PDA

View Full Version : Phép Nói Và Viết Hỏi Ngã


LSB-Sun
17-04-2007, 10:15
TÍNH CÁCH ÂM HỌC CỦA HAI THANH HỎI NGÃ

1. Tiếng Việt là tiếng có nhiều thanh, hơn cả tiếng Tàụ Những thanh này chia làm hai loại: loại thanh thuần là loại thanh biến.

2. Thanh thuần là những thanh có một tính cách đơn thuần, và giữ mãi tính cách ấy từ đầu đến cuối:

Những tiếng luôn luôn giọng ngang nhau, mà ta thường viết không dấu
Những tiếng luôn luôn giọng cất cao lên, mà ta có thể viết không dấu hoặc phải viết với dấus sắc
Những tiếng luôn luôn giọng kéo dài xuống, mà ta phải viết với dấu huyền
Những tiếng giọng rớt xuống rồi dừng liền, mà ta phải viết dấu nặng
Ở khắp cõi Việt Nam, ai cũng nói được và tất nhiên, viết đúng bốn thanh thuần này

3. Những thanh biến không giữ mãi một tính cách. Khi phát tiếng ra thì, ban đầu theo tính cách này, rồi biến liền sang tính cách khác:

Hoặc mới phát ra, giọng đưa lên, rồi biến thành đưa xuống: ấy là những tiếng phải đánh dấu hỏi
Hoặc mới phát ra, giọng cho xuống rồi biến thành đưa lên: ấy là những tiếng phải đánh dấu ngã
Những người từ Thanh Hoá trở ra, đều phân biệt được như vậỵ Bởi vì, khi nói, họ để luồng hơi ra lâu, có thời giờ mà biến thanh rõ ràng được. Những người từ Nghệ, Tịnh trở vào, đều nói không được. Bởi vì, khi nói, họ cho luồng hơi qua mau quá,không có thời giờ mà biến thanh cho kịp.

4. Tuy người đàng ngoài nói đúng hỏi, ngã, song không phải ở địa phương nào cũng nói y như nhaụ

Ví dụ như nói dấu hỏị Có nơi thì nói phần đưa giọng lên nhiều, phần đưa giọng lên nhiều, phần đưa giọng xuống ít. Có nơi thì trái lại, đưa giọng lên ít, đưa giọng xuống nhiềụ Vì vậy mà mỗi vùng có giọng đặc biệt của mình. Nhưng dầu thế nào, vẫn theo đúng tuần tự lên xuống.
Còn như nói dấu ngã, thì cũng vậỵ Có nơi đưa giọng xuống nhiều, giọng lên ít. Có nơi đưa giọng xuống ít, giọng lên nhiềụ Bởi thế mà mỗi vùng có đặc biệt của mình. Nhưng dầu thế nào vẫn nói đúng theo tuần tự xuống lên.
Nói tóm lại, bất cứ giọng địa phương nào, hỏi ấy là lên rồi xuống và ngã ấy là xuống rồi lên. Dựa vào thời gian làm thứ nguyên để lộ cách biến chuyển của hai thanh ấy thế nào, chúng ta thấy hai thanh ấy biến theo hai chiều nghịch nhau luôn.

5. Vậy, muốn nói được rõ ràng hỏi, ngã, tất phải theo cho đủ hai điều kiện này

Nói cho luồng hơi ra vừa lâu, đủ thời giờ để ta chuyển thanh
Phải chuyển thanh đúng theo mỗi loại: gặp hỏi trước cho lên, rồi mới xuống; gặp ngã trước cho xuống, rồi mới cất lên
Nếu theo đúng như trên, thì nói, đọc hỏi ngã sẽ không còn khó khăn gì cả

HAI BỰC BỔNG, TRẦM

6. Sáu thanh trước có thể sắp vào hai bực bổng, trầm tuỳ theo sự phát âm cao hay thấp

Bực bổng gồm những tiếng không phải đánh dấu, hoặc phải đánh dấu sắc, dấu hỏị

Bực trầm gồm những tiếng phải đánh dấu nặng, dấu huyền, dấu ngã. Trong hình vẽ, ta ghi bằng những lằn ở dưới lằn phẳng.

Vậy về mặt tương đối, hỏi và ngã khác nhau, vì thuộc vào hai bực khác nhaụ Hỏi thuộc về loại bổng. Ngã thuộc về loại trầm

7. Vậy ta dựa vào độ cao thấp của mỗi tiếng làm thứ nguyên để ghi hai thanh hỏi, ngã, chúng ta thấy rằng hai thanh ấy ở vào hai vị trí đối nhaụ

Hỏi là thanh cao, ở vào bực bổng
Ngã là thanh thấp, ở vào bực trầm

Ở nhiều địa phương, có ngườinói hay kéo dàị Họ nói hỏi, mà kéo xuống nhiều quá, nghe như xuống đến bực trầm. Hoặc họ nói ngã, mà kéo lên nhiều quá, nghe như vượt lên bực bổng. Tuy vậy, phần căn bản vẫn ở đúng vị trí của nó.

8. Hai phương diện nhận xét, hoặc do theo cách biến chuyển của mỗi thanh, hoặc do theo bực cao thấp, có thể nào tương phản nhau chăng?

Không

Thanh hỏi ở vào bực bổng và là một thanh biến. Đã cất giọng lên rồi mà phải biến, nếu còn càng cất cao lên nữa, thì là thanh sắc, nên phải hạ giọng xuống mới ra một giọng khác hơn là sắc.


Thanh ngã ở vào bực trầm và là một thanh biến. Đã rớt giọng xuống rồi, mà phải biến, nếu còn càng cho rớt nữa, thì lại là thanh nặng; nên phải cất giọng lên lại mới ra một giọng khác hơn là nặng.

Vậy ở vào bực trầm mà biến đi, thì phải theo tuần tự xuống lên

9. Xét hai hiện tượng tên, ta thấy rằng cách biến của mỗi thanh tùy theo vị trí của thanh nàỵ Vậy có thể lấy vị trí của thanh mà làm cái định nghĩa đầy đủ của nó.

Thanh hỏi là một thanh biến ở vào bực bổng
Thanh ngã là một thanh biến ở vào bực trầm

MUỐN NÓI ĐƯỢC HỎI, NGÃ

10. Sự phân tích ở trước đã chỉ rằng hai thanh hỏi, ngã khác nhau như hai điệu nhạc. Vì vậy mà muốn nói được hai thanh này, chúng ta phải tập như là tập hát hai điệu nhạc khác nhaụ Và phép tập nói, được trình bày ở đây, cũng phỏng theo phép tập hát.

11. Bắt đầu, phải tập nghẹ Trẻ con ở đàng ngoài, vừa mới nhớm có trí khôn, là đã nghe thật lâu, rồi mới bập bẹ vài lờị Và bởi chúng nó biết nghe phân biệt hỏi, ngã, mà chúng nó nói được rõ ràng.
Người học hát cũng thế. Lỗ tai của họ đã quen một điệu hát, biết phân biệt điệu hát của mình học, trong muôn điệu, thì mới có thể hát đúng được.
Khi ta tập nghe, tất nhiên phải nghe những người nói đúng, nhất là những trẻ con đàng ngoài, vì tiếng nói của chúng nó trong trẻo hơn. Khi chúng nó nói mau, mà ta phân biệt kịp được tiếng nào thanh hỏi, tiếng nào thanh ngã, ấy là phần thứ nhất đã xong rồị

12. Kế đến tập nóị Khi lỗ tai đã quen rồi, thì tất nhiên miệng nói theo ý được. Ban đầu còn ngượng chút ít. Nhưng việc biến thanh không phải là khó, đối với kẻ biết lên giọng xuống giọng. Nên cẩn thận nơi tuần tự trước sau, như đã bày ở trước.
Cũng nên lấy tay mà vẽ trên không lằn cong mô tả sự lên giọng, xuống giọng, giống như người chỉ huy cuộc hoà nhạc ra dấu vậỵ Cách thực tiễn này, nếu được các nhà giáo áp dụng ở nhà trường, sẽ đem lại mau lẹ những thành tích tốt đẹp.

13. Sau là phải luôn luôn thực hành. Nói chuyện với người đàng ngoài phân biệt hỏi, ngã đã đành, mà nói với ai cũng giữ cho nghiêm nhặt, chẳng cho saị Lại cũng nên dùng mọi phương pháp để cho chung quanh mình, ai nấy đều nói phân biệt hỏi, ngã. Ở nhà trường, các nhà giáo phải nghiêm khắc. Ở sân khấu, các diễn giả phải thận trọng cách phát ngôn. Ở diễn đàn, mọi người phải tập nói trúng.... Thì lần lần, phong trào lan rộng, sẽ lôi cuốn được số đông theọ

14. Chừng ấy, mỗi người đều nghe chung quanh mình phân biệt rõ ràng, sẽ xem việc nói cẩu thả của mình như là một việc nới đớt. Rồi sẽ xấu hổ, tự chữạ Lại gặp hoàn cảnh thuận tiện để chữa được vì có khác nào trẻ con ở đàng ngoài, đã nghe mọi người nói phân biệt, ắt sẽ nói phân biệt dễ dàng.
Rồi một thế hệ sau, khi mỗi người đã phân biệt hẳn hoi rồi, thì tình trạng ngày nay chỉ có ở đàng ngoài, sẽ được phổ cập toàn cõi Việt Nam. Vấn đề hỏi ngã sẽ giải quyết xong rồi vậỵ

15. Nhưng trước khi đến được tình trạng đẹp đẽ ấy, phải trải qua một hồi quá độ Ấy là lúc mọi người biết cách nói và nói được, viết được hỏi, ngã, nhưng hãy còn chưa thuần thục và tự nhiên được như người đàng ngoàị Gặp một tiếng, thuộc về loại các thanh biến, không biết nó là thanh nào, hỏi hay là ngã. Vậy làm sao mà nói đúng, viết đúng được? Nói cách khác, thì đâu là phương pháp để phân biệt tiếng ấy có thanh hỏi hay ngã. Chúng ta sẽ có trả lời ở phần sau nàỵ

LÀM SAO BIẾT ĐƯỢC
TIẾNG NÀO HỎI TIẾNG NÀO NGÃ

- Phương Pháp Tự Nhiên :

16. Khi ta biết cách nói rồi, muốn có thể phân biệt tiếng nào hỏi, tiếng nào ngã, thì nên theo phương pháp tự nhiên hơn hết, là học
Phương pháp này đã đem lại những công hiệu rõ ràng. Nhiều người ngoại quốc, tuy nói tiếng Việt rất khó khăn, song đã chịu khó học cẩn thận rồi, thì nói, viết rất đúng hỏi ngã. Nhiều người đàng trong, chịu khó học, cũng nói được viết đúng như người đàng ngoàị
Mà bằng chứng đích xác hơn hết là, cả một cõi Bắc Việt, ai cũng nói đúng nhờ học từ thuở bé ở nơi chung quanh mình.

17. Cái may của người đàng ngoài, là sự học này là một cái học thường xuyên, trong mỗi lúc nghe nói, trong mỗi lúc nói, mà người học thấy cực nhọc hay để tí công cố gắng nàọ Chung quanh mình, cha, mẹ, anh, chị, bè, bạn, lối xốm, thảy là người thầy sẵn sàng dạy mình, và lại những ngưòi thầy dạy đúng phương pháp tự nhiên. Kết quả là lên năm, lên sáu tuổi, đứa bé đã học xong rồi, đến trường khỏi phải trở lại vấn đề
Cái rủi của người đàng trong là không có trường học tự nhiên ấỵ Ngay nhà trường chính quy cũng vẫn là một lớp học thiếu sót về vấn đề nàỵ Thầy giáo nào có công, cũng chỉ dfạy cho học trò đánh dấu đúng, khi viết. Chúng tôi chưa hề gặp một thầy giáo nào ở đàng trong đã dạy học trò nói thanh ngã, thanh hỏi bao giờ. Và cũng chớ nên trách họ, vì chính họ còn chưa nói được thay!

18. Vậy cần phải học, tuy trong những điều kiện khắt khe hơn, nhưng phải cố tìm tạo ra một hoàn cảnh gần như tự nhiên, và dõi theo một phương pháp tự nhiên.
Hoàn cảnh ấy, là một nhóm người biết cố gắng nói đúng, viết đúng hỏi, ngã. Phương pháp ấy, là nên học thuộc lòng, không khác nào trẻ con mới học nói phải thuộc tiếng mới, không khác nào người ngoại quốc học nói phải học thuộc tiếng lạ

Trong khi nói chuyện, nếu phải dừng trước một tiếng để suy nghĩ nên nói thanh nào, thì làm sao cho lời được suôn, lại còn nói chi đến việc trổ tài hùng biện? Trong khi viết, nếu phải dừng mỗi lúc để suy nghĩ nên đánh dấu nào, thì làm sao chép kịp lời của người, hay ghi cho kịp nguồn hứng của mình?

19. Học phải chọn sách. Học về hỏi, ngã, không có gì qua từ điển, tự điển, tự vị Những người có tiếng là viết đúng chính tả, như Phan Khôi, Phan Văn Hùm, thường thú nhận rằng không có dụng cụ nào hơn là tự điển để tra cứu, mỗi lần trí nhớ của họ hơi lờ mờ
Ngày nay, những từ điển, lấy tiếng Việt làm nền để cắt nghĩa và điển chế tiếng Việt, thật là khó tìm. Một vài quyển hãy còn lưu hành, nhưng lại rất cẩu thả về vấn đề chính tả.

20. Học trong tự điển là một việc rất mau chán. Vì vậy mà cần có một lối học mau lẹ, lại có nhiều kết quả.
Lối học thực tiễn này dựa vào những nhận xét sau đây:

Trong tiếng Việt, tiếng thanh hỏi nhiều hơn tiếng thanh ngã. Vậy ta học trước hết những tiếng thanh ngã, ắt ít tốn công hơn. Còn tất cả những tiếng nào thừa lại, là to cho thanh hỏị Dựa theo sự nhận xét này, chúng tôi trích đăng ở phần phụ lục một bảng kể những tiếng thanh ngã để cho tiện việc học thuộc lòng.

Trí nhớ muốn được chắc chắn, cần nên vận dụng tất cả các cơ quan, tai nghe, mắt nhìn, tay viết. Phần lỗ tai đã được chú trọng rồị Còn nên cho quen mắt, bằng cách đọc kỹ và nhiều những sách đánh dấu đúng, những bản viết tay đánh dấu đúng. Và nhất là tập đánh dấu cho quen mắt, quan tay như người đàng ngoài, dấu hỏi rõ ràng vẽ hình kéo xuống, sau khi đã vòng tròn, dấu ngã rõ ràng kéo lên, sau khi đã vòng tròn. Tay, mắt, tai hiệp nahu làm cho phần máy móc của trí nhớ được vận dụng đầy đủ, thì sự nhớ càng chắc.

Rồi cũng phải làm cho phần thông minh của trí nhớ làm việc, để tập luyện và để củng cố những điều đã học được với một cách máy móc. Vậy cần phải suy nghĩ, để tìm cái lý của sự việc (nghĩa là cái lẽ vì sao phải đánh dấu ngã) và những liên quan của các việc. Đây là một công cuộc đòi lắm hiểu biết. Vậy xin xét ở chương sau.

- Phương Pháp Bác Học :

21. Phương pháp bác học này đòi hỏi nhiều hiểu biết về ngữ âm học, để áp dụng những định luật sự biến di của âm thanh, và về từ nguyên học, để tìm tòi gốc rễ của mỗi tiếng.
Ngữ âm học và từ nguyên học là hai khoa rất khó. Ở Âu Mỹ, vào trường đại học, người ta mới khởi sự cho học các khoa này, còn từ bực trung học trở xuống, chỉ nói cho biết thoáng qua thôị Mà khi đã học xong rồi, phải có óc tìm tòi, khiến suy diễn mới tự mình khảo cứu thêm được. Vì vậy mà phương pháp bác học được nhắc đến sau đây không phải để cho ai cũng dùng được.

22. Đối với tiếng Việt, hai định luật sau đây của ngữ âm học giúp cho chúng ta rọi nhiều tia sáng và vấn đề hỏi ngã:

Những âm thanh thường có xu hướng có gần tính chất với những âm thanh đi cặp với mình. Ấy là luật thuận thinh âm

Những âm thanh thường biến chuyển ra những âm, thanh có gần tính chất với mình.

Ở đây không phải là để khảo cứu về ngữ âm học, nên xin phép không dừng lâu nơi hai luật này, mà chỉ áp dụng chúng nó vào vấn đề hỏi ngã mà thôị

23. Do theo sự khảo cứu ở phần thứ nhất, ta thấy rằng thanh hỏi ở vào bực nhất, ta thấy rằng thanh hỏi ở vào bực bổng. Vậy luật thuận thinh âm mách cho ta biết rằng nó thường đi cặp với những thanh hỏi, ngang, và sắc là những thanh gần tính chất với nó. Ví dụ như:

Hỏi đi cặp với hỏi: bẩn thỉu, mỏng mảnh

Hỏi đi cặp với ngang: thẩn thơ, mơn mởn

Hỏi đi cặp với sắc: khỏe khoắn, lấp lửng

Còn thanh ngã ở vào bực trầm, gần với những thanh huyền, nặng. Vậy luật thuận thinh âm mách cho ta biết rằng nó thường đi cặp với những thanh ngã, huyền,nặng là những thanh có gần tính chất với nó. Ví dụ như:

Ngã đi cặp với ngã: bãi hãi, lẽo đẽo

Ngã đi cặp với huyền: bão bùng, hiền ngõ

Ngã đi cặp với nặng: nhão nhẹt, chậm rãi

24. Nếu đảo ngược tính cách trên, chúng ta có thể nêu được cái thông lệ thực tiễn để tìm tiếng nào có thanh ngã (luật Nguyễn Đình)

Tiếng có thanh ngã là những tiếng đi cặp với tiếng thanh ngã, nặng hay huyền

25. Tuy nhiên, thông lệ này có rất nhiều ngoại lệ Trong bảng phụ lục sau đây, chúng tôi đánh dấu sao ( + ) những tiếp cặp nào ở ngoài lệ nàỵ Độc giả sẽ thấy rằng số ấy không phải là ít, và phương pháp bác học, tuy đòi hỏi rất nhiều hiểu biết và suy nghĩ, vẫn không bằng phương pháp tự nhiên

26. Khoa từ nguyên học, áp dụng vào tiếng Việt, cho ta biết rằng những tiếng họ hàng, hoặc biến chuyển ra, thường có những thanh gần với thanh cội rễ.

Như ba thanh ngang, sắc, hỏi biến chuyển qua lại với nhau. Ví dụ: chưạ..chửa; miếng...miểng; cảnh...kiếng; chẳng...chăng; thể...thế
Còn ba thanh huyền, nặng, ngã, biến chuyển qua lại với nhaụ Ví dụ: rồị..rỗi, chậm...chẫm; cữụ..cậu; lỡ ... lợ; cũng....cùng.

27. Nếu đảo ngược tính cách này, chúng ta có thể nêu được cái thông lệ thực tiễn để tìm tiếng nào có thanh ngã

Tiếng có thanh ngã là những tiếng do tiếng thanh ngã, nặng, huyền biến chuyển ra

28. Ngoài ra còn những tiếng Hán Việt mà cách phát thanh theo những định luật phiền tạp, và sự áp dụng các định luật ấy chưa chắc gì đơn giản hơn là theo phương pháp tự nhiên là học ngay cho thuộc lòng. Lại các định luật này có rất nhiều ngoại lệ, mà nhớ cho được và cho đủ, cũng cần phải học thuộc lòng. Vậy thì, làm thế nào, vẫn khó tìm một phương pháp, duy lý dễ dàng, cho vừa tầm thực dụng của bình dân

Tốt hơn là dùng phương pháp tự nhiên, đã dễ dàng, còn đem lại nhiều thành tích tốt đẹp

29. Tuy vậy, những định luật kể trên vẫn có giá trị là những kim chỉ nam cho những nhà khảo cứu, để tìm tòi chính tả và điển chế tiếng Việt. Giá trị của nó là giá trị của một phương pháp bác học, và chỉ có giá trị ấy trong địa hạt của khảo cứụ Cố đem ra ngoài địa hạt ấy và biên thành những thông lệ thực tiễn, chưa ắt là hạp với kinh nghiệm của khoa sư phạm.

Trái lại, nếu ta đã dùng phương pháp tự nhiên mà học thuộc lòng rồi, lại áp dụng thêm phương pháp bác học để khảo chính và củng cố trong trí nhớ những điều đã học được, thì là một việc thêm haỵ

30. Đặc sắc của khoa học không phải là dừng nơi một phát kiến nào, mà ở nơi sự tìm tòi và phát kiếm thêm mãị Vấn đề hỏi ngã không phải ở trọn trong luật Nguyễn Đình và luật tứ thinh

Đứng vào một sở cậy khác, rọi một nhấn quang khác, chắc chắn sẽ tìm thấy việc khác có thể giúp cho ta hiểu rõ thêm vấn đề.

Như có người (Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Tuân, Thế Lữ...và chúng tôi) nghĩ rằng tiếng Việt nam là một tiếng "nhạc ý" (nghĩa là dùng âm thanh cao, thấp, dài, ngắn mà diễn ý), khác hơn tiếng Tàu là một tiếng "hội ý" (nghĩa là dùng nét vẽ mà tượng ý). Thế thì, hỏi hay ngã, tất phải có quan hệ với ý của tiếng dùng. Nhắc đến giả thuyết này, chúng tôi chỉ có ý mách rằng có thể khảo cứu và suy luận thêm về vấn đề hỏi ngã, chớ chưa định ý lập một cái luật nào mớị

hai_sama
08-06-2007, 23:47
trời oi..nhièu và phức tạp quá di=) hay là do trình dộ của đệ quá ngăn...
dọc mà kh hiểu=)