu và Cao Xá thuộc huyện Kim Động, thấy có nhiều đống đất hoàn tụ, bèn cười nói rằng:

- Đây là chỗ đóng quân và nấu cơm.

Đến xã Phượng trà huyện Nam Xương không thấy vết tích đâu nữa, chú ngắm một hồi lâu rồi nói:

- Nước sông chẩy mạnh, có lẽ nào Huyệt lại ẩn tàng dưới lòng sông.

Chú bèn sang Đông đi đến xã Hà Liễu, huyện Ngự Thiên, thấy các ngọn núi đều đứng thẳng, liền lấy tay chỉ và cười nói rằng:

- Chỗ cất đầu lên ở đây, trốn tránh ta thế nào được.

Chú tìm đến chỗ phát tích tại xã Nhật Cảo và tìm chỗ kết cục tại xã Thái Đường, mới hạ la bàn để xem xét và cứ say mê, quanh quẩn mãi ở đấy không đi được.

Chợt có Nguyễn Cố người xã Tây Vệ đến đấy, hỏi Khách rằng:

- Ông lưu ý ở chỗ này có Huyệt tốt phải không ?

Khách ngửa mặt lên cười nói:

- Không ngờ ở nơi bình địa mà lại có đất Đế Vương. Đáng chê là các thầy Địa lý đời nay, không thầy nào có nhãn lực.

Nguyễn Cố nói:

- Nếu quả là đất Đế Vương, xin ông cho tôi. Ông muốn được lễ tạ bao nhiêu, tôi cũng xin nộp đủ.

Khách nói:

- Nhà ông có Phúc may mới được gặp tôi thì tôi cho ông. Nhưng sau khi táng rồi, ông phải trả cho tôi ngay 100 quan tiền, và về sau lấy được nước, ông phải chia cho tôi một nửa.

Nguyễn Cố xin vâng lời, rồi đem mộ Tổ táng vào chỗ ấy. Khách sợ Cố phản trắc, bèn bảo:

- Táng xong tất có điềm lành. Nhưng trong hạn 100 ngày, thỉnh thoảng phải đến thăm nom. Nếu sau cơn mưa gió, sấm, sét thấy có sự lạ, thì lành ít dữ nhiều, phải táng đi chỗ khác ngay.

Nguyễn Cố vừa đem mả Tổ Tiên táng vào nơi ấy được ba ngày, đến nửa đêm tự nhiên có một tiếng sấm rất to, làm kinh động nhân dân và súc vật ở vùng ấy. Sáng hôm sau đi xem, thì thấy ở các xã Đặng Xá, Tây Vệ và Thái Đường có nhiều hòn đá nhô lên, gọi là đá tai mèo, nơi nào cũng có. Những hòn đá đó đến nay vẫn còn.

Nguyễn Cố biết là được đất rồi, lấy làm mừng rỡ. Vợ Cố bảo rằng:

- Ngôi đất ấy dầu cho là phát phúc, nhưng hiện nay làm thế nào mà lo được một trăm quan tiền. Vả lại chia đôi Thiên hạ thì còn được bao nhiêu?

Cố thấy vợ nói thế thì định bụng không tạ lễ cho chú Khách nữa. Khi Khách đến hỏi, Cố hẹn mấy ngày sẽ trả. Đến hẹn, Khách tới nhà, Cố liền bắt trói và đang đêm đem vất xuống sông. Vất xong vội vàng chạy về. Nguyên chỗ Cố vất Khách xuống là một bãi phù sa, nước thủy triều lên ngập cả bãi. Sau khi vất Khách xuống, nước triều rút lui, bãi phơi khô, Khách nằm lại trên bãi.

Chợt có chiếc thuyền đánh cá của họ Trần đi qua đấy, nghe có tiếng người hô hoán, vội tới cứu mang lên thuyền, rồi cởi trói cho Khách và hỏi duyên cớ. Khách đem đầu đuôi sự việc này kể cho họ Trần nghe và nói thêm rằng:

- Nhờ ông mà tôi sống lại được. Tôi xin đem cuộc đất này biếu ông để tạ ơn.

Người họ Trần nói:

- Ngôi đất ấy Nguyễn Cố đã táng rồi còn làm được gì nữa.

Khách nói:

- Tôi đã tính trước, ngôi đất đó thế nào nhà ông cũng được.

Người họ Trần bèn lưu chú Khách ở lại trong thuyền, không để lộ chuyện cho người ngoài biết. Khách bảo người họ Trần lấy đồng đỏ đúc lưỡi tầm sét và lấy cây vang nấu nước để dùng.

Một đêm mưa to, gió lớn và luôn có sét đánh. Đến khi tạnh mưa, Khách và người họ Trần đem lưỡi Tầm sét đến cắm ở mộ Tổ của Nguyễn Cố, xuyên thủng đến quan tài, rồi lấy nước vang tưới vào mộ. Sáng hôm sau, Nguyễn Cố ra thăm, cho là mộ bị sét đánh, có máu chẩy ra, vội vàng rời mộ đi chỗ khác. Khách nhân bèn đem mộ Tổ nhà họ Trần táng vào đó.

Ngôi đất này phía trước trông ra ngã ba sông Cái (Thuộc xã Hữu Bị - Huyện Mỹ Lộc - Tục gọi là cửa vàng), phía sau gối vào Đền Voi Phục, lâu đài và cờ gươm bài trí hai bên. Huyệt ở "THổ phúc tàng Kim" (Trong đất giấu vàng), Tọa Càn hướng Tốn. Táng xong, Khách phê rằng:

- "Phần đại yên hoa đối diện sinh", hẳn lấy được Thiên hạ.

Người họ Trần nói:

- Nếu được như lời ông nói, tôi xin chia cho ông một nửa Dân tộc.

Khách nói:

- Không cần phải làm như thế. Nhà ông hưởng nước, chỉ cần đời đời tư cấp cho nhà tôi đủ ăn, đủ mặc thôi.

Người họ Trần hứa sẽ ghi lòng tạc dạ. Rồi làm tờ giấy giao ước, mỗi bên giữ một bản lại làm tin.

Lại nói chú Khách vốn là người có tâm cơ trí lực. Chú làm hai bản Sấm thư để lại cho con cháu và dặn:

- Nếu sau này họ Trần vẫn đối đãi tử tế thì bảo thực cho họ biết. Nếu họ bội ước thì nên như thế, như thế...

Khách lại bảo họ Trần rằng:

- Tôi đã để lại một phép, có thể làm cho nhà ông trị vì được lâu dài hơn. Phép ấy là gì, thì sau này sẽ bảo cho ông biết.

Họ Trần vô cùng cảm tạ.

Trần Thừa là cháu ba đời, năm Diên phúc thứ 8 (1218) triều Lý, sinh ra Trần Cảnh, mũi cao, mặt Rồng, được Chiêu Hoàng ngường ngôi cho, làm Vua Thái Tông.

Ban đầu, khi con cháu chú Khách ở Trung quốc sang, các Vua Trần đều tặng tống rất hậu. Nhưng đến cuối đời thì đối đãi kém tử tế. Một người cháu của chú Khách sang nói với Vua Trần:

Tiên Tổ Hạ thần có để lại một bản Sấm thư, dặn đến năm nay thì đem sang đệ trình quý Quốc.

Vua Trần xem Sấm thư thấy nói: "Ngôi mộ phát tích ở Thái Đường nay sắp hết thịnh, cần phải khơi thông thủy đạo, thì mới giữ được lâu dài ".

Vua Trần tin lời nói đó, bèn chiếu theo họa đồ ở Sấm thư đào một thủy đạo từ sông Cái, xã Phú xuân đi vào, quanh đến xã Thái Đường. Không ngờ đào đứt Long mạch, họ Trần bèn suy, rồi bị Xích Thủy Hầu (Hồ Quý Ly ) soán đoạt. Xét họ Trần trị vì được từng ấy năm là do ở mệnh Trời chứ sức người làm thế nào được.

Nguyên chú: Con sông đào ấy ngày nay vẫn để lại dấu vết.

Như vậy, chúng ta nhận thấy rằng, con sông đào này (do ai và vì lý do gì?), đã cắt ngang nhánh Thanh Long của cuộc đất, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của những người đàn ông trong khu vực. Mặc dù về hình thái của Loan Đầu rất đẹp, là nơi có thể kết một số Huyệt vị quan trọng, nhưng do sự chia cắt của con sông đào, khu vực này không thể phát triển được so với nhánh Bạch Hổ đối diện, và từ xưa không thấy có ai trong khu vực này có thể lập Đế nghiệp được cả. Đó là một vấn đề chúng ta cần suy nghĩ.

(Sưu tầm)

LSB-PhongThienVu
26-04-2007, 00:53
Trận đồ trấn yểm


Từ xưa tới nay, chúng ta thường được nghe phong phanh có những trận đồ Trấn yểm những vùng đất. Trong việc Trấn yểm, thường có hai chiều âm dương đối nghịch nhau là: Một chiều, Trấn yểm cho vùng đó không phát triển được, hay nói cách khác là có tác dụng phá hoại những Long mạch hay những Huyệt vị có thể phát Đế nghiệp, không thể tạo thành những Thành phố, Tỉnh lỵ đô hội. Một chiều, cũng dùng phép Trấn yểm để bảo vệ hoặc phát triển một Long mạch hay Huyệt vị, giữ cho nó được bình yên, thậm chí xí chỗ trước, không cho phép người khác sử dụng nó, thuật đó gọi là thuật Xích Long.

Theo những câu chuyện còn truyền lại trong Lịch sử, nguồn gốc của việc lập Trận đồ Trấn yểm có từ rất xa xưa. Chắc các bạn còn nhớ Thạch trận của Khổng Minh trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, được thiết lập bên bờ của một con sông. Hoặc như những truyền thuyết về Cao Biền lập những Trận đồ mà tôi đã có dịp trình bày với các bạn trong bài PHONG THỦY: HIỆN TƯỢNG TRẤN YỂM TRÊN SÔNG TÔ LỊCH... Hay những dạng Trận đồ Trấn yểm mà tôi đã có dịp trình bày trong bài NHỮNG CUỘC HÀNH HÓA GIẢI KHAI HUYỆT ĐẠO THỜI NAY.

Trong thực tế ngày nay, tôi có dịp thấy một Trận đồ Trấn yểm dạng đơn giản của một người bạn tên Khiêm, thực hiện tại phòng ngủ của mình, khi tôi ngủ trên chiếc giường trong phòng ngủ đó, lập tức Trận đồ chuyển đông xoay tít. Tôi cũng đã nhiều lần thực hiện những Trận đồ Trấn yểm với quy mô nhỏ, dùng để Trấn Trạch, hóa gỉai những cái xấu trong một căn nhà và kết quả đạt được rất tốt đẹp.

"Cháu không rõ đã đọc ở trong cuốn Phong tục Việt Nam hay Thành Hoàng Việt Nam có nói sự tích một bà phi (không rõ thời nào) được vua rất cưng chiều, quê ở Phù Lỗ. Quê bà ta thời đó vốn có rất nhiều người làm quan tước. Rồi vì bà này có gây hiềm khích gì đó với cụ Tả Ao nên cụ tâu vua viện cớ đào sông cho bà phi về chơi quê mà phá mất long mạch. Từ dó nơi này mới suy. Ngay thời Pháp thuộc, Pháp cũng xây cái Lô cốt tại một vị trí mà phong thuỷ rất tốt, quân mình đánh ko lần nào chiếm được, sau này là do họ tự rút.
Phù Lỗ cách nhà cháu hiện tại chỉ chừng 6 - 7 cây, còn rất gần ngôi nhà hồi bé của cháu.

Nếu để ý con sông Hoàng thuộc huyện Đông Anh sẽ thấy, nghe các cụ kể con sông đó trước kia khí cũng rất vượng, là con sông bao quanh thành Cổ Loa. Ngày nay dấu tích còn lại của nó là Đầm Vân trì, mà đường cao tốc Bắc Thăng Long, Nội Bài cũng đi qua. Nếu nói về truyền thuyết Thánh Gióng, ở làng cháu các cụ còn truyền lại câu:

" Gióng còn một quả bầu khô,
Dành cho con út Đông Dồ ta đây "


Hiện tại ở xã cháu, bên cạnh đường cao tốc có một nơi, không biết có gọi là đền thờ được không, tương truyền trước kia Thánh Gióng nghỉ ngơi trưóc khi bay lên trời. Làng Nam Hồng này trong kháng chiến chống Pháp có phong trào kháng chiến rất mạnh, là nơi lập địa đạo chống Pháp (theo cháu biết thì chỉ có Củ Chi và Nam Hồng có địa đạo thôi). Sau khi đào địa đạo thì cắt mất long mạch nhà cụ cháu, nên dòng họ nhà chúa cũng suy vong. Vốn trưóc nhà cụ của cháu toạ trên một con gò rất cao to, là nơi cao nhất ở xã, nên cụ ông lúc đó cũng quyền tước lớn cả trong chính quyền phong kiến cũng như chính quyền cách mạng. Con trai của cụ cũng làm tới một chức vụ cao trong Đ*ng thời đó. Nhưng đào xong địa đạo, được đâu vài năm tan cửa nát nhà, ngày nay xây chũ cũng ko còn phát gì đặc biệt nữa, tuy vẫn có truyền thống hiếu học.

Sau kháng chiến chống Pháp, một ngôi chùa rất lớn của làng cũng bị phá.


(Sưu tầm)

LSB-PhongThienVu
26-04-2007, 21:47
Trong khi thi công ngôi nhà 130 đường Nguyễn Thị Minh Khai (Hải Châu, Đà Nẵng), gia chủ thông báo trong lúc đào đất làm móng đã phát hiện tới... 11 bộ hài cốt liệt sĩ và một lượng lớn đá quý! Tuy nhiên, dư luận tại Đà Nẵng lại đặt ra nhiều nghi vấn khác.


Những bộ hài cốt được cải táng

Theo hồ sơ lưu tại Sở Xây dựng TP Đà Nẵng, ngôi nhà 130 Nguyễn Thị Minh Khai do ông Nguyễn Mười và bà Ngô Thị Thương (hay còn gọi là Mười Thương) đứng tên trên giấy phép xây dựng. Trước khi xây mới một tầng hầm, trệt, lửng và 5 tầng lầu, gia chủ thuê đội xe và thợ đến đào đất làm nền móng. Khi đào sâu xuống dưới hơn 4m, gia chủ phát thông báo đến Sở Lao động - Thương binh - Xã hội (LĐ-TB-XH) cũng như các ban, ngành chức năng TP Đà Nẵng và UBND quận Hải Châu rằng "đã phát hiện 11 bộ hài cốt liệt sĩ" trong ngôi nhà đang xây. Câu chuyện lập tức được người dân đồn đoán, thêu dệt.

Theo những người trong đoàn đại diện các sở, ban, ngành TP Đà Nẵng đến hiện trường, thì "những bộ hài cốt" này đã bị phân hủy hoàn toàn, chỉ thấy có bột màu đen, không xác định được một cách rõ ràng. Ngoài ra, xung quanh khu vực đào tìm cũng không phát hiện các vật dụng, hay quân trang chôn kèm để xác định chính xác đây có phải là hài cốt liệt sĩ, chiến sĩ yêu nước hay không để làm lễ truy điệu.

Chiều 18.4, bà Nguyễn Thị Thanh Hưng - Giám đốc Sở LĐ-TB-XH TP Đà Nẵng cho biết: "Trên thực tế không tính được có bao nhiêu bộ hài cốt, cũng như không thể xác định cụ thể chôn cất năm nào. Nếu có cơ sở xác định chính xác là mộ liệt sĩ hay chiến sĩ yêu nước bị địch giết hại thì chúng tôi sẵn sàng làm các thủ tục theo quy định". Ông Nguyễn Đăng Hùng - Chủ tịch UBND quận Hải Châu cũng cùng chung nhận định như trên và cho biết UBND quận đã cho cải táng.

Đá quý, bộ ấm cổ và tiền tại nhà ông Nguyễn Mười

Ngoài 11 bộ hài cốt, gia chủ còn cho biết đã tìm thấy 30 viên đá quý màu xanh và một số đồng tiền xưa. Một cán bộ tại Bảo tàng Đà Nẵng cho biết ông Nguyễn Mười báo rằng, đã tìm thấy một số đá quý (đá mã não), đồng tiền Pháp có niên đại vào năm 1890 và 2 cái ấm cổ. Tuy vậy, qua xác định ban đầu thì 2 cái ấm này có niên đại từ thế kỷ 18, 19. Còn những viên đá quý cũng còn rất mới. Riêng số lượng đá quý, theo gia chủ thì tới 30 viên, nhưng tại nhà chỉ còn 13 viên. Số còn lại đã được người em của gia chủ mang sang Lào. Hơn nữa, theo cán bộ của Bảo tàng Đà Nẵng, không một ai trong số những người công nhân thi công tại ngôi nhà chứng kiến cảnh gia chủ mang đá quý từ dưới đất lên.

Có quá nhiều nghi vấn xung quanh câu chuyện tìm thấy 11 bộ hài cốt và hàng chục viên đá quý, đồ cổ tại ngôi nhà 130 Nguyễn Thị Minh Khai của ông Nguyễn Mười. Thực hư câu chuyện này ra sao? Nếu có sự ngụy tạo thì do động cơ gì? Đó là các câu hỏi cần được các cơ quan chức năng ở Đà Nẵng giải đáp.

Cần nói thêm rằng, ông Mười Thương là người sưu tầm, buôn bán đồ cổ có tiếng ở Đà Nẵng, trước đây từng bị Công an Quảng Nam điều tra về một vụ buôn bán cổ vật trên biển. Sau đó, không hiểu vì lý do gì, sự việc bị "bỏ quên" cho đến nay.

(Sưu tầm)

LSB-PhongThienVu
26-04-2007, 21:54
GIẢ THIẾT THỨ NHẤT: ĐÂY LÀ ĐẠO BÙA TRẤN YỂM CỦA TẢ AO.


Tả Ao là một Phong thủy sư rất tài giỏi vào đầu thời Hậu Lê- Thế kỷ 15. Theo truyền thuyết còn truyền lại, thuở nhỏ, mẹ của Tả Ao bị bệnh đau mắt nặng, Tả Ao đến xin làm công cho một Thày thuốc người Tầu để được chữa bệnh đau mắt cho mẹ mà không phải trả tiền. Người Thầy thuốc người Tầu này là một người rất đức độ, không những giỏi về Y thuật mà đồng thời cũng rất giỏi về Phong thủy. Người Thầy thuốc này đã chữa cho mẹ Tả Ao khỏi bệnh đau mắt và nhận thấy những tố chất tốt đẹp trong con người Tả Ao, nên đã nhận Tả Ao làm Đệ tử và truyền cả hai nghề Y và Phong thủy cho Tả Ao. Theo tư liệu của ĐOÀN VĂN THÔNG trong cuốn BÍ ẨN VỀ PHONG THỦY, tôi xin chép lại tư liệu về cụ Tả Ao như sau: "Nhà Phong Thủy nổi tiếng của Việt nam Tả Ao tên thật là NGUYỄN ĐỨC HUYỀN, người làng Tả Ao thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Cụ sống vào đời Chúa Trịnh, gia đình quá nghèo, cha lại mất sớm, mẹ bị mù nên phải tìm đủ mọi việc để giúp đỡ mẹ già. Lúc bấy giờ có một ông thầy thuốc người Tầu nổi tiếng về khoa chữa mắt, nên cụ tìm đến xin được hầu hạ thầy để thầy ra tay tế độ chữa mắt cho mẹ mình. Ông thày Tầu thấy cụ siêng năng, chăm chỉ lại thông minh nên đã truyền cho cụ một số phương cách chữa mắt. Như vậy mà cụ chữa được mắt cho mẹ. Khi nghe tin ông thày Tầu sắp về nước, cụ vội vã đến xin phép thầy đi theo hầu hạ và học hỏi thêm về khoa chữa mắt. Ông Thầy bằng lòng. Thế là cụ được truyền dạy tất cả những gì mà ông thày Tầu có được về nghề chữa mắt, nhất là khi ông thày Tầu đã quá già. Từ đó cụ tự chữa cho nhiều người lành bệnh mắt, danh cụ vang khắp vùng. Có một thày Địa lý nổi danh trong vùng bị đau mắt, nghe danh cụ , liền cho người dẫn đến gặp cụ. Chỉ trong một thời gian ngắn, cụ đã chữa khỏi bệnh mắt cho ông thầy Địa lý. Thầy Địa lý mừng quá, đem vàng hậu tạ, nhưng cụ không nhận mà chỉ xin được làm đệ tử môn Địa lý Phong thủy mà thôi. Thấy người có tài đức lại có chí ham học hỏi, nên thầy Địa lý không ngần ngại đồng ý truyền hết những gì về Phong thủy mà mình có được. Chẳng bao lâu, cụ đã thành thạo tất cả những gì mà vị thày Địa lý đã truyền cho mình.

Qua bao phen thử thách trắc nghiệm tài năng,ông thày Địa lý công nhận cụ là người sáng trí, tài cao, đức trọng, nên không tiếc rẻ công sức mình truyền dạy cho.

Khi dời nước Tầu về nước, cụ đã chữa mắt cho rất nhiều người, ngoài ra cụ còn đi tìm những vùng đất tốt và nghiên cứu các Long mạch, các Địa linh ở quanh vùng. Cụ không vì tiền bạc, danh vọng mà đi tìm các cuộc đất tốt cho những kẻ không xứng đáng được hưởng. Dù cụ giới hạn về khoa địa lý, nhưng nhiều người đã tìm đến cụ để nhờ cụ giúp tìm đất tốt cho nhà cửa, mồ mả, phương hướng thuận lợi cho họ.

Dân chúng thời bấy giờ đã gọi cụ là cụ Tả Ao (Làng Tả Ao), danh tiếng của cụ vang đi khắp nơi và người đương thời truyền tụng cho nhau nhiều giai thoại của cụ Tả ao ngay còn lúc cụ còn sống. Trong cuốn TRẠNG DỪA tuyền lục do một người hiệu là Mộng Quế biên soạn vào khoảng tháng 9 năm Canh Thân (đời Vua Khải Định - 1920), có nhắc đến một cách trịnh trọng con người tài ba, nhân hậu Tả Ao. Theo các tư liệu thì tập truyện này, tác giả Mộng Quế đã dựa vào một tập truyện cổ trước đó.

Dưới đây là một đoạn nói về thày Địa lý Tả ao nổi tiếng (bản tiếng Việt do Kim Mã- Vũ Hoàng dịch từ bản chữ Nôm- Cuốn Trạng Lợn- Hội Văn học nghệ thuật Hà nam Ninh- 1987).

...." Có một thầy Phong thủy, người về làng Tả Ao, Trấn Nghệ An, đương đêm ngồi ngó lên Trời, trông thấy các vì sao hội tụ về phương Nam, sáng tỏ rời rợi, vỗ tay cười ầm lên. Người ngồi bên cạnh không hiểu như thế nào hỏi:

- Ngài có điều gì thích chí mà cười lắm thế.

Thầy Phong thủy nói: Kỳ qúa, ta vừa trông lên Trời, thấy các vì sao hiện về phân dã nước ta, bóng sáng vằng vặc. Kìa như ngôi sao sáng nhất chình là một Đế tinh, còn những vì sao xung quanh toàn là Tá tinh cả. Sau 20 năm, Rồng - Mây gặp hội, cá nước phải duyên, làm nên một hội, thịnh trị. Chỉ vì thấy một vị về bên tả ngôi Đế tòa, trông ra không phải hình tượng Văn tinh mà chủ trương về việc Văn, và tài ứng đối lanh lợi, vì thế nên thích mà cười. Chỉ trong một hai năm, các vị ấy giáng sinh xuống trần đầu thai mà thôi. Phen này ta quyết đi chu du thiên hạ, thử xem giáng sinh về phương nào.
Từ đó ông ấy đeo La bàn đi chơi, nay đây , mai đó, không đâu mà không đến. Một hôm, đi qua Sơn Nam thượng Trấn, đến làng Mạnh Chư, tục gọi là làng Dừa, Huyện Bình lục, Tỉnh Hà Nam Ninh bây giờ thì thấy vượng Khí trong làng phất lên đùn đùn, biết ở đó có một ngôi đất hay. Lần vào xem, quà nhiên thấy một Huyệt: Sơn cùng, Thủy triều, Long bàn Hổ phục, đôi bên Thần đồng phụ nhĩ, xung quanh cờ biển ứng vào, trước mắt đột lên một con Hỏa, trông như một con dao bầu, suốt từ phương Mão đến phương Tốn, thực là Huyệt kỳ dị. Bụng bảo dạ rằng: "Ngôi đất này chính là ngôi đất ứng sinh ra tá tinh đấy hẳn, thế mà chưa có nhà nào táng được là làm sao? Âu là ta vào trong làng xem ngôi đất này Trời để cho nhà nào thời ta làm ơn làm giúp, thay quyền Tạo hóa xem sao. Nghĩ rồi đi, vai đeo túi, tay chống gậy, làm ra dáng lù khù đi vào. Khi bấy giờ Trời đã tối, đi đến đâu cũng không ai cho trọ. Tự nhiên gặp một người say rượu gật gù bảo rằng: Thưa cụ, cụ đi đấu mà tối thế? Không ai dám chứa cụ thời xin cụ về nhà cháu. Nhà cháu dù nghèo thực, nhưng cũng dư thết cụ được dăm ba ngày. Xin cụ đừng ngại. Cụ thấy nói tử tế lắm. Đi theo về nhà. Vào đến nơi, ông ấy bắt người nhà dọn chỗ nghỉ, rồi làm rượu mời cụ xơi, bắt vợ con ra chào hỏi trọng hậu. Cụ nhác trông người vợ có phúc tướng, mừng lắm hỏi: Ông bà đây làm nghề gì?

Ông ấy đáp:

- Thưa cụ, nhà cháu nghèo lắm. Ở đây gần chợ nhà cháu thường làm nghề hàng thịt kiếm ăn.

Cụ mừng thầm rằng:

- Ai ngờ nhà hàng thịt mà có người Phúc hậu như vậy. Hoặc giả vượng Khí ở đây chung tú vào nhà này chăng. Hay ta cứ ở đây xem.

Sáng mai, thức dậy, cụ đã thấy một mâm tiết canh lòng cật sẵn đó mời cụ xơi. Từ đấy trở đi, cụ đến ở ba bốn tháng, sớm đi tối về, vợ chồng hầu hạ cơm nước, bữa nào cũng như bữa nào, không hề một lời tiếng nặng tiếng nhẹ, cứ một niềm chiêu đãi như vậy. Hoặc có khi cụ ốm, chồng thời chạy thuốc, vợ thời quét bẩn, giặt dơ, dẫu thế nào cũng không quản ngại chi cả. Cụ thấy thành tâm lắm mới bảo thực rằng: Nguyên tôi là một ông thày Địa lý đi qua đến đây, gặp ông bà thết đãi quá hậu, không biết lấy gì mà trả ơn được. Nhân tìm được một ngôi Âm phần, thôi thì để lão làm một cái lễ tạ.

(Sưu tầm)

LSB-PhongThienVu
26-04-2007, 22:06
CHẮC NHƯ ĐÓNG ĐINH

(Truyện Ông Tả Ao của Đồ Nam)


Một làng nọ thuộc tỉnh... ở trung châu Bắc bộ, là một làng rộng lớn và giàu có, nhưng phải cái xấu là trai làng, anh nào cũng “vắt cổ chầy ra nước”, chơi với ai cũng muốn nắm phần lợi về mình, không chịu bỏ ra một xu nhỏ. Còn gái làng thì tinh nghịch, cô nào cũng chua ngoa, đanh đá, lại có tính lẳng lơ. Vậy cho nên ca dao có câu:

Làng kia có biển xà cừ,
Bao nhiêu con gái theo sư mất rồi...


Một hôm, ông Tả Ao đi chơi qua làng đó, ngắm thấy kiểu đất quý: trước miếu Bà, có cái thế đất hình nhân đàn bà nằm nghiêng, giữa huyệt có một cái giếng, nên con gái làng này rất đẹp. Chẳng những thế, ông lại còn thấy mấy kiểu đất trông như cái biển, cái chiên, chỉ hiềm vì miếu Bà lệch hướng nên trong làng không có mấy người làm nên to tát.

Thấy làng có nhiều đất đẹp như vậy, ông liền dừng chân vào nghỉ tại một quán hàng, vừa uống nước, ăn bánh, vừa ngắm địa thế.

Bỗng, có một bọn gái làng đi chợ về, cũng vào quán nghỉ chân uống nước, ăn trầu, cô nào cũng trắng trẻo, xinh xắn, nói năng cười cợt chẳng cần giữ ý tứ gì. Thấy ông Tả Ao ngồi đó, họ cũng chen vào ngồi, đùa cười như nắc nẻ, chẳng biết kính trọng người già cả là gì.

Hôm đó là ngày phiên chợ, nên quán nước luôn luôn tấp nập kẻ ra người vào: thôi thì hết bọn gái này, đến bọn gái khác ghé vào nghỉ chân, ăn trầu, uống nước hoặc hút thuốc.

Ông Tả Ao ngồi suốt buổi trưa, ngắm hết bọn này đến bọn khác. Ông xét thấy: gái thì lẳng lơ, vô lễ, trai thì kiêu ngạo, keo bẩn. Tất cả trai gái làng này đều có những cử chỉ lố lăng, ăn nói vô ý vô tứ.

Chừng đã xế chiều, quán nước thưa người, ông mới lần theo đường nhỏ vào làng. Hết ngắm hướng đình rồi đến hướng chùa, lang thang nhìn xem phong cảnh, ông dừng lại trước miếu Bà, lẩm bẩm:

- Giá họ biết điều, mình quay hộ hướng kia, ắt là trong làng được làm quan to, tha hồ mà giàu sang vinh hiển.

Chợt một dân làng đi qua đó nghe thấy, đoán chắc đây là thầy địa lý không sai, bèn chạy về phi báo cho các ông kỳ mục trong làng ra đón mời ông.

Thoạt đầu, ông chối từ; về sau thấy họ cố nằn nì, ông phải theo về đình làng. Thôi thì họ kêu nài đủ thứ, nào là xin ông làm phúc giúp cho một hai kiểu đất để làng làm ăn khá giả, nào là xin ông cho làng được nhiều người đỗ đạt, làm quan để làng nhờ cậy, dân làng sẽ ghi ơn ông muôn đời...

Ông Tả Ao chỉ gật gù, bảo:

- Để tôi còn phải ngắm các kiểu đất xem sao đã.

Thực ra, chính ông muốn thử bụng các bô lão trong làng xem cách ăn ở, đối xử với ông ra sao.

Cơm nước chín mười hôm, ngày nào ông cũng xách tay nải đi quanh quẩn trong làng từ sáng đến chiều, nhưng hôm nào về ông cũng bảo với các ông kỳ mục rằng chưa tìm được hướng, phải đợi lâu lâu mới được.

Kỳ thực, trong ngần ấy hôm, các ông kỳ mục đối đãi nói năng những lời gì ông đều dò la rõ cả. Ông biết bọn họ không tốt, chỉ hời hợt ngoài mặt, mong sao cho công việc chóng xong để rồi tống tiền ông đi, chứ trong tâm không thành thực, niềm nở tiếp đãi ông.
Một hôm, cơm nước vừa xong, ông vờ say rượu, nôn ọe, ngủ thiếp đi ra vẻ mê mệt lắm. Thấy ông như vậy, các ông huynh thứ thì thầm bảo nhau:

- Không biết đó đúng là Tả Ao không? Hay chúng ta bị thằng này đến lừa làng mình, rượu chè no say ít lâu rồi chuồn thẳng, thì thật là bẽ với dân làng.

Một cụ khác nói:

- Tôi cũng nghi lắm, trông lão này không có vẻ gì tài giỏi. Đời thuở gì mà gần nửa tháng nay rồi cũng chưa đả động gì đến việc Địa lý...

- Ta phải thúc dục hắn mới được, không thể để tuỳ hắn như trước nữa. Nếu hắn cứ chùng chình, khất lần khất lừa thì đuổi ngay đi cho xong chuyện, chẳng cần kết phát gì cả. Làng ta như vậy cũng đã danh gía chán rồi.

Ông Tả Ao nằm gần đó, ai nói câu gì ông đều nghe rõ cả. Sáng sớm hôm sau, tỉnh dậy, ông vờ đi xem đất một lúc, rồi lại trở về đình.

Vừa thấy bóng ông, mấy ông kỳ mục đã vội nói:

- Thế nào, xin ông giúp ngay cho, kẻo lâu ngày quá rồi.

Để mọi người nói xong, ông đáp:

- Tôi cũng định về nói chuyện với các ông rằng hôm nay tốt ngày lắm, xin cho phân kim, làm lễ ở miếu Bà, xoay hướng miếu lại đôi chút là xong.

Đoạn, ông lấy tróc long và la bàn trong tay nải ra, nói với các ông kỳ mục cho mõ rao mời dân làng ra miếu Bà xem cắm hướng, rồi làm lễ một thể.
Nghe ông Tả Ao nói xong, các ông kỳ mục mừng rỡ, đánh ngay ba hồi trống triệu tập dân làng ra miếu xem cắm hướng.

Cắm hướng xong, có mấy cụ nhà nho trong làng, ý chừng cũng biết tý chút về khoa Địa lý, kháo nhau khen mãi là giỏi, hết lời khâm phục Tả Ao.

Một ông huynh thứ trong làng hỏi:

- Ông cắm thế này thì làng chúng tôi phát đến gì?

Ông Tả Ao trả lời:

- Phát đến nhất phẩm triều đình, làm quan tứ trụ không sai. Đây này, các ông trông xem, có phải chỗ kia trông như sơn, như hải cả không, hai bên toàn là “trống cái”, “chiêng đồng”, và biển xà cừ chầu cả về miếu Bà này. Lại còn cái giếng kia là chính huyệt, đàn bà, con gái làng này tha hồ mà trắng trẻo, xinh đẹp, sẽ có người phát đến cung phi, hoàng hậu...

- Thế cụ có chắc như vậy không?

- Chắc, chứ sao lại không!

Một, anh đứng gần đấy, ra vẻ giễu cợt, nói:

- Chắc hơn cua gạch hay chắc hơn gắn sơn?

- Hơn cả cua gạch và hơn cả gắn sơn. Chắc như đinh đóng cột vậy. Kiểu đất này muôn đời cũng không thay đổi.

Công việc xong, ông Tả Ao thu xếp tai nải, đi ngay. Mấy ông kỳ mục lấy ra năm chục quan tiền tạ ông. Ông không lấy mà bảo đem phát cho kẻ khó.

Xoay hướng miếu xong, làng nghe ngóng mãi mà cũng không thấy phát, chẳng có ai đỗ đạt, giàu có sang trọng gì.

Mãi vài năm sau, chỉ thấy gái làng cứ không chồng mà chửa, trước còn ít, sau càng ngày càng nhiều, tiếng đồn lan ra khắp huyện. Trai làng thì cũng đổi nghề, trước kia cày cấy, buôn bán, nay lại xoay ra học nghề chạm, nghề sơn.

Thấy vậy, các cụ trong làng lo quýnh, biết là ông Tả Ao phản, liền đi tìm các thầy địa lý giỏi để xem lại hướng. Hơn chục danh sư danh sư được mời về đều trả lời: “Kiểu đất này rất đẹp, nhưng đã bị xoay lại cả rồi, cái chiêng đồng, cái biển xà cừ đã hoá thành cái chậu sơn, hai cái gò đống kia đã hóa thành cái chàng, cái đục; còn cái trống kia đã biến thành cái họa cho gái làng, vì cái giếng trước miếu Bà bị cắm một cái cọc, nên gái chưa chồng hay bị chửa hoang... Những gò đống, hồ ao thì không thể xoay lại được, chỉ còn một cách sai người lội xuống giếng, nhổ cái cọc tre đi để cứu vãn cho gái làng khỏi bị chửa hoang mà thôi.

Mười năm sau, khắp làng này trở thành thợ chạm, thợ sơn; gái làng thì thỉnh thoảng lại bị một thời kỳ chửa hoang vô kể. Về sau khám phá ra thì là vì mỗi các trai làng lân cận sang hỏi gái làng này không được, hay vì gái làng này có tính chua ngoa, cãi cọ với gái làng bên, đã bị trả thù. Kẻ thù đã ngầm sai người chờ lúc vắng vẻ lội xuống giếng, cắm cọc để gieo họa cho gái làng này. Về sau, các cụ bô lão trong làng phải cử người canh gác cẩn mật và cứ ít lâu, lại phải xuống giếng mò cọc một lần, để tránh cho gái làng khỏi cái nạn “hoảng chưa”

"Vợ chồng thấy nói mừng lắm, thụp xuống lạy, xin đem hài cốt ông Thân phụ để cụ táng. Táng xong cụ dặn lại rằng: Ngôi đất này mạch cực kỳ quý, sau này tất sinh Trạng. Cậu bất tất phải học mà tài trí hơn người, đối ứng cực giỏi. Trong thời Vua yêu, Chúa dùng> Ra ngoài thời tùy cơ ứng đối. Sự nghiệp cực kỳ ngộ. Chỉ hiềm ông chưa được trông thấy. Nói rồi từ đi.Vợ chồng ông ấy cố nèo như thế nào cũng không chịu ở nữa.Từ đấy, chân mây dấu Hạc, đi tróc Long- Tầm Hổ về phương nào không biết. Sau có thơ khen rằng:

Tả ao Phong thủy nhất trên đời
Họa phúc cầm cân định chẳng sai.
Mắt Thánh trồng xuyên ba thước đất,
Tay Thần xoay chuyển bốn phương Trời.
Chân đi Long Hổ luồn qua gót,
Miệng gọi Trâu Dê ứng trả lời.
Ai muốn cầu sao cho được vậy
Ấy ai Địa lý được như ngài.


Từ khi cụ Tả ao táng mả cho, vợ chồng hàng thịt buôn bán phát đạt vô cùng.

Theo tư liệu của Cao Trung thì cụ Tả ao không truyền nghề cho ai về nghề cụ đã học.( Có lẽ trước khi truyền bí quyết cho cụ, ông thày Địa lý người Tầu đã dặn cụ như vậy hoặc vì Thiên cơ bất khả lậu, hoặc là vì khó đoán định được ai là kẻ đáng được hưởng sự truyền dạy). Khi mất cụ Tả ao để lại cho hậu thế hai bộ sách quý giá về Địa lý. Dĩ nhiên qua hai bộ sách này chưa hẳn có người đã hiểu thấu đáo về những gì gọi là vi diệu thâm sâu của khoa Phong thủy- Địa lý, nếu không có thầy chỉ vẽ và giải thích những tàng ần trong câu chữ viết..

Dù sao, hai bộ sách ấy cũng đã mở mang thêm kiến thức cho các nhà Phong thủy Việt nam sau đó và đã phần nào nói lên được sự quan trọng của một môn học quý giá mà hậu thế dễ làm thất truyền. Để lại hai bộ sách Địa lý đó, có lẽ cụ Tả ao đã có chủ đích, nếu không cụ đã hủy trước khi cụ qua đời.

(Sưu tầm)