PDA

View Full Version : Tết và Phong Tục của ngày Tết


LSB_Lãng Tử
28-10-2006, 17:34
1- Phong tục Tết
Ở miền Nam trước đây thông thường người ta chuẩn bị tết từ rất sớm. Mỗi gia đình nông dân đều có dành một thửa ruộng trên khu đồng của mình cấy một giống nếp ngon thêm để đồ xôi, làm bánh. Khi những dé lúa nếp bắt đầu lấm tấm những hạt đỏ ở đuôi (chưa chín già) nhà nào cũng chọn cắt ít bó về đâm cốm dẹp. Trong những đêm đầu tháng chạp, khắp xóm thôn đâu đâu cũng rộn ràng tiếng chày giã cốm "cúp cum" nghe rất vui tai.

Khi mùa màng thu hoạch xong thì không khí tết ở thôn làng rộn lên trong tiếng chày quết bánh phồng. Loại bánh nay làm bằng gạo nếp nấu chín bỏ vào cối giã như giã giò, quết cho thật nhuyễn, rồi ngắt từng viên cỡ nắm tay dùng ống tre xoa mỡ cán mỏng ra thành hình tròn như chiếc bánh đa nem, dày độ một ly. Gọi là bánh phồng, vì khi để trên lửa nướng nó phồng tướng lên cả chiều dày lẫn vòng tròn. Chiếc bánh mỏng như chiếc đĩa ấy, khi nướng chín nó nở to bằng cái chậu thau rửa mặt và chiều dày phồng lên hơn một phân tây. Người ta còn phơi những nong bột nếp phơi khô để dành gói bánh ếch.
Ở miền Nam, bắt đầu từ hai mươi tháng chạp ta, khắp nơi mở những phiên chợ Tết cho đến giao thừa đêm ba mươi. Quầy hàng hoa tươi, rau quả, bánh mứt, vải vóc, thịt cá... đều trang hoàng hấp dẫn. Nhưng đông vui nhất phải nói là chợ dưa. Tại các chợ, thuyền chở dưa đổ lên chất thành đống như núi. Nỗi tiếng nhất là dưa Trảng Bàng, Trà Vinh... Bỗ quả dưa ra, ruột đỏ như son, hạt đen huyền nhỏ rít, thịt óng ánh như hạt đường kính, ăn ngọt tê cả răng. Người ta mua dưa về trước để cúng tổ tiên ngày tết trên bàn thờ nhà nào cũng thấy hai quả dưa hấu to cỡ quả ấm tích. Người ta dán lên lớp vỏ xanh mượt của mỗi quả một miếng giây hồng điều cắt thành hình bông hoa xinh xắn, và đặt nó ngồi chễm chệ giữa mấy nải chuối chín vàng tươi xếp vây tròn quanh một chiếc đĩa bằng sứ màu trắng. Mỗi quả dưa đội trên đầu một trái hồng khô ép dẹp như trùm lên chiếc mũ nồi màu xám. Người ta còn đặt lên trên cùng, một quả quýt đỏ mọng, giống như cái mào gà ngất ngưởng. Cạnh hai trái dưa, bắt buộc phải có hai bánh đường phỗi. Ðường phỗi không phải là đường mà là một thứ quả ngọt chế tạo bằng đường cát và lòng trắng trứng gà. Hình bánh đường ấy giống hệt một lá phỗi người và bên trong có nhiều lỗ hỗng cũng như phỗi người. Ðường ấy cứng như đá, để cả năm cũng không chảy nước và chỉ đập ra cho trẻ con ăn chơi sau tết, mặc dầu dùng đường này nấu chè thì rất ngon. Có nhà bầy mâm ngũ quả, mà nhiều khi số trái cây lại vượt quá con số năm. Người ta chú ý đến bốn thứ trái cây: mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, mà theo cách phát âm miền Nam hiểu là "cầu vừa đủ xài".

Cũng có nhà đĩa trái cây, dưới hết là năm bảy nải chuối, bắt buộc là chuối sứ, không phải nghi lễ nào cả, mà vì chuối sứ chín rất chậm, sau ba ngày tết chuối vẫn còn chưa rục. Trên chuối phải có hai món bắt buộc nữa, không biết lý do, là cam Tàu, loại cam mà Âu Châu không gọi là Orange mà gọi là Tangerine và hồng phơi khô, cả hai thứ này đều là hàng nhập cảng từ Trung Quốc gởi sang, vào dịp Tết ta, còn ngày thường thì xưa kia không bao giờ có bán như sau này.

Gần đến tết, người ta sắm tranh Tết, hoa Tết, thường có cành mai cắm trên lọ độc bình trên bàn thờ và trang hoàng từ trong nhà đến ngoài ngõ. Trước đây người ta hay cắt giấy vàng bọc thành những ô vuông hay hình quả trám dán trên cỗng, cửa, cột nhà, chuồng trâu, chuồng heo, cối xay, cối giã, lu nước, cây ăn trái trong vườn... Người ta cũng đem lư đồng ô trầu chén dĩa, ly tách chậu hoa, bình rượu ra đánh bóng, lau sạch.

Ngày Tết, ngày xuân là ngày hội đoàn tụ, đoàn viên, nếu không thì là những ngày nhớ thương da diết nhất. Trước tiên là nghĩ đến những người đã chết, họ tổ chức đi chạp mộ để tỏ lòng "uống nước nhớ nguồn". Chiều 23 tháng chạp, "đưa ông Táo về trời". Ngày 30 làm một mâm cơm cúng tổ tiên, gọi là lễ "rước ông bà" và sau đó đến ngày mồng 3 tháng Giêng thì làm lễ "đưa ông bà".

Người ta cũng dựng nêu, đốt pháo, nhưng lại thích gói bánh tét chứ không gói bánh chưng. Bánh tét có nhiều loại: bánh tét chay, bánh tét mặn, bánh tét ngọt. Bánh tét chay không nhân. Người ta chỉ trộn đo đen vào nếp rồi gói lại đem nấu. Có thể cho thêm vào cùi dừa nạo nhuyễn để tăng vị béo. Gói bánh tét mặn, người ta trải gạo nếp trên lá chuối, rải lớp đo xanh lên, rồi đặt một thỏi mỡ gần bằng ngón chân cái dài suốt đòn bánh như một sợi bấc, xong cuộn tròn lại buộc chặt. Bánh tét ngọt nhân làm bằng đo xanh xào đường.

Mâm cơm cúng tất niên chiều 30 tết, thường quy tụ đủ mặt mọi người thân trong gia đình. Tục xưa quan niệm rằng mỗi năm có một ông Hành Khiển coi việc nhân gian, hết năm thì thần nọ bàn giao cho thần kia, nên cúng tế, đốt pháo là để tiễn đưa ông cũ và đón ông mới. Trong số những câu liễn treo ngày Tết có câu: "Bộc trúc nhất thanh trừ cựu tuế, Ðào phù vạn hộ khánh tân xuân" (một tiếng pháo tiễn đưa năm cũ; muôn nhà, bùa đào tức cây nêu đón chào năm mới).

Giao thừa là thời điểm thiêng liêng giữa năm cũ và năm mới, khi đất - trời giao cảm, muôn vật như tạm thời ngưng đọng trong giây phút để rồi bừng ra một sức sống mới, một sự tái sinh kỳ diệu.

Ba ngày tết là ba ngày vui chơi, ăn uống, thăm viếng, chúc mừng nhau những điều mới mẻ, tốt lành. Một tập quán phỗ biến là trong những ngày đầu năm, mọi người đều chỉ nói ra những lời hay, ý đẹp, gặp nhau chào mừng, hy vọng mọi điều như ý. Bao điều không vui, không vừa lòng năm trước đều bỏ đi. Sách Gia định thành thông chí của Trịnh Hoài Ðức, trong mục "Phong tục chí" có đoạn: "Phàm những khoản vay mượn thiếu thốn trong tiết ấy không được đòi hỏi, đợi ngày hạ nêu mới được nhắc đến.

mồng một người ta thường hay đến cúng vái và thăm hỏi những nhà bên họ nội, mồng hai sang lễ tết bên nhà vợ và mồng ba đến thăm thầy, vì thế có câu "mồng một tết cha, mồng hai nhà vợ, mồng ba nhà thầy". Khi đến thăm họ hàng, bạn bè, người ta thường chúc nhau mạnh khỏe, sống lâu, may mắn gọi là "làm tuổi", và "lì xì" tức là cho tiền vào phong bao giấy đỏ "mừng tuổi cho trẻ em".

ở miền Nam, bốn món cúng và là bốn món ăn ngày Tết, món thứ nhất là thịt hầm. Bắt buộc phải là thịt bắp đùi, hầm cho nhừ với vài vị thuốc Bắc. Món này chỉ để ăn chơi chớ không ăn với cơm. Món thứ nhì là thịt kho tàu, bắt buộc phải là thịt ba rọi (ba chỉ) và bắt buộc phải lớn miếng phải to ít lắm cũng bốn phân trên bốn phân và bắt buộc phải đo vào nồi thịt kho ấy ít lắm cũng một trái dừa xiêm, để cho món thịt kho ấy lạt đi, hầu ăn được to miếng. Món thứ ba là khỗ qua nạp ruột dồn thịt heo bầm nát vào đó rồi cũng hầm y như hầm món thịt nói trên. Món thứ tư thật ra là hai món nhưng chỉ để ăn chơi nên xem như một, đó là nem và bì. Rau chỉ có một thứ độc nhất và cũng bắt buộc, ấy là món dưa giá tức là giá sống ngâm trong nước có ít muối. ¡n bất kỳ món nào trong bốn món kể trên cũng bắt buộc ăn với dưa giá.

Những món trên đây chỉ cúng và ăn tới chiều mồng hai thì thôi, sang ngày mồng ba phải cúng và ăn món khác như gà, cá. Muốn cho đỡ ngấy vì thịt mỡ, người ta thường nấu một nồi cháo cá ám, ăn với rau ghém, chuối cây xắt mỏng và các loại rau thơm, rau mùi, một con cá lóc nướng ăn với lá bông súng non hay đọt vừng.

Ngày tết thường có nhiều trò vui đặc biệt như đá gà, đá cá lia thia, thi cây kiểng, đu tiên, đua ghe, đánh bài, đánh me và xóc đĩa...

Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, bà con miền Nam được ăn tết trong hòa bình, hạnh phúc. Những lễ tục phiền toái, lãng phí xa hoa, tốn kém thời giờ và tiền của, hoặc mang tính chất mê tín, dị đoan, những trò chơi đỏ đen có tính chất ăn thua, đều được nhân dân tự giác loại bỏ. Quan niệm kéo dài ngày vui chơi để bù lại quanh năm vất vả "tháng giêng ăn Tết ở nhà" cũng được sửa đoi để phù hợp với nhịp điệu khẩn trương của xã hội hiện đại. Nhưng không phải vì thế mà những nét đẹp cổ truyền đậm đà màu sắc dân tộc cũng như không khí vui tươi phấn khởi rộn rịp mang ý nghĩa mới chúc nhau lao động sáng tạo, tăng thêm sức khỏe, niềm vui của ngày Tết lại giảm đi. Minh Vũ (Xuân - Việt Nam Kinh tế - Xã hội - Số 1.1997

LSB_Lãng Tử
28-10-2006, 17:36
2- Tết và Hội tết
Tết về có bao lễ tiết, bao phong tục, bao điều vui, cũng có biết bao trò chơi lý thú nhằm nhắc lại lịch sử làng xóm: rèn luyện thân thể, thi thố tài năng, trí thông minh và đức tính nhẫn nại, kiên trì khắc phục khó khăn, vốn là đức tính của người Việt Nam xưa và nay.

Bao hội thi được mở ra trong những ngày đầu, tuần đầu, tháng đầu của mùa xuân đẹp nhất trong một năm.

Từ hội thổi cơm thi...
Thổi cơm thi là một phong tục có từ lâu đời và khá phỗ biến ở làng quê Việt Nam trước đây.

Vào các dịp hội xuân hàng năm, nhân dân thường tổ chức trò vui thỗi cơm thi khác nhau. ở những làng cạnh sông nước thì thổi cơm thi trên thuyền thúng, gió thổi tứ bề ngồi bập bềnh trên nước. Có nơi vừa đi vừa thổi, hoặc vừa dỗ trẻ em đun nòm ướt, được cơm chín, dẻo ngon mới giành được giải thưởng.

Muốn có nồi cơm sôi rồi chín, phải có chất đốt tốt cho đượm ngọn lửa. Do đó cuộc thi còn gây thêm khó khăn về chất đốt. ở huyện Từ Liêm xã Nghĩa Ðô (xưa), bắt dùng mía tươi làm củi, người thi phải ăn mía lấy bã mà nấu cơm.

Tại Tây Mỗ, hàng năm có thi thổi cơm theo kiểu vừa đi, vừa nấu. Bất kể nam, nữ, người dự thi có cành tre dẻo như cần câu, buộc chặt ra đằng sau lưng, vắt đầu mềm ra đằng trước để buộc quanh nồi đã có sẵn gạo, nước, người dự thi mang theo hai thanh giang hoặc nứa khô để kéo lửa và một bùi nhùi rơm nhỏ để tiếp lửa. Cả hội đứng sẵn trước vạch vôi xuất phát, trước ngực lủng lẳng quang nồi. Một hồi trống chuẩn bị. Mọi người tước mía, nhá kỹ cho khô thành củi, đợi dứt hồi trống thứ hai thì nổi lửa nấu cơm và đi tới đích, không được dừng lại. Qua mỗi bước đi, nồi gạo lại rung rinh, ngọn lửa bị gió tạt, phải khôn khéo lựa bề che đậy. Ai vừa đi vừa nấu, tới đích sớm nhất, cơm vừa chín tới ngon dẻo thì được trao giải.

Tương truyền: Lối thổi cơm thi này nảy sinh từ thời An Dương Vương trong hoàn cảnh vừa hành quân cấp tốc, vừa phải nấu cơm ăn.

ở Tây Tựu có năm vừa thi thổi cơm trên thuyền vừa thi thỗi cơm trên cạn, rất sôi nổi nhộn nhịp.

Thổi cơm thi cũng là một hình thức thể thao dân tộc, vui nhộn có ý nghĩa nhiều mặt ở các vùng quanh Thăng Long.

... Và Hội đâm đuống.
Ðâm đuống được tổ chức chủ yếu vào dịp tết Nguyên Ðán.

Ðâm đuống thực chất là hình thức giã gạo, nhưng là giã gạo trong hội lễ, có tính tổ chức và nghệ thuật.

Ðồng bào Mường (Vĩnh Phú) giã gạo bằng cối gỗ hình chiếc thuyền, lườn dài từ hai tới ba sải tay, chiếc chày giã cũng dài như đòn gánh, giữa thân thon để vừa tay cầm. Ðâm đuống hội lễ là giã gạo chày tay vào cối đuống và chỉ do phụ nữ biểu diễn. Cả làng cùng giã, nhưng nhà nào giã ở nhà ấy.

Mở đầu, một bà nhiều tuổi nhất trong nhà đứng đầu cối, giã ba tiếng để mở màn, thành ba tiếng "Kênh, kênh ,kinh". Nghệ thuật ở đây là làm sao giã thành ba âm thanh như trên. Chày người già khai mạc như thế gọi là "Chày cái". Sau đó đến con gái, cháu gái trong nhà giã, gọi là "chày con", "chày cháu".

Trong nhà có bao nhiêu phụ nữ là phải chuẩn bị bấy nhiêu cái chày và đủ số cụm lúa mà vẫn giữ đúng nhịp điệu, hòa âm nhịp nhàng cùng hàng trăm chày khác. Vì âm thanh cối đuống là "kênh, kênh,kinh" nên đồng bào bảo rằng đó là cối đuống hát "vui xuân mới, vui xuân mới", hoặc "cơm cơm trắng, cơm cơm trắng".

Theo nhịp tay đâm đuống mau hay chậm mà tiếng chày chuyển điệu sang những âm thanh khác nhau có nhịp hai xen nhịp ba, nhịp một xen nhịp ba... Khi đôi nhịp, là tất cả từng ấy chày trong thôn đều cùng đổi, chẳng hạn: "kênh, kinh, kênh kinh" hay "kênh kênh kinh, kênh kinh", "kinh kinh, kinh kinh".

Ðâm đuống thật sự là một cuộc hòa nhạc bằng cối giã có động tác múa đơn giản. Vì ở đây động tác giã đã được nghệ thuật hóa nhằm làm đẹp, mua vui chứ không mang ý nghĩa thực dụng như giã gạo ngày thường.

Ðồng bào còn gọi đâm đuống là "chàm đuống". Chàm là đâm từ trên xuống.

3- Hội mùa

Các dân tộc thiểu số ở rừng Việt Bắc hay trên cao nguyên Tây nguyên, hàng năm khi ngô lúa ngoài nương rẫy đã thu hoạch xong, cái ăn đã chắc chắn trong nhà, thế là cả bản, cả buôn ăn tết được mùa.

Cái Tết vui được mùa luân lưu khắp các nhà trong xóm kéo dài suốt tháng, đến khi ngoài trời có mưa mới, lại bắt đầu vào mùa mới.

Ở các vùng đồng bằng sông hồng, sông cửu long, các làng mạc từ miền bắc vào miền nam, tết mừng được mùa gọi là tết cơm mới ngày 10 tháng10 đương giữa mùa gặt.

Vui được mùa, mong được mùa, ý nghĩa to lớn ấy là mừng lo và cầu mong của cả đất nước. Truyền thống phong tục ân nghĩa ấy có từ xa xưa tới nay.

4- Phong tục thờ cúng

Tín ngưỡng phổ biến của người Việt Nam là thờ cúng tổ tiên. Nhà nào, ở đâu cũng đều bày một bàn thờ ông bà ở một chỗ trang trọng. Người dân Việt Nam quan niệm rằng, dù người đã khuất bao đời, nhưng hồn người và tinh thần người vẫn ở với con cháu trên trần gian. Tết đón năm mới thì ngày tất niên, cúng “tiên thừơng” mời các cụ dưới âm về vui tết với cả nhà.

Những ngày cuối năm nhà nhà đi tảo mộ, thăm nôm mồ mả gia tiên, đồng thời đến tháng ba đi thăm mộ tiết thanh minh . Rồi hằng năm đến ngày giỗ, ngày kỵ phải đèn hương khấn vái tưởng nhớ người đã khuất.

Mỗi năm, tết rằm tháng bảy, tết xá tội vong nhân, người ta thà cá, thả chim tượng trưng cho phóng sinh làm điều lành được phúc, cúng cho các cô hồn làng thang không người cúng giỗ.

Ngày năm, tháng năm và rằm tháng tám, tết vui của con trẻ là mầm non của nòi giống. Những ngày nao nức ấy, trẻ con đeo bùa túi màu sặc sỡ, ăn quả mận uống nước dừa, bôi vôi vào rốn cầu tránh ốm đau, mong ước khoẻ mạnh.

Tết rằm tháng Tám, nhà nào cũng làm vui cho trẻ, có khi cả xóm, cả phố cùng bày cổ, bánh trái, hoa quả, đánh trống, rước sư tử, chơi đèn lòng đèn kéo quân đến lúc trăng lên tròn vành vạch lưng trời, trẻ con xúm vào tưng bừng phá cổ chơi trăng.

5- Lễ cưới

Là sự kiện quan trọng trong đời của người vn. Bởi đây là thời điểm trai gái thành vợ chồng.

Trình tự một lễ cưới ngày xưa rất phức tạp: Đầu tiên là lễ dạm hỏi ( nhà trai mang sính lễ đến nhà gái ăn hỏi)

Sau lễ dạm hỏi, đôi trai gái được coi như là đã hứaaa hôn với nhau; sau đó là lễ sếu ( nhà trai mua hoa quả đến biếu nhà gái; lễ thành hôn (cưới) tiến hành theo ngày giờ đã chọn (ngày lành tháng tốt), nhà trai đến nhà gái đón dâu.

Hôm sau là lễ lại mặt, vợ chồng mới cưới đưa nhau về nhà vợ làm lễ gia tiên. Nghi lễ cưới ngày xưa rất tốn kém.

Ngày nay trình tự dẫn đến lễ cưới thường có bốn bước: tìm hiểu, ăn hỏi, đăng ký kết hôn và cưới. Nghi lễ trong việc ăn hỏi và cưới cũng đơn giản hơn.

6- Sinh con

Là một sự kiện trọng đại trong cuộc đời của người Việt Nam. Người mẹ khi mang thai thường được chăm sóc chu đáo, phải ăn kiêng nhiều thứ, tránh những hoạt động nặng nhọc để khi sanh con được "mẹ tròn con vuông".

Sau khi sinh con, người mẹ phải nằm bếp tha, kiêng ra ngoài gió và chỉ ăn uống thanh đạm. Thực phẩm cho người me thường là trứng gà, vịt; chân giò lợn (được coi là thực phẩm mang lại nhiều sữa nuôi con)

Khi đứa trẻ đầy tháng, gia đình làm lễ "cúng mụ" (do quan niệm là có 12 bà mẹ nặn ra đứa trẻ) lễ cúng thường có một số lễ vật, mội thứ phải có 12 phần. Ngày nay các nghi lễ "cúng mụ" đã được thay đổi thường được tổ chức thành buổi liên hoan mừng trẻ con đầy tháng.

7- Mừng thọ

Trong đời thì ở mỗi tuổi lại một sự đáng trân trọng khác nhau, do tự bản thân gìn giữ hoặc làng xóm nhắc nhở và tôn vinh.

Ngày xưa, bốn mươi tuổi đã được trong làng trong họ quí như lão ông, Lịch sử Việt Nam, đời nhà Trần thế kỷ XII và XIII, vua Trần bốn mươi tuổi nhường ngôi cho con lên trông coi việc nước, còn vua thì nghỉ ngơi và đi tu.

Trong làng, năm mươi tuổi làm lễ lên lình, sáu mươi tuổi lên lão. Dẫu không phải các nhà chức viêc trong làng, nhưng những dịp hội hè đình đám, các cụ lình lão ra chốn đình trung ngồi riêng có trải chiếu cạp điều. Phong tục trọng lão ấy đến bây giờ vẫn được giữ gìn và còn sâu xa ý nghĩa hơn.

Trong gia đình, con cháu nhằm dịp sinh nhật để làm lễ mừng thọ bố mẹ, ông bà. Vợ chồng ăn ở với nhau song toàn 40 năm, 50 năm thì ăn mừng "lễ cưới vàng". Mỗi xã, mỗi phường bây giờ đều có hội thọ của các cụ co tuổi. Các lão ông, các lão bà được trọng vọng như nhau, các cụ bảy, tám mươi tuổi được hội thọ biếu áo điều và chụp ảnh, tặng ảnh lưu niệm.

8- Dâng hương-nét văn hóa Việt Nam

Dân tộc ta có tục dâng hương làm lễ tế thần linh, ông bà, tổ tiên, các vị anh hùng dân tộc. Qua mỗi thời đại, tục dâng hương đã có ít nhiều thay đổi và ngày càng thêm những nét mới, phù hợp với sự phát trển của nền kinh tế-xã hội nói chung và đời sống tâm linh nói riêng.

Trong “Việt Nam phong tục”, học giả Phan Kế Bính cho biết: “Trương Tân là Thứ sử Giao Châu, thường đốt hương ở nhà Cát Lập tinh xà để đọc đạo thư. Tục ta có lẽ khởi đầu từ đó”. Tục dâng hương đến nay đã dần như ổn định trong tín ngưỡng của các dân tộc. Người dân dâng hương cúng bái gia tiên, gia thần vào các kỳ giỗ chạp. Tại các đình, miếu hay chùa chiền đều có dâng hương vào các dịp tết Nguyên đán, tiết Khai hạ (mồng bẩy tháng giêng), tiết Thượng nguyên (mười lăm tháng giêng), Phật đản (mùng tám tháng tư), tiết Trung nguyên (mười lăm tháng bảy)... Hàng năm, theo truyền thống, nước ta có những kỳ lễ dâng hương lớn ở một số địa phương: Hà Nội, ngày mồng 7 tháng 3 ở phủ Tây Hồ thờ Bà chúa Liễu Hạnh, ngày 3 đến 6 tháng 2 ở đền Hai Bà Trưng, ngày 9 tháng 4 ở đền Gióng; Hải Dương, ngày 20 tháng 8 hội lễ đền Kiếp Bạc thờ anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo; Nam Định, từ 1 đến 10 tháng 3 hội Phủ Giầy; Phú Thọ ngày 10 tháng 3 lễ hội Đền Hùng...

Cung kính thắp nén hương, lòng người cảm thấy thanh thản, như được giao hòa cùng trời đất. Đằng sau hành động “đốt”, “cắm”, là những điều cao cả hướng vào tâm linh con người. Chính vì vậy mà việc dâng hương mang giá trị văn hóa, đạo lý.

Tục ngữ Việt Nam có câu: “Uống nước nhớ nguồn”. Dâng hương tại gia để thờ cúng tổ tiên và những người đã khuất. Dâng hương ở các đình, chùa, miếu, ngoài việc thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng còn có mục đích thoả mãn nhu cầu văn hoá truyền thống. Như vậy, nét hay của đạo lý trong tục dâng hương là ở lòng thành và nét đẹp thẩm mỹ, đạo đức, văn hóa lại thể hiện ở nghi thức dâng hương. Đó là triết lý dân tộc, là giá trị văn hóa tinh thần mỗi chúng ta phải gìn giữ, bảo tồn và phát huy.

LSB_Lãng Tử
28-10-2006, 17:58
I. Hôn-Nhân của Dân Việt

Theo phong-tục Việt, cái gốc của gia-đình gọi là hôn-nhân. Có hôn-nhân mới có vợ chồng và con cái. Mục-đích của hôn-nhân là để duy-trì gia-thống nên việc lập gia-đình là việc quan trọng của đại gia-đình. Việc lấy vợ lấy chồng gọi là hôn-nhân, cưới xin, hôn-thú, hôn-thư, hay giá-thú. Trên các giấy tờ chứng-nhận, người Việt thường dùng chữ “giá-thú.” “Giá” là lấy chồng, “thú” là lấy vợ. Còn hôn-thú chỉ có nghĩa là lấy vợ thôi. “Hôn” có nghĩa là bố mẹ nàng dâu, “nhân” có nghĩa là bố mẹ chàng rể. Nghĩa tổng-quát của từ “hôn-nhân” là cưới xin (marriage). Theo truyền-thống dân Việt, cha mẹ thường lo cho con đầy-đủ mọi thứ kể cả việc kén vợ kén chồng cho con. Chính vì thế, việc hỏi vợ và gả chồng là bổn-phận của cha mẹ như đã trình-bày trong các câu tục-ngữ sau đây: “Trai lớn dựng vợ, gái lớn gả chồng, cha mẹ đặt đâu ngồi đấy.” Vì muốn gia-đình xứng-hợp, tức là “môn đăng (đang, đương) hộ đối,” nên đã có trường hợp ngay khi những đứa trẻ còn là bào-thai trong bung mẹ, đôi bên cha mẹ đã đính-ước với nhau rằng nếu về sau một bên sinh con trai và một bên sinh con gái thì sẽ gả con cho nhau. Ngoài vấn đề hai gia đình phải có “môn đăng hộ đối”(gia đình hai bên xứng đáng với nhau), trai gái còn phải tốt-nghiệp trường cao-đẳng thì mới thành vợ thành chồng vì “Phi cao-đẳng bất thành phu phụ.”Ở Việt-Nam trước đây, con trai mười sáu tuổi và con gái mười ba tuổi đã bắt đầu có thể lấy vợ lấy chồng vì vào lứa tuổi đó, trai gái đã hiểu sự đời, bắt đầu có tinh- khí, và biết giao-cấu (to have sexual intercourse). Chính vì thế mà người Việt ta có câu tục-ngữ là “nữ thập tam, nam thập lục.” Ở Bắc Mỹ này, trai 21 tuổi và gái 18 thì được quyền tự do lấy nhau. Nếu gái 16 tuổi và trai 18 tuổi mà muốn lấy nhau thì phải được phép của cha mẹ. Từ ngàn xưa, ở Việt-Nam chúng ta, tuy rằng việc dựng vợ gả chồng là quyền của cha mẹ, nhưng cha mẹ vẫn hỏi ý-kiến con cái trước khi quyết-định và việc thuận-tình của con cái ít khi bị cha mẹ cản-trở. Vì cha mẹ hết lòng thương yêu và lo cho con cái nên con cái đã hết sức vâng lời cha mẹ và cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Ngày nay, các bậc cha mẹ chỉ đóng vai-trò cố-vấn và thực-hiện cưới-xin khi con cái đã đến tuổi hiểu biết trong việc kén chọn nhau.Theo truyền-thống dân Việt, việc kén vợ kén chồng rất quan-trọng. Sau đây là các phong-tục mà những gia-đình người Việt đã từng áp-dụng để kén vợ kén chồng cho con: lấy vợ xem tông, lấy chồng kén giống, kén con ông cháu cha, và kén gia đình có luân-lý đạo-đức. Kén vợ cho con, các bậc cha mẹ chú-trọng đến đức-hạnh hơn là nhan-sắc vì “cái nết đánh chết cái đẹp.” Thêm vào đó, các bậc cha mẹ còn phải xem trai gái có hợp tuổi với nhau không vì có hợp tuổi nhau thì mới hòa-thuận, làm ăn mới thịnh-vượng, và sinh con mới tốt lành. Trai gái không hợp tuổi nhau thì khi lấy nhau sẽ có rất nhiều điều đáng tiếc như hay gây sự với nhau, làm ăn hay bị thất-bại, con cái bị hư hỏng, và vợ chồng sẽ bị ly-thân rồi ly-dị. Trong sách tử-vi tướng-số có bốn nhóm tuổi mà mỗi nhóm gồm có 3 loại tuổi hợp nhau gọi là tam-hợp và có ba nhóm tuổi mà mỗi nhóm có bốn loại tuổi xung-khắc nhau gọi là tứ-hành-xung. Bốn nhóm tuổi tam-hợp gồm có: “Thân, Tý, Thìn” hợp nhau ; “Tỵ Dậu, Sửu” hợp nhau; “Dần, Ngọ, Tuất” hợp nhau; và “Hợi, Mão Mùi” hợp nhau. Ba nhóm tuổi tứ-hành-xung gốm có: “Tý, Ngọ, Mão, Dậu” xung-khắc nhau; “Thìn, Tuất, Sửu, Mùi” xung-khắc nhau; và “Dần, Thân, Tỵ, Hợi” xung-khắc nhau. Chính vì thế, các bậc cha mẹ của hai gia-đình bao giờ cũng phải so đôi tuổi của cặp trai gái trước khi làm lễ đính-hôn, tức là Lễ Ăn-Hỏi.Khi hai bên gia-đình nhà trai nhà gái ở xa nhau mà muốn hiểu rõ về tình-trạng mỗi gia-đình và tính-nết tài-năng và đức-hạnh của con trai và con gái, họ phải nhờ người làm mai-mối (Ông Mai Bà Mối) để giúp việc cưới-xin. Người làm mai-mối thường là người quen cả đôi bên gia-đình hoặc có liên-hệ gia-đình với một bên. Lời nói của mai-mối rất quan-trọng và có ảnh-hưởng mãnh-liệt để hai bên gia-đình hiểu rõ nhau hầu tiến tới việc quyết-định hôn-nhân cho con cái.

II. Tục-Lệ (Customs) về Hôn-Lễ (Marriage, Wedding Ceremony) của Người Việt
Ở thời xa xưa, tục-lệ về hôn-lễ của nước Việt ta rất phức-tạp, tiền-nhân ta đã có đến sáu (6) tiến-trình về hôn-lễ: Lễ Nạp-Thái (kén chọn), Lễ Vấn-Danh (hỏi tên tuổi và ngày sinh tháng đẻ của cô gái), Lễ Nạp-Cát (so đôi tuổi được tốt), Lễ Nạp-Tệ (ăn-hỏi), Lễ Thỉnh-Kỳ(xin cưới), và Lễ Thân-Nghênh hay Nghênh-Hôn (lễ cưới). Tuy-nhiên, từ đầu thế-kỷ thứ 20 (1901) đến nay (2004), Nước Việt Tự-Do của chúng ta chỉ có ba tiến-trình về hôn-lễ như sau: Lễ Chạm- Ngõ, Lễ An-Hỏi, Lễ Cưới. Khi đã làm Lễ Cưới ở nhà, nếu sau đó không nhờ nhà thờ hay nhà chùa chính-thức làm Lễ Cưới thì phải đến khai tại cơ-quan chính quyền địa-phương để xin tờ giá-thú (hôn-thú hay hôn-thư).

1. Lễ Chạm-Ngõ (The Pre-engagement Ceremony, a Promise to Marry)
Sau khi hai bên gia-đình đã ưng-thuận việc hỏi vợ gả chồng cho con, Lễ Chạm-Ngõ mới được cử-hành. Lễ Chạm-Ngõ còn được gọi là Lễ Xem-Mắt vì đây là dịp để trai gái biết rõ nhau hơn và thân-nhân của gia-đình nhà trai có cơ-hội tìm hiểu tuổi, thai-độ, và tư-cách của cô dâu tương lai lúc còn ở nhà gái ra sao để có quyết-định làm Lễ An-Hỏi và Lễ Cưới.Ở Việt-Nam trước đây, khi tổ-chức Lễ Chạm-Ngõ, nhà trai thường đem trầu cau, rượu, trà, và các loại bánh để nhà gái dâng cúng gia-tiên rồi đem biếu chú bác cô dì cậu mợ. Ở hải-ngoại hiện nay, lễ-vật Chạm-Ngõ của người Việt ta thường gồm có những bó hoa, những tái cây, những chai rượu, và những hộp trà, v.v. Sau khi đến nhà gái, vị đại-diện nhà trai (ông bố của chú rể tương lai) ngỏ lời với nhà gái về Lễ Chạm-Ngõ. Sau đó, vị đại-diện của nhà gái (ông bố của cô dâu tương lai) đáp lời chào mừng và ưng-thuận. Tiếp theo đó, việc cúng gia-tiên của nhà gái được cử-hành, các vị đại-diện gia-đình nhà trai và nhà gái cùng chú rể và cô dâu tương lai đều cùng nhau cúng bái. Sau khi cúng gia-tiên nhà gái, mọi thân-nhân của hai gia-đình hiện-diện trong buổi Lễ Chạm-Ngõ đều được nhà gái mời dự tiệc-trà ăn mừng Lễ Chạm-Ngõ. Sau bữa tiệc-trà, họ nhà trai ra về.Từ Lễ Chạm-Ngõ đến Lễ Ăn-Hỏi không có khoảng thời-hạn nhất-định, tùy theo gia-đình nhà trai và nhà gái định-đoạt có khi trong vòng 3 tháng, nửa năm, hay cả năm trời. Sau ngày Lễ Chạm-Ngõ, nhà trai thường lui tới nhà gái vào những dịp lễ, tết, hoặc các ngày kỵ-nhật (ngày giỗ) của nhà gái và mang các lễ-vật đến để cúng lễ. Nếu sau Lễ Chạm-Ngõ mà mọi việc đều tốt đẹp giữa nhà trai nhà gái, nhất là gia-đình nhà trai hoàn-toàn ưng-thuận nàng dâu tương-lai, thì Lễ Ăn-Hỏi sẽ được tiến-hành.

2. Lễ Ăn-Hỏi (Betrothal, An Engagement to Marry)
Lễ Ăn-Hỏi (Lễ Đính-Hôn) là lễ rất quan-trọng của việc hôn-nhân. Theo phong-tục của Việt-Nam, nhà trai phải đáp-ứng lời đòi-hỏi của nhà gái về việc đưa đầy-đủ những phần lễ-vật vào ngày Lễ Ăn-Hỏi như những quả cau, những lá trầu, những hộp trà, những gói nem, bánh chưng, bánh dày, những hộp bánh quế, bánh bích-quy, bánh ngọt, heo quay, xôi gấc, và rượu, v.v. để nhà gái làm lễ cúng gia-tiên và biếu thân-bằng quyến-thuộc với mục-đích báo tin mừng. Khi đem lễ-vật đến nhà gái trong dịp Lễ Ăn- Hỏi, nhà trai tổ-chức dẫn lễ-vật một cách thật trang-trọng bằng cách để các lễ-vật vào hộp, xếp vào mâm, và bao-phủ bằng giấy bóng (glassine paper, cellophane) màu vàng và màu đỏ rồi cử người ăn mặc chỉnh-tề để đi cùng với gia-đình nhà trai đưa lễ-vật đến nhà gái. Nếu nhà trai ở gần nhà gái thì đi bộ, nếu ở xa thì đi bằng xe hơi. Nếu đi bằng xe hơi thì khi gần đến nhà gái, mọi người phải xuống xe để đi bộ thành đoàn người mang lễ-vật đến nhà gái một cách trang-trọng và chỉnh-tề. Ở Việt-Nam trước đây, trầu cau, trà, và rượu là các lễ-vật chính-yếu của Lễ An-Hỏi. Hiện này ở hải ngoại này, những lễ-vật ăn-hỏi của người Việt ta thường gồm có những bó hoa, những tái cây, những chai rượu, những hộp bánh, và những hộp trà, v.v. Khi các thân-nhân của nhà trai đến nhà gái để làm Lễ Ăn-Hỏi, cả nhà trai và nhà gái phải cử người đứng ra giới-thiệu các thân-nhân của mình trước khi cha mẹ của nhà trai ngỏ lời về Lễ Ăn-Hỏi. Sau đó, cha mẹ nhà gái đáp lời ưng-thuận và chào mừng nhà trai. Tiếp đó, cha mẹ nhà trai và nhà gái cùng chú rể và cô dâu tượng-lai đều cúng gia-tiên của nhà gái. Sau khi cúng gia-tiên tại nhà gái, mọi người hiện-diện sẽ được cha mẹ nhà gái mời ăn tiệc-trà ngay ở đó. Khi nhà gái nhận Lễ An-Hỏi tức là đã chính-thức chấp-nhận việc gả con gái cho nhà trai. Sau ngày Lễ Ăn-Hỏi, khi nhà gái đem các lễ-vật ăn hỏi như quả cau đi biếu thân-bằng quyến-thuộc thì phải biếu mỗi phần 3 quả hay một quả chứ không bao giờ biếu hai quả vì hai quả có ý nghĩa thô-tục. Ngày nay, nhà gái còn kèm theo lễ-vật một tấm thiệp báo-hỷ để tặng thân-bằng quyến-thuộc.Sau Lễ Ăn Hỏi, chàng rể tương-lai còn phải đem lễ-vật đi lễ tết (sêu tết, to present gifts to one’s bride’s family) bố mẹ vợ tương-lai vào những ngày tết và vào 4 mùa bằng cách mùa nào thức ấy. Điều này có nghĩa là vào dịp Tết Nguyên-Đán, Tết Thanh-Minh, Tết Đoan-Ngọ, Tết Trung-Nguyên, Tết Trung-Thu, và những ngày giỗ chính của nhà gái, chàng rể tương-lai phải mang đồ lễ tới gia-đình nhà vợ tương-lai để biếu và lễ bái; vào mỗi mùa có hoa quả bánh trái đặc-biệt, chẳng hạn như vào tháng ba có quả vải vỏ đỏ vị ngon ngọt; vào tháng năm có dưa hấu; vào tháng bảy có quả na và quả nhãn; vào cuối tháng chín sang tháng mười có cốm, hồng, và gạo mới, v.v.; và vào tháng chạp thì có cam có mứt. Sau khi chàng rể tương-lai mang lễ-vật lại, bao giờ nhà gái cũng lấy một nửa số lễ-vật, còn một nửa lễ-vật nhà gái biếu lại nhà trai, gọi là “lại-quả.” Ngày xưa, sau Lễ Ăn-Hỏi, ở một vài nơi tại Việt-Nam còn có tục-lệ “gửi rể” (a future son-in-law living in his future wife’s family). Chú rể tương-lai phải đến ở nhà gái và đi học trong vòng bốn năm năm để thi đỗ rồi mới được cưới vợ. Chính vì thế mà ta mới có câu tục-ngữ: “Phi cao-đẳng bất thành phu phụ.” Sau Lễ Ăn-Hỏi và sêu-tết, nhà trai phải bàn-thảo và đề-nghị với nhà gái đề ấn-định ngày làm Lễ-Cưới.
3. Lễ Cưới (Wedding, The Ceremony of Marriage with its Accompanying Festivities)
a.Thách-Cưới
Hồi trước đây ở Việt-Nam, khi đồng-ý để nhà trai làm Lễ-Cưới, nhà gái có lệ “thách-cưới” nhà trai. “Thách-cưới” có nghĩa là nhà gái đòi các thứ cho cô dâu và gia đình nhà gái gồm các đồ trang sức và quần áo cưới cho cô dâu và các đồ lễ-cưới cho gia đình nhà gái như tiền-bạc, trà rượu, trầu cau, bánh-trái, thịt heo thịt bò, và gạo nếp gạo tẻ, v.v. để làm tiệc thiết-đãi bà con và bạn-hữu. Việc thách-cưới này có khi làm cho nhà trai thật đau buồn; nhiều khi, nhà trai phải yêu-cầu nhà gái để giảm bớt việc thách-cưới đi vì không có đủ tiền bạc để rước dâu. Nếu nhà gái không đồng-ý thì nhà trai phải đi vay mượn tiền-bạc để lo đám cưới. Việc thách-cưới đã làm cho nhiều người dân buồn-phiền nên họ đã làm các câu ca-dao hài-hước như sau: “Em là con gái nhà giầu, / Mẹ cha thách-cưới ra màu xinh sao. Cưới em trăm tấm gấm đào, / Một trăm hòn ngọc hai mươi tám ông sao trên trời.” “ Con gái là con người ta, / Con dâu mới thật mẹ cha mua về.” Ngày nay, việc thách-cưới không là vấn-đề quan-trọng vì nhà trai và nhà gái thường cộng-tác tích-cực với nhau để làm Lễ-Cưới cho cô dâu chú rể thật chu-đáo.

b. Chọn Ngày Làm Đám Cưới
Sau khi nhà trai và nhà gái đã thỏa-thuận mọi việc, hai bên phải ấn-định ngày làm đám cưới bằng cách chọn ngày tốt có ghi rõ trong âm-lịch. Trong các tấm lịch ta (âm- lịch), ở mỗi tờ lịch, các chi-tiết sau đây đều được ghi rõ: ngày này là ngày nào trong năm, các tuổi nào kỵ với ngày này, ngày này nên làm những việc gì và nên kiêng-cữ (không nên làm) những việc gì, giờ tốt là giờ nào, và giờ xấu là giờ nào, v.v. Tuy trong lịch có ngày được ghi là nên làm đám cưới (nên cưới gả) nhưng đồng-thời cũng có ghi về việc kỵ (không hợp) tuổi cho một số tuổi. Nếu cô dâu chú rể có tuổi kỵ trong ngày đó thì không nên cử-hành lễ cưới trong ngày đó dù là ngày đó được ghi là nên “cưới gả.” Tóm- lại là ngày làm Lễ-Cưới phải không xung không kỵ với các tuổi của chú rể và cô dâu. Trước năm 1954, ở Miền Bắc Việt-Nam, mọi người chỉ làm đám cưới vào các tháng mười, tháng một (tháng11), tháng chạp (thàng 12), và tháng giêng (tháng 1) vì các tháng này có thời-tiết rất tốt và thuận-tiện cho đám cưới. Hầu hết các nơi ở Miền Bắc không tổ-chưc đám cưới vào tháng bảy ta (tháng ngâu) vì tháng này có mưa dầm suốt tháng (mưa ngâu) và hay có gió bão. Ngoài ra, mọi người phải kiêng-cữ tổ-chức đám cưới trong tháng bảy ta vì theo sự-tích, vợ chồng Ngưu-Lang Chức-Nữ bị trời phạt không cho sống gần nhau, vợ chồng chỉ được phép gặp nhau mỗi năm một lần vào ngày mưa ngâu mùng 7 tháng 7 ta mà thôi. Mỗi năm tháng bảy trời đổ mưa-ngâu, / Yêu nhau xin hãy nhớ nhau một vài, / Lất-phất mưa-ngâu ướt đẫm bờ vai, / Tơ-duyên chẳng trọn thương hoài nhớ lâu.

c. Thiệp Báo-Hỷ và Thiệp Mời
Hiện nay, sau khi ấn-định ngày làm đám cưới, nhà trai và nhà gái còn cùng nhau làm những tấm thiệp báo-hỷ và thiệp mời để gửi cho thân-nhân, bằng-hữu, và đăng báo. Muốn có tấm thiệp báo-hỷ và thiệp mời đúng cách, chúng ta phải nhờ chuyên-viên làm cho. Thông-thường thì tấm thiệp báo-hỷ và thiệp mời có nội-dụng viết bằng song-ngữ, tiếng Việt và tiếng Anh. Trong phần “Cước-Chú số 1” ở phía dưới bài này là tài-liệu hướng-dẫn về nội-dung và hình-thức của tấm thiệp báo-hỷ và thiệp mời được viết bằng tiếng Việt.

d. Chuẩn-Bị Lễ Rước Dâu và Đưa Dâu
Sau khi đã ấn-định ngày làm đám cưới và đã gửi thiệp báo-hỷ và thiệp mời, nhà trai phải chuẩn-bị Lễ-Cưới, tiệc-cưới, tiệc-trà, máy chụp ảnh, máy quay phim, mua nhẫn cưới cho cả chú rể và cô dâu, và chuẩn-bị lễ rước dâu. Nhà gái cũng phải chuẩn-bị việc đón-tiếp nhà trai đến rước dâu, chuẩn-bị máy chụp ảnh và máy quay phim, chuẩn bị lễ gia-tiên, lễ Tế Tơ-Hồng, tiệc trà, và lễ đưa dâu. Hiện nay, tiệc cưới thường do nhà trai và nhà gái cộng-tác tổ-chức tại nhà hàng sau khi đã làm lễ cưới để thiết-đãi bà con và bằng-hữu. Nếu nhà trai và nhà gái theo Đạo Phật hay Đạo Thiên-Chúa, sau khi rước dâu về nhà chồng, hai gia-đình còn phải làm hẹn với Nhà Thờ (Catholic Church) hay nhà Chùa (Buddhist Temple) để nhờ các cha hay các thầy chùa làm lễ-cưới ngay tại nhà thờ hay tại chùa để chính-thức có giấy giá-thú.

đ. Rước Dâu
Nếu nhà trai ở gần nhà gái trong cùng làng xóm thì khi các thân-nhân của nhà trai đem các lễ-vật đi đón dâu, mọi người đi bộ thành đoàn người tề-chỉnh; nếu ở xa thì dùng xe hơi hay thuyền (ở vùng quê) để chở lễ-vật và thân-nhân đến nhà gái. Nếu dùng xe di đón dâu, xe đón cô dâu phải được kết hoa ở phía ngoài xe cho đẹp vì “xe hoa” tượng-trưng cho xe đám cưới. Người Việt ta thường tin là nếu đi ra ngõ mà gặp đàn bà con gái thì thật là xui-xẻo. Chính vì thế mà khi gia-đình nhà trai bắt đầu mang lễ-cưới đi đón dâu, gia đình nhà trai phải nhờ người đàn ông vui-vẻ và dễ tính ra đón ngõ để khi mọi người vừa đi ra đón dâu thì được gặp đàn ông con trai ngay trước ngõ cho may-mắn. Nếu đi bằng xe hơi để đón dâu thì khi đến gần nhà gái, cách khoảng độ 200 thước Tây, mọi người phải xuống xe để xếp thành đoàn người đi cho chỉnh-tề để dẫn lễ-cưới đến nhà gái. Người đi đầu đám rước dâu phải là một ông già cầm hương hoa. Để có người chính-danh dẫn đầu đám rước dâu này, nhà trai phải nhờ một ông già hiền-lành, phúc-hậu, có địa-vị, có vợ chồng song-toàn, có lắm con nhiều cháu, và không có tang để dẫn đầu đoàn người đến nhà gái rước dâu về nhà trai. Sự lựa chọn này có ý mong cho cô dâu chú rể khi lấy nhau sẽ được bách-niên giai-lão (vợ chồng cùng sống với nhau đến già), có lắm con nhiều cháu, và công-thành danh-toại. Ông già này mặc áo dài khăn đống hay áo thụng xanh, che lọng, và cầm một bó hoa cùng một bó hương thắp cháy hay bưng một lư-hương nhỏ có đốt trầm. Đi liền sau ông già này là ba của chú rễ và những người mang lễ-vật dẫn cưới. Tiếp theo đó là chú rể, hai cậu phù-rể, và chú bác cô dì cậu mợ của chú rể, v.v. Chú rể mặc quần áo và đội khăn hay đội mũ rất lịch-sự. Quần áo cưới của chú rể mặc vào ngày cưới không giống quần áo mặc thường ngày. Ở Việt-Nam chú rể thường mặc quần trắng, mặc áo the hay áo đoạn kép, đội khăn đống, đội khăn lượt, hay nón chóp quai tua; chân đi đôi giày Gia-Định bóng ngời. Hiện nay ở hải ngoại, chú rể thường mặc quần áo theo kiểu Tây-Phương hay mặc áo dài đội khăn đống theo phong-tục Việt. Y-phục của hai cậu phù-rể cũng tương-tự như y-phục của chú rể.Theo phong-tục Việt, người mẹ của chú rể không bao giờ đi đón dâu tại nhà gái, người mẹ chỉ ở nhà chờ khi rước dâu về tới nhà thì bà mẹ chú rể mới ra đón con dâu vào nhà. Hiện này ở hải-ngoại, có một số gia-đình khi đi rước dâu và đưa dâu về nhà chồng thì cả bố mẹ chú rể đều đi cho vui vẻ và trang-trọng.Khi đám rước dâu đến trước cửa nhà gái, có khi cả nhà trai nhà gái đều đốt pháo ăn- mừng và bắt đầu quay phim và chụp hình trong suốt Lễ Vu-Quy. Khi vào trong nhà gái, xướng-ngôn-viên của nhà trai và nhà gái giới-thiệu các thành-viên của mỗi gia-đình kể cả chú rể và cô dâu tương lai. Sau khi trao lễ-vật rước dâu, người chủ-hôn, bố chú rể, đứng ra ngỏ lời là đã chọn được ngày lành tháng tốt để xin đón dâu. Sau đó, gia-trưởng nhà gái, bố cô dâu, đứng lên đáp lời chào mừng, ưng-thuận, và cám-ơn. Tiếp theo đó, gia-trưởng nhà gái làm lễ cáo gia-tiên và mời gia-trưởng nhà trai cùng chú rể tương-lai và con gái ông ta, cô dâu tương-lai, đến lễ gia-tiên nhà gái. Sau khi lễ gia-tiên nhà gái, có đôi-khi nhà gái yêu-cầu chú rể và cô dâu Lễ Tơ-Hồng ngay tai nhà gái. Thường-thường thì việc Lễ Tơ-Hồng chỉ được tổ-chức tại nhà trai mà thôi. Sau khi lễ gia-tiên nhà gái, chú rể và cô dâu lại phải đến chào mừng ông bà và bố mẹ vợ cùng các thân-nhân của nhà gái. Khi chú rể đến chào mừng ông bà, bố mẹ vợ, và chú bác cô dì cậu mợ nhà gái, các vị này thường tặng chú rể một món tiền hoạc vàng bạc hay các món quà. Sau khi chú rể và cô dâu đã lễ gia-tiên và chào mừng mọi thân-nhân của nhà gái, nhà gái mời mọi người của nhà trai và nhà gái đến dự bửa tiệc trà. Sau bữa tiệc-trà này và đến giờ hoàng đạo (giờ tốt), nhà trai xin rước dâu. Lúc này cô dâu đã mặc quần áo và trang-điểm thật chỉnh-tề. Cô dâu thường mặc quần lĩnh hoa tranh, mặc áo dài, và đội khăn vành hay nón thúng quay thao và đi dép nhung cong. Ngày nay ở hải-ngoại, cô dâu có thể mặc quần áo theo lối Tây-phương cũng được. Đồng thời cô dâu cũng đã xếp những đồ của mình trong những cái “va-li”(suitcase) để mang ra xe về nhà chồng. Những đồ của cô dâu gồm có áo quần, chăn gối, nữ-trang, sách-vở, và các dụng cụ cá nhân, v.v. Theo phong tục Việt, ở thôn-quê, họ nhà gái cử một số người đi tiễn cô dâu về nhà chồng trong khi cha mẹ cô dâu không bao giờ đưa con về nhà chồng. Tuy nhiên, ở các tỉnh-thành trong nước trước đây, nhất là ngày nay ở hải-ngoại, cha mẹ cô dâu thường đi theo con gái về nhà chồng để cho vui vẻ và trang-trọng. Trong số những người tiễn cô dâu về nhà chồng có hai cô phù-dâu. Y-phục của các cô phù-dâu cũng na-ná như y-phục của cô dâu. Theo tục-lệ Việt, những cô phù-dâu và những cậu phù-rể phải là những người độc-thân, tức là chưa lập gia-đình. Chính vì lý do này mà sau khi phù-dâu phù-rể, các cậu phù-rể có thể kết-duyên với các cô phù-dâu. Trước khi đi về nhà chồng, cô dâu đến chào và lậy cha mẹ đẻ. Đã có nhiều cô dâu khóc sướt-mướt khi rời cha mẹ để về nhà chồng vì thương nhớ cha mẹ.

e. Lễ Vu-Quy
Lễ đưa dâu cũng được gọi là Lễ Vu-Quy, nghĩa là lễ đưa con gái về nhà chồng. Khi đưa dâu về nhà chồng, nhà gái cũng nhờ một ông già cầm hương hoa đi trước cùng với ông già dẫn cưới của họ nhà trai. Đoàn người đưa dâu về nhà chồng đông đảo gấp đôi vì có thêm nhiều người của họ nhà gái. Trước khi khởi-hành, nhà trai và nhà gái cũng đốt pháo ăn-mừng. Nếu đón dâu bằng xe thì sau khi đi bộ từ nhà gái ra xe, mọi người đều lên xe, xe đi đầu là xe của các cụ già cằm hương hoa, xe kế-tiếp là xe hoa dành cho cô dâu chú rể. Cũng có nơi, xe hoa dành riêng cho cô dâu với các cô phù-dâu, còn chú rể ngồi một xe khác với các cậu phù-rể. Tiếp theo đó là các xe của thân-nhân nhà trai và nhà gái. Ở Việt-Nam trước đây có trường hợp là đôi khi nhà trai ở cùng một đường phố với nhà gái, chỉ cách nhau vài trăm thước, nhà trai vẫn dùng xe hơi để rước dâu để đi vòng-vo qua những đường phố khác trước khi rước dâu về nhà. Đây là cách để phô-trương cho mọi người biết. Trong khi rước dâu ngoài phố và khi làm lễ-cưới ở nhà trai, việc quay phim và chụp hình đều tiến-hành để có hình-ảnh làm kỷ-niệm suốt đời cho cô dâu chú rể.Khi về đến ngõ nhà trai, nhà trai thường đốt pháo để tỏ vẻ vui-mừng đón cô dâu vì tiếng pháo nổ là tượng-trưng cho sự vui-mừng. Tiếp đó là bà mẹ chồng ra đón tiếp con dâu và thân-nhân nhà gái. Có nhiều nơi, khi cô dâu về nhà chồng, bà mẹ chồng không ra đón con dâu mà trước đó đã xách bình vôi đi lánh mặt một lúc rồi mới về để chào mừng và tiếp khách. Vì bình vôi tượng-trưng cho sự coi-sóc gia-đình, nên bà mẹ mang bình vôi về để giao trách-nhiệm cho cô dâu hoàn-thành nhiệm-vụ: “Lấy chồng gánh vác giang-sơn nhà chồng.”

g. Lễ Gia-Tiên tại Nhà Chồng
Sau khi được đón tiếp về tới nhà chồng, cô dâu theo chú rể đến chào ông bà và cha mẹ chồng rồi vào lễ gia-tiên. Sau khi lễ gia-tiên xong, chủ-hôn nhà trai và nhà gái đeo nhẫn cưới cho cô dâu chú rể. Có nhiều nơi, việc đeo nhẫn cưới cho cô dâu chú rể được thực-hiện trong khi Lễ Tơ-Hồng, và còn được đeo nhẫn cưới ở nhà thờ và ở nhà chùa nữa. Sau khi chào ông bà cha me chồng, lễ gia tiên nhà trai, và đeo nhẫn cưới, cô dâu và chú rể lại đến Lễ Tơ Hồng.

h. Lễ Tơ-Hồng
Theo truyền-thống người Việt ta, Nguyệt-Lão là vị thần-chủ của hôn-sự nên các đám cưới đều có tục-lệ lễ Tơ-Hồng để tỏ lòng biết ơn Nguyệt-Lão đã dùng dây tơ-hồng xe cho cô dâu chú rể nên duyên vợ chồng. Bàn thờ Tơ-Hồng có thể lập ở trong nhà hay giữa sân. Trên bàn thờ Tơ-Hồng có lư-hương, đèn, nến, hoa quả, xôi gà, ly rượu, và cơi trầu. Cô dâu chú rể đứng hàng ngang trên chiếu trải trước hương-án để lạy 4 lạy, vái 3 vái, rồi quỳ nghe người đại diện nhà trai đọc văn-tế Tơ-Hồng (xem mục Cước-Chú số 2 ở phía dưới bài này về Văn-Tế Tơ-Hồng). Khi người ta đọc xong văn-tế, chú rể cô dâu lại lễ-tạ Nguyệt-Lão rồi cùng uống chung một ly rượu và ăn một miếng trầu đã có sẵn trên bàn thờ Tơ-Hồng. Uống chung ly rượu này có nghĩa là hai người sẽ là một và sống tới khi đầu bạc răng long. Sau khi Tế Tơ-Hồng, cô dâu chú rể đều đến chào mừng chú bác, cô dì, cậu mợ, thím, và anh chị em của chú rể. Khi đến chào mừng ông bà, cha mẹ, cô dì, bác, cậu mợ, chú thím, và anh chị em nhà trai, cô dâu chú rể đều được quý vị này tặng tiền hay quà và ngỏ lời khuyên mừng như: “ Ăn ở thuận-hòa, trên kính dưới nhường, / Sắt cầm hòa-hợp, bách-niên giai-lão, / Bằng rày sang năm có cháu cho bà bế, / Đầu năm sinh con trai, cuối năm sinh con gái, v.v.”

i. Tiệc Cưới Tại Nhà Trai
Sau khi cô dâu chú rể lễ-bái và chào mừng mọi người, chủ nhà trai mời những người hiện-diện của nhà trai và nhà gái trong đám cưới vào dự tiệc cưới tại nhà trai. Sau buổi tiệc cưới ở nhà trai, các thân-nhân của nhà gái ra về. Sau lễ cưới ở nhà và ở nhà thờ hay nhà chùa, các bằng-hữu, thân-nhân, và quan-khách của hai họ đều được mời đi dự tiệc cưới tại tiệm ăn, cao-lâu, hay quán cơm (restaurant). Thiệp mời tiệc-cưới này đã đã được gửi đến cho mọi người trước khi làm đám cưới.k.

Lễ Động-Phòng hay Giao-Duyên
Ngay buổi tối hôm đám cưới, có lễ động-phòng hay giao-duyên cho cô dâu chú rể. Theo tục-lệ, trước khi động-phòng (phòng cưới tức là phòng của đêm tân-hôn để cô dâu chú rể nằm ngủ với nhau lần đầu tiên sau đám cưới), một bà già vẫn còn có chồng và đông con nhiều cháu đứng ra phụ trách sắp-đặt giường chiếu chăn gối màn, mâm rượu, cơi trầu cho cô dâu chú rể dùng. Sau đó cô dâu chú rể dắt nhau vào trong phòng làm lễ hợp-cẩn, tức là cùng nhau uống chung một chén rượu và cùng ăn một miếng trầu trước khi ngủ với nhau trong đêm cưới. Sau đó uống rượu và ăn trầu, cô dâu lạy chồng hai lạy và chồng đáp lại một vái. Trước khi vợ chồng ngủ với nhau trong đêm tân-hôn, cô dâu thường kiếm cách ngồi trên đầu giường và vắt quần áo của mình lên trên quần áo của chồng. Việc làm này cô dâu có ý là làm cho chồng chiều-chuộng và phục tòng mình trong suốt cuộc đời làm vợ.

l. Lễ-Cưới Tại Nhà Thờ (Catholic Church) hay Nhà Chùa (Buddhist Temple)
Sau khi rước dâu về nhà chồng, ngay ngày hôm sau nhà trai và nhà gái còn có hẹn đến làm lễ-cưới tại chùa hay nhà thờ. Mọi nghi-lễ đều do vị hòa-thượng của chùa hay đức cha của nhà thờ định đoạt. Lễ-cưới ở nhà chùa hay nhà thờ cũng có nghi-lễ đeo nhẫn cưới cho chú rể và cô dâu. Nếu chú rể và cô đâu đã đeo nhẫn cưới ở nhà thì trước khi đến nhà thờ hay nhà chùa, phải tháo nhẫn cưới đó ra trước khi lên gặp các cha hay các thầy để đeo nhẫn cưới cho. Ở hải-ngoại này, nếu lễ-cưới được cử hành ở nhà chùa hay nhà thờ thì nhà chùa hay nhà thờ đã thừa lệnh của chính-phủ địa-phương để làm giấy giá-thú cho chú rể cô dâu ngay tại nhà thờ hay nhà chùa trong khi làm lễ-cưới.

m. Lễ Từ-Đường
Tại làng xóm Việt-Nam trước tháng 4 năm 1975, dân Việt đều có lập đền-thờ cho mỗi họ với cái tên là “từ-đường” (ancestral hall). Như thế, họ nhà trai và họ nhà gái đều có từ-đường riêng của họ. Chính vì thế mà ở làng xóm tại Miến Bắc Việt-Nam trước trước năm 1945, khi nhà trai đến nhà gái rước dâu thì chú rể và cô dâu đều phải đến từ-đường của họ nhà gái để lễ xong rồi mới trở về nhà gái để lễ gia-tiên nhà gái. Khi cô dâu về tới nhà trai thì chú rể và cô dâu cũng lại phải ra từ-đường của nhà trai để lễ trước rồi mới về làm lễ gia-tiên tại nhà chú rể. Ở hải-ngoại này chúng ta không có từ-đường cho mỗi họ nên cô dâu chú rể chỉ cần lễ gia-tiên của nhà gái và nhà trai tại nhà mà thôi.

n. Tiệc-Cưới Tại Nhà Hàng Dành Cho Bằng-Hữu, Thân-Nhân, và Quan-Khách của Nhà Trai Nhà Gái
Khi làm lễ vu-quy ở nhà gái và lễ cưới ở nhà trai, chỉ những thân-nhân và những bằng-hữu của hai họ đã tham-dự lễ vu-quy và lễ-cưới ở nhà gái và nhà trai mới được mời tham-dự tiệc-trà hay tiệc-cưới ngay sau buổi lễ gia-tiên tại mỗi gia-đình nhà trai và nhà gái. Còn đối với bằng-hữu, thân-nhân, và quan-khách không đến tham-dự lễ vu-quy và lễ-cưới thì sau khi làm lễ cưới ở nhà trai và nhà thờ hay nhà chùa, các bằng-hữu, thân-nhân, và quan-khách của nhà trai và nhà gái kể các cha và các thầy đều được mời đến dự tiệc cưới tại nhà hàng, tiệm ăn, quán cơm, hay cao-lâu (restaurant). Trong tiệc-cưới ở nhà hàng, ngoài bằng-hữu và quan-khách, mọi thân-nhân của hai họ cũng được mời tham dự tiệc-cưới tại nhà hàng này. Ngày tháng tổ-chức tiệc-cưới và địa điểm của nhà hàng dùng để tổ chức tiệc-cưới này đã ghi trong thiệp-mời gửi bằng hữu, bà con, và các quan-khách trước khi làm lễ-cưới cả tháng.Về việc tổ-chức tiệc-cưới tại nhà hàng, nhà trai và nhà gái phải nhờ thân-nhân làm ban tổ-chức để tiếp-tân và điều-khiển nghi-lễ. Công-việc của ban tiếp-tân là ghi danh các quan-khách, bằng-hữu, và thân-nhân đến dự, nhận quà do mọi người biếu cô dâu chú rể, và chụp hình cùng quay phim khi gặp mọi người đến tham-dự. Việc chụp hình và quay phim còn thực hiện trong suốt buổi tiệc cưới tại nhà hàng để có tài liệu làm kỷ-niệm cho cô dâu chú rể. Cần phải có ban nhạc để giúp thân-nhân của hai họ cùng bằng-hữu và cô dâu chú rể tình-nguyện trong việc hát giúp vui cho tiệc-cưới. Trước khi bắc-đầu tiệc-cưới, cha mẹ cô dâu và cha mẹ chú rể phải lên sân-khấu chào mừng và giới-thiệu quan-khách, bằng-hữu, cùng thân-hân hai họ nhà trai và nhà gái. Sau đó, ban tổ-chức phải đặc biệt giới thiệu cô dâu và chú rể. Ở hải-ngoại này, nếu các gia-đình người Việt dốc lòng tranh-đấu cho tự-do dân-chủ và nhân-quyền của đồng bào trong nước, họ đều tổ-chức lễ chào cờ bản-xử và cờ Việt Nam Tự Do trong các buổi tiệc-cưới ở nhà hàng vì đây là trường-hợp tập-thể của người Việt sum-họp với nhau đông-đảo tại cộng-đồng thì phải có lễ chào cờ.Trong khi mọi người đang ăn uống tại bữa tiệc-cưới này, bố mẹ chú rể cùng với bố mẹ cô dâu phải dẫn cô dâu chú rể đi đến từng bàn ăn để chào mừng quan-khách, bạn-bè, và thân-nhân. Trong lúc này, người phụ-trách chụp hình và quay phim cần phải thực-hiện cho chu-đáo.Sau khi mọi người ăn-uống xong trong tiệc-cưới tại nhà hàng, có những gia-đình nhà trai và nhà gái tổ-chức khiêu-vũ hay nhảy đầm ngay tại đây để giúp cho kết-quả tiệc-cưới vui-vẻ một cách hoàn-hảo.Khi quan-khách và bằng-hữu cùng thân-nhân ra về, bố mẹ cô dâu cùng với bố mẹ chú rể cần phải ra đứng ở cửa để cám ơn và tiễn quan-khách, bằng-hữu, và thân-nhân.

o. Lễ Lại-Mặt
Theo lệ thường của dân Việt, sau khi cưới được 3 ngày, hai vợ chồng phải đem xôi, chè, rượu, và trầu cau về nhà bố mẹ vợ để cúng gia-tiên. Lễ này được gọi là Lễ Lại-Mặt hay Tứ-Hỷ. Nếu vợ chồng đem lễ về nhà bố mẹ vợ ngay hôm sau ngày cưới thì tên lễ này cũng được gọi là Lễ Lại-Mặt hay Nhị-Hỷ. Sau khi cô dâu chú rể lễ gia-tiên, bố mẹ vợ có lời dặn-dò cô con gái (cô dâu) phải đối-xử trọn-vẹn bổn-phận với chồng và gia-đình nhà chồng vì từ nay cô dâu sẽ là người của nhà chồng. Chính vì thế mà ca-dao Việt có câu: “ Con gái là con người ta, / Con dâu mới thật mẹ cha mua về.”

p. Giấy Giá-Thú (marriage licence)
Giấy giá-thú hay giấy hôn-thú rất quan-trọng để vợ-chồng sống với nhau một cách hợp-pháp hầu hưởng mọi quyền-lợi của gia-đình và trợ-cấp của chính-phủ, nhất là ở nơi hải-ngoại này. Ở hải-ngoại này, khi đã làm lễ-cưới tại chùa hay nhà thờ, giấy giá-thú của cô dâu chú rể đều được nhà thờ hay chùa cấp cho vì nhà thờ hay nhà chùa đều được chính-phủ địa-phương chấp-thuận cho làm việc này. Nếu không làm lễ-cưới tại chùa và nhà thờ thì gia đình nhà trai và nhà gái phải tới văn-phòng “City Clerk’s Office” của “City Hall” (Tòa Đô-Chánh) hay văn-phòng luật-pháp ở địa-phường để làm giấy giá-thú (marriage licence). Còn ở Việt-Nam trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi làm lễ-cưới, chủ nhà trai và nhà gái phải đến văn-phòng hộ-tịch tại địa-phương để làm giấy giá-thú cho con, nếu không thì việc hôn-nhân có thể bị tiêu-hủy.


q.Tuần Trăng-Mật (Honeymoon)
Sau khi cưới, vợ chồng thường nghỉ một tuần hay một tháng để đi chơi chung với nhau. Đi chơi chung với nhau một tuần gọi là hưởng tuần trăng-mật, đi chơi chung một tháng với nhau gọi là hưởng tháng trăng mật. Suốt một tháng trời sau ngày cưới là tháng ngọt-ngào tuyệt-vời (the first month of marriage is the sweetest). Ở Bắc-Mỹ này, trong 30 ngày của tháng đầu-tiên sau ngày cưới, vợ chồng đều uống ly thuốc bổ có mật-ong để hưởng thú-vui hợp-cẩn (a newly married couple drink a potion containing honey on each of the first 30 days of the marriage to enjoy the pleasure of wedding feast). Tuần trăng-mật hay tháng trăng-mật này rất quan-trọng cho hạnh-phúc của cuộc đời đội vợ chồng từ sau ngày cưới cho đến khi đầu bạc răng long.

r. Cưới Chạy Tang
Trước đây, tiền-nhân ta có luật-pháp cấm nhà trai nhà gái không được làm lễ-cưới gả trong khi gia-đình để tang thân-nhân kể từ tiểu-tang cơ-niên (để tang 1 năm) đến đại-tang (để tang 3 năm). Chính vì thế mà sau Lễ Ăn-Hỏi, nếu nhà trai hay nhà gái có ông, bà, cha, me, hoặc chú bác bị bệnh nặng có thể chết thì gia-đình phải lo làm lễ-cưới cho con trước khi nhà có người chết. Khi gặp trường-hợp bất-đắc-dĩ, gia-đình phải làm lễ-cưới ngay sau khi có ông, bà, cha, hay mẹ chết bất thình-lình. Việc làm lễ-cưới vội-vã trước khi làm đám tang có tên là cưới chạy tang. Đám cưới chạy tang rất giản-dị và nhanh chóng đối với cả hai gia-đình nhà trai và nhà gái vì mọi người còn phải dành thì giờ để lo đám tang cho thân-nhân.

London, ngày 21 thang 6 năm 2004

------------------------------------------------------------

Cước-Chú: 1. Thiếp Báo-Hỷ và Thiệp Mời
(Thiệp làm bằng giấy màu vàng thì viết bằng chữ màu đỏ hay xanh; nếu thiệp làm bằng giấy màu trắng thì viết bằng chữ màu vàng, đỏ, hay xanh; )Thiệp Báo-Hỷ Ngày . . . . . . . . .

(Chỗ viết tên và địa chỉ (Chỗ vẽ dấu-hiệu về tên (Chỗ viết tên và địa chỉ của bố mẹ chàng rể) của cô dâu chú rể) của bố mẹ cô dâu)

Kính thưa quý-vị, Chúng tôi trân-trọng báo tin Lễ Thành-Hôn và Vu-Quy của con chúng tôi:. . . . . . . . . . . . . . (viết họ và tên chú rể) . . . . . . . . . . . . . .(viết họ và tên cô dâu)Trưởng-nam (hayThứ-nam) Trưởng-nữ ( hay Thứ-nữ)
Hôn-lễ sẽ được cử-hành vào lúc . . . (giờ sáng/chiều) . . . .(ngày trong tuần-lễ)Ngày . . . tháng. . . . . năm . . . . . . . . (ngày tháng năm tây-lịch)Nhằm ngày. . .tháng. . . năm . . . . . . . . (ngày tháng năm âm-lịch)Tại. . . (địa-chỉ nơi tổ-chức hôn-lễ)
Trân-trọng,( Ký tên và biên tên ba hay má của chú rể / ba hay hay cô dâu đứng ra báo tin) ------------------------------------

Kèm theo tâm thiệp báo-hỷ này, chúng ta còn cần phải có tấm thiệp mời quan-khách đến dự tiệc-cưới. Tấm thiệp mời này cũng phải viết bằng song-ngữ để tiện việc mời cả người Việt lẫn người bản-xứ. Tiếp theo đây là bản thiệp mời bằng tiếng Việt với nội-dung như sau:

Thiệp MờiNgày…. . . . . . . . . . . . . .Kính thưa . . . . . . . . . . . .(biên tên người được mời) Trân trọng kính mời Ông Bà (Ông/ Bà/ hay Anh Chị) đến dự buổi tiệc-cưới chung vui cùng với gia-đình chúng tôi tại: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . (biên địa-chỉ nơi tổ-chức tiệc-cưới)Vào lúc . . . . . . . . . . . (biên giờ, ngày trong tuần, và ngày tháng năm tây lịch)
Sự hiện-diện của Ông Bà sẽ là niềm vinh-dự cho gia-đình chúng tôi. Kính xin Ông Bà làm ơn thông-báo cho chúng tôi biết (bằng số điện thoại dưới đây) là có đến tham-dự tiệc-cưới được hay không. Xin thông báo cho chúng tôi biết trước ngày . . . . . . . . . . . . . . .(đề ngày trước một tuần của ngày có tiệc cưới). . . . . . . . . . . (tên người của gia đình nhà trai), . . . . . . . . . . . . .(số điện thoại). . . . . . . . . . (tên người của gia đình nhà gái), . . . . . . . . . . . . . .(số điện thoại)
Trân-trọng,(ký tên và biên tên của người đứng mời)
Hồi xưa ở Việt-Nam, các gia-đình đều dùng bài Văn-Tế Tơ-Hồng sau đây của Học-Giả Triêu Dương Nguyễn Các-Phụng:

2. Văn-Tế Tơ-Hồng


Duy Nguyệt-Lão xe duyên ngày... tháng . . . năm . . . thành-phố . . . tỉnh . . . nước. . . Vì việc kết-hôn của . . . . (tên chú rể) cùng . . . (tên cô dâu), nay hôn-sự đã thành, kính dâng lễ bạc lòng thành lên Đức Tơ-Hồng Nguyệt-Lão Thiên-Tiên. Ngài rất công, rất thẳng,/ Không vị, không thiên,/ Đem kính ngọc xét soi thế-sự, / Lấy chỉ hồng xe kết nhân duyên, / Xui nhạn cá mối-manh đưa lại, / Nên uyên-ương sum-họp phỉ-nguyền, / Bởi nợ trước duyên sau cùng sinh một hội, / Vậy người Nam kẻ Bắc kết-duyên bách niên, / Đuốc hoa xán-lạn hai nhà nhờ ơn Nguyệt-Lão,/ Thước ngọc hợp-thành một cặp bởi đức Hoàng-Thiên, / Gối phượng chăn loan tưng-bừng đôi lứa, / Chèo lan lái quế êm-ấm một thuyền, / Mong sớm ứng điềm lành, mộng hổ, mộng hùng, mộng sà, mộng lộc,/ Được sau nên họ lớn, sinh đào, sinh lý, sinh huệ, sinh liên, / Nguyện cùng trăm năm giai-lão, / Ước rằng hai họ mãn-viên, / Trông ơn đại-đức, / Tấc dạ vi kiền. Cẩn cáo

LSB_Lãng Tử
28-10-2006, 18:06
A. Phần Mở Đầu.

Lịch sử văn hóa của dân tộc Việt Nam đã trải dài suốt mấy nghìn năm, và bàng bạc rộng khắp cả ba miền đất nước. Do đó, nói về Văn Hoá của Dân Tộc Việt chúng ta thật không đơn giản, bởi nó quá phong phú và đa dạng. Hôm nay chúng tôi xin trình bày vài nét đẹp mà người Việt chúng ta đã và đang thể hiện trong các dịp Quan, Hôn, Tang, Tế.

B. Một Vài Nét Đẹp Qua Các Sinh Hoạt Quan Hôn Tang Tế.

I. SỰ LIÊN HỆ CỦA CÁ NHÂN, GIA ÐÌNH VÀ TỘC HỌ QUA LỄ TỤC CƯỚI HỎI :

Văn hóa mỗi miền một khác, mỗi nước một khác. Tây phương khác với Đông phương...Ví dụ trong lễ tục cưới hỏi, ở Tây phương ngày nay, khi người con trai và người con gái đã đến tuổi trưởng thành, họ có thể rời gia đình, đi thuê nhà ở riêng với nhau. Sau một thời gian như thấy thuận thảo hay đã có một vài mặt con mới rủ nhau làm đám cưới. Trái lại, ở Đông phương, nhất là ở Việt nam ta, trước khi người con gái về nhà chồng, việc cưới hỏi phải được tổ chức chu đáo, đầy đủ các lễ nghi như dạm hỏi, lễ đính hôn rồi cuối cùng là lễ cưới. Nét đẹp của Văn Hóa Việt trong lễ tục cưới hỏi là, hạnh phúc hôn nhân của đôi trẻ không thể tách rời hạnh phúc của gia đình và tộc họ. Nếu quan niệm tình yêu và hạnh phúc chỉ giới hạn trong phạm vi hai người phối ngẫu thì không hoàn toàn đúng và có phần ích kỷ, vì cha mẹ nào sinh con mà lại không yêu thương con của mình. Do đó, hạnh phúc của con cũng chính là hạnh phúc của cha mẹ và đồng thời cũng là nguồn vui chung của cả bà con hai họ.

II. GIỌT NƯỚC MẮT CỦA CÔ THIẾU NỮ TRONG NGÀY VU QUY :

Người xưa có nói :


" Khấp như xử nữ vu qui nhựt
Tiếu tợ thư sinh lạc đệ kỳ"
Nếu thư sinh hỏng thi mà cười thì ắt hẳn đó phải là nụ cười héo hắt, không thể vui được; ngược lại giọt nước mắt của cô thiếu nữ khóc trong ngày vu quy phải là những giọt nước mắt của niềm vui.
Cũng chưa hẳn như vậy. Theo quan điểm của chúng tôi, giọt nước mắt trong ngày Vu Quy, hay bữa cơm cuối cùng với gia đình để rồi ngày mai người thiếu nữ về nhà chồng, giọt nước mắt ấy không thể nào gọi là vui được. Giọt nước mắt ấy đã chan chứa biết bao tình cảm yêu thương mặn nồng, gắn bó qua bao năm tháng cùng chung sống dưới mái ấm gia đình. Giọt nước mắt ấy rất đẹp , óng ả như pha lê. Giọt nước mắt ấy đã biểu lộ một nỗi niềm đó là chưa tròn bổn phận của mình đối với tổ tiên, ông bà:


"Miếu thiêng vụng kén người thờ
Nhà hoang khói lạnh chị nhờ cậy em".
(Nguyễn Bính)
Và giọt nước mắt ấy cũng bày tỏ bổn phận chưa tròn của kẻ làm con đối với cha mẹ. Nhà thơ Nguyễn Bính đã nói giùm tâm trạng của các cô gái trước lúc sang ngang:
" Em ơi, em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương
Mẹ già một nắng hai sương
Chị đi một bước trăm đường xót xa..."
Nỗi "xót xa" của người thiếu nữ lên xe hoa về nhà chồng không phải vì đò xe cách trở, mà vì một khi từ giã mái ấm để đi làm dâu nhà người, thì kể từ đó mình đã không còn là người của mái ấm gia đình. Ngay cả chiếc gối trong khuê phòng bao năm mình đã nằm, lúc bấy giờ, sau khi ra đi, chiếc gối ấy cũng được mẹ sửa lại; và dĩ nhiên khi trở về thăm lại gia đình cô không được tự tiện nằm, ngồi như trước; cũng như không được tự tiện làm bất cứ điều gì nếu chưa được phép cha mẹ và các thành viên còn lại trong gia đình. Nỗi xót xa vì vừa mất đi cái gì thiêng liêng quý báu, vừa không còn thân thiết như xưa, vừa phải xa cha mẹ, xa gia đình, xa các em thơ cũng như chưa biết được những tháng ngày sắp tới phải sinh hoạt bên nhà chồng như thế nào... đó là nỗi xót xa, nỗi buồn trĩu nặng tâm hồn chứ không thể nào là niềm vui được. Cho nên giọt nước mắt của cô thiếu nữ trong ngày vu qui "khấp như xử nữ vu qui nhật", nó chan chứa biết bao tâm tư, tình cảm của người con gái Việt-nam trong đó.
Như chúng tôi đã ví nó rất đẹp và óng ả như pha lê, nhưng pha lê lại rất dễ vỡ nếu chúng ta không biết cẩn trọng và giữ gìn.
Do vậy, đã có biết bao cô gái Việt-nam vì không muốn mất đi cái tình cảm thiêng liêng quý báu ấy nên đã không muốn đi lấy chồng, muốn ở bên cha mẹ suốt đời. Các cô viện lý do là vì cha mẹ sức yếu tuổi già không ai hầu hạ, đỡ đần hôm sớm... Nhưng đâu có bậc cha mẹ nào mà muốn con mình ở như vậy suốt đời. Bởi cha mẹ đâu có ở đời với con. Rủi mai kia cha mẹ khuất núi, qua đèo thì con biết nương cậy vào ai. Do đó, cha mẹ muốn con gái của mình phải có nơi nương tựa, mà đành chấp nhận gánh vác những việc nặng nhọc hằng ngày để con có thể an lòng mà "xuất giá tòng phu". Nguyễn Bính diễn tả lời âu yếm thương yêu của người mẹ với cô con gái khi nhà trai đến dạm ngỏ (xem mắt) như sau:


"Gái lớn ai không phải lấy chồng
Can gì mà khóc, nín đi không
Nín đi, mặc áo ra chào họ
Rõ quí con tôi, các chị trông...
"Ruộng tôi cày cấy, dâu tôi hái
Nuôi dạy em cô, tôi đảm đương
Nhà cửa tôi trông, nợ tôi trả
Tôi còn khỏe chán, khiến cô thương."
(Nguyễn Bính)


Nhưng trong ngày cưới của con, khi tiễn con ra khỏi cửa buồng, chỉ còn một mình mẹ lủi thủi ở lại, vì theo phong tục Việt, người Mẹ chỉ được phép tiễn con ra khỏi cửa buồng thôi, chứ không được theo con về đến nhà họ trai. Khi trở vào trong căn phòng mà con gái của mẹ đã từng ở, sửa lại chiếc gối, nhìn cái bàn, trông cảnh nhớ người, đâu đâu cũng toàn là kỷ niệm, hình ảnh của con lấp kín căn phòng. Những giọt nước mắt mà mẹ đã khéo kềm chế trong giây phút tiễn đưa, chia tay với con, thì giờ nầy mặc tình tha hồ tuôn chảy.
"Đưa con ra đến cửa buồng thôi
Mẹ phải xa con khổ mấy mươi
Con ạ, đêm nay mình mẹ khóc
Đêm đêm mình mẹ lại đưa thoi"
(Nguyễn Bính)
III. LỄ TỤC ÐỂ TANG :

Tại sao ta phải để tang? Để tang là biểu lộ niềm tôn kính và biết ơn đối với người quá cố.

1. Con cái để tang cho cha mẹ.

Đối với cha mẹ, những người sinh thành và đã phải nhọc nhằn vất vả để nuôi mình khôn lớn, mình đã thọ nhận không biết bao nhiêu là công ơn của cha mẹ, không biết bao nhiêu là chén cơm và manh áo mà cha mẹ đã cho mình. Thì mảnh khăn tang chít trên đầu, chiếc áo tang mặc trên người là để tri ân và báo ân sinh thành dưỡng dục, mà hạn chế những việc làm vì ham vui có thể đi đến trụy lạc của mình, những việc làm đó có thể sẽ làm cho vong linh người quá cố không vui. Thứ đến là có thể để người láng giềng sẽ đánh giá cười chê, cho rằng cha mẹ vừa mới nằm xuống mà con cái không biết kiêng cữ gì hết. Ăn chơi, đàn hát, rượu chè là không biểu lộ sự bi ai, đau buồn trước sự mất mát to lớn đối với cha mẹ. Nói như thế, không có nghĩa là cha mẹ qua đời, người con phải làm ra vẻ buồn rầu áo não mới là đại hiếu.

Chữ "chế" trong danh từ kép tang-chế, có nghĩa là chế chỉ, là ngăn chặn mọi sự vui chơi, hoan lạc trong suốt thời gian để tang. Ngày xưa ở quê nhà, những gốc cau, những giây trầu được các cụ chăm sóc mỗi ngày, khi các cụ qua đời, những gốc cau, những giây trầu ấy cũng được chít khăn tang và dường như chúng cũng biết biểu lộ sự buồn đau mất chủ, nên những giây trầu ấy có khi cũng héo úa vàng vọt.

2. Học trò để tang cho thầy và con nuôi để tang cho nghĩa phụ, nghĩa mẫu.

Vì chữ "tang" liên hệ đến chữ "tình", do vậy có tình tức là có tang. Có những người con nuôi không phải do cha mẹ sinh ra nhưng vì có tình với cha mẹ nuôi nên có thể để tang được; người học trò có ân tình với thầy cũng có thể để tang được. Nếu chít khăn tang trên đầu, mặc áo tang trên người mà không có chút tình thì dù có chít bao nhiêu cái khăn tang trên đầu và có để tang bao lâu cũng không có giá trị.

3. Có nên duy trì lễ tục để tang không?

Trong bối cảnh hiện tại những người Việt ở hải ngoại, xa quê, xa những sinh hoạt văn hóa nghìn đời đó, nếu cha mẹ của chúng ta khuất núi, chúng ta có nên để tang hay không? Nếu không làm thì sợ người đời dị nghị, phê bình nên cũng làm một cách nôm na chiếu lệ, làm cho có, không cần thiết, làm hời hợt không sâu sắc. Bởi không thấy giá trị ý nghĩa của khăn tang, rồi để tang một vài tuần, hoặc 49 ngày thì xả, viện cớ là vì ai cũng bận rộn với cơm áo, với công việc làm ăn buôn bán nên không thể để tang, hoặc không thể để lâu được. Dĩ nhiên người quá cố không trách cứ gì trước việc làm như hờ hững, vô tình của chúng ta. Nhưng theo quan điểm của chúng tôi, chúng ta làm như vậy sẽ cảm thấy như không xứng đáng với công ơn và sự hy sinh cao cả của cha mẹ hoặc những người mà chúng ta từng mang nặng ân tình.

IV. TINH THẦN TƯƠNG TẾ :

1. Tình láng giềng

Ở Tây phương này, tình láng giềng không giống như ở Việt nam. Tình cảm láng giềng của Việt Nam gần gũi, gắn bó chặt chẽ vô cùng. Việc gì cũng có thể nhờ hàng xóm. Thiếu lon gạo, chén muối có thể qua hàng xóm mượn, thiếu bất cứ cái gì cũng nhờ hàng xóm giúp đỡ, thậm chí bệnh tật, gió máy đều có thể gọi nhờ hàng xóm giùp đỡ cho dù là nửa đêm, gà gáy mà không sợ phiền hà gì hết. Láng giềng ở Việt Nam không những chỉ giúp đỡ cho nhau về vật chất mà còn giúp cho ta về cả tinh thần nữa.

Cách đây cũng nhiều năm, có một hôm tôi thấy trên một tờ báo Anh ngữ có đăng một tấm hình thật thương tâm, đó là hình ảnh một chiếc kéo cắt đôi bức hình hai mẹ con, bức tranh tách hai mẹ con thành hai mảnh riêng biệt. Điều xót xa là tuổi của người con chỉ mới lên mười. Nội dung bài báo cho biết là, một luật sư lão thành đã từng thắng những vụ kiện lớn tại Hoa-Kỳ đứng ra biện hộ cho em bé ấy được thoát ra khỏi vòng tay yêu thương và chăm sóc của người mẹ. Và kết quả, tòa phán quyết em là người thắng kiện. Nghĩa là em được (hay bị) thoát ly khỏi gia đình! Và dĩ nhiên người đàn bà kia (người thua kiện) đã mất đi quyền làm mẹ và mất hẳn một đứa con tuổi còn thơ dại. Đọc xong bài báo, tôi bàng hoàng xao xuyến, xót xa cho cả hai mẹ con. Nếu em bé ấy sinh ra trong xã hội Việt Nam và được nuôi dưỡng bằng chất liệu Văn Hoá Việt Nam, thì chúng tôi tin rằng sẽ không có tình trạng đó xảy ra, em sẽ được cứu bằng Văn Hóa Việt Nam. Trường hợp nếu có một em bé Việt Nam bị cha mẹ la rầy, đánh mắng, và cô bác láng giềng thấy được, em bé ấy sẽ được cô bác láng giềng bảo bọc, che chở. Họ sẵn sàng đem em về nhà khuyên nhủ, dỗ dành và chờ cho cha mẹ của em nguôi cơn tức giận sẽ đích thân dẫn em về, hướng dẫn em xin lỗi cha mẹ, và đồng thời khuyên cha mẹ nên đối xử thương yêu con cái, chứ không bao giờ có tình trạng họ giúi vào tay em bé số điện thoại của luật sư và khuyên em hãy nên điện thoại cho luật sư để em được bênh vực.

Ở đây chúng ta không có điều kiện làm người láng giềng như ở bên nhà, nhưng ta có tình đồng hương. Tuy chúng ta không được sống san sát bên nhau, nhưng chúng ta có sự liên hệ qua những sinh hoạt hội đòan. Mặc dù kẻ sống ở phía tây, người sống ở bên đông nhưng ta có thể họp mặt nhau cuối tuần, nhờ có những sinh hoạt hội hè, đình đám, nhà thờ, chùa... Qua những sinh hoạt đó, chúng ta gặp gỡ nhau để trao đổi tâm tình đối với đồng hương, nối nhịp cầu thông cảm giữa người và người; sẵn sàng giúp đỡ và cùng siết chặt tay nhau để san bằng những khó khăn nơi đất khách quê người.

2. Tục phúng điếu trong tang lễ

Phúng điếu cũng là một lễ tục rất đẹp của Dân Tộc chúng ta. Qua lễ tục nầy, chúng ta có thể bày tỏ niềm biết ơn và tôn kính đối với người quá cố dưới mọi hình thức chẳng hạn như: chúng ta đến với một thẻ nhang, một tràng hoa, một bức trướng, một điếu văn... hay là một khoản tiền nhỏ để phụ giúp cho thân nhân người quá cố vượt qua những khó khăn trong việc ma chay, tống táng. Những hình thức phúng điếu như trên của Dân Tộc chúng ta, nó nói lên tinh thần tương tế của chòm xóm, láng giềng. Lễ tục nầy có khả năng giúp cho mọi người yêu thương, gắn bó và đùm bọc lẫn nhau. Ở hải ngoại ngày nay có nhiều người nghĩ không cần thiết phải duy trì lễ tục nầy, vì sống trong xã hội nầy hầu hết mọi người đều có bảo hiểm. Khi nằm xuống đã có bảo hiểm lo, con cháu không cần phải lo lắng gì cả. Cho nên vấn đề nhận phúng điếu bằng tiền sẽ không là vấn đề cần thiết, và tạo cho người quá cố mang nợ. Nhưng theo quan niệm của cá nhân chúng tôi, không nhận tiền phúng điếu cũng chưa hẳn là không mang nợ, và chưa chắc đó là một giải pháp ổn thỏa. Có điều chúng ta biết xử dụng lễ vật phúng điếu một cách khéo léo thì sẽ đem lại ích lợi cho cả người sống lẫn người đã mất.


a. Không nhận phúng điếu
Nếu không nhận phúng điếu, thì bằng hữu, thân nhân sẽ phải tìm một cách nào đó, bằng cách nầy hay cách khác để bày tỏ tấm lòng của họ đối với người quá cố. Cách thông thường là bằng một vòng hoa hay một lẵng hoa, mà hoa đẹp thì thường là đắt tiền. Cuối cùng chúng ta cũng phải nhận một cái gì đó từ nơi họ, không nhận phúng điếu bằng tiền, nhưng lại nhận phúng điếu bằng hoa thì cũng là nợ hoa vậy. Hoa tốn kém, nhưng chỉ có giá trị vài ngày, và sau đó hoa sẽ héo tàn.
b. Nhận phúng điếu
Thử giải pháp nhận phúng điếu bằng tiền. Nếu chúng ta nhận phúng điếu bằng tiền, thì thân nhân hay bằng hữu có thể đến với ta một số tiền ít nhiều theo khả năng của họ. Để thực hiện lễ tục nầy một cách hài hòa và lợi lạc, người thân không mặc cảm và người quá cố cũng không mang nợ. Giải pháp như sau: chúng ta có thể làm một cái thùng nhỏ, vuông vức nhưng kín đáo để thân bằng quyến thuộc bỏ tiền phúng điếu vào. Trên thùng ấy ghi rõ: "tất cả số tiền phúng điếu nầy sẽ được sung vào quỹ từ thiện, cứu trợ xã hội... để hồi hướng công đức cho người quá cố", . Sau đó chuyển tất cả số tiền này tới một cơ quan từ thiện nào, hoặc người thân đích thân mang tất cả số tiền nầy về giúp cho các trẻ em nghèo khổ ở Việt Nam hoặc là những đồng bào bị thiên tai bão lụt ở quê nhà chẳng hạn. Như vậy, Những người kém may mắn cũng thừa hưởng được những ân huệ của người quá cố; người quá cố đã nằm xuống rồi mà vẫn còn làm được một việc cuối cùng có ích lợi cho mọi người; đồng thời, thân nhân và bằng hữu cũng có cơ hội bày tỏ chút ân tình với người quá cố và còn gián tiếp làm được một công việc phúc lợi cho đời.
Cho nên việc phúng điếu ở hải ngoại ngày nay, theo chúng tôi nên chuyển qua hướng như vậy, để chúng ta có tầm nhìn rộng hơn, đẹp hơn và ích lợi hơn. Đây là việc làm thiết thực ích lợi, chúng ta cần nên khuyên hóa cho con cháu biết.

V. LỄ TỤC THỜ CÚNG, GIỖ KỴ VÀ NHỚ ƠN TIỀN NHÂN :

1. Tục giỗ kỵ ông bà.

Hàng năm ở Việt Nam chúng ta đều có những ngày giỗ kỵ, ngày họp mặt trong gia đình tộc họ, một năm một lần. Sở dĩ có ngày nầy, là để tập họp con cháu trong gia đình cùng về đoàn tụ, trước hết là để tưởng nhớ đến cội nguồn tổ tiên theo truyền thống "ẩm thủy tư nguyên" (uống nước nhớ nguồn), và sau là để con cháu các chi, các nhánh, con chú, con bác trong tộc họ có dịp quen biết nhau.

Việc cúng cho ông bà, tổ tiên và những người quá cố, họ có hưởng dụng được hay không đó là một việc (chúng tôi sẽ bàn rõ đề tài nầy vào một dịp khác có nhiều thời giờ hơn), còn về phía chúng ta, cúng cho người quá cố là chúng ta đang làm bổn phận hiếu đạo: tri ân, báo ân đối với người quá cố.

2. Chiếc bàn thiên trong Văn Hóa Việt

Chúng ta thường thấy ở thôn quê Việt Nam trước mỗi nhà có đặt chiếc bàn thiên. Dưới nhãn quang của một số người, họ cho đó là một hình thức mê tín, nhưng với tâm tình của người dân quê chất phác, đó là một hình ảnh hết sức đạo đức. Bởi vì quan niệm về nhân sinh quan của dân tộc Việt, đối với cuộc sống không phải chỉ có quan hệ với những người đang sống không thôi, mà cũng phải tưởng nghĩ đến những người đã nằm xuống, những người đã khuất mặt, những chiến sĩ vô danh, những người đã vì nước, vì dân, những người đã hy sinh để cho mình có một đời sống ấm no hạnh phúc. Theo quan điểm của chúng tôi, chiếc bàn thiên để tưởng niệm đến những người đó, là một việc làm hết sức nhân bản, đạo đức và rất đẹp. Đối với những phong tục ở các quốc gia Tây phương hằng năm họ có những ngày truy điệu, tưởng niệm để nhớ ơn những anh hùng, chiến sĩ, những người có công với đất nước, hoặc treo cờ rũ _ một hình thức quốc tang để tưởng niệm, mỗi khi có một vị trong hàng lãnh đạo quốc gia nằm xuống...Tất cả những hình thức ấy, dù là phong tục ở phương Ðông hay phương Tây, cũng đều bày tỏ niềm tôn kính, tri ân đối với người đã khuất.

3. Lễ chúc thọ

Các cụ của chúng ta thường không quan trọng ngày sinh của mình, mà lại luôn luôn chú trọng những ngày húy nhật của tổ tiên ông bà. Ngày sinh của chính mình thì các cụ có thể không nhớ, nhưng ngày húy kỵ của tổ tiên, ông bà thì các cụ chẳng bao giờ quên. Ðây là điểm nổi bật thường thấy ở xã hội Việt Nam.

Các cụ có thể không nhớ ngày sinh của các cụ thì không sao, nhưng phận làm cháu con, chúng ta không thể lơ là, hờ hững những ngày đó, nhất là lễ mừng thọ các cụ hằng năm. Chúng ta tổ chức những buổi lễ như vậy để các thế hệ con cháu có dịp học hỏi về bài học tri ân và cung kính bậc trưởng thượng, người đã hy sinh cho cha mẹ của mình và bồi đắp cho chính các em đó.

C. Phần Kết

Tóm lại, Văn Hoá Việt có muôn ngàn nét đẹp và phong phú. Ngày hôm nay chúng ta đang mang những nét đẹp văn hóa ngàn đời của cha ông đến tận góc biển chân trời. Hy vọng một ngày nào đó, nền Văn Hóa Việt của chúng ta sẽ được nhiều người chấp nhận và thực hành với ước mong có một cuộc sống hài hoà và hướng thượng. Muốn được như vậy thì tất cả chúng ta, những người Việt Nam phải luôn luôn trau giồi, học hỏi và động viên con cháu phải biết tôn trọng, giữ gìn nền văn hóa cao đẹp nầy, để thừa kế gia tài quý báu đạo đức của cha ông để lại. Nếu chúng ta không khéo giữ gìn lễ tục, không khuyến khích con cháu học hỏi và sống với đạo lý ngàn đời của cha ông, thì chúng ta sẽ đánh mất đi di sản văn hóa của dân tộc.

Nếu những đạo lý đó mất đi, thì làm sao chúng ta có cơ hội vãn hồi lại sự thanh bình cho đất nước, làm sao các thế hệ con cháu của chúng ta sau này có cơ hội nghĩ về việc xây dựng quê hương, vì chúng không hiểu gì về giá trị đạo đức của dân tộc, không có ý niệm gì về cội nguồn, tổ tiên, và dòng tộc. Cho nên còn giữ được truyền thống đạo lý Việt Nam, là còn có thể giữ được giềng mối của quốc gia, dân tộc.

LSB_Lãng Tử
29-10-2006, 07:43
Mạc Đĩnh Chi (1272-1346), tự là Tiết Phu, người làng Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Khi Mạc Đĩnh Chi sinh ra, tướng mạo vô cùng xấu xí: lùn, đen, mồm rộng, mũi tẹt, trán dô. Người làng thường bảo đó là con khỉ tinh nghiệm vào. Nhưng ông lại rất thông minh, ngay từ nhỏ đã nổi tiếng thần đồng. Đời Trần Anh Tông, niên hiệu Hưng Long thứ 12 (1304), ông đi thi, văn bài làm trội hơn mọi người nhưng vì mặt mũi xấu xí nên nhà vua không muốn cho ông đỗ. Ồng bèn dâng bài “Ngọc Tỉnh Liên Phú” (bài phú: Sen trong giếng ngọc) để nói lên cái phẩm giá thanh cao của mình. Trong bài phú có những câu như:

…Phi đào lý chi thô tục; phi mai trúc chi cô hàn
Phi tăng phòng chi cẩu kỷ; phi Lạc thổ chi mẫu đơn
Phi Đào lệnh đông ly chi cúc; phi linh quân cửu uyển chi lan
Nãi thái hoa phong đầu ngọc tỉnh chi liên….

Nghĩa là:

Chẳng phải như đào trần, lý tục; chẳng phải như trúc cỗi, mai gầy
Cẩu kỷ phòng tăng khó tránh; mẫu đơn đất Lạc nào bì
Giậu Đào lệnh cúc sao ví được; vườn Linh quân lan sá kể gì
Ấy là giống sen giếng ngọc ở đầu núi Thái Hoa vậy!…

Vua xem xong bài phú, tỏ ý rất cảm phục, liền cho Mạc Đĩnh Chi đỗ Trạng nguyên. Về sau ông làm tới chức tả bộc xạ (thượng thư) và là ông quan thanh liêm, được nhân dân rất yêu mến.

Có lần Mạc Đĩnh Chi phụng mệnh vua dẫn đầu đoàn sứ giả nước Đại Việt sang sứ nhà Nguyên bên Tàu. Đã một lần biết tiếng trạng nguyên nước Việt, người xấu xí nhưng ứng đối như thần, bọn quan lại nhà Nguyên vẫn muốn thử tài quan trạng. Tuy đã có hẹn trước với người Tàu ngày mở cửa ải, bất ngờ hôm ấy trời lại mưa, Mạc Ðĩnh Chi sai hẹn, hôm sau tới cửa ải Phong Lũy thì người Tầu đóng kín không cho vào.

Một vế đối được thả theo dây buộc xuống thách đối lại, nếu không đối được sẽ không mở cửa ải. Vế đối như sau:

“Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan”

Nghĩa là: Qua cửa ải trễ, cửa quan đóng, mời khách qua đường qua cửa quan.

Vế đối chỉ có mười một chữ, nhưng hiểm ở chỗ có tới bốn chữ "quan", còn chữ "quá" được nhắc tới ba lần. Đây hẳn là câu đối được chuẩn bị khá kĩ từ trong triều nhà Nguyên, chứ không phải viên quan trấn ải nghĩ ra được. Nếu không đối được thì quá bẽ mặt, chỉ còn cách cả đoàn sứ ra về, nhục quốc thể. Mạc Đĩnh Chi nghĩ một lát rồi ứng khẩu:

“Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối”.

Nghĩa là: Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, mời tiên sinh đối trước.

Vế đối lại dùng mười một chữ, cũng dùng tới bốn chữ "đối" trong vế, còn chữ "tiên" được nhắc 2 lần. Ý đối chỉnh và người đối lại rất nhanh, lại có thể hiện sự nhún nhường.

Bọn quan coi ải vô cùng kinh ngạc vì tài ứng đối, vội ra lệnh mở cửa và bày nghi lễ đón tiếp trọng thể sứ đoàn Đại Việt.

Tới kinh đô, Mạc Đĩnh Chi được vời vào diện kiến hoàng đế nhà Nguyên. Vua Nguyên vốn kiêu căng, tự cho mình là thống lĩnh trái đất, tự ví mình như mặt trời đỏ. Để trấn áp quan trạng Việt Nam và tỏ ý coi thường nước Đại Việt nhỏ bé, hoàng đế Nguyên đọc một câu đối (do triều thần soạn sẵn), đòi trạng Việt phải đối lại:

“Nhật: hỏa; vân: yên; bạch đàn thiên tàn ngọc thỏ”.

Nghĩa là: Mặt trời (là) lửa, mây (là) khói; ban ngày đốt cháy vầng trăng.

Mạc Đĩnh Chi hiểu rõ dụng ý kẻ cả nước lớn và cả mục đích đe dọa của vua Nguyên. Cần phải khẳng định ý chí của Đại Việt và sức mạnh quật cường của Đại Việt, quan Trạng ứng khẩu đọc vang:

“Nguyệt: cung; tinh: đạn; hoàng hôn xạ lạc kim ô”.

Nghĩa là: Trăng (là) cung, sao (là) đạn; chiều tối bắn rơi mặt trời).

Vế đố lại thật giỏi về nghĩa về chữ. Lại thấy trăng lưỡi kiềm như cánh cung, những vì sao tròn như viên đạn, đây là sự hình dung thật tuyệt. Song, hay hơn cả là vế đối tỏ rõ sức cứng rắn của người nước Việt, không lời đe dọa nào làm cho run sợ, sẵn sàng đối phó với kẻ thù.

Vua tôi nhà Nguyên nhìn nhau, lòng đầy thán phục. Hoàng đế sai mang lụa và vàng bạc tặng thưởng Mạc Đĩnh Chi, rồi nói:

- Có một bài thơ của sứ thần của ta mà vua nước Nam không hiểu nổi, phải nhờ đến ngươi mới xong, chẳng hóa ra vua nhà Trần dốt nát chăng?

Mạc Đĩnh Chi cười ầm lên, rồi chắp tay cung kính đáp:

- Tâu hoàng thượng! Giải nghĩa một bài thơ nhỏ là phận của kẻ bầy tôi, chứ đâu phải là công việc của bậc cao tôn như vua nước tôi.

Vua Nguyên cảm phục tài và đức, bỏ qua những đố kị với nhà Trần. Khi hết nhiệm vụ sắp về nước, Mạc Đĩnh Chi được vua Nguyên đích thân phê bút phong “Lưỡng Quốc Trạng Nguyên”.

LSB_Lãng Tử
29-10-2006, 18:16
* Nam nữ thụ thụ bất thân là gì?

Ðây là câu nói cửa miệng, quen dùng chỉ mối quan hệ nam nữ theo quan niệm của nhà nho. Người đàn ông và người đàn bà ngày xưa trao cho nhau cái gì, nhận của nhau cái gì, đều không trực tiếp tận tay, sợ bấm nháy, ra hiệu gì với nhau chăng? Hai người muốn mời nhau ăn trầu, thì người chủ tiêm trầu, đặt giữa bàn, khách tự nhặt lấy mà ăn. Lễ giáo phong kiến thật khắt khe, việc tỏ tình trực tiếp khó mà thực hiện được, họa chăng chỉ có đôi mắt là thầm lén nhìn nhau!
Vì vậy các nhà quyền quý thường "cấm cung" con gái. Ngay từ tuổi thơ đã sớm hình thành sự ngăn cách giới tính.

* Mối lái là gì ?

Trong xã hội phong kiến xưa "Nam nữ thụ thụ bất thân" nên hôn nhân cần phải có môi giới. Nếu yêu nhau, cưới hỏi không cần mối lái sẽ bị chê trách. Trong xã hội cũ, có những người chuyên làm nghề mối lái, nếu đẹp đôi vừa lứa thì trở thành ân NHÂN SUỐT ÐỜI. Ở XÃ HỘI mới, ngày nay vẫn còn có các bà mối, các bà mối thời nay là người cố vấn, người đỡ đầu cho đôi trẻ xây dựng hạnh phúc lâu dài. Các bà mối chính là phương tiện thông tin đại chúng, câu lạc bộ người độc thân, các công ty dịch vụ....

* Lễ vấn danh có ý nghĩa gì ?

Là lễ nhà trai đến nhà gái hỏi tên tuổi cô gái, ngày nay gọi là lễ "Chạm ngõ" hay là lễ "Dạm".
Trong hôn nhân xưa chỉ chú trọng có môn đăng hộ đối hay không, có hợp tuổi không, gia đình nào thận trọng mới tìm hiểu "Công, dung, ngôn, hạnh". Chẳng những các chàng trai, trước khi cưới nhiều chàng chưa biết mặt vợ, mà cả những ông bố chồng là người chủ động đi hỏi dâu cũng không biết mặt con dâu.

* Sự tích tơ hồng

Tơ hồng Nguyệt lão thiên tiên dựa theo tích Vi Cố gặp ông lão trong một đêm trăng, ngồi kiểm soát hướng về phía mặt trăng, sau lưng có túi đựng dây đỏ. Ông lão bảo đó là văn thư đựng hôn ước của thiên hạ, còn những sợi dây đỏ để buộc chân những đôi trai gái sẽ thành vợ thành chồng. Một hôm, Vi Cố vào chợ gặp một bà lão chột mắt bế một đứa bé gái, ông lão hiện ra bảo cho biết đứa bé gái kia sẽ là vợ anh, Vi Cố giận, sai đầy tớ tìm giết đứa bé ấy đi. Người đầy tớ đâm đứa bé giữa đám đông rồi bỏ trốn> Muời bốn năm sau, quan Thứ Sử Trương Châu là Vương Thái gả con gái cho Vi Cố. Người con gái dung sắc tươi đẹp, giữa lông mày có dính trang điểm một bông mai vàng. Vương Cố gạn hỏi, vợ mới thưa: thuở còn bé, bà vú bế vào chợ bị một đứa cuồng tặc đâm. Vi Cố hỏi lại: có phải bà vú bị chột mắt không? Người vợ bảo: đúng thế. Vi Cố kể lại việc trước, hai vợ chồng càng quý trọng nhau cho là duyên trời đã định sẵn.

* Tục thách cưới

Thách cưới là một lệ tục lạc hậu, trói buộc cả nhà trai lẫn nhà gái, có khi làm cho chàng rể phải bỏ cuộc mà nỗi thiệt thòi lại rơi vào thân phận người con gái, dẫu sao cũng mang tiếng một đời chồng, dẫu sao cũng làm cho những chàng trai khác phải ngại, xui nên thân phận hẩm hiu.
Ðáng lẽ nên vợ nên chồng, thành gia thành thất, là mừng cho cả hai gia đình nhưng gặp phải ông bác bà cô bên nhà gái khó tính, thách cưới nào là quần áo, nón dép, nào nhẫn xuyến, hoa tai, tiền mặt, cỗ cưới...nên nhà trai phải bỏ cuộc hoặc phải chạy ngược chạy xuôi, lo xong việc rồi kéo cày trả nợ, song ngay từ buổi thành hôn, nghĩa vợ chồng, tình thông gia đã bị sứt mẻ, đó là mầm mống gây nhiều bất trắc về sau.
Cũng có trường hợp nhà gái túng thiếu không thể tự lực cung cấp cho đủ lệ làng, đòi hỏi nhà trai phải lo chu toàn. Cũng có trường hợp bố mẹ cô dâu còn phải xuất ra gấp năm gấp mười lần, và sau khi thành thân, còn cho con gái, con rể nhiều thứ, nhưng cũng thách cưới cao để tránh tiếng xì xào, đàm tiếu rằng con gái mình dở duyên rồi, nên phải cho không.
Hay các gia đình có học thì lại không thách tiền, thách của mà thách chữ nghĩa văn chương chọn rể con nhà gia thế, với hy vọng tương lai con gái mình còn được "võng anh đi trước, võng nàng theo sau".

* Tiền "Cheo"

Tiền "Cheo" là khoản tiền nhà trai nạp cho làng xã bên nhà gái. Trai gái cùng làng xã lấy nhau cũng phải nộp cheo nhưng có giảm bớt. Xuất xứ của lệ "nạp cheo" là tục "Lan nhai" tức là tục chăng dây ở dọc đường hoặc ở cổng làng. Ðầu tiên thì người ta tổ chức đón mừng hôn lễ, người ta chúc tụng. Ðể đáp lễ, đoàn đưa dâu cũng đưa trầu cau ra mời, đưa quà, đưa tiền biếu tặng. Dần dần có nhiều người lời dụng vòi tiền, sách nhiễu, trở thành lệ tục xấu, triều đình ra lệnh bãi bỏ. Thay thế vào đó, cho phép làng xã ddược thu tiền cheo. Khi đã nộp cheo cho làng, tức là đám cưới được công nhận có giấy biên nhận hẳn hoi. Ngày xưa, chưa có thủ tục đăng ký kết hôn, thì tờ nạp cheo coi như tờ hôn thú. Khoản tiền cheo này nhiều địa phương dùng cho việc công ích như đào giếng, đắp đường, lát gạch, xây cổng làng... Ðã hơn nửa thế ký, lệ làng này bị bãi bỏ rồi.

* Trước khi cô dâu về nhà chồng cần những thủ tục gì?

Khi nhà trai bắt đầu đến đón dâu cùng với chú rể đến trước bàn thờ xin tổ tiên chấp nhận kể từ nay nên vợ nên chồng, phù hộ cho trăm năm duyên ưa phận đẹp, cầm sắt giao hoà. Lễ xong, hai người đi mời chàothân nhân, khách khứa, trước hết là những người bề trên, cao tuổi, khách trước, người nhà sau. Trong khi chào mời, cô dâu phải giới thiệu cho chàng rể biết mối quan hệ để biết cách xưng hô.
Sau cùng, trước khi bước ra cửa để về nhà chồng là lễ tạ cha mẹ. Cha mẹ ngồi sẵn một phía ở cửa chính, nếu ông bà nội ngoại còn thượng tại có đến dự thì ông bà cũng ngồi chung một phía, nhưng ở phía cao hơn. Thời xưa đôi tân hôn phải lạy hai lạy, ngày nay châm chước, cúi đầu cung kính xin phép ông bà, cha mẹ. Lúc đó, cha mẹ ban phát cho con gái, con rể một vật gì đó làm kỷ niệm.

* Ý NGHĨA CỦA LỄ XIN DÂU VÀ THỦ TỤC

Lễ này rất đơn giản, trước giờ đón dâu, nhà trai cử một hai người, thường là bác, bà cô, bà chị của chú rể đưa một cơi trầu, một be rượu đến xin dâu, báo trước giờ đoàn đóndâu sẽ đến, để nhà gái sẵn sàng đón tiếp. Phong tục này có nhiều ý nghĩa hay: mặc dù hai gia đình đã quy ước với nhau từ trước về ngày giờ và thành phần đón dâu, song để đề phòng mọi bất trắc nên mới định ra lễ này để cẩn trọng trong hôn lễ. Thời gian này chú rể và bố mẹ chú rể rất bận rộn nên không thể sang nhà gái, nên uỷ thác cho người đại diện sang báo như bộ phận "tiềm trạm".
Trong trường hợp hai gia đình cách nhau quá xa hoặc quá gần, hai gia đình có thể thoả thuận để miễn lễ nay, hoặc nhập lễ xin dâu và lễ đón dâu vào làm một. Cách nhập lễ xin dâu và đón dâu tiến hành như sau:
Khi đoàn vào đón dâu đến ngõ nhà gái, đoàn chỉnh đốn lại y trang, sắp xếp lại thứ tự đi trước đi sa, trong khi đó một cụ già đi đầu cùng một người đội lễ (mâm quả trong đựng trầu cau, rượu) vào trước, đặt lên bàn thờ, thắp hương vái rồi trở ra dẫn đoàn vào chính thức làm lễ đón dâu. Lễ này phải tiến hành rất nhanh. Thông thường nhà gái vái chào xong, chủ động xin miễn lễ rồi một vị huynh trưởng cũng ra luôn để đón đoàn nhà trai vào.

* Mẹ chồng làm gì khi con dâu bắt đầu về nhà?

Phong tục ở mỗi địa phương một khác, trái ngược nhau nhưng đều có ý nghĩa hay.
Ngày xưa ở nhiều địa phương Nghệ An, Hà Tĩnh có lệ tục mẹ chồng ra cất nón cho con dâu: Nhà trai đặt sẵn trước ngõ một nồi đồng, một cái gáo, trong nồi đặt sẵn một quan tiền đồng và đựng đầy nước trong. Cô dâu vào đến cổng dùng gáo múc nước rửa mặt mũi chân tay, mẹ chồng bước ra cất nón cho con dâu.

LSB_Lãng Tử
29-10-2006, 18:19
Lễ Cưới Đã Định Sẵn

Vấp Phải Lễ Tang Tính Như Thế Nào ?
Đó là trường hợp "Ưu hỷ trùng phùng". Vui và buồn dồn vào một lúc. "Sinh hữu hạn, tử vô kỳ", cuộc đời thì có hạn nhưng ai biết trước chết vào lúc nào. Theo lễ nghi thì khi trong nhà còn tang, trên đầu còn có vành khăn trắng, nhất là đại tang thì tránh mọi cuộc vui. Nhưng lễ cưới đã chuẩn bị sẵn, nếu quá câu nệ thì quả gay go cho cả hai gia đình, nhiều trường hợp tình duyên đôi lứa dở dang, nhất là các gia đình cả đôi bên đều ông già bà cả, có khi đợi đến bảy, tám năm sau chưa hết tang. Vì vậy tục lệ xưa cũng có khoản "trừ hao" : "Cưới bôn tang, tức là cưới chạy tang". Khi đó người chết nằm tạm trên giường, đắp chăn chiếu lại, chưa nhập quan, hoặc gia đình có thể tự làm thủ tục khâm liệm, nhập quan nhưng chưa làm lễ thành phục. Theo nghi lễ, nếu chưa thành phục thì trong nhà chưa ai được khóc. Hàng xóm tuy có biết nhưng gia đình chưa phát tang thì chưa đến viếng, trừ thân nhân ruột thịt và những người lân cận tối lửa tắt đèn có nhau, coi như người nhà.

Trong khi đó, cả hai gia đình chuẩn bị gấp đám cưới cũng làm đủ lễ đưa dâu, đón dâu, yết cáo gia tiên, lễ tơ hồng... nhưng lễ vật rất đơn sơ, thành phần giản lược, bó hẹp trong phạm vi gia đình và một vài thân nhân. Khách, bạn đã mời cũng miễn, sẽ thông cảm sau. Công việc cưới, gả xong xuôi mới bắt đầu phát tang. Cô dâu chú rể mới, trở thành thành viên của gia đình, chịu tang chế như mọi con cháu khác. Nếu hai gia đình thông cảm cho nhau, có thể trong một ngày, từ sáng đến trưa cưới dâu, chiều tối phát tang cũng xong.

Trường hợp nhà có đám cưới mà hàng xóm lân cận có đám tang thì sao?

Người biết phép lịch và lòng nhân ái không bao giờ cười đùa vui vẻ trước cảnh buồn thảm của người khác. Gia đình có giáo dục, hiểu biết không bao giờ cho phép con cháu nô đùa ầm ỹ hoặc mở băng nhạc inh ỏi khi hàng xóm có việc buồn. Trong trường hợp trên, vẫn tiến hành lễ cưới bình thường nhưng không nên đốt pháo, mở băng nhạc và ca hát ầm ĩ, tránh tình trạng kẻ khóc người cười. Trường hợp có quốc tang cũng như vậy.

LSB_Lãng Tử
29-10-2006, 18:23
THI THẢ ÐÈN TRỜI

Thi Thả Ðèn Trời được ghi chép từ năm 1900 trong "Thái bình phong vật chí", ở xã Trình phố (nay thuộc xã An ninh và Phương công huyện Tiền hải). Lệ đặt ra làm đèn giấy bằng cái sọt to, dán giấy kín xung quanh, chừa hở phía dưới còn trong để bát mỡ có bấc để đốt. Khi thi đốt đèn treo lên cao, đèn nhà nào lên được cao nhất mà không bị cháy thủng là thắng cuộc. Tác giả cho rằng lệ thi đèn này có nguồn gốc ở phép treo đèn của Khổng Minh đời Tam quốc bên Trung hoa.

Ở Thái bình lệ thi đèn còn có ở các xã Đông quang, Đông la, Đông á, Đông dương (huyện Đông hưng); An ấp, An khê, Quỳnh nguyên, Quỳnh hưng ( huyện Quỳnh phụ); Thái giang ( huyện Thái thụy); Quang bình, Quang trung (Kiến xương).. song nhiều nhất vẫn là ở huyện Đông hưng. Đèn trời Đông hưng đã lên tận các tỉnh miền núi Tuyên quang, Yên bái, Lai châu... sang Hải dương, Hưng yên, lên Hà nội vào Thanh hóa, Huế, Đà nẵng.

Gọi là đèn trời bởi khi đốt đèn bay lên trời, đèn có thể bay cao cả ngàn mét và bay xa 5-10 km. Thi đốt đèn trời bắt nguồn từ ước vọng của con người mong cho cuộc sống trường tồn. Thi đốt đèn trời trong ngày tết, ngày lễ còn có hàm ý tâm linh xua đuổi bóng đêm, xua đuổi ma quỷ. Người ta quan niệm răng người thắng trong cuộc thi được may mắn cả năm.
Làm đèn trời và đốt đèn thật dễ. Miệng đèn là một thanh tre được làm như cạp rổ, đường kính dài ngắn, cao hay thấp của đèn tùy người làm, thông thường miệng đèn rộng 0,8m và cao 1m. Miệng đèn làm khuôn để phất giấy. Giấy phất đèn được làm bằng giấy bản hoặc giấy dó, có độ dai bền, chịu được sức đẩy của gió. Bấc đèn bằng sợi vải tẩm với mỡ lợn. Từ miệng đèn có sợi giây để buộc bấc đèn. Khi đốt, người ta giữ cho đèn thăng bằng rồi châm lửa vào bấc, lửa chay làm loãng không khí trong lòng đèn, khí nhẹ làm cho đèn từ từ bay lên, gặp gió nhẹ đèn sẽ bay cao, bay xa. Ngày xưa các cụ đã biết "Hỏa sinh phong" tức lửa cháy sinh ra gió.

Phong trào đốt đèn trời ở Thái bình được khôi phục lại từ năm 1990 nhân kỷ niệm ngày thành lập tỉnh. Những năm 1992-1993 người thả đèn trời cải tiến kiểu dáng (không chỉ có hình nơm), cài thêm pháo hoa, khi bay lên cao pháo cháy rất đẹp. Những năm gần đây, nhiều xã đốt đèn trời trong ngày hội làng, vào lúc giao thừa.

LSB_Lãng Tử
29-10-2006, 18:26
HỘI ÐỔ GIÀN

Hằng năm vào ngày rằm tháng 7, nhân dân huyện An Nhơn thường đổ về làng An Thái, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định để dự lễ Vu Lan - báo hiếu của nhà Phật - xem hát bội và những cuộc thi tài. Cũng như nhiều chùa khác ở Việt Nam, vào dịp này nhà chùa trong lễ cúng cô hồn, xá tội vong nhân, thường dựng rạp làm chay (tức lập đàn cầu nguyện cho mọi oan hồn được siêu thoát), tổ chức hát bội cả ngày và đêm. Ngày rằm tháng 7 cũng là tết Trung nguyên của đạo Lão. Cảnh nhà chùa mở hội đón khách thập phương vào dịp này đã được phản ánh trong câu ca dao xưa:

Đồn rằng An Thái, chùa Bà
Làm chay, hát bội đông đà quá đông
Đàn bà cho chí đàn ông,
Xem xong ba Ngọ, lại trông Đổ giàn.

Như ta biết, hát bội (còn gọi là hát tuồng), vốn là một loại hình nghệ thuật cung đình của nho sĩ, nhưng khi vào đến đất Nam Trung Bộ, đã nhanh chóng trở thành một thứ nghệ thuật bình dân được yêu chuộng từ già đến trẻ, mà đất Bình Định là cái nôi tiêu biểu của nghệ thuật này, từng sản sinh ra nhiều tác giả kịch bản và những "ông bầu" nổi tiếng. Người ta mê hát bội đến mức hễ nghe tiếng trống chầu dóng lên là mọi người rạo rực, náo nức. "Tai nghe trống chiến, trống chầu, xếp ba miếng kẹo lộn đầu, lộn đuôi".

Nhưng sức hấp dẫn của hội chùa Bà không chỉ ở chỗ có "làm chay, hát bội" mà còn vì một lý do khác là hội được tổ chức ngay nơi mảnh đất giàu truyền thống thượng võ: Làng An Thái. An Thái thuộc huyện An Nhơn, là làng võ từng sản sinh ra những võ sư và võ sĩ xuất sắc của đất Bình Định. Dĩ nhiên vào những dịp hội hè, việc tổ chức thi đấu côn, quyền là tiết mục không thể thiếu được. về dự hội, cũng là dịp để các môn đệ thăm viếng, gặp lại bạn bè đồng khoá, đồng môn và cũng là dịp để các võ sĩ thử tài cao thấp trên võ đài...

Đặc biệt ở đây, cùng với hội chùa còn có hội Đổ giàn khá hấp dẫn, từng mang đậm dấu ấn nhiều cuộc tranh tài sôi động của các lò võ trong vùng cũng như sự thích thú đối với người xem. Nếu như đi dự hội chùa Bà mà chỉ xem làm chay, làm hội không thì chưa đủ, chưa thật thoả mãn, mà phải xem cả cuộc tranh tài trong hội Đổ giàn của các võ sĩ.

Người ta thiết lập một sân khấu ngoài trời, diện tích hẹp hơn sân khấu thường, nhưng chiều cao thì gấp nhiều lần, khoảng mười mét, bằng tre, gỗ giống như một chòi phát tin ở nông thôn thường thấy trước đây thời kháng chiến, trên đó người ta đặt đàn cúng thần gồm hương, hoa, trà, quả và một heo quay để nguyên con, khoảng độ mười lăm, vài chục kí-lô. Sau những nghi thức cúng lễ cổ truyền như thường thấy ở các lễ hội làng quê, vị chủ tế trên giàn cao, phát lệnh nổi 3 hồi chiêng trống, báo hiệu cuộc tranh tài sắp sửa diễn ra. Lúc này, ở bên dưới đám đông trở nên xôn xao, rộn rịp. Những người yếu, người già, phụ nữ và trẻ con thì dãn ra vòng ngoài để cho những võ sĩ và những người khoẻ tranh nhau và cũng tiện để xem. Còn những người tham gia tranh tài thì trong tư thế sẵn sàng, mắt hướng về phía giàn cao, chờ đợi....

Bỗng trên đài cao, vị chủ tế - thường trước đây cũng là người giỏi võ - bê con heo quay từ trên đàn cúng quay ra phía đám đông bên dưới, rồi dùng cả sức mạnh, tung con heo ra xa để rơi xuống đất. Đó là giây phút căng thẳng nhất sẽ quyết định quà thưởng đó rơi vào tay ai. Các võ sĩ tài nghệ cao, phi thân lên đón lấy con heo từ trên cao, nhưng rồi phải luồn lách, lao ra khỏi đám đông, mang con heo quay chạy về địa điển an toàn đã định. tất nhiên, mỗi nhóm tranh tài đã có phân công người bảo vệ, cản ngăn những đối thủ lợi hại khác có thể giật lại ngay trên tay. Trong cuộc tranh tài này, các võ sỹ dùng tất cả ngón võ, chiến thuật khôn ngoan để giành chiến thắng về mình.

Theo tục lệ con heo quay chiến lợi phẩm này được đem xẻ ra để khao chung cho tất cả những võ sĩ cùng có mặt trong cuộc tranh tài này. Những võ sĩ, hay làng võ có người giành được phần thắng được mọi người hoan nghênh và nể trọng và họ tin rằng năm ấy họ sẽ gặp hên vì được "lộc của thần". thường thì những lò võ ở An Thái và huyện Bình Khê hay giành được vị trí đó. Vì vậy mới có câu: "Tiếng đồn An Thái, Bình Khê, nhiều tay võ sĩ có nghề tranh heo". Heo đây là heo quay, vật cúng thần trong ngày hội. Ý nghĩa của cuộc thi tài này không nằm trong giá trị vật chất của món quà giành được mà ở giá trị tinh thần, được thể hiện qua tài nghệ của những người dự cuộc với chỗ đứng danh dự trong làng võ.

Hội Đổ giàn là một cuộc tranh tài lý thú và hấp dẫn của một vùng quê giàu tinh thần thượng võ được kết hợp một cách hài hoà với ngày hội chùa theo truyền thống dân gian: rằm tháng bảy.

LSB_Lãng Tử
29-10-2006, 18:28
LỄ THƯỢNG NGUYÊN

Vào rằm tháng Giêng. Từ Triều đình đến dân chúng đều có lễ Phật trong ngày này. Tục ta tin rằng trong ngày rằm tháng Giêng, đức Phật giáng lâm tại các chùa để chứng tỏ lòng thành của các tín đồ Phật Giáo. Trong dịp này, chùa nào cũng đông người tới lễ bái. Các cụ bà Ðã quy y cũng nhân ngày lễ này, đến chùa tụng kinh niệm Phật. Các cụ vừa lần tràng hạt vừa kể lại sự tích của đức Phật và chư bồ tát.


Nguồn gốc

Theo đạo Phật, ngày mùng Một và ngày Rằm mỗi tháng được coi là ngày Phật, các tín đồ Phật Giáo trong những ngày này đều rủ nhau đi lễ chùa.

Theo sách Trung Hoa, lễ Thượng Nguyên không phải là một ngày lễ Phật. Trước đây chính là Tết Trạng Nguyên. Nhân dịp này, nhà vua hội họp các ông Trạng để thết tiệc và mời vào vườn Thượng Uyển thăm hoa, ngắm cảnh, làm thơ.

Tết cũng còn có một tên nữa là Tết Nguyên Tiêu. Nhân tết này, ban Ðêm tai kinh thành và các thị xã có chăng Ðèn kết hoa. Ở các nơi gần sông như Giang Châu, Tô Châu gần sông nước có cuộc bơi thuyền.

Thuyền được trang hoàng muôn màu sắc, thắp sáng, hoa treo rực rỡ. Tại các hí trường và các Công viên có nhiều trò vui như đánh gươm, cưỡi ngựa, nhảy múa...Các văn nhân trong Ðêm Nguyên Tiêu thường họp nhau uống rượu thưởng xuân, vịnh ngâm thơ phú.

Theo các nhà thuật số, ngày Rằm tháng Giêng còn là ngày vía Thiên quan. Nhân ngày này, tại các đền chùa có làm lễ dâng sao, nghĩa là cúng các vị sao để giải trừ tai ách quanh năm.

Cúng lễ dâng sao, người ta lập Ðàn tràng tam cấp, trên cúng Trời Phật, Tiên Thánh, giữa cúng các vị sao thủ mạng, ở dưới cúng bố thí chúng sinh. Mỗi năm mỗi người có một vị sao thủ mạng.

Lễ vật cúng dâng sao dùng hoa quả, trầu cau, xôi, chè rượu, vàng mã và cả hình nhân nữa.

LSB_Lãng Tử
29-10-2006, 18:30
LỄ ĐỘNG THỔ


Ðộng Thổ nghĩa là Ðộng đến đất. Vậy lễ Ðộng Thổ nghĩa là Ðộng đất, và trong khi động đất phải có lễ cúng Thổ Thần để trình xin bắt đầu động đến đất cho một năm mới.

Nguồn gốc
Nguồn gốc lễ Ðộng thổ bắt đầu từ năm 113 trước Thiên Chúa giáng sinh. Nguyên năm đó là năm Mậu Thìn, vua Hán Vũ Ðế thấy triều đình chỉ có tục tế trời mà không tế Ðất mới bàn cùng quần thần, và sau đó đặt ra nghi lễ Hậu Thổ, tức là Thần Ðất, còn gọi là xã tế.


Nghi thức

- Ðào một ao, ở giữa có một nền tròn: trên nền tròn có năm bệ, trên mỗi bệ đều có lễ Tam sinh gồm bò, dê, lợn.
- Lễ phục của mấy vị chủ tế và bồi bái đều màu vàng.
- Lễ Xã Tế đầu tiên do vua Hán Vũ Ðế chủ tế và cử hành tại đất Hoài Khưu gân sông Phàn.
- Lễ Ðộng Thổ bắt đầu từ đó, nhưng đến năm vua Hán Thành Ðế lên ngôi, năm 32 trước Tây lịch có lệnh bãi bỏ lễ này.
- Về sau vì có thiên tai xảy ra nên lễ Xã Tế lại được tái lập và tồn tại mãi về sau.
- Lễ Xã Tế chia làm năm bậc dành cho Hoàng Ðế, các vua chư hầu và các quan đại phu trở xuống và có tác dụng khác nhau.

Xưa kia, tại Việt Nam lễ này cũng được tổ chức từ triều đình tới dân gian, nhưng về sau lễ này chỉ còn tồn tại trong dân chúng, tại triều đình, Thần Ðất đã có tế trong dịp tế Nam Giao.

Hàng năm, sau ngày mồng Ba Tết, tại các làng có làm lễ Ðộng Thổ để cho dân làng có thể Ðào bới cuốc xới được.

Chính ra thì ngày lễ Ðộng Thổ không nhất định là ngày nào, nhưng để giúp dân chúng tiện việc làm ăn, nhiều làng thường cử hành lễ này sau ba ngày Tết.

Các bậc kỳ lão và quan viên được cử làm chủ tế và bồi tế để cúng Thần Ðất. Lễ vật cũng gồm hương đăng, trầu rượu, y phục và kim ngân đồ mã.

Trong buổi lễ, ông chủ tế với nguyên áo thụng xanh cuốc mấy nhát xuống đất để lấy một cục đất đặt lên bàn thờ, tường trình với Thổ Thần xin cho dân làng được động thổ.

Sau buổi lễ Ðộng Thổ này, dân làng mới được động tới đất. Ai cuốc xới trước lễ động thổ bị dân làng bắt vạ.

Trong ba ngày Tết, nếu không may có ai mệnh chung, tang gia phải quàn lại trong nhà, đợi lễ Ðộng Thổ xong mới được Ðào huyệt an táng.

LSB_Lãng Tử
29-10-2006, 18:32
Tại sao phải có phù dâu
Tục lệ xưa cần có phù dâu vì hôn ngân cưỡng ép, do cha mẹ định đoạt, nhiều nơi lại có nạn tảo hôn, thông thường thì "Nữ thập tam nam thập lục", con gái mười ba tuổi về nhà chồng đã biết gì đâu! do đó cô dâu phải có người dẫn dắt. Người dắt cô dâu gọi là phù dâu.

Ngày xưa phù dâu phải là người cô, người dì hay chị em thân thiết của cô dâu, có khả năng thuyết phục, bày vẽ cho cô dâu, được cô dâu kính nể, mến phục, được bố mẹ cô dâu ủy thác. Người phù dâu phải là người may mắn, tốt phúc, duyên ưa, phận đẹp, con gái lành mạnh ngoan ngoãn, gia đình êm ấm, đề huề có thể truyền kinh nghiệm làm dâu, làm mẹ, làm vợ cho em, cho cháu mình. Phù dâu nhiều khi còn phải ở lại năm bảy ngày sau để cho cô dâu đỡ buồn và để chỉ bảo kinh nghiệm. Thông thường phù dâu cũng trở lại với dâu rể trong lễ lại mặt.

Đám cưới ngày xưa phải có phù dâu, không định lệ, và cũng không có danh từ "Phù rể". Đám cưới ngày nay, nhiều nơi có cả phù dâu, phù rể, có đám mời đến năm sáu đôi phù đâu phù rể toàn là trai thanh, gái lịch, chưa vợ chưa chồng. Có lẽ chủ yếu để cô dâu thêm bạn, chú rể thêm bầu. Hay phải chăng ngày nay chàng rể bẽn lẽn e thẹn hơn xưa, nên phải có người dẫn dắt. Hay đám cưới trước thường sinh ra

Lễ lại mặt có ý nghĩa gì?

Lễ thành hôn, tơ hồng, hợp cẩn xong xuôi, hai vợ chồng tân hôn trở về nhà gái mang theo lễ vật để tạ gia tiên ông bà cha mẹ, đi chào họ hàng thân nhân bên nhà gái sau đó đón bố mẹ và vài thân nhân sang nhà chú rể. Kể từ buổi đó, mẹ cô dâu mới chính thức tới nhà chú rể và nhà thông gia, vì trong lễ cưới, mẹ cô dâu (có nơi cả bố) không đi đưa dâu. Lễ lại mặt thường tiến hành vào ngày thứ hai hoặc thứ tư sau ngày cưới (gọi là nhị hỷ hoặc tứ hỷ) tuỳ theo khoảng cách xa gần và hoàn cảnh cụ thể mà định ngày. Thành phần chủ khách rất hẹp, chỉ gói gọn trong phạm vi gia đình.Phỏng theo tục cổ Trung Quốc: nếu trong lễ lại mặt, có cái thủ lợn cắt lỗ tai tức là ngầm báo với nhà gái rằng nhà trai trả lại, vì con gái ông bà đã mất trinh (Đêm tân hôn có lót giấy bản, gọi là giấy thám trinh, để xem người con gái còn trinh tiết hay không. Nếu còn trinh thì trên giấy bản sẽ có mấy giọt máu. Mã Giám Sinh sau khi cưỡng ép phá trinh nàng Kiều xong dùng "Nước vỏ Lựu", "Máu mào gà" hòng lường gạt làng chơi tưởng nhầm là Kiều vẫn còn trinh).Trường hợp hai nhà xa xôi cách trở, ông già bà lão thì nên miễn cho nhau, cô dâu chú rể nếu bận ông tác cũng nên được miễn thứ. Nếu điều kiện cho phép thì nên duy trì, vì lễ này mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp:-Nhắc nhủ con đạo hiếu, biết tạ ơn sinh thành, coi bố mẹ vợ cũng như bố mẹ mình.-Thắt chặt và mở rộng mối quan hệ thông gia, họ hàng ngay từ buổi đầu, tình cảm được nhân đôi.

- Hai gia đình cùng trao đổi rút kinh nghiệm về việc tổ chức hôn lễ và bàn bạc về trách nhiệm của hai bên bố mẹ trong việc tác thành cuộc sống cho đôi trẻ trong tương lai

LSB_Lãng Tử
30-10-2006, 11:41
THÚ CHƠI BÀI CHÒI NGÀY TẾT Ở MIỀN TRUNG


Bài chòi xuất xứ từ bài tới. Lúc đầu bài tới chơi ở trong nhà (6 người chơi). Về sau, bài tới "lan ra ngõ" và trở thành trò chơi chung của nhiều người ở đình làng vào dịp Tết

Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè bài tới
Cơm chưa kịp xới
Trầu chưa kịp têm
Tôi đánh một đêm
Thua ba tiền rưỡi
Về nhà chồng chửi

Trò chơi bài tới được chơi ở trong chòi nên người miền Trung từ Quảng Trị đến Phú Yên gọi là bài chòi. Tuy thể thức chơi và số lượng người thay đổi nhưng các quân bài của bộ bài tới vẫn còn nguyên giá trị. Khi chơi bài chòi người ta dựng 11 cái chòi. Riêng vùng Bình Định và một vài nơi ở Quảng Nam chỉ có 9 chòi, 1 chòi cái, 1 chòi con. Mỗi chòi con đểu được phát ba quân bài (còn gọi là bài nọc). Tại chòi trung tâm có ống đựng thẻ và đựng bài cái. Trống hội bài chòi vừa dứt, những người dự chơi đã vào các chòi con, tay cầm đủ ba quân bài thì anh hiệu (người hô) mới bước ra ống thẻ , xóc đi xóc lại ống thẻ cho tất cả mọi người đều nghe rồi thong thả rút tìm quân bài : "Ông Ầm", "Tam Quăn", "Tứ Cẳng"... Chòi nào có đúng con bài đó sẽ gõ ba tiếng mõ hay hô lên một tiếng; và được nhận cờ. Khi chòi nào ăn đủ cả ba cờ thì hô "tới !". Lúc ấy, ở chòi "trung tâm" dành một hồi mõ, tiếp đến là tiếng trống con, trống cái dồn dập... thường, thì cứ tám đến mười hiệp là hết một hội chòi. Người ta lưu lại một hiệp "ăn" cho việc chi phí rồi thì kẻ bước xuống, người lại leo lên chòi, tiếp tục cuộc chơi.

Bộ bài tới thường được in và bán ở khắp chợ miền quê vào trực tết. Bài chòi in theo lối mộc bản, trên giấy dó, giấy bản đã phủ qua một lớp điệp.Tương truyền, những bộ bài tới đầu tiên được in ở làng Sình (Huế), sau được các nhà buôn người Hoa in với số lượng nhiều (vẫn in mộc bản) ở vùng Thanh Hà, Gia Hội (Huế), Hội An (Quảng Nam), Bình Định, Tuy Hòa (Phú Yên)..v.v..

Bộ bài tới gồm ba pho : Văn, Vạn, Sách. Pho Văn có 9 cặp : Chín Gối, Nhì Bánh, Ba Bụng, Tứ Tượng, Ngũ Rún, Sáu Miểng, Bảy Liễu, Tám Miểng, Chín Gan. Pho Vạn có 9 cặp: Nhất Trò, Nhì Bí, Tam Quăng, Tứ Ghế, Ngũ Trợt, Lục Chạng, Thất Vung, Bát Bồng, Cửu Chùa. Pho Sách cũng có 9 cặp: Nhất Học, Nhì Nghèo, Ba Gà, Tứ Xách, Ngũ Dụm, Sáu Bưng, Bảy Thưa, Tám Dây, Cửu Điều. Ngoài ba pho (9 x 3 : 27 cặp) còn có ba cặp yêu: một cặp Ông Ầm, một cặp Thế Tử, một cặp Bạch Huê. Các quân bài toàn có tên gọi nôm na, dân dã: Bảy Dày, Bảy Sưa (Bảy Liễu), Ba Gà, Ba Bụng, Nọc Thược (Nhất Nọc), Năm Rún (Ngũ Rún), Ông Ầm, Bạch Tuyết (Bạch Huê)... Hình vẽ các quân bài đơn
giản nhưng giàu tính cách điệu và lãng mạn. Có nhà nghiên cứu nghệ thuậtcho rằng: "Đây dường như là cách thức của một trường phái hội họa từ chối hình thể, trừu tượng hóa sự vật hay biểu hiện sự vật kiểu trẻ con"... Nhiều người còn liên tương đến hình kỷ hà trên những ngôi mộ cổ Ai Cập. Ai cũng có thể chơi bài chòi nhưng không mấy ai "hô chòi" được như anh hiệu. Muốn "hô chòi", anh hiệu phải thuộc rất nhiều các bài truyền khẩu dân gian cộng với tài ứng tác linh hoạt khi hô, làm sao để lời hô lúc nào cũng bất ngờ, dí dỏm mà lại đúng với thể lệ cuộc chơi. Chẳng hạn, gặp con "Tam quăn" thay vì hô tên con bài, hiệu hô:

"Quờ mà quớ quơ quớ quơ
Quờ nhằm thì vợ chửa
Ba bốn tháng rày thì thổi lửa
Quăn là quăn râu, quăn quơ là Tam Quăn"

Gặp con "Nhì nghèo" thì :

Một mà ư / Một mà anh để em ra
Hai thì anh để em ra
Em về em buôn em bán
Trả nợ bánh tráng, trả nợ bánh xèo
Còn thì dư em trả nợ thịt heo
Anh đừng làm em nữa kẻo mang thì nghèo
Mang nghèo vì em. Nghèo quớ nhì nghèo"

Gặp con "Nhất vạn" (học trò) thì "Đi đâu ôm trắp đi hoài - Cử nhân không thấy tú tài cũng không - Quớ là con trò học trò"

Từ trò hô bài chòi các làn điệu ứng tác của anh hiệu, sau này có làn Xuân Nữ của bài chòi, cùng với các điệu Xàng Xê, Cổ Ban, Hồ Quang... và ảnh hưởng của lối hát, lối nói Tuồng mà hình thành bộ môn kịch hát bài chòi miền Trung.

Hiện nay, trong dịp tết, người Trung ở các làng quê vẫn còn dựng rạp hô bài chòi, nếu không dựng được chòi thì ngồi ghế vẫn được gọi là đánh bài chòi và vẫn làm sống dậy một thú vui ngày tết đã đi vào truyền thống dân gian miền Trung.

LSB_Lãng Tử
30-10-2006, 11:44
MÂM NGŨ QUẢ NGÀY TẾT


Ngày Tết, gia đình nào cũng có mâm ngũ quả dâng lên bàn thờ tổ tiên, ông bà. Mâm ngũ quả bên cành đào, câu đối đỏ, bức tranh Tết, bánh chưng xanh... tạo nên khung cảnh ấm áp của mỗi gia đình khi Tết đến xuân về. Không biết phong tục này có từ bao giờ, phải chăng vì đất nước ta vốn bốn mùa hoa trái, nhất là vào mùa Xuân hoa quả càng rộ . Hoa qủa là lộc của thiên nhiên, đất trời. Lộc Xuân càng quý. Dâng lộc trời, cúng ông bà, tổ tiên trong những ngày đầu Xuân thật là một tục lệ đẹp đẽ đầy nét nhân văn.

Cứ vào khoảng 28 tháng Chạp âm lịch thì nhà nhà đều cho bày biện một mâm ngũ quả kèm với nhiều sản vật khác trên bàn thờ. Mâm ngũ quả thường bày trên một cái mâm bằng gỗ tiện, sơn son, có chân, gọi là mâm bồng. Nếu không có mâm bòng, có thể bày trên một cái đĩa to, nhưng phải đặt trên chồng bánh chưng để tạo dáng cao, uy nghiêm, thành kính.



Mâm ngũ quả có 5 loại. Tại sao lại 5? Theo các vị cao niên, am tường về Nho giáo thì xuất xứ của mâm ngũ quả có liên quan đến quan niệm triết lý Khổng giáo của phương Đông, thế giới được tạo nên từ năm bản nguyên - gọi là “ngũ hành”: Kim - Mộc - Thuỷ - Hỏa - Thổ, nghĩa là 5 yếu tố cấu thành vũ trụ. Còn theo quan niệm của dân gian thì “quả“ (trái cây) được xem như biểu tượng cho thành quả lao động một năm. Ông cha ta chọn 5 loại trái cây để cúng đêm giao thừa là ngụ ý rằng : Những sản vật này được kết tinh từ công sức, mồ hôi, nước mắt của con người lao động, kính dâng lên đất trời, thần thánh trong giờ phút linh thiêng của vũ trụ vạn vật sinh tồn. Tư tưởng, hình ảnh ấy đã ăn sâu và tâm thức của người Việt Nam bao đời nay.

Đã gọi là ngũ quả thì nhất thiết phải là 5 loại quả. Nhưng các vùng,các miền do mùa xuân hoa trái khác nhau, nên mâm ngũ quả cũng khác nhau như:chuối, bưởi, phật thủ, dưa hấu, cam, quýt, dừa, na, hồng xiêm, táo...

Mỗi quả mang một ý nghĩa:

Chuối - phật thủ: như bàn tay che chở.

Bưởi - dưa hấu: căng tròn, mát lành, hứa hẹn năm mới đầy ngọt ngào, may mắn.

Hồng - quýt: rực lên màu sắc mạnh mẽ, tượng trưng cho sự thành đạt.

ở vùng Thủ Dầu Một, ngày Tết hầu như nhà nào cũng có mâm lễ: Long - Lân - Quy - Phụng. Kết từ hoa quả - tứ linh hoàn toàn mang tính hình tượng như hoa quả kết thành “vật thực”, thể hiện lòng thành của con cháu tưởng nhớ gia tiên, cảm tạ ơn trời, ơn đất.

Mâm ngũ quả trong Nam cũng khác so với ngoài Bắc. Trên mâm ngũ quả ở ngoài Bắc thường có : Bưởi, đào, quýt, chuối, hồng. Có khi người ta thay bưởi bằng phật thủ hoặc lựu . Mâm ngũ quả trong Nam vẫn cứ giữ nguyên truyền thống là mãng cầu, sung, dừa xiêm, đu đủ, xoài mà các bà thường quan niệm sơ đẳng là “cầu - sung - vừa - đủ - xài”.

Một mâm ngũ quả được bày dưới cùng là một nải chuối to già còn xanh, nải chuối đều, hoặc 2 nải chuối nhỏ ghép bên nhau như một chiếc bệ cong gồm 2 tầng nâng đỡ hoàn toàn hoa trái khác. ở đây có sự phối hợp màu sắc, mâm ngũ quả đẹp là đủ màu sắc rực rỡ. Chính giữa bệ mâm xanh sẫm, trước đây bày quả phật thủ . Ngày nay ít trồng phật thủ nên thường thay bằng quả bưởi to, càng to càng đẹp. Bưởi chín vàng, tươi nổi bật trên bệ chuối màu xanh. Những quả chín đỏ đặt xung quanh, những chỗ khuyết dưới đặt xen kẽ quýt vàng và táo màu xanh ngọc, còn bao nhiêu lá xanh cố tình để sót lại ở cuống quả như hoàn thiện những nét trang trí cuối cùng.

Vài năm gần đây, mâm ngũ quả cúng Tết đã có nhiều thay đổi nó không còn ngũ quả nữa mà đã trở thành “lục, thất, bát... quả” vì bên cạnh có thêm những đặc sản cao cấp như: nho, lê, táo... tùy theo cách nghĩ và túi tiền của mỗi gia đình.

Mâm ngũ quả đã làm quang cảnh ngày Tết và không gian cúng thêm phần ấm áp, rực rỡ mà hài hoà. Nó thể hiện sinh động ý tưởng triết lý - tín ngưỡng - thẩm mỹ ngày Tết. Tìm hiểu về mâm ngũ quả cũng là tìm hiểu về nguồn gốc, lịch sử, truyền thống tốt đẹp để chúng ta nhớ lại ông bà, tổ tiên.

LSB_Lãng Tử
30-10-2006, 11:46
NGÀY TÊT ĐOAN NGỌ (MỒNG 5 THÁNG NĂM)


Tết Đoan Ngọ là Tết thu hút sự chú ý của khá nhiều người Việt Nam xưa và nay, nó chỉ đứng thứ hai sau Tết Nguyên Đán. Tục này có người cho là từ đời Xuân Thu. Khuất Nguyên (nước Sở), vì can ngăn vua Hoài Vương không được, đã uất ức ôm đá gieo mình xuống sông Mịch La mà tự vẫn. Hôm ấy đúng là mùng 5 tháng 5. Thương tiếc người trung nghĩa, mỗi năm, cứ đến ngày đó, nhân dân Trung Quốc lại làm bánh ngọt, quấn chỉ ngũ sắc bên ngoài (ý làm cho cá sợ, khỏi đớp mất) rồi bơi thuyền ra giữa sông, ném bánh xuống cúng Khuất Nguyên.

Ở Việt Nam, ít người biết chuyện Khuất Nguyên, mà chỉ coi mùng 5 tháng 5 là "Tết giết sâu bọ" - vì trong giai đoạn chuyển mùa, chuyển tiết, dịch bệnh dễ phát sinh. Người ta quan niệm, trong ngày này, các loài sâu bọ đều hoảng hốt, trốn chạy vì nhà ai cũng có bữa cỗ "giết sâu bọ" vào sáng sớm, với hoa quả đầu mùa. Đào mịn lông tơ, mận đủ mùi chua ngọt, chuối ta mập mạp, dưa hấu bổ dọc thành những chiếc thuyền rồng sơn son mịn cát lóng lánh như lân tinh, dứa còn nguyên cái mũ miện xanh rờn óng bạc, nhưng cái lòng nó vàng tươi khêu gợi. Và đương nhiên không thể thiếu món rượu nếp.

Thành lệ, cứ đến sáng sớm ngày mồng 5, người ta cho trẻ ăn hoa quả, rượu nếp, trứng luộc, kê, bánh đa, mận, muỗm, dưa hấu, uống nước dừa... bôi hồng hoàng vào thóp đầu, vào ngực, vào rốn để giết sâu bọ. Người lớn thì uống rượu hòa ít tam thần đơn hoặc bôi phẩm hồng vào thóp đầu, vào ngực, vào rốn để trừ trùng.

Trẻ em giết sâu bọ xong khi còn ngồi trên giường, rồi rửa mặt mũi, chân tay xong bắt đầu nhuộm móng tay móng chân, đeo chỉ ngũ sắc. Em gái đến độ tuổi xâu lỗ tai cũng chọn ngày này mà xâu.

Nhiều người mua bùa chỉ đeo cho trẻ con. Bùa kết bằng chỉ ngũ sắc, kết theo hình hoa sen, quả đào, quả ớt... Lại may áo lụa mang đến các cửa chùa, cửa tĩnh in dấu vẽ bùa rồi mặc cho trẻ, có ý trừ ma tà cho khỏi quấy.

Giữa trưa hôm ấy thì làm cỗ cúng gia tiên, rồi đi hái lá mồng năm. Tục hái thuốc mồng 5 cũng bắt đầu từ giờ Ngọ, đó là giờ có Dương khí tốt nhất trong cả năm, lá cây cỏ thu hái được trong giờ đó có tác dụng chữa bệnh tốt, nhất là các chứng ngoại cảm, các chứng âm hư. Người ta hái bất kỳ loại lá gì có sẵn trong vườn, trong vùng, miễn sao đủ trăm loại, nhiều ít không kể, nhất là lá ích mẫu, lá cối xay, lá vối, ngải cứu, sả, tử tô, kinh giới, lá tre, lá bưởi, cam, chanh, quýt, mít, muỗm, hành, tỏi, gừng, chè, ổi, trầu không, sài đất, sống đời, bồ công anh, sen, vông, lạc tiên, nhọ nồi... đem về ủ rồi phơi khô, để sau đem nấu uống cho rằng uống thế thì lành.

Lại có nhiều người đi lấy lá ngải cứu, năm nào thì kết hình con thú nǎm ấy như năm Tý thì kết con chuột, năm Sửu kết con trâu, năm Dần kết con hổ... treo ở giữa cửa, để trừ ma quỷ và về sau ai có bệnh đau bụng thì dùng làm thuốc sắc uống.

***

Trong những tục lễ của ngày Tết Đoan Ngọ, có lẽ tục người ta chú ý nhất là tục lễ sêu - một tục lệ mang đầy tính nhân văn giữa người với người, con cháu với ông bà, cha mẹ, người bệnh với thày thuốc, học trò với thày giáo. Những chàng trai đã dạm vợ hoặc hỏi vợ nhưng chưa cưới thường đi sêu bố mẹ vợ nhân ngày Tết Đoan Ngọ.

Lễ sêu trong dịp này bao giờ cũng có đậu xanh mới hái vào tháng Tư, gạo nếp của vụ chiêm. Ngoài ra tháng Năm cũng là mùa ngỗng và mùa chim ngói, cùng với gạo nếp, đậu xanh, bao giờ cũng có một đôi ngỗng và một, hai chục chim ngói. Kèm thêm là cân đường cát, trái dưa hấu, nghĩa là toàn những sản phẩm trong mùa.

Chỉ những chàng rể chưa cưới vợ mới đi lễ sêu, còn những chàng rể đã cưới vợ rồi thì hết lễ sêu, nhưng trong dịp tết Đoan Ngọ, các chàng rể dù nghèo vẫn cố chạy món quà nhỏ để biếu bố, mẹ vợ. Lễ biếu này nhiều, ít tuỳ tâm và không quan trọng bằng lễ sêu.

Các ông đồ xưa dạy học thường không lấy học phí. Hàng năm vào dịp mồng 5 tháng 5, các học trò đều có đồ lễ tết thầy. Thúng gạo, đôi ngỗng, phong chè, gói bánh hoặc túi hoa quả, tùy tâm bố mẹ học trò. Những gia đình giàu có thường phong bao một số tiền. Học trò cũ đã làm nên danh vọng cũng không quên thǎm thầy vào dịp này.

Các con bệnh được các ông lang chữa khỏi bệnh, mặc dù đã trả tiền thuốc, nhưng cũng không quên ơn cứu mệnh cho mình, nên trong dịp tết Đoan Ngọ (còn gọi là tết hái thuốc) cũng mang quà tết thầy lang. Đồ lễ cũng gồm: đậu xanh, gạo nếp, ngỗng, chim ngói... như đồ lễ học trò tết thầy học.

Dẫu qua bao biến đổi về thời cuộc, song tết Đoan Ngọ vẫn tồn tại trong lòng người dân đất Việt như một phong tục đẹp, với ý nghĩa thiêng liêng về đạo lý làm người.

LSB_Lãng Tử
30-10-2006, 11:56
TẾT NGUYÊN ĐÁN


Tết Nguyên Ðán bắt đầu từ lúc Giao thừa

Lẽ trời đất có thủy khởi phải có tận cùng, một năm đã bắt đầu ắt phải có hết, bắt đầu từ lúc giao thừa, cũng lại hết vào lúc giao thừa.

Theo Hán Việt từ điển của Ðào Duy Anh nghĩa là cũ giao lại, mới tiếp lấy. Chính vì ý nghĩa ấy, nên hàng năm vào lúc giao tiếp giữa hai năm cũ mới này, có lễ Trừ Tịch.

Cúng giao thừa ở ngoài trời

Ngày xưa quan niệm rằng mỗi năm Thiên đình lại thay toàn bộ quan quân trông nom công việc dưới hạ giới, đứng đầu là một người có trí như quan toàn quyền. Năm nào quan toàn quyền giỏi giang anh minh, liêm khiết thì hạ giới được nhờ như: Ðược mùa, ít thiên tai, không có chiến tranh, bệnh tật...Trái lại, gặp phải ông lười biếng kém cỏi, tham lam...thì hạ giới chịu mọi thứ khổ. Và các cụ hình dung phút giao thừa là lúc bàn giao, các quan quân quản hạ giới hết hạn kéo về trời và quan quân mới được cử thì ào ạt kéo xuống hạ giới tiếp quản thiên hạ. Các cụ cũng hình dung phút ấy ngang trời quân đi, quân về đây không trung tấp nập, vội vã, thậm chí có quan, quân còn chưa kịp ăn uống gì.

Những phút ấy, các gia đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả, toàn đồ ăn nguội ra ngoài trời cúng, với lòng thành tiễn đưa người nhà trời đã cai quản mình năm cũ và Ðón người nhà trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị không thể vào trong nhà khề khà mâm bát mà chỉ có thể dừng vài giây ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà. Vì cứ tưởng tượng thêm thắt các hình ảnh nhà trời theo mình như vậy nên nhiều nhà có của đua nhau cúng giao thừa rất to và nghĩ cách làm mâm cúng giao thừa nổi lên bởi những của ngon vật lạ, trang trí cầu kỳ để các quan chú ý, quan tâm Ðến chủ hảo tâm mà phủ hộ cho họ với những ưu ái đặc biệt.

Mấy tục lệ đêm giao thừa

Trong Ðêm Giao Thừa, sau khi làm lễ giao thừa xong, có những tục lễ riêng mà cho tới ngày nay từ thôn quê Ðến thành thị vẫn còn nhiều người theo giữ.

Lễ chùa, đình, đền

Lễ giao thừa ở nhà xong, người ta kéo nhau đi lễ các đình, chùa, miếu, điện để cầy phúc cầu may, để xin Phật, Thần phù hộ độ trì cho bản thân và cho gia đình. Và nhân dịp người ta thường xin quẻ đầu năm.

Kén hướng xuất hành

Khi đi lễ, người ta kén giờ và kén hướng xuất hành, đi đúng hướng đúng giờ để gặp sự may mắn quanh năm.

Ngày nay, người ta đi lễ nhưng ít người kén giờ và kén hướng.

Hái lộc

Ði lễ đình, chùa, miếu, điện xong, lúc trở về người ta có tục hái một cành cây mang về ngụ ý là lấy lộc của Trời đất Phật Thần ban cho. Trước cửa đình cửa đền, thường có những cây đa, cây đề, cây si cổ thụ, cành lá xùm xòa, khách đi lễ mỗi người bẻ một nhánh, gọi là cành lộc. Cành lộc này mang về người ta cắm trước bàn thờ cho đến khi tàn khô.

Với tin tưởng lộc hái về trong Ðêm giao thừa sẽ đem lại may mắn quanh năm, người Việt Nam trong buổi xuất hành đầu tiên bao giờ cũng hái lộc. Cành lộc tượng trưng cho tốt lành may mắn.

Về tục xuất hành cũng như tục hái lộc có nhiều người không đi trong Ðêm giao thừa, mà họ kén ngày tốt giờ tố trong mấy ngày đầu năm và Ði đúng theo hướng chỉ dẫn trong các cuốn lịch đầu năm để có thể có được một năm hoàn toàn may mắn.

Hương lộc

Có nhiều người trong lúc xuất hành đi lễ, thay vì hái lộc cành cây, lại xin lộc tại các đình đền chùa miếu bằng các đốt một nắm hương hoặc một cây hương lớn, đứng khấn vái trước bàn thờ, rồi mang hương đó cắm tại bình hương bàn thờ Tổ tiên hoặc bàn thờ Thổ Công ở nhà.

Ngọn lửa tượng trưng cho sự phát đạt. Lấy lửa tự các nơi thờ tự mang về, tức là xin Phật Thánh phù hộ cho được phát đạt tốt lộc quanh năm.

Trong lúc mang nấm hương từ nơi thờ tự trở về, nhiều khi gặp gió, nấm hương bốc cháy, người ta tin đó là một điềm tốt báo trước sự may mắn quanh năm. Thường những người làm ăn buôn bán hay xin hương lộc tại các nơi thờ tự.

Xông nhà

Thường cúng giao thừa ở nhà xong, người gia chủ mới đi lễ đền chùa. Gia đình có nhiều người, thường người ta kén một người dễ vía ra đi từ lúc chưa đúng giờ trừ tịch, rồi khi lễ trừ tịch tới thì dự lễ tại đình chùa hoặc ở thôn xóm, sau đó xin hương lộc hoặc hái cành lộc về.

Lúc trở về đã sang năm mới, người này đã tự xông nhà cho gia đình mình, mang sự tốt đẹp quanh năm về cho gia đình.

Ði xông nhà như vậy tránh được sự phải nhờ một người tốt, vía khác đến xông nhà cho mình.

Nếu không có người nhà dễ vía để xông nhà lấy, người ta phải nhờ một người khác trong thân bằng cố hữu tốt vía để sớm ngày mồng một Tết đến xông nhà, trước khi có khách tới chúc Tết, để người này đem lại sự dễ dãi may mắn lại.

Tục kiêng hốt rác đổ đi trong ba ngày Tết

Trong "Sưu thần ký" có chuyện người lái buôn tên là Âu Minh đi qua hồ Thanh Thảo được thủy thần cho một con hầu tên là Như Nguyên, đem về nhà Ðược vài năm thì giàu to. Một hôm, nhân ngày mồng một Tết, Âu

Minh đánh nó, nó chui vào đống rác mà biến mất, từ đó nhà Âu Minh lại nghèo đi. Kể từ đó kiêng không dám hốt rác ngày Tết.

Tục kiêng này nguyên từ bên Tàu. Vì kiêng hốt rác ba ngày Tết nên ngày 30, dầu bận rộn đến đâu cũng phải dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ và những ngày tết thì mọi người hết sức giữ gìn nhà cửa, không vứt rác bừa bãi.
Lễ trừ tịch hay lễ giao thừa

Trừ tịch là giờ phút cuối cùng của năm cũ sắp bắt qua năm mới, giữa giờ Hợi ngày 30 hoặc nếu tháng thiếu, thì ngày 29 tháng Chạp năm trước và giờ Tý ngày mồng một tháng Giêng năm sau.

Ý nghĩa của lễ này là Ðem bỏ đi hết những điều xấu dở cũ kỹ của năm cũ sắp qua để đón những cái mới mẻ tốt đẹp của năm mới sắp tới.

Lễ Trừ Tịch theo người Tàu còn là một lễ khu trừ ma quỷ. Tục Tàu xưa vào ngày trừ Tịch, tức là ngày 30 Tết có dùng 120 trẻ con trạc chín mười tuổi, mặc áo thâm, đội mũ đỏ, cầm trống vừa đi đường vừa đánh để trừ khử ma quỷ, do đó có danh từ Trừ Tịch. Lễ Trừ Tịch cử hành vào lúc giao thừa nên lễ này còn mang tên là lễ Giao Thừa.

Xưa kia người ta cúng giao thừa ở đình, ông Tiên chỉ hoặc thủ từ đứng làm chủ lễ, nhưng người ta cũng cúng giao thừa ở thôn xóm nữa. Lễ giao thừa ở thôn xóm được tổ chức hoặc tại các văn chỉ nếu văn chỉ làng xây tại xóm, nếu không thì cũng tổ chức ngay ở điểm canh đầu xóm. Ở đây vị được cử ra làm chủ lễ là vị niên trưởng hoặc vị chức sắc cao nhất trong thôn xóm.

Bàn thờ giao thừa thiết lập ở giữa trời.

Một chiếc hương án được kê ra, trên hương án có đỉnh trầm hương hoặc bình hương thắp tỏa khói nghi ngút. Hai bên đỉnh trầm hương có hai ngọn Ðèn dầu hoặc hai ngọn nến. Lễ vật gồm chiếc thủ lợn hoặc con gà, bánh chưng, mứt kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu nước và vàng mã, đôi khi có thêm cỗ mũ của Ðại Vương hành khiển. Lễ quý hồ thành bất quý hồ đa, nhưng dù nhiều dù ít, lễ vật bao giờ cũng phải gồm có vàng hương, vàng lá hay vàng thoi tùy tục địa phương và nhất là không quên được rượu, vì vô tửu bất thành lễ.

Lễ vật được trần thiết trên hương án trước giờ Trừ Tịch.

Ðến giờ phút này, chuông trống vang lên, ông chủ tế ra khấn lễ, rồi dân chúng kế đó lễ theo, với tất cả sự tin tưởng ở vị tân vương hành khiển, cầu xin ngài phù hộ độ trì cho được một năm may mắn, bao nhiêu sự không may năm trước sẽ qua hết.

Tại đình làng, cùng với lễ cúng ngoài trời còn lễ thành hoàng hoặc vị phúc thần tại vị nữa.

Các chùa chiền cũng có cúng lễ giao thừa, nhưng lễ vật và Ðồ chay, đồng thời với lễ giao thừa nhà chùa còn cúng Phật, tụng kinh và cúng Ðức Ông tại chùa.

Ở các tư gia, các gia trưởng thường lập bàn thờ ở giữa sân, hoặc ở trước cửa nhà, trường hợp những người ở thành phố không có sân, cũng một chiếc hương án, hoặc một chiếc bàn kê ra với lễ vật như trên.

Ngày nay trước mọi biến chuyển dồn dập của thời cuộc nước nhà, ở thôn quê, rất ít nơi còn cúng lễ giao thừa ở các thôn xóm, ngoài lễ cúng tại đình đền. Và ở các tư gia, tuy người ta vẫn cúng lễ giao thừa với sự thành kính như xưa, nhưng bàn thờ thì thật là giản tiện. Có khi chỉ là chiếc bàn con với mâm lễ vât, có khi lễ vật được đặt trên một chiếc ghế đẩu. Hương thắp lên được cắm vào một chiếc ly đầy gạo hoặc vào một chiếc lọ nhỏ để giữ chân hương. Có nhiều gia đình hương thắp đặt ngay trên mâm lễ, hoặc cấm vào các khe nải chuối dùng làm đồ lễ.

Phong tục ngày Tết

Sửa soạn ngày Tết

Tết Nguyên Ðán tuy bắt đầu từ mồng một tháng Giêng, nhưng sự thực người ta sửa soạn Tết ngay từ đầu tháng Chạp.

Nhà nhà lo mua gạo, nếp, đậu xanh để đến gần Tết gói bánh chưng, và tại nhiều vùng, gói bánh chưng bằng lá dong, người ta phải mua lá về, đem luộc chín, bó vào các cột nhà, để khi gói bánh thì dùng. Gói bánh bằng lá chín dễ gói, nhưng bánh bóc ra kém màu xanh. Nhiều nơi gói bằng lá sống, họ không luộc lá, nhưng độ ngoài rằm tháng chạp họ đã phải mua sẵn sợ đến khi giáp Tết giá sẽ cao và có khi không có.

Người ta cũng sửa soạn vại dưa hành ngay từ đầu tháng chạp, vì dưa hành cần muối sớm đến Tết mới kịp ăn. Người ta cũng lo mua sắm những phẩm vật dùng cho ngày Tết, mua sắm gà vịt thả trong vườn, rủ nhau chung đụng để ngày gần Tết hùn nhau mổ lợn.

Người ta sắm sẵn hương vàng dùng để cúng ở trong nhà cũng như dùng để gửi Tết, và người ta cũng mua sẵn những bánh mứt hoa quả, một phần dành cho gia đình, một phẩn gửi Tết, một phần mang Tết những người mình chịu ô như thầy giáo, ông lang, chủ nợ...

Người ta cũng lo tới bộ quần áo ngày Tết, nhất là Ðối với các cô gái mới lớn. Dân làng cũng sửa soạnTết chung cho cả làng, trù tính việc mở hội đầu năm, việc cúng thần ngày Tết.

Trang hoàng nhà cửa

Người ta phải đón xuân trong một khung cảnh sáng sủa, sạch sẽ , đẹp đẽ. Do đó trước ngày Tết, nhà nào cũng lau quét cửa nhà, trang hoàng trong nhà cho xứng đáng với năm mới.

Những đồ đồng được đem đi đánh bóng. Án thư mâm bàn đều lai rửa lại kỹ lưỡng cùng với tất cả các tự khí khác kể cả hoành phi câu đối. Những câu đối đỏ cũ được thay bằng những câu đối mới, những đôi liễn mới. Bàn thờ được cắm thêm hoa, các y môn được đem giặt lại hoặc thay thế.

Trên tường, ngoài cổng còn có dán những tranh Tết, tranh Ðàn gà mẹ con, tranh lý ngự vọng nguyệt, tranh hứng dừa, đám cưới chuột....

Gửi Tết

Gửi Tết là Ðem đồ lễ đến nhà gia trưởng để người gia trưởng cúng tổ tiên trong dịp Tết.

Thường đồ lễ bao giờ cũng có vàng hương. Những ngành trực thống phải gửi vàng hoa, những ngành khác dùng vàng hồ hoặc vàng lá. Vàng hoa làm toàn bằng giấy màu vàng, có mặt kính, có trang kim óng ánh, tượng trưng cho vàng thoi, do đó mỗi nghìn vàng là một nghìn thoi nhỏ. Vàng hồ là một thứ vàng gồm một phần ba những thoi vàng ở lớp trên làm bằng giấy bổi vàng và hai phần ba lớp dưới là những thoi bác làm bằng giấy bổi trắng cũng có mặt kính nhưng ít hơn, hoặc có khi không có.

Người gia trưởng sẽ dùng những đồ lễ gửi tết của các ngành thứ cúng tổ tiên trong mấy ngày Tết.

Bữa tiệc tất niên

Các bạn hàng buôn bán sống lại với nhau thành phường, những công chức cùng làm tại một dinh, một sở, nhân ngày Tết đến có bữa tiệc tất niên để cùng nhau họ mặt trước khi chia tay về ăn Tết.

Các bạn hàng trong buổi tất niên này có sửa lễ cúng thánh sư rồi cùng nhau ăn uống.

Các công chức nơi công sở lấy bữa tiệc tất niên để cùng vui và nhân đó chúc Tết nhau trước khi ai nấy về quên ăn Tết.

Thăm mộ gia tiên

Vui xuân, người Việt cũng muốn gia tiên về hưởng Tết. Ở nhiều nơi, sau khi sắm sửa Tết xong, người ta có tục đi viếng mộ, đắp lại mộ, thắp hương khấn mời hương hồn những người đã quá cố về hưởng Tết.

Có địa phương, người ta đợi đầu xuân, sau khi hóa vàng tiễn các cụ, cùng nhau đi viếng mộ. Gia đình nào cũng mang theo hương để cắm lên mộ, mang theo vàng lá để đốt tại mộ và nhất là mang theo cuốc sẻng để đắp lại các nấm mộ cho cao, vun lại các nấm mộ cho đẹp, đánh nhổ đi hết những khóm cây dại mọc lấn vào mộ.

Cúng gia tiên

Chiều ba mươi Tết, mọi việc sửa soạn đã xong xuôi, sau khi đã đi viếng mộ gia tiên về, người ta sửa lễ cúng gia tiên, và sau đó Ðèn nhang, nhất là nhang phải giữ thắp suốt mấy ngày Tết cho tới khi hóa vàng.

Trong mấy ngày này, trên bàn thờ luôn luôn có sự hiện diện của tổ tiên. Ðể giữ cho hương khỏi bị tắt, từ chiều ba mươi Tết, người ta thường dùng hương vòng (nhang khoanh) hoặc hương sào (nhang ống). Cúng gia tiên lúc chiều ba mươi Tết, bởi vậy, lúc cúng giao thừa, ta không cúng gia tiên nữa.

Cúng gia tiên ba mươi Tết, sáng ngày mùng một cũng lại cúng. Và trong mấy ngày Tết cho đến khi hóa vàng, ngày hai buổi có lễ cúng gia tiên.

Hóa vàng

Sau ba ngày Tết, sáng mùng bốn, người ta cúng tiễn các cụ và hóa vàng.

Bao nhiêu vàng đã cúng trong ngày Tết, do người gia trưởng mua hay do con cháu và các ngành thứ đem gửi Tết đều được đem đốt sau tuần cúng tiễn các cụ. Những nghìn vàng dành riêng cho người mới chết trong năm qua sẽ được hóa riêng. Khi vàng hóa gần hết, người ta đổ vào những đống tro vàng những chén rượu cúng. Người ta tin rằng có như vậy ở dưới cõi âm các cụ môi nhận được vàng, và vàng mã mới biến thành vàng tiêu được ở nơi âm phủ.

Rồi người ta đem hai cây mía đã mua trong năm và Ðã để thờ trong ba ngày Tết ra hơ trên những đống tàn vàng còn đang đỏ ối. Theo tín ngưỡng, các cụ sẽ dùng hai cây mía này để gánh vàng về cõi âm, và cũng dùng làm khí giới chống lại bọn quỷ sứ muốn ăn cướp vàng.

Lễ hóa vàng chấm dứt ba ngày Tết tại các gia đình. Ngày nay người ta hóa vàng sớm hơn, rất ít các nhà cúng các cụ cho hết ba ngày Tết.

Mừng tuổi hay Lì xì

Tiền mừng tuổi phong bao trong những giấy hồng, bao giờ cũng có tiền lẻ, có ý là tiền đó sẽ sinh sôi nảy nở thêm nhiều.

Tiền mừng tuổi còn là tiền mở hàng để lấy may. Bạn bè gặp nhau cũng thường mở hàng chi nhau để lấy may mắn. Tiền mở hàng, người ta thường cất giữ, ít khi lấy ra tiêu dùng.

Ngày Tết các chú các cô dì thường mừng tuổi cho các cháu, và những khi tới nhà một người bạn chúc Tết, thường mừng tuổi cho em nhỏ để em ăn chóng lớn, học hành thông minh sáng láng, khỏe mạnh và ngoan ngoãn.

Trước hết con cháu mừng tuổi ông bà, cha mẹ. Ông bà cha mẹ cũng chuẩn bị ít tiền mừng tuổi cho con cháu trong nhà và con cháu hàng xóm láng giềng, bạn bè thân thích.

Tống cựu nghinh tân

Cuối năm quét dọn sạch sẽ nhà cửa, vứt bỏ những thứ rác rưởi, cùng làng xóm dọn dẹp nhà thờ, lau giặt, cắt tóc, may sắm quần áo mới, trang trí bàn thờ, lau chùi bàn ghế ấm chén và mọi thứ thức ăn vật dụng.

Nhiều gia đình nhắc nhở, dặn dò con cháu từ phút giao thừa trở đi không quấy khóc, không nghịch ngợm, cãi cọ nhau, không oói tục chửi bậy, không vứt rác viết vẽ bừa bãi, cha mẹ, anh chị em cũng không quở mắng, tra phạt con em, đối với ai cũng tay bắt mặt mừng, vui vẻ niềm nở dầu lạ dầu quen.

Ðối với bà con xóm giềng dù trong năm cũ có điều gì không hay không phải, điều nặng tiếng nhẹ hay xích mích gì đều xúy xóa hết. Dầu có thực lòng hay không nhưng người nào cũng có vẻ ôn tồn hòa nhã, chuyện cũ cho qua không để bụng.

Nguồn gốc Tết Nguyên đán

Tết Nguyên Ðán có từ đời Ngũ Ðế, Tam Vương.

Ðời Tam Vương, anh Hạ, chuộng màu đen, nên chọn tháng đầu năm, tức tháng Giêng, nhằm tháng Dần và do đó Tết Nguyên Ðán vào đầu tháng Dần.

Nhà Thương, thích màu trắng, lấy tháng Sửu, tháng Chạp làm tháng đầu năm.

Qua nhà Chu 9 1050-226 trước Công Nguyên), ưa sắc đỏ, chọn tháng Tý, tháng mười một làm tháng Tết.

Các vua chúa nói trên, theo ngày giờ, lúc mới tạo thiên lập địa: nghĩa là giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người mà Ðặt ra ngày tết khác nhau.

Ðến đời Ðông Chu, Khổng Phu Tử ra đời, đổi ngày tết vào một tháng nhất định: tháng Dần. Mãi đến đời Tần (thế kỷ III trước Công Nguyên), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng Mười.

Cho đến khi nhà Hán trị vì, Hán Vũ Ðế (140 trước Công Nguyên), lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng Giêng, như đời nhà Hạ, và từ đó về sau, trải qua bao nhiêu thời đại, không còn nhà vua nào thay đổi về tháng Tết nữa.

Ðến với Ðông Phương Sóc, ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa có thêm giống gà, ngày thứ hai có thêm Chó, ngày thứ ba có Lợn, ngày thứ tư sinh Dê, ngày thứ năm sinh Trâu, ngày thứ sáu sinh Ngựa, ngày thứ bảy sinh loài Người và ngày thứ tám mới sinh ra ngũ cốc.

Vì thế, ngày Tết thường được kể từ ngày mồng Một cho đến hết ngày mồng Bảy.

Nguyên là bắt đầu, Ðán là buổi sớm mai. Tết Nguyên Ðán tức là Tết bắt đầu năm, mở đầu một năm mới với tất cả mọi cảnh vật đều mới mẻ đón xuân sang. Năm mới đến, những sự may mắn mới cũng đến và bao nhiêu điều đen đủi không may của năm cũ đều theo năm cũ mà hết.

LSB_Lãng Tử
30-10-2006, 11:59
Tết Ka Tê của đồng bào Chăm Ninh Thuận


Lễ hội Ka Tê của đồng bào Chăm ở Ninh Thuận diễn ra vào mồng 1 tháng 7 Chăm lịch hàng năm, không còn là niềm vui riêng của bà con dân tộc Chăm như trước đây, mà có thể nói đây là một trong những ngày hội lớn của các dân tộc anh em Kinh, Chăm, Raglai... Lễ hội thu hút hàng nghìn du khách thập phương tựu về cùng vui với tiếng trống ginăng, tiếng kèn saranai và vũ điệu truyền thống của thiếu nữ Chăm khi mặt trời vừa ló dạng.



Theo phong tục, Ka Tê là một lễ hội long trọng và đặc sắc nhất trong kho tàng văn hóa của người Chăm theo đạo Bàlamôn ở Ninh Thuận. Người Chăm xem lễ hội này là một tấm gương phản chiếu sinh hoạt của cộng đồng mình, bởi trong thời khắc diễn ra lễ hội thiêng liêng ấy, mọi người như cảm nhận được sự hội tụ tất cả những tinh hoa, giá trị kỹ và mỹ thuật cao nhất của nền văn hóa Chăm. Trong không khí nhộn nhịp ấy, dường như những ước mơ thánh thiện, sự trân trọng những di sản quý báu của tổ tiên để lại được nâng niu, gìn giữ bằng chính tấm lòng thành của đồng bào Chăm đã đánh thức những tháp Chăm cổ kính lặng ngủ dưới lớp bụi thời gian bừng dậy, tỏa ra trăm sắc nghìn hương..., góp phần làm cho "vườn hoa văn hóa" của đại gia đình các dân tộc Việt Nam thêm phong phú .

Sáng ngày 1 tháng 7 Chăm lịch (khoảng tháng 10 dương lịch), những nghi thức chính của lễ hội Ka Tê diễn ra ở tháp Pô Klong Garai, được xây dựng vào cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV, ở phường Ðô Vinh - thị xã Phan Rang - Tháp Chàm để thờ vị vua Pô Klong Garai (1151 - 1205) - người được dân tộc Chăm suy tôn thành Thần thuỷ lợi. Và lễ hội Ka Tê trở thành ngày trọng đại để người Chăm tưởng nhớ về tổ tiên, các vị thần đã độ trì làm mưa thuận gió hòa hàng năm cho bà con sản xuất được mùa, mọi gia đình được no cơm ấm áo. Một ngày trước khi diễn ra lễ hội Ka Tê, tại các đền tháp Pô Nưgar, tháp Pô Rômê... ở thôn Hữu Ðức, xã Phước Hữu - huyện Ninh Phước, hàng nghìn đồng bào dân tộc Chăm, Raglai đã tề tựu đón rước y phục của nữ thần Pô Nưgar - Thần mẹ thủy tổ của người Chăm, vì thần đã dạy cho con cháu trồng lúa, trồng bông, dệt vải và các phong tục cúng trong lễ hội được lưu giữ cho đến ngày nay.

Hàng năm, Ninh Thuận đón trên dưới 30.000 lượt khách trong và ngoài nước theo các tour du lịch đến tham quan và thưởng ngoạn cảnh vật nơi đây.

Hoàng hôn buông xuống, trước ánh lửa bập bùng dưới chân tháp Pô Klong Garai, tiếng kèn saranai của các nghệ nhân vẫn réo rắt, tiếng trống ginăng vẫn vang vọng, du khách và các thiếu nữ Chăm vẫn say sưa trong vũ điệu truyền thống... Lễ hội Ka Tê hôm nay không còn là một lễ hội dân gian đón năm mới của riêng đồng bào Chăm Ninh Thuận, mà nó thực sự là một dấu ấn văn hóa độc đáo, đi vào đời sống chung, góp phần làm phong phú thêm vườn hoa trăm sắc của nền văn hóa đại gia đình các dân tộc Việt Nam.

LSB_Lãng Tử
30-10-2006, 12:10
Chắc các bạn cũng đang thắc mắc tại sao LãngTử post nhiều ngày lễ truyền thống mà không thống kê ra nhưng ngày tết truyền thống nhỉ.Nay LãngTử xin post lênh cho anh em cùng tham khảo nha và cho ý kiến nha

Các lễ Tết truyền thống ở Việt Nam

1. Tết Nguyên Ðán

Một năm, người Việt có nhiều lễ, tết, riêng Tết Nguyên Ðán (đúng mồng một tháng giêng âm lịch) là ngày tết lớn nhất nên còn được gọi là tất cả. Ðây là thời điểm kết thúc mùa màng, mọi người rảnh rỗi nghỉ ngơi vui chơi, thăm viếng lẫn nhau... và cũng là lúc giao thời của đông tàn xuân tới.

Theo phong tục cổ truyền VN, Tết Nguyên Ðán trước hết là tết của gia đình. Chiều 30 tết, nhà nhà làm lễ cúng "rước" gia tiên và gia thần, thể hiện tình cảm uống nước nhớ nguồn. Trong 3 ngày tết diễn ra 3 cuộc gặp gỡ lớn ngay tại một nhà. Thứ nhất là cuộc "gặp gỡ" của các gia thần: Tiên sư hay Nghệ sư - vị tổ đầu tiên dạy nghề gia đình mình đang làm. Thổ công - thần giữ đất nơi mình ở và Táo quân - thần coi việc nấu ăn của mọi người trong nhà.

Thứ hai là cuộc "gặp gỡ" tổ tiên, ông bà... những người đã khuất. Nhân dân quan niệm hương hồn người đã khuất cũng về với con cháu vào dịp Tết.

Thứ ba là cuộc gặp gỡ của những người trong nhà. Như một thói quen linh thiêng và bền vững nhất, mỗi năm tết đến, dù đang ở đâu làm gì... hầu như ai cũng mong muốn và cố gắng trở về đoàn tụ với gia đình.

2. Tết Khai hạ

Theo cách tính của người xưa, ngày mùng Một tháng Giêng ứng vào gà, mùng Hai - chó, mùng Ba - lợn, mùng Bốn - dê, mùng Năm - trâu, mùng Sáu ngựa, mùng Bảy - người, mùng Tám - lúa. Trong 8 ngày đầu năm cứ ngày nào sáng sủa thì coi như giống thuộc về ngày ấy cả năm được tốt. Vì vậy, đến mùng Bảy, thấy trời tạnh ráo thì người ta tin cả năm mọi người sẽ gặp may mắn, hạnh phúc.

Mùng Bảy kết thúc Tết Nguyên Ðán thì cũng là lúc bắt đầu Tết Khai hạ - Tết mở đầu ngày vui để chào mùa Xuân mới.

3. Tết Thượng nguyên

Tết Thượng nguyên (Tết Nguyên tiêu) vào đúng rằm tháng Giêng-ngày trăng tròn đầu tiên của năm. Tết này phần lớn tổ chức tại chùa chiền vì Rằm tháng Giêng còn là ngày vía của Phật tổ. Thành ngữ: Lễ Phật quanh năm không bằng Rằm tháng Giêng" xuất phát từ đó. Sau khi đi chùa, mọi người về nhà họp mặt cúng gia tiên và ăn cỗ.

4. Tết Hàn thực

"Hàn thực" nghĩa là ăn đồ nguội. Tết này, vào ngày mùng Ba tháng Ba (âm lịch).

Thời Xuân Thu ở Trung Quốc, Công tử Trung Nhĩ (về sau là vua Tấn Văn Công) khi gặp cảnh loạn lạc, đói quá, được Giới Tử Thôi cắt thịt đùi mình nấu dâng cho ăn. Sau 19 năm phiêu bạt, Trung Nhĩ lại trở về nắm giữ vương quyền nước Tần. Vua ban thưởng cho tất cả những người đã cùng mình nếm mật nằm gai, nhưng lại quên mất Tử Thôi! Tử Thôi đưa mẹ vào sống ở núi Ðiền. Lúc vua nhớ ra, cho người tới mời mà không được. Vua sai đốt rừng để Tử Thôi phải ra. Nhưng Tử Thôi không chịu và hai mẹ con cùng chết cháy! Ðau xót, vua sai lập miếu thờ trên núi. Hôm ấy đúng ngày mùng Ba tháng Ba.

Người đời thương Tử Thôi nên mỗi năm, đến ngày đó thì kiêng đốt lửa mà chỉ ăn đồ nguội đã nấu sẵn.

Từ thời Lý (1010 - 1225) nhân dân ta đã tiếp nhập Tết này và thường làm bánh trôi, bánh chay để thay cho đồ nguội. Nhưng mục đích chủ yếu là để cúng gia tiên chứ ít ai rõ chuyện Giới Tử Thôi! Hiện nay, Tết này vẫn còn đậm nét ở miền Bắc, nhất là tại các vùng thuộc tỉnh Hà Tây.

5. Tết Thanh Minh

"Thanh Minh trong tiết tháng Ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh"
(Truyện Kiều)

"Thanh Minh" có nghĩa là trời trong sáng. Nhân có người ta đi thăm mồ mả của những người thân. Tết Thanh minh - thường vào tháng Ba âm lịch - trở thành lễ tảo mộ. Ði thăm mộ, nếu thấy cỏ rậm thì phát quang, đất khuyết lở thì đắp lại cho đầy... rồi về nhà làm cỗ cúng gia tiên.

6. Tết Ðoan ngọ

Tết Ðoan ngọ (Tết Ðoan dương) vào mùng Năm tháng Năm (âm lịch).

Khuất Nguyên - nhà thơ, một vị trung thần - do can ngăn vua Hoài Vương không được, đã uất ức gieo mình xuống sông Mịch La tự vẫn. Hôm ấy đúng là mùng Năm tháng Năm. Thương tiếc người trung nghĩa, mỗi năm cứ đến ngày đó, dân Trung Quốc xưa lại làm bánh, quấn chỉ ngũ sắc bên ngoài (ý làm cho cá sợ, khỏi đớp mất) rồi bơi thuyền ra giữa sông, ném bánh xuống cúng Khuất Nguyên. ở Việt Nam, ít người biết chuyện Khuất Nguyên, mà chỉ coi mùng Năm tháng Năm là "Tết giết sâu bọ"- vì trong giai đoạn chuyển mùa, chuyển tiết, dịch bệnh dễ phát sinh. Vào ngày này, dân gian có nhiều tục trừ trùng phòng bệnh. Lấy lá ngải cứu (một vị thuốc Nam), năm nào thì kết hình con vật tượng trưng năm đó (năm Thân - kết con khỉ và gọi là Hầu Tử, năm Dần - kết con cọp và gọi là Ngài Hỗ...) treo lên giữa nhà để trừ tà. Về sau, khi có bệnh, lấy lá đó sắc làm thuốc. Lại có tục đi hái lá thuốc mồng năm (ích mẫu, mâm xôi, cối xay, vối) sắc uống vào giờ Ngọ, còn để dành nấu uống quanh năm.

7. Tết Trung nguyên

Tết Trung nguyên vào Rằm tháng Bảy. Người xưa tin theo sách Phật, coi hôm ấy là ngày vong nhân được xá tội, ngày báo hiếu cha mẹ... nên tại các chùa thường làm chay chẩn tế và cầu kinh Vu lan. Vào ngày Rằm tháng 7 âm lịch có 2 ngày lễ cúng:

- Lễ cúng được truyền tụng lâu đời trong dân gian: "Tháng 7, ngày rằm xá tội vong nhân" (tha tội cho tất cả người chết), nhiều người gọi là cúng cô hồn các đảng. Quan niệm dân gian cho rằng đây là lễ cúng những linh hồn vật vờ lang thang không nơi nương tựa, không còn người thân ở trần gian để thờ phụng hoặc thất lạc, hoặc vì một oan khiên nào đó...

- Cũng ngày Rằm tháng Bảy còn có lễ Vu lan, xuất phát từ tích truyện Ðại Mục Kiều Liên. Vu lan được coi là lễ cầu siêu giải thoát cho ông bà cha mẹ bảy đời, xuất phát từ lòng báo hiếu. Trong những năm gần đây, trong lễ Vu lan còn có tục "Bông Hồng cài áo" thể hiện lòng hiếu thảo của con đối với cha mẹ.

8. Tết Trung thu

Tết Trung thu vào Rằm tháng Tám. Trung thu là tết của trẻ con nhưng người lớn cũng nhân đây mà họp mặt, uống rượu, uống trà, ngắm trăng... Thường ban ngày người ta làm lễ cúng gia tiên, tối mới bày hoa quả, bánh kẹo, chè cháo để trẻ con vui chơi, phá cỗ, trông trăng, rước đèn...

9. Tết Trùng cửu

Mùng Chín tháng Chín (âm lịch) là Tết Trùng cửu. Tết này bắt nguồn từ sự tích của đạo Lão. Thời Hán, có người tên gọi là Hoàn Cảnh, đi học phép tiên. Một hôm thầy bào Hoàn Cảnh khuyên mỗi người trong nhà nên may một túi lụa đựng hoa cúc, rồi lên chỗ cao mà trú ngụ. Quả nhiên, ngày Chín tháng Chín có lụt to, ngập hết làng mạc. Nhờ làm theo lời thầy, Hoàn Cảnh và gia đình thoát nạn.

Từ xưa, nho sĩ nước ta đã theo lễ này, nhưng lại biến thành cuộc du ngoạn núi non, uống rượu cúc - gọi là thưởng Tết Trùng dương.

10. Tết Trùng thập

Ðây là Tết của các thầy thuốc. Theo sách Dược lễ thì đến ngày Mười tháng Mười, cây thuốc mới tụ được khí âm dương, mới kết được sắc tứ thời, trở nên tốt nhất. ở nông thôn Việt Nam, đến ngày đó người ta thường làm bánh dày, nấu chè kho để cúng gia tiên rồi đem biếu những người thân thuộc chứ không quan tâm mấy đến chuyện cây thuốc, thầy thuốc!

11. Tết Hạ nguyên

Tết Hạ nguyên (Tết Cơm mới) vào Rằm hay mùng Một tháng Mười. ở nông thôn, Tết này được tổ chức rất lớn vì đây là dịp nấu cơm gạo mới - trước để cúng tổ tiên, sau để tự thưởng công cày cấy.

12. Tết Táo quân

Tết Táo quân vào ngày 23 tháng Chạp - người ta coi đây là ngày "vua bếp" lên chầu Trời để tâu lại việc bếp núc, làm ăn, cư xử của gia đình trong năm qua.

Theo truyền thuyết, xưa có hai vợ chồng nghèo khổ quá, phải bỏ nhau. Sau đó, người vợ lấy được chồng giàu. Một hôm, đang đốt vàng mã ngoài sân, thấy một người vào ăn xin, nhận ra chính là chồng cũ nên người vợ động lòng, đem cơm gạo, tiền bạc ra cho. Người chồng mới biết chuyện, nghi ngờ vợ. Người vợ đâm khó xử, lao vào bếp lửa tự vẫn. Người chồng cũ nặng tình, cũng nhảy vào lửa chết theo. Người chồng mới ân hận, đâm đầu vào lửa nốt! Trời thấy ba người đều có nghĩa nên phong cho họ làm "vua bếp". Từ tích đó mới có tục thờ cúng "Táo quân" và trong dân gian có câu: "Thế gian một vợ một chồng, không như vua bếp hai ông một bà"õ. Ngày nay cứ đến phiên chợ 23 tháng Chạp hàng năm, mỗi gia đình thường mua hai mũ ông, một mũ bà bằng giấy và 3 con cá làm "ngựa" (cá chép hóa rồng) để Táo quân lên chầu trời. Sau khi cúng trong bếp, mũ được đốt và 3 con cá chép được mang thả ở ao, hồ, sông...

13. Tết nông nghiệp của người Khmer Nam Bộ

Ngoài Tết mừng năm mới "Chôl Chnăm Thmây" tương tự như Tết Nguyên đán của người Việt, người Khmer Nam Bộ còn ăn "Tết nông nghiệp".

Ðể thuận tiện cho việc tương trợ nhau, người Khmer quần cư thành những xóm nhỏ, gọi là phum, đông hơn thì kêu là Sốc (srok), thường xen kẽ với cộng đồng người Việt. Nền văn hóa tuyệt vời của người Khmer đã nảy nở giữa lòng phum sốc, gắn với những ngôi chùa hết sức thiêng liêng - một công trình kiến trúc mỹ thuật chạm trỗ khéo léo, rất đặc trưng, được xem là "trái tim của người Khmer Nam Bộ". Chính chùa chiền, phum sốc là môi trường giúp họ bảo tồn và phát huy tốt vốn văn hóa dân tộc, thông qua các lễ hội truyền thống dân gian.

Một trong những lễ hội chính của người Khmer Nam bộ là lễ hội óc ăm bok, còn gọi "lễ cúng trăng" hay "lễ đút cốm dẹp". Do đặc điểm nhất định của nó, ta có thể xem đây là "Tết nông nghiệp", gắn liền với phương thức sản xuất chính của họ, đó là trồng lúa nước.

Theo cách ghi nhận của Hôna, vào lúc 0 giờ đêm rằm tháng 10, bóng của cây trụ trồng thẳng đứng trước sân không xê dịch một bên. Ðó là thời điểm kết thúc chu kỳ của mặt trăng quay quanh trái đất. Một "năm cũ nông nghiệp" đã đi qua, bàn giao cho năm mới. Ðó là dịp để bà con tạ ơn Thần Trăng, vị thần luôn lo việc thời tiết giúp bà con trồng trọt được mùa.

Trong những ngày lễ hội tưng bừng này, về phần lễ trước hết là những lễ vật truyền thống gồm các đặc sản nông nghiệp như lúa, nếp, khoai, bắp hoặc trái chín đầu mùa mới thu hoạch, được chế biến thành nhiều thức ngon, dâng lên. Trong đó cốm dẹp là thức truyền thống không thể thiếu.

Tất cả được đem trưng bày trên một cái bàn nhỏ ngoài sân, nơi trống trải để Thần Trăng "thấy" mà chứng giám. Mọi người chắp tay thành kính, ngước nhìn Trăng, khấn vái với những lời lẽ tạ ơn.

LSB_Lãng Tử
30-10-2006, 12:14
Những lễ hội và tập tục kỳ lạ của người dân tộc thiểu số

Tục ngủ chung của người Gia Rai

Dân tộc Gia Rai sống lâu đời ở Gia Lai, chiếm tỷ lệ khá lớn. Con trai, con gái có lệ vào các buổi tối trǎng thanh lại tụ tập quanh bếp lửa hồng trò chuyện, uống rượu, ca hát rồi ôm nhau ngủ suốt đêm. Qua những đêm ấy, có những đôi mắt đã tìm đến nhau. Trời phú cho con trai Gia Rai đàn giỏi, con gái hát hay. Đàn hát mệt thì cùng nằm quanh bếp lửa ngủ. Ngủ như vậy nhưng giữa họ luôn giữ đúng giới hạn. Vượt qua giới hạn đó kể như phạm luật làng, bị phạt nặng, có khi bị đuổi khỏi làng. Cũng chính bởi tục ngủ chung này mà người Gia Rai quan niệm vợ chồng cưới xong phải một nǎm sau mới được động phòng, tránh việc người phụ nữ mang thai trước.

Vỗ mông kén chồng

Ở Hà Giang, người Mông cư trú khá đông. Họ thích sống trên núi cao và ở nhà đất. Những phiên chợ vùng cao ngày cuối năm bao giờ cũng là điểm hẹn lý tưởng cho trai gái tìm đến nhau. Ngoài tập tục chặn đường cướp cô dâu, ở đây còn có tập tục vỗ mông để chọn bạn đời. Sáng đầu năm, nam thanh nữ tú nhất loại về tụ tập ở khoảng sân diễn tục chơi "ú tim". Sau những chén rượu chúc tụng cho một nǎm mới tốt lành, họ đưa mắt tìm bạn đời. Khi đã có đối tượng, dùng ánh mắt làm hiệu đưa tình và nếu cô gái có ý chấp thuận thì cô bỏ chạy. Chỉ chờ có thế, chàng trai rượt đuổi theo ngay. Ai cũng gắng chạy hết khả nǎng. Khi chàng trai đuổi kịp cô gái và đưa bàn tay vỗ vào mông cô một cái, cô gái phải chịu khuất phục ngay. Họ chỉ chờ đến ngày cưới hỏi, để nên duyên vợ chồng.

Lễ hội "long tong" (Hội xuống đồng)

Một số địa phương vùng Bắc Việt, các dân tộc Tày, Nùng, H'mông... thường mở hội "long tong". Vào ngày hội, dân bản làng tụ tập ở mảnh đất rộng cạnh thửa ruộng chưa cày. Chủ tế là một lão nông cao tuổi, phúc hậu, khoẻ mạnh, có nhiều kinh nghiệm trong nghề nông. Sau nghi thức cúng vái trời đất cho mưa thuận gió hoà, trong tiếng cồng chiêng vang rền, người ta dắt con trâu đực ra đi những luống cày đầu tiên. Nếu đường cày thẳng như kẻ chỉ thì nǎm ấy sẽ gặp được nhiều may mắn.

Khi nghi lễ này kết thúc thì có trò chơi tung còn. Người con gái tung quả còn cho người con trai mình thích. Chàng trai cố bắt được và ném trả lại cô gái. Đôi khi, quả còn đã xe duyên cho họ nên vợ nên chồng.

Tục cưới hai lần của người Pacô

Ở miền núi tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên có dân tộc Pacô, xưa kia có tục cưới hai lần. Trai gái đến tuổi trưởng thành phải làm xong nhiệm vụ cà sáu chiếc răng cửa theo quy định thì mới được xem là đã trưởng thành và có thể xây dựng hạnh phúc gia đình. Lễ cưới lần thứ nhất, nhà trai đi các lễ vật quý như trâu bò, chóe, nếp rượu, nồi đồng... Khi về nhà chồng, thì đôi vợ chồng trẻ phải tổ chức lễ "đạp bếp", đưa nhau trở lại nhà gái, trình diện gia đình. Cũng từ đó, cô gái chính thức đoạn tuyệt hẳn với nhà cha mẹ đẻ, và gia nhập họ nhà trai. Thời gian sau ngày cưới, đôi vợ chồng lo làm lụng, vừa để trả nợ "thách cưới", vừa lo chạy vạy để làm lễ Pẩy Ploh (nghĩa là kết thúc trọn vẹn) hay còn gọi là lễ "mua cái đầu".

Tục "giỗ sống" của người Nguồn

Người Nguồn ở Quảng Bình là một dân tộc có khoảng 3,5 vạn người, hiện cư trú ở khắp các xã Minh Hoá, Tuyên Hoá. Con cái đã lập gia đình riêng thì mỗi lần Tết đến đều phải làm một mâm cỗ có đủ các thức ăn của ngày Tết, đem đến nhà cha mẹ mình (cả nội lẫn ngoại) và mời cha mẹ ăn Tết trước vào cuối tháng 11 (âm lịch), không quá ngày 25 tháng Chạp. Con cái trong gia đình phải thống nhất một cái lịch "giỗ sống" cho hợp lý, tránh tình trạng chồng chéo lên nhau.

LSB_Lãng Tử
30-10-2006, 12:56
Quảng Nam trong lịch sử dân tộc

Kể từ lúc hưởng ứng lời kêu gọi Bình Chiêm mở nước của vua Lê Thánh Tông, rồi định cư tại vùng đất mới được nhà vua đặt tên "Quảng Nam Thừa Tuyên" (1471), xuất phát từ cái nôi văn hóa đất Bắc với truyền thống "nghìn năm văn vật", tiền nhân ta đã dần dần thích nghi, kết hợp với tú khí nơi đây mà phát huy công sức, và tài trí vào công cuộc bảo vệ , xây dựng địa phương từ thế hệ này sang thế hệ khác. Qua đó, con cháu càng được tôi luyện thành lớp người thông minh, bất khuất trước mọi khó khăn, gian khổ, trước bao hiểm họa thiên tai và chiến tranh.Qua hơn năm thế kỷ hình thành và phát triển, vùng đất Quảng Nam đã có nhiều đóng góp đáng kể trong lịch sử dân tộc :

- Học vấn : Tinh thần hiếu học ở mấy thập niên cuối thế kỷ XIX và thập niên đầu thế kỷ XX tại Quảng Nam, có những đột phá đặc biệt với những thành đạt gắn liền một số danh xưng tôn quý, được nhân dân trong tỉnh vinh danh là : Ngũ Phụng Tề phi, Tứ hùng, Tứ kiệt, Tứ hổ... gồm 13 vị là : Đình nguyên Hoàng giáp Phạm Như Xương, các song nguyên Phạm Phú Thứ, Huỳnh Thúc Kháng, các tiến sĩ Phạm Liệu, Trần Quý Cáp, Phan Quang, Phạm Tuấn, các phó bảng Ngô Truân, Dương Hiển Tiến, Nguyễn Đình Hiến, Võ Vỹ, Nguyễn Mậu Hoán, Phan Châu Trinh.

- Lập thuyết : có Trần Cao Vân với triết thuyết "Trung thiên dịch - Trung thiên đạo", một triết thuyết hoàn toàn không vay mượn của bất cứ nước nào, của bất cứ triết gia nào, có khả năng lý giải những bí ẩn của vũ trụ và con người.

- Báo chí, nghiên cứu, phê bình, dịch thuật, văn thơ :

Người Quảng Nam đột phá ở các lĩnh vực này với nhiều tên tuổi nổi tiếng được cả nước một thời ngưỡng mộ :

a) Báo chí :

- Lương Khắc Ninh : Chủ bút "Nông cổ mín đàm" (những câu chuyện trà đàm về nông nghiệp và thương mại) tại Sài Gòn năm 1901. Sau đấy làm chủ bút báo "Lục tỉnh tân văn" (thay cho Trần Chánh Chiếu, bị mật thám Pháp bắt

- Bùi Thế Mỹ : Lần lượt làm chủ bút các báo : "Trung lập" , "Dân báo", "Tân thế giới", "Thần chung" tại Sài Gòn.

- Huỳnh Thúc Kháng : chủ bút báo "Tiếng Dân" - Tờ báo đầu tiên tại miền Trung, có tuổi thọ lâu nhất (1927-1943) tại Huế, từng là đại diện tiếng nói của dân, tranh đấu đòi quyền sống cho dân.

- Phan Khôi : Chủ bút báo "Sông Hương" tại Huế.

- Lưu Quý Kỳ : Thư ký toà soạn các báo cách mạng : "Dân tiến", "Dân muốn", "Tiến tới" (là những tờ báo công khai của Đảng Cộng sản Việt Nam).

b) Nghiên cứu, phê bình :

- Phan Khôi : khởi xướng phong trào tranh luận, phê bình một cách tích cực, đến nỗi có nhiều tờ báo thời ấy gọi là "Lý sự Phan Khôi".

- Sở Cuồng Lê Dư, Nguyễn Bá Trác, Trần Kim Bảng, Phan Khoang : có nhiều trước tác có giá trị cho nghiên cứu văn-sử-học.

- Nguyễn Đình : Nghiên cứu và phổ biến luật dấu hỏi (?), ngã (~) trong chữ viết quốc ngữ đầu tiên, với lời tựa của Phan Khôi.

c) Dịch thuật :

- Phan Khôi : Dịch trọn bộ Cựu ước và Tân ước - Thánh kinh của đạo Tin Lành - Đây là bộ sách được học giới quốc tế đánh giá là "Văn học thế giới". Mãi đến nay gần 100 năm, vẫn được đạo hữu Tin Lành trân trọng sử dụng hằng ngày mà không thích dùng bất cứ sách dịch nào khác ! (1).

- Lê Đình Thám : Dịch trọn bộ kinh "Thủ Lăng Nghiêm" của Phật giáo, một bộ sách kinh rất khó dịch.

- Phan Khoang : Dịch trọn bộ "Trung dung" của Nho giáo.

d) Văn :

Người Quảng Nam có những đóng góp đáng kể cho nền văn học nước nhà - nhất là ở buổi ban đầu - và thành quả gặt hái được, không phải chỉ có giá trị nhất thời, mà ảnh hưởng của nó - ảnh hưởng tốt - đến với thế hệ kế thừa, trong đó, nổi bật nhất là :

- Nhóm Tự lực văn đoàn, do ba anh em Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, nguyên quê ở Cẩm Phô (ngay sát bên trên chùa Cầu - Hội An) sáng lập. Một số tác phẩm của nhóm này, đã được đưa vào chương trình giảng dạy tại các lớp Trung học phổ thông.- Ngoài Tự Lực Văn Đoàn, đồng thời cũng có một số sáng tác văn xuôi của một số cây bút được nhiều người chú ý đến như : Phan Du, Nguyễn Văn Bổng, Nguyễn Văn Xuân, ...

e) Thơ :

Cũng như bộ môn Văn, đây là bộ môn có nhiều người tham gia, và trong dó có vị khai sáng một thể loại Thơ Mới :

- Phan Khôi : Chủ súy phong trào "Thơ Mới", nổi tiếng với bài thơ "Tình già", gây nên một thời tranh luận trên nhiều tờ báo ở ba kỳ.

- Còn có một số tên tuổi khác : Nam Trân, Khương Hữu Dụng, Hằng Phương, Trịnh Quang Xuân, Phạm Đình Bách, Trần Học Giới, Xuân Tâm, Hồ Thấu và đến thập niên 40 còn có Huỳnh Lý, Lê Trí Viễn, Hoàng Châu Ký, Võ Quảng, Phạm Hầu, Vũ Hân, Phan Nhụy, Phạm Ký ...g) Tuồng, kịch : Quảng Nam có cụ Nguyễn Hiển Dĩnh nổi tiếng về tuồng hát bội, sau Đào Tấn người Bình Định. Có thể nói, Nguyễn Hiển Dĩnh là người đưa bộ môn hát Bội Quảng Nam vào vị trí xứng đáng của nó trong văn học thời ấy. Người học trò trung thành của Nguyễn Hiễn Dĩnh là Tống Phước Phổ cũng rất nối tiếng.

Bộ môn kịch Quảng Nam có được hai người : Lưu Quang Thuận (thân sinh của Lưu Quang Vũ) và Thái Trữ.

Có điều ít ai biết, người khai sáng hát Cải lương Nam Bộ lại cũng là người Quảng Nam : Lương Khắc Ninh. Thật vậy, ông là người đầu tiên đăng đàn diễn thuyết, hô hào lập "Hội hát cải lương" vào đêm 28.3.1917 tại Hội Khuyến học Tam Kỳ ở Sài Gòn và thành công đáng kể. Từ đó, hát cải lương ngày càng lan nhanh về lục tỉnh, và theo đường xuyên Việt, hát cải lương đến tận Bắc Hà, được bà con Hà thành ưa thích.Đến năm 1930, thêm một sự kiện Quảng Nam là một trong số rất ít tỉnh nhanh chóng : thành lập Đảng bộ Đảng Cộng sản tỉnh Quảng Nam ngày 28.3.1930 do Phan Văn Định làm bí thư đầu tiên của Đảng bộ này, chỉ sau ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930) chưa đầy hai tháng. Rồi từ ngày thành lập cho đến nay, Đảng bộ Quảng Nam liên tục phát triển trên khắp tỉnh với những hoạt động, những thành tích to lớn như chúng ta đã và đang thấy...

Lịch sử dân tộc cũng bắt đầu có những diễn biến tích cực, nhất là trên mặt trận văn hóa. Do tình thế thúc bách, bên cạnh dòng văn học công khai, có dòng văn học bán công khai và bí mật mà thập niên đầu thế kỷ XX chưa rõ nét bằng lúc có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nhằm hỗ trợ cho cuộc cách mạng. Trong trường hợp này, kế tục Huỳnh Thúc Kháng, Quảng Nam còn có Phan Thanh xuất hiện tại nghị trường dân biểu Trung Kỳ. Ông đắc cử với số phiếu áp đảo. Trong cương vị nghị viên, ông dám trực diện công kích chính sách cai trị tàn bạo, bóc lột vô lương tri của thực dân Pháp một cách thẳng thừng không khoan nhượng trong cuộc tranh luận tại Đại hội đồng kinh tế Đông Dương tại Sài Gòn, và được báo chí đương thời ghi lại trung thực, đầy đủ với nhận xét Dân biểu Phan Thanh phát biểu bằng tiếng Pháp lưu loát và hùng hồn, khiến tên thực dân Pháp chủ tọa sững sờ đến quên rung chuông cắt lời phát biểu của Phan Thanh, vì ông đã phát biểu quá thời gian cho phép những 30 phút !

Ngày nay địa giới Quảng Nam không còn rộng như xưa. Và qua bao lần vì nhu cầu hành chánh, địa giới Quảng Nam từ bên trong đèo Cù Mông (1471) đến nay chỉ còn lại, phía Bắc giáp Hoà Vang (không kể phần đất của thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương) đến cuối Núi Thành, và nó đang là một tỉnh khiêm nhường bên bờ Đông Hải. Nhưng tôi thấy rất rõ những công ơn to lớn của tiền nhân Quảng Nam khai sơn phá thạch, để lại cho chúng ta ngày nay - những cảnh huy hoàng trên bước đường khai phá và xây dưng một xứ Quảng Nam như bây giờ - xứng đáng "Quảng Nam trung dũng, kiên cường đi đầu diệt Mỹ" - xứng đáng được UNESCO công nhận Quảng Nam có hai di sản thế giới (phố cổ Hội An, di tích Mỹ Sơn) - một sự công nhận mang tính khẳng định "Quảng Nam là vùng có bản sắc văn hóa đặc thù".

Trên đường tiến tới tương lai, với những thành tựu khiêm tốn đă có, với bổn phận và trách nhiệm bảo tồn, phát huy sức mạnh nội tại, chúng ta phải tiếp tục khai phá, xây dựng Quảng Nam sao cho "Tầm vóc Quảng Nam" ngày càng rực rỡ không phụ lòng bao thế hệ tiền nhân.

LSB_Lãng Tử
30-10-2006, 12:58
Nên chọn thời điểm lịch sử nào để kỷ niệm sự ra đời của vùng đất Quảng Nam ?

Trong lịch sử hình thành tỉnh Quảng Nam, về mặt địa giới và hành chính, có mấy mốc thời gian đáng chú ý sau :

- Năm 1307, nhà Trần chính thức thu được một món quà sính lễ về cho Đại Việt. Đó là hai châu Ô, Lý "vuông ngàn dặm" của nước Chiêm Thành do phò mã Chế Mân dâng nộp. Để tiếp nhận hai châu này, vua Trần Anh Tông cho đổi châu Ô làm châu Thuận, châu Lý làm châu Hóa và sai Hành khiển Đoàn Nhữ Hài đến vỗ yên dân chúng bằng cách chọn người tại chỗ trao cho quan tước, lại cấp ruộng đất và xá thuế 3 năm (1). Châu Thuận bao gồm vùng đất từ huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị vào đến huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế hiện nay, Châu Hóa là vùng đất phía nam tỉnh Thừa Thiên - Huế cho đến tận bờ bắc sông Thu Bồn, tỉnh Quảng Nam hiện nay.Nhưng sự bình ổn của vùng đất này kéo dài chẳng được bao lâu, vì hối tiếc một phần rộng lớn lãnh thổ phía bắc rơi vào tay Đại Việt lại bị người Đại Việt mưu giải thoát Huyền Trân nên sau khi Chế Mân chết, Chế Chí đem quân đánh lấn tìm cách chiếm lại vùng đất đã mất. Tháng 12 năm Tân Hợi (1311) vua Trần phải thân chinh đi đánh Chiêm Thành. Từ đây cho đến năm 1390 vùng đất hai châu Thuận, Hóa trở thành nơi tranh chấp quyết liệt giữa Đại Việt và Chiêm Thành. Đã nhiều lần quân Chiêm Thành đánh phá Thuận, Hóa và nhất là dưới thời Chế Bồng Nga quân Chiêm Thành còn đôi ba lần đánh ra tận Thăng Long. Quan quân nhà Trần phải nhiều lần chống trả rất vất vả. Tuy tháng 9 năm Mậu Thân 1368, quân Đại Việt dưới sự chỉ huy của Trần Thế Hưng và Đỗ Tử Bình có tiến đến Chiêm Động của Chiêm Thành (phía nam tỉnh Quảng Nam hiện nay), nhưng lại bị quân Chiêm Thành mai phục, Trần Thế Hưng bị giặc bắt, Đỗ Tử Bình phải đem quân về (2).

- Đến thời nhà Hồ, sau khi sửa đắp xong đường Thiên Lý từ Tây Đô (Thanh Hóa) đến Hóa Châu, tháng 7 năm Nhâm Ngọ 1402 Hồ Hán Thương thân chinh đánh Chiêm Thành. Quân Chiêm chống không nỗi, vua Chiêm là Ba Dích lại sợ phải dâng đất Chiêm Động rút quân nhưng Hồ Quý Ly ép Chiêm Thành phải dâng cả Cổ Lũy Động (3). Nhà Hồ chia Chiêm Động làm bốn châu : Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Châu Thăng và Châu Hoa bao gồm vùng đất Chiêm Động, tức là các huyện Thăng Bình, Tam Kỳ, Quế Sơn, Duy Xuyên hiện nay. Châu Tư và Châu Nghĩa bao gồm vùng đất Cổ Luỹ, tức là các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Mộ Đức, Đức Phổ của tỉnh Quảng Ngãi hiện nay. Vùng đầu nguồn Chiêm Động thì đặt trấn Tân Ninh bao gồm thượng nguồn các sông Thu Bồn, Vu Gia thuộc miền tây Quảng Nam hiện nay.Không phải chờ đến cuộc thân chinh của Lê Thánh Tông mới có đợt di dân "tòng chinh lập nghiệp" hay "bắc địa tùng vương" mà ngay vào lúc này Đại Việt sử ký toàn thư đã chép : tháng 12 năm Quý Mùi (1403) "Hán Thương đem những người không có ruộng mà có của dời đến Thăng Hoa, biên chế thành quân ngũ... đến năm sau đưa vợ con di theo", và "Hán Thương mộ dân nộp trâu để cấp cho dân mới dời đến ở Thăng Hoa, người nộp được ban tước" (4).Như vậy, đến năm 1402 toàn bộ vùng đất thuộc Quảng Nam hiện nay đã thuộc về Đại Việt. Nhưng triều Hồ tồn tại không được bao lâu. Nhân lúc quân Minh sang xâm lược, nhà Hồ thất bại, từ tháng 5-1407 trở đi, Chiêm Thành đem quân chiếm lại Thăng Hoa rồi tiến ra cướp phá Hóa Châu. Phần lớn người Việt vừa mới di cư đến phải quay chạy ra Thuận Hóa. Vùng đất bốn châu : Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa lại bị Chiêm Thành chiếm giữ, phải mãi đến đầu năm 1446, dưới triều Lê Nhân Tông, quân Đại Việt do Lê Thụ chỉ huy mới đánh trở lại, tấn công vào tận Trà Bàn bắt vua Chiêm Thành là Bí Cai giải về Thăng Long. Tuy nhiên, trong buổi đầu của thời Lê sơ toàn bộ vùng đất từ đèo Hải Vân trở vào vẫn còn là đất ky mi chịu sự ràng buộc chứ chưa chịu sự quản lý trực tiếp của Đại Việt (5).

- Tháng 6 năm Tân Mão 1471, với cuộc nam chinh đại thắng, Lê Thánh Tông đánh chiếm vào tận núi Thạch Bi (Phú Yên) lập ra đạo thừa tuyên Quảng Nam và Thăng Hoa. Cái tên Quảng Nam xuất hiện từ đây, địa giới của nó bao gồm toàn bộ phía nam tỉnh Quảng Nam đến cuối tỉnh Bình Định ngày nay. Phần đất phía bắc tỉnh Quảng Nam hiện nay, lúc dó vẫn còn thuộc về Thừa tuyên Thuận Hóa. Đến năm 1490, vua Lê Thánh Tông tổ chức lại hệ thống hành chính chia cả nước ra làm 13 xứ Thừa Tuyên. Lúc này đạo Thừa tuyên Quảng Nam đổi thành xứ Thừa tuyên Quảng Nam (6).

- Năm 1602, Nguyễn Hoàng đặt tên gọi hành chính là dinh Quảng Nam bao gồm cả đất Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa và Hoài Nhơn (7). Ba năm sau (l605), Nguyễn Hoàng lại cho tách huyện Điện Bàn thuộc phủ và sáp nhập vào dinh Quảng Nam (8). Lúc này, dinh Quảng Nam đã bao gồm toàn bộ đất của Quảng Nam và Đà Nẵng hiện nay, vào đến tận huyện Hoài Nhơn của Bình Định.

- Ngay sau khi chiếm dược Phú Xuân (1801), Nguyễn Ánh cắt riêng hai phủ Thăng Hoa và Điện Bàn đặt làm dinh Quảng Nam (9). Đây là lần đầu tiên toàn bộ vùng đất của Quảng Nam và Đà Nẵng hiện nay trùng khớp với địa giới hành chính (dinh). Có thể xem sự cắt dặt này từ chỗ chưa chính thống đến chính thống vì chưa đầy một năm sau nhà Tây Sơn mất, Nguyễn ánh lên ngôi lập ra triều Nguyễn thì tên gọi hành chính và địa giới của Quảng Nam vẫn dược giữ nguyên. Đến năm 1806, Quảng Nam dược xếp vào một trong bốn dinh của Kinh sư, gọi là Trực Lệ Quảng Nam dinh (10).

- Năm 1827 Minh Mệnh đổi thành trấn dinh, bỏ hai chữ "trực lệ". Đến năm 1831 Minh Mệnh bắt đầu thực hiện cải cách hành chính ở các địa phương miền Bắc, chia 11 trấn Bắc thành ra làm 18 tỉnh. Tháng 10 năm 1832 Minh Mệnh tiếp tục chia đặt tỉnh ở phía Nam. Từ đây, trấn Quảng Nam trở thành tỉnh Quảng Nam (11). Nhưng khác với một số tỉnh khác, địa giới tỉnh Quảng Nam vẫn giữ nguyên như thời Gia Long. Đến năm 1834 Minh Mệnh chia cả nước thành 7 khu : Kinh Sư, Tả Trực, Hữu Trực, Tả Kỳ, Hữu Kỳ, Nam Kỳ, Bắc Kỳ, Quảng Nam (và Quảng Ngãi) là hai trực tỉnh phía tả kinh sử nên còn gọi là các tỉnh Nam trực (12).

- Sau khi Pháp và triều đình Huế ký hiệp ước Patenôtre (6-6-1884), Toàn quyền Đông Dương Richaud dựa vào bản hiệp ước đó ép vua Đồng Khánh phải nhượng đất chủ quyền cho Pháp các thành phố : Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng. Ngày 27-8 năm Mậu Tý, tức ngày 3-10-1888 Đồng Khánh ký đạo dụ cắt Đà nẵng ra khỏi Quảng Nam làm thành phố nhượng dịa cho Pháp. Toàn bộ phần đất này bao gồm 5 xã tả ngạn sông Hàn : Hải Châu, Phước Ninh, thạch thang, Nam Dương và Nại Hiên Tây với tổng diện tích 10.000 ha (20.00 mẫu ta), 13 năm sau, thực dân Pháp lại gây sức ép buộc vua Thành thái phải ký một Đạo dụ vào ngày 25 -2 năm Canh Tý, tức 15-1-1901 nới rộng nhượng địa Đà nẵng ra các xã thôn Xuân Đán, Thạc Gián, Liên Trì, Bình Thuận, Xuân Hòa, Chính Khê, Đông Hà Khê, Yên Khê thuộc huyện Hòa Vang và Mỹ Khê, An Hải, Mân Thái, Nại Hiên Đông, Mân Quang, Vĩnh Yên thuộc huyện Diên Phước. Như vậy, qua hai lần cắt nhượng của triều đình Huế, Quảng Nam đã mất tất cả 19 xã, gồm 13 xã tả ngạn và 6 xã hữu ngạn sông Hàn (13)

- Ngày 6-9-1952 Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Nghị định số 129/TTg sáp nhập thành phố Đà Nẫng vào tỉnh Quảng Nam, thành tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (14).

- Ngày 31-7-1962 chính quyền Ngô Đình Diệm ra sắc lệnh số 162/NV thành lập trọng địa hạt tỉnh Quảng Nam một tỉnh mới lấy tên là tỉnh Quảng Tín (15). Địa giới tỉnh Quảng Nam chỉ còn từ huyện Hòa Vang vào đến huyện Quế Sơn, địa giới tỉnh Quảng Tín từ huyện Thăng Bình trở vào giáp tỉnh Quảng Ngãi. Thành phố Đà Nẫng vẫn là một đơn vị hành chính trực thuộc chính quyền trung ương. Về phía ta, cuối năm 1962, Khu ủy V quyết định chia tỉnh uảng Nam - Đà Nẵng thành hai tỉnh : tỉnh Quảng Nam từ huyện Quế Sơn trở vào Tam Kỳ, tỉnh Quảng Đà từ huyện Duy Xuyên trở ra tới Hòa Vang, bao gồm cả Đà Nẫng (16).

Sau ngày thống nhất đất nước, thực hiện Nghị quyết số 245-NQ/TW ngày 20-9-1975 của Bộ Chính trị về việc bỏ khu, hợp tỉnh và Nghị quyết số 19/NQ ngày 20-12-1975 của Bộ Chính trị về việc điều chỉnh, hợp nhất một số tỉnh ở miền Nam, tháng 2-1976 Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ra Nghị định về việc giải thể khu, hợp nhất tỉnh ở miền Nam. Theo Nghị định này, tỉnh Quảng Nam và tỉnh uảng Đà hợp lại thành tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (17).

- Ngày 6-11-l996 trong kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX đã phê chuẩn việc tách tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng ra thành hai đơn vị hành chính : Thành phố Đà Nẵng trực thuộc trung ương bao gồm ba đơn vị hành chính là thành phố Đà Nẵng (cũ), hai huyện Hòa Vang và Hoàng Sa. Còn lại 14 đơn vị hành chính cấp huyện, thị xã thuộc tỉnh Quảng Nam (18).

Từ quá trình hình thành và thay đổi địa danh, địa giới hành chính như trên, chúng ta cần nhắc mấy thời điểm sau : Thời điểm đánh dấu toàn bộ vùng đất Quảng Nam hiện nay thuộc về Đại Việt thời điểm xuất hiện tên gọi Quảng Nam. Thời điểm đánh dấu toàn bộ vùng đất Quảng Nam và Đà Nẵng hiện nay cùng nằm trong một đơn vị hành chính. Thời điểm đánh dấu toàn bộ vùng đất Quảng Nam và Đà Nẵng hiện nay giữ vững một đơn vị hành chính độc lập.

Là người nghiên cứu chúng tôi cho rằng, khi xét chọn thời điểm kỷ niệm một đơn vị hành chính chúng ta không nhất thiết phải căn cứ vào toàn bộ địa giới hành chính như hiện nay, bởi như thế hóa ra chúng ta lấy ngày tách tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng (11- 1- 1996) làm ngày kỷ niệm sự ra đời của tỉnh Quảng Nam mà bỏ đi cả một quá trình hình thành trước đó, chúng ta cũng không nên căn cứ vào tên gọi "tỉnh" mà phải kết hợp cả tên gọi dịa phương gắn với cấp hành chính ngang cấp hành chính hiện nay để xét. Với cách chọn như vậy, trong các thời điểm kể trên, chúng ta nên lấy năm 1471 làm thời điểm đánh dấu sự ra đời của Quảng Nam bởi vì tên gọi Quảng Nam ngay từ lúc dó không phải của một châu, phủ, mà là của một đơn vị hành chính cao nhất cấp địa phương là thừa tuyên, cùng cấp với cấp tỉnh hiện nay. Hơn nữa, so với thời điểm 1402 tuy đánh dấu toàn bộ vùng đất Quảng Nam hiện nay thuộc về Đại Việt nhưng lúc dó vùng đất mới này chỉ chịu sự quản lý của Đại Việt trong vòng 5 năm. 66 năm tiếp theo nó lại nằm trong vòng kiểm soát của Chiêm Thành. Do đó, Đại Việt chưa ghi được dấu ấn sâu đậm trên vùng đất mới này. Chỉ đến năm 1471 mới thực sự mở ra thời kỳ ổn định lâu dài, tạo nên sự phát triển bền vững của vùng đất Quảng Nam. Và dù cho trong hơn 500 năm qua, địa giới Quảng Nam tuy có cắt bớt để thành lập các đơn vị hành chính khác như Quảng Ngãi, Bình Định, Đà Nẵng và có thêm vào (huyện Điện Bàn thuộc phủ Triệu Phong nhập vào Quảng Nam 392 năm) nhưng tên gọi Quảng Nam gắn với cấp hành chính địa phương cao nhất vẫn không hề thay đổi. Nếu chấp nhận cách chọn trên, chúng ta sẽ có thể long trọng tổ chức kỷ niệm "Quảng Nam - 530 năm hình thành và phát triển" vào năm đầu thế kỷ 21 - năm 2001. Căn cứ vào các tư liệu lịch sử đã có, chúng tôi muốn nêu lên cách chọn thời điểm kỷ niệm ngày ra dời của vùng đất Quảng Nam là vào năm 1471. Rất mong các nhà sử học, các nhà nghiên cứu và địa phương có những cuộc tọa đàm hội thảo khoa học để thống nhất ngày ra đời Quảng Nam.

LSB_Lãng Tử
30-10-2006, 13:00
Các ngày Lễ - Hội ở Quảng Nam

Lễ hội Long Chu

Ngày mở hội : 15-01 (âm lịch)

* Thời gian tổ chức : 1 ngày

* Địa điểm tổ chức : Đình - Đền, Thị xã Hội An, Quảng Nam

* Người được thờ cúng : Long Chu

* Truyền thuyết : Long Chu là vị thần có sức mạnh diệt trừ ma quái mà hình tượng là chiếc thuyền rồng, lễ hội cúng trừ tà ma.

* Nội dung : Kiệu Long Chu được thanh niên khiêng chạy trong tiếng trống thúc tới tất cả các ngõ trong làng. Tại các gia đình người ta cũng đuổi tà ma bằng roi dâu. Khi kiệu Long Chu đến mọi người vứt roi vào kiệu sau đó dân làng đốt Long Chu.

** Ghi chú : Còn tổ chức vào ngày 15 tháng 7 Âm lịch tại đình làng.

Cầu ngư

* Ngày mở hội : 17-01 (âm lịch)

* Thời gian tổ chức : 2 ngày

* Địa điểm tổ chức : Bình Thạnh, Bình Sơn, Quảng Nam

* Người được thờ cúng : Thần Nam Hải

* Nội dung : Thờ Thần Nam Hải với mục đích cầu mùa, cầu cho ngư dân đánh bắt được nhiều tôm cá, không gặp hiểm nguy nơi biển cả. Trong Hội ngoài các nghi thức tế, lễ, có nhiều trò vui như : Múa gím, hát bả trạo, kéo co, thi bơi, đua thuyền thúng ...

** Ghi chú : Lễ Cầu Ngư được mở vào ngày 17 và 18 tháng giêng (âm lịch)

Cúng Cá Ông

* Địa điểm tổ chức : Miếu bà - Cẩm An, Hội An, Quảng Nam

* Người được thờ cúng : Cá Ông Voi

* Truyền thuyết : Cá Ông giúp đỡ người, thuyền khi gặp nạn trên biển.

* Nội dung : Có sự kết hợp cúng Cá Ông với Lễ cầu mùa, cầu an mang tính chất tạ ơn Thần Thánh và cầu mong mùa màng bội thu. Ngoài các nghi thức tế, lễ tại đình ( đền ) là các trò vui như hát bá trạo, bả trạo, hát bội.

** Ghi chú : Tổ chức vào tháng 3 Âm lịch

Nghi lễ phổ biến của các làng chài ven biển nước ta. Hát bả trạo còn được bảo lưu tốt nhất ở Hội An. Vừa hát vừa chèo thuyền

LSB_Lãng Tử
30-10-2006, 13:04
TỔNG QUAN VĂN HỌC DÂN GIAN QUẢNG NAM ĐÀ NẴNG

1 - Văn học dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng là một nền văn học trẻ, mới ra đời chừng sáu trăm năm nay, tính từ thế kỷ XV - đời nhà Hồ, khi lãnh thổ Amaravati của Chăm-pa đã thuộc về quyền lực nhà nước Đại Việt. Nhưng văn học dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng không bắt đầu từ số không tay trắng. Chuyển cư vào lập nghiệp nơi đất Quảng xa xăm, mỗi lưu dân Quảng Nam đều mang trong mình chút lưng vốn văn học dân gian cả dân tộc, bởi họ xa rời nguyên quán gốc rễ nhưng không hề đoạn tuyệt với quá khứ cội nguồn, không hề xem quá khứ là dĩ vãng. Với họ, đây là giang sơn Đại Việt vừa thành quê hương mới, đồng thời là xứ Amaravati từng thuộc sở hữu một lân bang - dẫu sao cũng đất khách quê người. Tình cảnh ấy càng làm cho họ ngày đêm khôn nguôi nỗi nhớ về quê cha đất tổ.

Và có lẽ câu hát đầu tiên của người xa xứ vẫn là câu hát ngày xưa bên dòng sông Mã, sông Hồng: "Đêm qua ra đứng bờ ao - Trông cá cá lặn trông sao sao mờ - Buồn trông con nhện giăng tơ - Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai...", "Trên trời có đám mây xanh - Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng - Ước gì anh lấy được nàng - Để anh mua gạch Bát Tràng về xây - Xây dọc rồi lại xây ngang - Xây hồ bán nguyệt cho nàng chao chân", "Núi cao chi lắm núi ơi - Che bóng mặt trời khuất mặt người thương", hay "Trèo lên cây bưởi hái hoa - Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân - Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc - Em có chồng anh tiếc lắm thay - Ba đồng một mớ trầu cay - Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không - Bây giờ em đã có chồng - Như chim vào lồng như cá cắn câu - Cá cắn câu biết đâu mà gỡ - Chim vào lồng biết thuở nào ra"... Rồi khi vật lộn với gian nan để khẩn đất lập làng khai sơn phá thạch, những tiên dân Quảng Nam lại kể cho nhau nghe truyền thuyết Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, câu chuyện cổ tích về Mai An Tiêm trên hoang đảo, hoặc thiên tình sử của những Tiên Dung - Chử Đồng Tử, Mỵ Châu - Trọng Thuỷ, Giáng Hương - Từ Thức, Mỵ Nương - Trương Chi...

Và chắc rằng họ vẫn cứ hát, cứ kể bằng chất giọng đàng ngoài quen thuộc - chứ chưa phải chất giọng đặc sệt Quảng Nam sau này. Dần dà để phù hợp hơn với cảnh ngộ mới, họ có nhu cầu thay lời đổi chữ, thêm mắm dặm muối vào câu hát, câu chuyện, câu nói hôm qua, và đến một ngày kia, cuộc sống vừa bám-trụ-giữ-đất vừa quảng-nam-mở-cõi có quá nhiều điều khiến họ phải suy ngẫm sâu xa, phải tìm cách bộc lộ giãi bày, đòi hỏi họ phải tự mình sáng tác những câu chuyện, câu hát, câu nói của chính hôm nay. Đó là con đường hình thành và phát triển của văn học dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng suốt sáu thế kỷ qua.

2 - Về sáu trăm năm hình thành và phát triển của văn học dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng, đã có nhiều người để tâm sưu tầm, nghiên cứu. Chỉ tính riêng một phần tư thế kỷ vừa qua, có thể kể đến Lâm Quang Thự với công trình Đất Quảng trong thơ ca do Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Thanh Hoá xuất bản năm 1976; Nguyễn Văn Bổn với tiểu luận Đất nước và con người Quảng Nam - Đà Nẵng qua văn học nghệ thuật dân gian, Tôn Thất Bình với bài viết Hát bả trạo tại Quảng Nam, Trần Hoàng với bài viết Suy nghĩ về thơ ca dân gian của hai cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp và Mỹ ở Quảng Nam - Đà Nẵng; hay tiểu luận Truyện cổ của một vùng đất mới của nhóm Nguyễn Văn Bổn, Trần Hoàng, Võ Văn Thắng và bài viết Thủ Thiệm : tiếng cười dân gian độc đáo của đất Quảng của nhóm Nguyễn Văn Bổn, Tôn Thất Bình, Trương Giảng - tất cả đều được in trong công trình Văn nghệ dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng do Sở Văn hoá - thông tin Quảng Nam - Đà Nẵng chủ trì sưu tầm biên soạn (tập I xuất bản năm 1983, tập II xuất bản năm 1985). Có thể kể đến Huỳnh Ngọc Trảng và Vu Gia với phần biên khảo về văn học dân gian huyện Đại Lộc trong Địa chí Đại Lộc (NXB. Đà Nẵng - 1992). Rồi Thạch Phương trong tiểu luận Ca dao của một vùng đất (Ca dao Nam Trung Bộ - NXB. Khoa học xã hội - 1994) cũng chủ yếu bàn về ca dao và những thể loại có liên quan đến thơ ca dân gian của Quảng Nam - Đà Nẵng. Ngoài ra còn không ít lời bình về từng tác phẩm văn học dân gian đất Quảng đã được đăng rải rác trên báo chí.

3 - Ý thức về cội nguồn Đại Việt thể hiện rất rõ trong truyền thuyết Ngũ Hành Sơn. Mô-típ rồng đẻ ra trứng, trứng nở thành một nàng tiên xinh đẹp rõ ràng là có quan hệ với mô-típ mẹ Âu Cơ sinh một bọc trăm trứng, trứng nở thành trăm con trong truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên. Và trên vùng đất chưa hề có bóng dáng con người, hình ảnh ông lão ngư dân bị đắm thuyền từ phương Bắc trôi dạt tới được thần Kim Quy dạy cách bảo vệ quả trứng rồng cho đến ngày khai nở đã nói lên gốc gác Thanh - Nghệ của những lưu dân đất Quảng. Rồi cảnh thần Kim Quy tháo móng chân trao cho ông lão cũng gợi nhớ cảnh Rùa Vàng từng tháo móng chân trao cho vua Thục làm lẫy nỏ trong truyền thuyết An Dương Vương ngày nào. Như vậy với truyền thuyết Ngũ Hành Sơn, người Quảng đã biết dựa vào cha ông để sáng tạo cho riêng mình một truyện cổ dân gian rất quen mà rất lạ. ở đây ông lão ngư dân là lạ, mà vỏ trứng rồng lớn mãi, lớn mãi thành năm ngọn núi Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ kia cũng là lạ. Những cái lạ ấy là đóng góp riêng của người Quảng vào văn học nước nhà.

Càng ý thức về cội nguồn Đại Việt, người Quảng xưa càng ý thức rõ hơn tình cảnh đất khách quê người. Họ hiểu rằng để có thể sinh tồn nơi đầu sóng ngọn gió này, họ vừa phải dám dũng cảm đương đầu - thậm chí dám mạo hiểm dấn thân, lại vừa phải biết điều tế nhị trong quá trình giao lưu hội nhập với cư dân bản địa. Tục cúng đất - hay là cúng tá thổ độc đáo, mỗi năm một lần, lễ vật dâng cúng gồm toàn các món ăn đặc trưng Chiêm Thành, thể hiện cách ứng xử khôn ngoan nhạy cảm của người Quảng xưa. Qua việc làm đậm đà màu sắc tâm linh thành kính và thấm đẫm chất chính trị, tiên dân Quảng Nam như muốn bày tỏ cùng cộng đồng người Chăm rằng do chẳng đặng đừng mà phải đứng chân lâu dài trên lãnh thổ Amaravati, đồng thời khiêm nhường tự nhận chỉ là người tá thổ - mượn đất, nghĩa là vẫn không hề quên đây là đất Chăm-pa. Mặt khác qua truyện cổ dân gian, họ tìm cách lý giải thêm sự có mặt của mình.

Nhiều thần thoại, truyền thuyết dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng khẳng định công lao khai sơn phá thạch của người Quảng xưa ở những vùng đất vốn còn rất đỗi hoang sơ. Thần thoại Sự tích núi Thạch Bồ kể về một vị thần thân hình cao lớn lạ thường - và hẳn là có gốc gác thần linh Đại Việt - nhổ tre vặn thừng đan sọt, lấy cả cây tre làm đòn gánh, gánh đất đắp sông xây núi. Thần thoại Sự tích Lò Thung cũng kể chuyện một ông khổng lồ gánh đất đắp sông, đánh nhau với rái cá, chẳng may té ngã, hai tảng đá lớn ở hai đầu gánh văng ra xa, làm thành hai quả núi, một chân ông chống vào vách đá khiến nơi này lún sâu thành hang, còn chân kia ông giẫm mạnh lên bờ đá ven sông, in dấu bàn chân ngoại cỡ vào mặt đá.

Đáng chú ý nhất trong chủ đề khai phá giang sơn là truyền thuyết Sự tích đất Gò Nổi kể về một lưu dân xứ Quảng tên Lê Văn Đạo. Ông Lê Văn Đạo vào Thăng Hoa làm nghề chài lưới, có lần đánh cá trên sông Thu Bồn thì trời nổi cơn giông, sóng gió đẩy thuyền ông càng lúc càng xa bờ. Giữa cơn khốn khó, ông bỗng thấy một đốm sáng hiện ra trước mũi thuyền. Và trong khi cố sức chèo thuyền theo đốm sáng kia, nhờ tia chớp ông nhận ra đó chính là con chim màu đỏ như huyết đang bay dẫn đường đưa ông đến một nơi đất đai tươi tốt chưa hề có ai sinh sống. Khi chuyển gia đình tới đây định cư khẩn đất lập làng, thấy dãi đất này bốn bên sông nước bao bọc, ông Lê Văn Đạo bèn đặt tên là Gò Nổi.

Ở Đại Quang huyện Đại Lộc, dân gian còn lưu truyền Sự tích Gò Đùi kể chuyện một nàng công chúa mải mê ngoạn cảnh nên lạc lối vào sâu trong vùng gò Đùi - ngày ấy vẫn đương còn là khu rừng hoang vắng đầy thú dữ - và chẳng may bị cọp vồ. Khi đoàn quân của vua cha đến cứu nàng thì đã quá muộn: công chúa bị cọp ăn thịt, chỉ còn trơ lại khúc đùi, bên cạnh có con bò rừng nằm canh giữ, và dường như nếu không có con bò trọng nghĩa, hẳn là công chúa hoàn toàn mất xác. Thương tiếc con gái, nhà vua cho tạc bức tượng có hình khúc đùi người- di thể của công chúa - và con bò rừng kia để thờ cúng. Thật ra, bức tượng tạc khúc đùi người cạnh con bò rừng này là một mảnh vỡ của tấm phù điêu bằng đá chạm nổi phần đùi thần Xi-va bên con bò thiêng - vật cưỡi quen thuộc của thần. Rõ ràng qua truyện cổ dân gian, đôi khi người Quảng xưa cố tình Việt hoá thần tích Chăm-pa nhằm suy nguyên một sự vật, hiện tượng nào đó theo nhãn quan riêng của dân tộc mình. Đấy cũng là cách khẳng định công lao phá thạch khai sơn của người Quảng ở những vùng "tá thổ" hoang vu.

Đúng như các tác giả tiểu luận Truyện cổ của một vùng đất mới dẫn trên đã nhận xét, "thần thoại, truyền thuyết vùng đất Quảng ít có yếu tố thần kỳ, hoang đường, mà trái lại mang nhiều nét hiện thực", và ở trường hợp truyện cổ tích Quảng Nam - Đà Nẵng, "tính chất hiện thực, một lần nữa, cũng giống ở trường hợp các thần thoại, truyền thuyết, đã lấn át hẳn tính chất hoang đường, kỳ ảo". Tuy nhiên, đọc kỹ truyện cổ dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng, vẫn có thể bắt gặp một vài chi tiết thần kỳ thấm đẫm chất thơ thuần phác. Chẳng hạn chi tiết tấm da ngựa si tình bất thần quấn chặt lấy cô tiểu thư xinh đẹp bay bổng lên ngọn cây cao trong Sự tích con tằm có thể sánh ngang với những chi tiết nghệ thuật đặc sắc nhất của truyện cổ dân gian Việt Nam.

4 - Người Quảng thích biện luận, "Quảng Nam hay cãi", hay cãi đến mức đã sáng tác cả một câu chuyện về ông Vua Cãi, vì thế truyện cười dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng thường xuất hiện những chàng trai được vợ nhờ giỏi biện luận, chẳng hạn chàng trai trong truyện Giỏ đựng chày. Truyện này kể về một người được xem là bậc thầy trong nghề đan lát, luôn tự hào rằng cái gì ông ta cũng đan được, rằng ai đan cái gì ông ta cũng biết được, tuyên bố sẵn lòng gả con gái cho người nào đan cái mà ông ta không biết, và cuối cùng đành phải thực hiện lời hứa vì ông chịu thua không thể đoán ra cái có hình thù gần giống như cái rọ nhưng hai đầu bằng nhau còn ở giữa lại hẹp là... cái giỏ đựng chày. Khi nghe ông cật vấn: "Giã gạo xong thì đem chày dựng vào xó nhà, cần gì đựng trong giỏ?", chàng trai đan giỏ đựng chày đã biện luận: "Chuyện ấy không thành vấn đề, con chỉ biết ông không đan được cái này, và quan trọng hơn, con đan xong mà ông vẫn chưa biết là cái gì".

Một số truyện cười dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng còn có nhân vật ông mai - người môi giới cho các cuộc hôn nhân. "Cửa em cao hàng rào em chắn - Buồng the em đóng chín mười tầng - Con ong chui không lọt biểu con bướm đừng lao xao - Biểu chàng về sắm lễ cho cao - Cậy ông mai cho giỏi mới bước chân vào ngõ em". Cái giỏi của ông mai ở đây không gì khác là giỏi biện luận. Thác lời vào nhân vật ông mai, người Quảng từng trổ tài biện luận: nào là tôi sẽ làm mai cho ông một chàng rể giỏi giang, chỉ có điều là cậu ta con người không được ngay thẳng; nào là tôi sẽ làm mai cho bà một cô dâu hiền thục, chỉ có điều cô ấy mồm miệng không được chỉn chu. Tới khi cưới hỏi xong xuôi, hai họ rõ ra là chàng rể thì gù lưng - chứ không phải tính nết so đo như nhà gái nhầm tưởng, cô dâu thì môi sứt - chứ không phải ăn nói vụng về như nhà trai hình dung, ông mai liền biện luận rằng mình đã báo trước con người chàng rể không được ngay thẳng, mồm miệng cô dâu không được chỉn chu rồi, song hai bên gia đình vẫn đồng lòng chấp nhận đấy thôi...

Đặc biệt yếu tố gây cười bắt nguồn từ sự biện luận của nhân vật trung tâm khá phổ biến ở nhiều truyện cười Thủ Thiệm. Có lần Thủ Thiệm bị quan huyện sai lính lệ bắt giam: "Lệ đâu! Đưa thằng này xuống buồng giam, giam đầu nó lại ! ". Thế là Thủ Thiệm chỉ đứng ở cửa buồng giam đưa đầu vào thôi, lấy lý quan huyện chỉ bảo giam đầu chứ không bảo giam đít, buộc lòng quan huyện phải tha Thủ Thiệm cho yên chuyện. Hoặc một hôm Thủ Thiệm mời cơm ông thông gia nhưng chỉ dọn toàn mắm nục. Chờ khách ngồi vào mâm, Thủ Thiệm vồn vã thưa: "Không mấy khi anh sang chơi mà nhà lại không có gì, chỉ có cá nục, anh vui lòng dùng tạm ! ". Nghe ông thông gia thẳng thắn nhận xét: "Mắm nục chứ làm chi có cá nục ! ", Thủ Thiệm liền giải thích: "Thì trước lúc thành mắm, nó cũng từng là cá nục đó chứ!". Nào ngờ ông thông gia là tay giỏi biện luận không kém, chờ dịp Thủ Thiệm sang chơi nhà mình để trả đũa: đến bữa cơm chỉ dọn một bát gốc tre chặt nhỏ mời Thủ Thiệm và bảo đấy là món măng luộc. Khi Thủ Thiệm phàn nàn: "Gốc tre chứ làm chi có măng!", ông thông gia bèn giở ngay luận điệu của Thủ Thiệm hôm nào: "Thì trước lúc thành gốc tre, chẳng phải nó đã là măng hay sao ?".

5 - Truyện cổ chưa phải là mặt mạnh nhất của văn học dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng. Xem ra người Quảng có nhiều đóng góp hơn trên lĩnh vực thơ ca, trước hết là ở ca dao - dân ca. Ca dao - dân ca Quảng Nam - Đà Nẵng cũng mang đậm dấu ấn tâm lý của những người mới xa quê, buổi đầu mọi thứ đều thấy lạ. "Tới đây sông nước lạ lùng - Con chim kêu phải sợ con cá vùng phải kiêng", hoặc "Tới đây lạ cảnh lạ quê - Anh em cũng lạ bốn bề người dưng - Người thương không thấy người thương - Quanh đi quẩn lại nhớ cố hương thêm sầu".

Nghĩa là buổi đầu mọi thứ đều gợi nhớ, gợi thương. Nhớ thương đến mức không thể chỉ bộc bạch chung chung như khi còn ở quê nhà, kiểu lý chiều chiều: "Chiều chiều ra ngõ ngó mong - Ngõ thì thấy ngõ người không thấy người", "Chiều chiều ra đứng ngõ sau - Thấy cây khế ngọt mà đau đớn lòng", "Chiều chiều ra ngắm sông sâu - Thấy dòng nước chảy dạ đau từng hồi"... Cũng là lý chiều chiều nhưng giờ đây thương nhớ phải được giãi bày cụ thể hơn, khắc sâu hơn cái khoảng không nghìn trùng cách trở giữa hai phương trời: "Chiều chiều mây phủ Sơn Chà - Lòng ta nhớ bạn nước mắt và lộn cơm - Vẫy vùng như cá trong nơm - Sớm mai Nam ta trông bạn buổi chiều Nồm bạn trông ta".

Có điều cuộc sống đương thời luôn đặt ra cho tiên dân xứ Quảng nhiều câu hỏi lớn, chẳng hạn cam chịu nhớ thương mà chấp nhận ở lại với cái-lạ-nay-chưa-kịp-định-hình, hay tìm sự bằng an để giũ bỏ quay về với cái-quen-xưa-bao-đời-vẫn-vậy. Và câu trả lời của người Quảng là:"Ngó lên Hòn Kẽm Đá Dừng - Thương cha nhớ mẹ quá chừng bậu ơi - Thương cha nhớ mẹ thời về - Nhược bằng thương kiểng nhớ quê thời đừng". Không phải đừng về mà đừng quay về, đừng hồi hương, bởi giờ đây đã có thêm một quê hương !

Chính nhờ sống trong thế giới những cái-lạ-nay-chưa-kịp-định-hình, người Quảng xưa có nhu cầu và điều kiện đổi mới cách nhìn, cách nghĩ. Câu ca dân gian: "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say" cực tả sự khát khao cái mới, nhạy cảm với cái mới của người Quảng. "Ra đi mẹ có dặn dò - Sông sâu chớ lội đò đầy đừng qua", kinh nghiệm sống khôn ngoan ấy giờ đây cơ hồ không còn thích hợp nữa. Cuộc sống giờ đây đòi hỏi con người phải biết tư duy kiểu khác: "Sông sâu không lội thì trưa - Đò đầy không xuống ai đưa một mình"...

Và nhờ biết tư duy kiểu khác mà thái độ ứng xử với cái lạ ở người Quảng lúc này không giống khi vừa mới đến: "Tay ta cầm cần câu trúc ống câu trắc lưỡi câu thau - Muốn câu con cá biển chứ cá bàu thiếu chi", hay "Lên non tìm con chim lạ - Ở dưới phố phường chim chạ thiếu chi". Từ chỗ sợ cái lạ - "con chim kêu phải sợ con cá vùng phải kiêng" - tới chỗ chủ động đi tìm cái lạ, đó là cả một bước tiến dài trong tư duy người Quảng xưa.

Không hiểu sao chủ thể trữ tình trong ca dao - dân ca Quảng Nam - Đà Nẵng nói về tình yêu lứa đôi đa phần là phụ nữ. Có lẽ trên tình trường họ hứng chịu khổ đau nhiều hơn nam giới, do vậy mà nhu cầu bộc lộ giãi bày bằng tiếng hát lời ca ở họ cũng lớn hơn chăng. Quả là khi yêu, người phụ nữ phải đối mặt với bao nhiêu bất trắc: "Thương chàng thiếp phải đi đêm - Té xuống bờ ruộng đất mềm không đau - Không đau ơi hỡi không đau - Té xuống năm trước năm sau chưa lành", hoặc "Ba với ba là sáu - Sáu với bảy mười ba - Bạn nói với ta không thiệt không thà - Như cây đủng đỉnh trên già dưới non - Khi xưa bạn nói với ta chưa vợ chưa con - Bây giờ ai đứng đầu non đó bạn tề - Bạn nói với ta bạn chưa có hiền thê - Bây chừ hiền thê mô đứng đó bạn trả lại lời thề cho ta", hoặc "Một nong tằm là năm nong kén - Một nong kén là chín nén tơ - Bạn phỉnh ta chín đợi mười chờ - Lênh đênh quán sấm dật dờ quán sen"...

Cả khi hai người cùng chung cảnh ngộ, thì phụ nữ thường cũng thiệt thòi hơn: "Thiếp thương chàng đừng cho ai biết - Chàng thương thiếp đừng lộ tiếng ai hay - Miệng thế gian nhiều kẻ thày lay - Cực chàng chín rưỡi khổ thiếp đây mười phần", hay "Anh buồn có chốn thở than - Em buồn như ngọn nhang tàn thắp khuya"... Thế nhưng vượt lên tất cả, người phụ nữ đất Quảng vẫn thể hiện rõ bản lĩnh của mình trong tình yêu: "Thiếp không thương chàng thì ra chỗ dở - Cho nên thiếp phải thương đỡ vài ngày - Thiếp có chồng rồi thiên hạ đều hay - Sợ nước lui về đông hải càng ngày càng xa", "Liệu bề thương được thì thương - Đừng trao gánh nặng giữa đường cho em", "Xa xôi chi đó mà lầm - Phải hương hương bén phải trầm trầm thơm"...

Cũng không ai khác ngoài họ đã chủ động dung hoà kiểu hôn nhân theo sắp đặt với kiểu hôn nhân có tình yêu - một mô hình hôn nhân đến nay và trong nhiều thập niên tới xem ra vẫn còn phù hợp. Hôn nhân theo sắp đặt là kiểu hôn nhân mà cô dâu và chú rể thường do cha mẹ hay người thân trong gia đình đôi bên lựa chọn (thậm chí cả hai chỉ được biết mặt nhau trong ngày cưới) với mục đích tìm cho cô dâu chú rể người bạn đời môn đương hộ đối. Còn hôn nhân có tình yêu bắt nguồn từ tình yêu của những chàng trai, cô gái tự đến với nhau, đặt khả năng tương thích và những cảm nhận về nhau lên hàng chính yếu. Đương nhiên người phụ nữ đất Quảng không đồng tình với kiểu hôn nhân sắp đặt: "Đôi ta tuổi lứa đang vừa - Trách cho cha mẹ kén lừa nơi mô", cũng không muốn bị làng xóm cười chê rằng: "Gái đâu gái hỗn gái hào - Trai chưa vô làm rể gái đã vào làm dâu". Họ tự đến với nhau, yêu nhau và cùng nhau thề non hẹn biển, sau đó tranh thủ sự đồng thuận của hai bên gia đình: "Trai mười bảy gặp gái mười ba - Trai anh hăm sáu gái em đà hăm hai - Lời nguyền với bạn không sai - Bữa mô có rảnh cậy ông mai đến nhà", "Con gà trống tía cái lông cũng tía - Ngọn khoai lang giâm ngọn mía cũng giâm - Thương nhau không dễ thương thầm - Thương thời rượu cỗ trầu mâm đến nhà - Em còn thừa lệnh mẹ cha - Còn có cô chú bác chứ không phải mình ta với chàng"..

Ngôn ngữ ca dao - dân ca đất Quảng nói chung thô mộc song không phải không có những nét đặc sắc. Khi cần "chữ nghĩa", người Quảng cũng rất chi là "chữ nghĩa", chẳng hạn như trong lời ca bài Lý Thương nhau: "Thương nhau trường đoạn đoạn trường - Luỵ lưu lưu luỵ dạ dường kim châm". Một câu lục bát mười bốn chữ mà đa phần là từ Hán-Việt, trong đó đáng chú ý là cách đảo từ "trường đoạn" thành "đoạn trường", "luỵ lưu" thành "lưu luỵ" nhằm khai thác sức mạnh biểu cảm của những từ đồng âm dị nghĩa. Có thể dẫn chứng thêm nhiều trường hợp chơi chữ tương tự, như câu "Anh từ trong Quảng ra thi - Leo lên đèo ải chữ chi mập mờ", hoặc câu "Chiều chiều lại nhớ chiều chiều - Nhớ người quân tử khăn điều vắt vai - áo vắt vai quần hai ống ướt - Chữ nghĩa chi chàng mà lấn lướt vô thi - Tiền năm quan ngủ quán mất đi - Trai nam nhơn mô đối đặng - Gái nữ nhi xin kết nguyền"...

Hay câu "Con gái La Qua - Qua đường qua chọc - Qua biểu em rằng - Đừng có la qua". Cái tên "La Qua" vốn chỉ là một địa danh trong câu "Dù xa cửa ngõ cũng xa - Dù gần Bến Điện, La Qua cũng gần", đến đây bỗng trở thành ngữ động từ "la qua" - tức "mắng anh" (vì anh đã trêu chọc em). Ngay chữ "qua" cũng rất đa nghĩa: vừa là thành tố của địa danh La Qua, vừa là anh (qua chọc, qua bảo, la qua), lại vừa là bước sang (qua đường). Rõ ràng nghệ thuật chơi chữ của người Quảng trong câu ca dân gian này khá là độc đáo.

Hình thức tách từ được người Quảng dùng khá thuần thục trong ca dao - dân ca: "Nhìn xem nam bắc tây đông - Thấy thiên thấy hạ mà không thấy chàng - Về nhà đứng thở ngồi than - Cơm ta ăn không đặng nhớ đến nghĩa chàng đó chàng ơi", hay "Xa làm chi mà xa quanh xa quất - Xa làm chi mà xa tức xa tối xa vội xa vàng - Không cho thiếp thở chàng than đôi lời". Đến chữ nghĩa cũng chia rời, xa cách, huống chi đôi lứa đang yêu! Sở trường nói lái thường được tận dụng: "Một chữ anh cũng thi - Hai chữ anh cũng thi - May thời đậu trạng dẫu rớt đi cũng ông nghè hồi". Ông "nghè hồi" ở đây không phải là ông tiến sĩ vinh quy (nghè: tiến sĩ; hồi: trở về), mà là ông "ngồi hè" - vì đã thi hỏng tức vẫn còn là anh học trò nghèo kiết xác, không ngồi ngoài hè thì ngồi vào đâu được !

Tuy đất Quảng không phải là chiếc nôi của nghệ thuật tuồng, song người Quảng rất thích tuồng, bởi tuồng truyền thống có nhiều đặc trưng nghệ thuật khá phù hợp với chất chính trị mạnh mẽ quyết liệt của dân Quảng: tích tuồng nào cũng xoay quanh những cuộc tranh giành quyền lực chính trị, đầy ắp những thoán đoạt, phản loạn, mưu mô, xung đột giữa chốn triều đình và bao giờ cũng có ít nhất một vai anh hùng nghĩa hiệp; đạo cụ trên sân khấu tuồng chủ yếu là gươm đao, côn kiếm; giọng hát tuồng cơ hồ lúc nào cũng quyết liệt thét gào. Chính vì người Quảng nhạy cảm với chính trị như thế cho nên bên cạnh những câu ca dao - dân ca có nội dung chính trị hẳn hoi, chẳng hạn câu ca dao "Ai lên chín ngã sông Con - Hỏi thăm ông Hường Hiệu có còn hay không", hay câu hát "Đứng bên ni Hàn ngó qua bên tê Hà Thân nước xanh như tàu lá - Đứng bên tê Hà Thân ngó về Hàn phố xá nghênh ngang - Kể từ ngày Tây lại đất Hàn - Đào sông Câu Nhí bòn vàng Bông Miêu - Dặn lòng ai dỗ đừng xiêu - ở nuôi phụ mẫu sớm chiều có nhau" (hai chữ "nghênh ngang" đã công khai bày tỏ thái độ chính trị của nhân dân Đà Nẵng đang phải chung sống với kẻ thù), còn khá phổ biến trong thơ ca dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng hiện tượng chính trị hoá ca dao - dân ca trữ tình.

Câu ca dao trữ tình quen thuộc "Trời mưa ướt bụi ướt bờ - Ướt cây ướt lá ai ngờ ướt em" được người Quảng chính trị hoá trở thành những câu trữ tình - chính trị: "Trời mưa ướt ngõ ướt đàng - Ướt em em chịu ướt Vệ quốc đoàn em thương", "Trời mưa ướt bụi mía mưng - Ướt em em chịu ướt anh dân quân em buồn", "Trời mưa ướt lá trầu vàng - Mưa ơi đừng ướt anh Vệ quốc đoàn nghe mưa"... Và có lẽ trong ca dao - dân ca Việt Nam, hiếm có câu ca dân gian nào có nhiều dị bản như là câu: "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say...". Có thể ban đầu đây là một khúc hát trữ tình, với hai dòng sau được thay đổi cho phù hợp với cảnh ngộ riêng của từng chủ thể: "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Em thương anh cha mẹ không hay - Như ngọn đèn giữa gió biết xoay phương nào", "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Kể từ ngày đó đã xa đây - Sầu đêm quên ngủ sầu ngày quên ăn", "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Lòng ta như chén rượu đầy - Lời thề nhớ chén rượu này bạn ơi". Đáng chú ý nhất là các dị bản: "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Thương nhau chưa đặng mấy ngày - Đã mang câu ơn trọng nghĩa dày bạn ơi", "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Hai đứa ta ơn trọng nghĩa dày - Chưa nên câu duyên nợ đã mấy trăm ngày nhớ thương", "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Bạn về nằm nghĩ gác tay - Coi ai ơn trọng nghĩa dày cho bằng em", "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Bạn về đừng ngủ gác tay - Nơi mô ơn trọng nghĩa dày bạn theo"...

Xuyên suốt các dị bản này là tính khẳng định của sự lựa chọn, trước hết là lựa chọn trong tình yêu. Khi cô gái Quảng dám tự chọn lựa hạnh phúc "thương anh cha mẹ không hay" thì dẫu có "nghi binh" sánh mình với "ngọn đèn giữa gió biết xoay phương nào", thực chất cô cũng đã khẳng định cái hướng mà đời cô nhằm đến. Tính khẳng định của sự lựa chọn càng hai năm rõ mười hơn ở những cách nói: "kể từ ngày đó đã xa đây - sầu đêm quên ngủ sầu ngày quên ăn", hay "lòng ta như chén rượu đầy - lời thề nhớ chén rượu này bạn ơi", hay "thương nhau chưa đặng mấy ngày - đã mang câu ơn trọng nghĩa dày bạn ơi", rồi "hai đứa ta ơn trọng nghĩa dày - chưa nên câu duyên nợ đã mấy trăm ngày nhớ thương". Song có lẽ tính khẳng định của sự lựa chọn đạt đến đỉnh điểm khi chủ thể trữ tình - dường như vẫn chính là cô gái Quảng - tự đặt bản thân trong quan hệ với người thứ ba: "ai", "nơi mô", từ đó mở ra cho người mình yêu khả năng lựa chọn:"coi ai ơn trọng nghĩa dày cho bằng em", "nơi mô ơn trọng nghĩa dày bạn theo".

Vì thế ngoài các dị bản trực tiếp được chính trị hoá như "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Anh hùng thước lụa trao tay - Nước non một gánh vơi đầy ai hay" có liên quan đến cái chết của cụ Hoàng Diệu, hoặc "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Tình non nghĩa nước bao ngày - Con trăng cõi Bắc đã đầy nhớ thương" ra đời vào thời gian đất nước bị chia cắt sau Hiệp định Genève 1954, thì với tính khẳng định của sự lựa chọn vừa nêu, các dị bản "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Bạn về nằm nghĩ gác tay - Coi ai ơn trọng nghĩa dày cho bằng em", "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Bạn về đừng ngủ gác tay - Nơi mô ơn trọng nghĩa dày bạn theo", thậm chí "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Lòng ta như chén rượu đầy - Lời thề nhớ chén rượu này bạn ơi" cũng rất dễ dàng được chính trị hoá để trong những cảnh ngộ không thể nói thẳng được điều cần nói, người Quảng vẫn có thể kín đáo vận động chính trị đồng thời gián tiếp tự bộc lộ sự lựa chọn chính trị của mình.

Còn có thể kể thêm những câu ca dao - dân ca tưởng chỉ để nói về sự thuỷ chung chờ đợi của đôi lứa xa nhau có khả năng được chính trị hoá như bài Lý Đò ngang: "Ngó lại quê mình - Bởi em chèo thuyền - Trên sông cái - Em ngó lại quê mình - Chim trên cành còn đủ cặp huống chi mình lẻ đôi - Vì đâu đây với đó đã hai nơi - Chiếc đò ngang bằng chiếc đũa không lời nhắn đưa - Cây đa bến cũ đò xưa - Người thương có nghĩa nắng mưa ta vẫn chờ", hay câu hò khoan: "Sớm mai chàng hoá con chim trống đứng dựa bìa núi - Chiều lại thiếp hoá con chim mái đứng dựa bìa rừng - Nỉ non ba tiếng cho có chừng - Dầu xa muôn dặm biểu bạn đừng có xa"...

6 - Câu đố Quảng thường đậm đà màu sắc chính trị. Câu "Năm ông ngồi lại một bàn - Ông lo việc nước ông toan việc nhà - Bốn ông chịu tuổi lên ba - Còn một ông già chịu tuổi lên hai" vừa miêu tả năm ngón tay trên một bàn tay vừa thể hiện ý thức gánh vác - nói theo cách nói của các tác giả Đại Nam nhất thống chí là tinh thần"sốt sắng việc công" - của dân Quảng. Các câu đố về cây ngô: "Ba tháng cuốn cờ bồng con đỏ - Một phen cởi giáp cứu dân đen" hay về cái máng nước: "Trên vì nước dưới vì nhà - Lòng người ai rõ cho ta hỡi lòng" cũng mang ý nghĩa tương tự. Đương nhiên câu đố Quảng còn thể hiện rõ đặc tính ưa nói lái của người Quảng: "Hít vào, hít ra, hít một" - hít một là hột mít, "Cà vô, cà ra, cà nhột" - cà nhột là cột nhà, "Cúng trên núi, cúng mê, cúng mải" - cúng mải là cái mủng, "Cú trong nhà cú ra, cú hãi" - cú hãi là cái hũ, hoặc "May không chút nữa thì lầm - Cau dày không bẻ bẻ nhầm cau ranh" - cau ranh là canh rau...

7 - Vè Quảng chủ yếu cũng là vè chính trị, được người Quảng sử dụng làm vũ khí đắc lực để tuyên truyền cách mạng. Mỗi bài vè Quảng thường gắn với một biến cố chính trị hoặc với một nhiệm vụ chính trị nhất định. Vè Khâm sai - còn gọi là vè Sai đạo - ghi lại sự kiện Nguyễn Thân đem quân triều đình vào đàn áp Nghĩa hội Quảng Nam năm 1886: "Lẳng lặng mà nghe - Cái vè Sai đạo...". Cuộc biểu tình kháng thuế cự sưu - hay theo cách gọi của Phan Châu Trinh là Trung Kỳ dân biến - bắt đầu từ huyện Đại Lộc tỉnh Quảng Nam vào ngày 11 tháng 3 năm 1908 và sau đó nhanh chóng lan rộng khắp các tỉnh miền Trung. Với sự kiện 11 tháng 3, lần đầu tiên Quảng Nam trở thành nơi khởi phát một hình thức đấu tranh chính trị chưa từng có ở nước ta, một cuộc biểu dương lực lượng chính trị hùng hậu của nhân dân - xin nhấn mạnh là của nhân dân - một vùng đất nửa thế kỷ trước từng gánh vác sứ mệnh đánh thắng trận đầu, cầm chân giặc Pháp. Bài vè Xin xâu chống thuế: "Lẳng lặng mà nghe - Cái vè xin thuế..." đã phản ánh sinh động diễn biến và hào khí của sự kiện chính trị này. Hay như bài vè Tổng tuyển cử ra đời nhằm cổ động cho các ứng viên do Việt Minh giới thiệu trong cuộc bầu cử Quốc hội khoá đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1946: "Tống, Bôi, Hiến, Nhĩ, Diêu, Thao, Huệ - Viện, Xuyến, Sạ, Bằng, Thự cử tri"...

8 - Người Quảng thường xuyên phải đối diện với một thiên nhiên cực kỳ khắc nghiệt, nhất là vào khoảng tháng bảy gió nam thổi ròng hàng tuần lễ, đất cát khô rang, nông thôn cơ cực, dân cày đói vàng con mắt. Điều đó giải thích vì sao ngoài việc khái quát những kinh nghiệm nghề nông, tục ngữ Quảng Nam - Đà Nẵng còn hay nhắc đến cái ăn - đúng hơn là hay cảnh giác với cái ăn: "ăn không lo của kho cũng hết", "Ngày làm tháng ăn - Tháng làm năm ăn", "Ăn như tằm ăn lên", "Quần lãnh áo lương ăn lường gạo chợ", "Thấy họ ăn khoai mài vác mai chạy quấy", "Ăn bánh đúc đục mặt", "Ăn bữa giỗ lỗ bữa cày", "Ăn xưa chừa nay", "Liệu cơm gắp mắm", "Ăn ít no lâu ăn nhiều tức bụng", "Đời cha ăn mặn đời con khát nước", "Miếng ăn là miếng tồi tàn - Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu", "Ăn một miếng tiếng một đời", "Ham ăn thì lú ham ngủ thì mê"... Rõ ràng những câu nói dân gian vừa nêu chứng tỏ người Quảng sợ mất nhân phẩm hơn là sợ thiếu miếng ăn!

*

* *

Thật khó lòng tách bạch trong tâm hồn người Quảng bây giờ đâu là phần lưng vốn văn học dân gian cả dân tộc ông cha xưa mang theo làm hành trang trên đường nam tiến và đâu là phần văn học dân gian bản địa mới được phóng tác hoặc sáng tác tại chỗ qua sáu trăm năm. Có điều người Quảng hôm nay có thể tự hào rằng mỗi câu hát, câu chuyện, câu nói dân gian mới được phóng tác, sáng tác suốt sáu thế kỷ vừa bám-trụ-giữ-đất vừa quảng-nam-mở-cõi đều in đậm dấu vân tay của tổ tiên mình, và đó chính là cách các thế hệ người Quảng đóng góp vào kho tàng văn học dân gian chung của đất nước.

LSB_Lãng Tử
30-10-2006, 13:06
Rượu hồng đào chưa nhắm đã say

Trên đất Quảng Nam xuất hiện từ năm Hồng Đức thứ 2 (tháng 6-1471, do vua Lê Thánh Tôn đặt cho dải đất vừa chinh phục được, dài đến cuối huyện Tuy Phước - Phú Yên ngày nay). "Quảng Nam Thừa tuyên" có nghĩa là đất mở rộng về phía Nam, vâng lệnh vua để tuyên dương đúc hóa"(1) . Năm 1605, Nguyễn Hoàng tách vùng đất từ phía Nam đèo Hải Vân đến Bắc sông Thu Bồn (gồm các huyện Hòa Vang, Điện Bàn, Đại Lộc bây giờ) ra khỏi trấn Thuận Hóa để nhập vào trấn Quảng Nam đã có từ thời vua Lê. Đây là một quan niệm quy hoạch lãnh thổ rất hợp lý của chúa Tiên, bởi vì đèo Hải Vân - mà Lê Thánh Tôn đã hào sảng mệnh danh là "thiên hạ đệ nhất hùng quan" là một thực thể địa lý - lịch sử kỳ lạ của đất nước.

Đi từ phía Bắc vào, vượt qua khỏi dải đất hẹp phía Nam đèo Ngang, lên tới đỉnh đèo Hải Vân nhìn xuống, tôi thấy cái ý niệm "đất mở rộng về Phương Nam" chợt hiển hiện thành không gian bát ngát trải ra trước mắt đến tận chân trời, chân trời này mở tới một chân trời khác; và cứ thế tâm hồn tôi cứ rạo rực muốn theo chân tổ tiên rong ruổi về tận mũi Cà Mau. Từ đỉnh đèo đổ về phía Nam, Trường Sơn chĩa thành những mũi đá kề cận nhau, giống như một đoàn người khổng lồ xô ra biển, nghịch ngợm choãi chân đá sóng; sóng vỡ sôi réo nơi ghềnh đá như tiếng cười từ cuộc chơi miên trường của núi và biển. Cuối đám bụi nước mịt mùng kia, thành phố Đà Nẵng và những xóm làng Quảng Nam lượn mình trên một vịnh biển xanh thẳm uốn những nét cong hình cánh cung, tưởng chừng thấy được Đất Nước hình chữ S. Thảo nào từ cuối thế kỷ 17, thiền sư Trung Hoa Thích Đại Sán qua đây, đã nhận xét rằng " Nước Đại Việt kiến thiết đô ấp trên hình vòng cầu" vậy.

Trong một cuốn sách về đất Quảng, tác giả Lâm Quang Thự đã nêu một nhận xét mạnh mẽ một cách bất ngờ, rằng đèo Hải Vân là một cương giới địa chất của đất nước, giữa cấu trúc của thủy thành nham và phún xuất thạch. Bắc đèo Hải Vân trở ra là giang sơn kỳ tú tạo thành bởi chất liệu đá vôi, với những hang động, suối nước và hoa dại ( Vịnh Hạ Long, ải Chi Lăng, chùa Hương, động Phong Nha.. ); từ hòn Củ Hành dưới chân đèo Hải Vân về Nam là xứ sở hùng tráng dựng nên bởi hình khối chồng chất của đá gan gà trần trụi, rắn rỏi và thách thức (Ghềnh Ráng, Hòn Chồng, Định quán...)(2) . Hang động đá vôi là những công trình điêu khắc hoành tráng của sóng biển, còn quần thể đá gan gà là điểm dừng chân của những hòn đá lang thang qua cuộc hành trình dài dằng dặc của những kỷ nguyên địa chất. Đó là vẻ đẹp khác nhau giữa trí tuệ và nghị lực; giữa trực giác với lý trí; giữa huyền nhiệm và thực lại. Chia tay Huế trên đỉnh đèo Hải Vân, Thu Bồn có một giọng thơ ngậm ngùi thật lạ :

Tạm biệt Huế, với chiếc hôn thầm lặng
Anh trở về hoá đá ở bên kia

Sao hình tượng "hóa đá ở bên kia", trong câu thơ Thu Bồn cứ khiến tôi nghĩ đến đá gan gà. Không phải sao, từ diện mạo đến tâm hồn, từ chất mãnh liệt của người tính đến khí phách chiến sĩ, con người Thu Bồn là một khối đá vạm vỡ, dầu dãi và gan lì, thích phong trần hơn mọi thứ hoa văn chạm trổ nào khác.

Hải Vân đèo lớn vượt qua
Mùa xuân ai bỗng đổi ra nắng hè

Dọc đường giang hồ Bắc - Nam, Tản Đà đã một lần ngạc nhiên như vậy, khi từ Huế đi vào đất Quảng. Và tôi cũng ngạc nhiên. Mỗi năm tôi qua lại giữa Huế - Quảng bao nhiêu lần, lần nào cũng thấy lạ. Không hiểu sao, chỉ cách một ngọn đèo, mà chuyện giữa đất và đá, nắng và mưa, giọng Huế và giọng Quảng lại khác nhau đến như vậy.

Nhưng điều này cũng lạ, là nếu trên đời này có hai con người cốt cách tinh thần giống như in, thì đấy chính là hai nhà thơ bạn tôi, Thu Bồn và Phùng Quán .

Tôi trở lại "cái ngưỡng" của đất nước là đèo Hải Vân. Mỗi lần xe dừng lại trên đỉnh đèo trong lúc mọi người mải tíu tít chụp ảnh, tôi vẫn thích đứng riêng một mình, lặng lẽ nhìn con đường cũ nằm khuất trong cỏ dưới chân ải, trí óc cứ hun hút trong một ý tưởng, rằng vết đá rêu kia chính là di tích xa xưa của con đường sinh lộ đã đưa dân tộc đi vạn dặm về phương Nam, và nếu không có nó, thì số phận người Việt chắc đã khác. Đèo Hải Vân như một bí ẩn lịch sử hấp dẫn trí tò mò của tôi trước hết bởi vì nó tồn tại ngay chính trên mảnh đất sinh thành của tôi. Tôi lục lại tài liệu ngốn ngấu hết thượng vàng hạ cám như một sinh viên khoa Sử, về mọi thứ liên quan đến ngọn đèo này, và cuối cùng tạm thời đi tới một giải đáp cho chính mình.

Vậy thì, từ khi bộ tộc Kalinga nổi dậy tách ra khỏi quân Nhật Nam (thuộc lãnh thổ nước Văn Lang từ thời đại các vua Hùng) để thành lập một vương quốc riêng (năm 192, thời nhà Hán), cho đến đám cưới công chúa Huyền Trân (1306), trong hơn một nghìn năm dằng dặc ấy, biên giới phía bắc của Chiêm Thành di chuyển xuống nhiều lần, xa nhất là phía nam đèo Ngang (Bắc Quảng Bình, theo R.A. Stein), lúc thì ở Mũi Chu Mây (năm 359, Nam Thừa Thiên, theo G,Mapero), và lúc lùi về sâu nhất là ở Bắc chân đèo Hải Vân (năm 270, theo Dohamide). Thế nghĩa là, biên giới kia dù lúc dù lúc tiến lúc lùi tùy theo vận nước nhưng các triều đại vương quốc Chiêm chưa bao giờ chịu trao đèo Hải Vân vào tay người Việt. Dễ hiểu thôi, Hải Vân là một biên ải thiên nhiên không thể nào vượt qua nổi, và là cửa ngõ mở sâu vào lãnh địa của người Chàm. Đèo Hải Vân hiểm trở đến nỗi mãi cuối thế kỷ 17, theo Thích Đại Sán, "đi ngựa không được phải đổi sang võng. Dân ở dưới đèo rất khổ, quan dịch đi đông, bắt phu không đủ, người ta phải vào lùng bắt từng nhà"(1). Trong chiến tranh thời cổ, việc dùng bộ binh để đánh chiếm đèo Hải Vân hiển nhiên là một phương án liều lĩnh, khó thực hiện nổi. Và nhà Trần đã dùng một sức mạnh nghiêng thành khác để đạt được mục tiêu của mình, chính là Huyền Trân công chúa.

Vua Chàm Chế Mân đã đổi hai châu Ô - Lý để cưới cho được người đẹp thiên kim của Đại Việt mang về cung Chiêm. Thế nhưng tại sao cái đám cưới mở mang bờ cõi ấy lại bị trở ngại từ phía nhà Trần, dùng dằng kéo dài mãi 5 năm (l301-1306)? Sử sách giải thích rằng do trong triều ngoài nội phản về chuyện "tiếc thay cây quế giữa rừng"...Tôi rất lấy làm nghi ngờ về điều này. Nhưng cuộc hôn nhân chính trị vì lợi ích dân tộc vẫn là kế sách thường dùng của các vương triều Đại Việt thời đó; như Lý Huệ Tôn đã gả công chúa Ngạn Thiềm cho một tên giặc cỏ là Nguyễn Ngôn để làm " thế phên giậu" ở phía Bắc; và vua Trần Nhân Tôn cũng từng đưa Công Chúa An Tư (Cô của Huyền Trân) làm quà tặng cho tên tướng giặc Thoát Hoan, để "thư nạn nước". Thế thì để cho Huyền Trân về làm hoàng hậu của Chế Mân (vốn là hoàng tử Aritit anh hùng đã cùng cha đánh thắng Toa Đô) để tạo một liên minh làm phên giậu phía Nam cho Đại Việt (như trong cuộc chiến chống quân Nguyên vừa qua), lại được thêm " hai châu Ô - Lý vuông ngàn dặm" (1) – một đám cưới vàng như vậy, cớ sao cả trong triều ngoài nội cứ khăng khăng chống lại, để cho "cây quế" Huyền Trân cứ già đi trong cung Trần đến năm năm? Những suy nghĩ cố chấp kiểu ấy chỉ là cách suy nghĩ vụn vặt, không bao giờ đủ sức ngăn cản vận động tự thân của lịch sử, vốn luôn luôn đi tới bằng sức mạnh của những dòng sông lớn. Tôi tin rằng hai châu Ô - Lý là món quà sính lễ đã được ngã giá từ đầu cuộc hôn nhân chính trị, ngay trong cuộc Nam du của thượng hoàng Nhân Tôn; nhưng vấn đề còn lại chính là: " Biên giới phía nam châu Lý mở tới đâu?"Trong nhiều trường hợp, vì một lý do đặc biệt nào đó, lịch sử chỉ cho ta biết một nửa sự thật. Thí dụ, nhà báo W.Burchett (đã tham dự hội nghị Génève - 1 954) cho biết sự giằng co quyết liệt giữa hai bên để định ranh giới quân sự tạm thời giữa hai miền Nam - Bắc: Việt Nam đòi vĩ tuyến 13, pháp đòi vĩ tuyến l8; và cuối cùng là vĩ tuyến 17. Vấn đề vĩ tuyến 16 hoặc 17 là một vấn đề có tầm quan trọng mấu chốt. Quốc lộ số 9 chạy giữa hai tuyến này, nối liền Lào với bờ biển Việt Nam... .Có lẽ trong lịch sử đã từng diễn ra một kiểu " hội nghị Géneve thời nhà Trần" kéo dài, trong đó, giống như trường hợp đường 9, yếu tố quyết liệt được đặt lên bàn thương lượng giữa hai bên chính là đèo Hải Vân, ngọn đèo có vai trò chiến lược quyết định mà sau này, Dương Văn An trong sách Ô Châu cận lục đã đánh giá là "bền vững như chiếc khóa vàng, chính là nơi đầu não của miền Thuận Quảng"(2)

Hiển nhiên, không có chỉ dẫn sử học nào cho biết về một kiểu hội nghị nào như trên cả và tôi cũng không phải là nhà sử học.Đây là câu chuyện cao đàm khoát luận giũa Phùng Quán và tôi trong một buổi sáng mây bay ngồi uống rượu trên đèo Hải Vân; Quán mải say sưa về "tầm nhìn chiến lược" của nhà Trần; còn tôi thì cảm khái về cái giá sự hy sinh của Công Chúa Huyền Trân, " vì lợi cho dân- tình đem lại mà cân" truyền tụng trong câu ca Huế.

Dân ca Huế còn có bài "Lý Qua Đèo" rất nổi tiếng. Sao đang trên sông nước êm đềm giữa kinh thành, người ta lại nghĩ chuyện "qua đèo"? Đèo nào vậy? Và ngay dưới chân đèo mở vào đất Quảng là Nam Ô tức là phía nam "Châu ô"'?(1). Nếu vậy rõ ràng đây là lời thề khẳng định biên giới nhằm vào mốc chiến lược Hải Vân của người Việt thời Trần, giống như núi Thạch Bi (Phú Yên) thời Lê Thánh Tôn với dòng chữ "Chiêm Thành quá thử, binh bại quốc vong"(2) khắc trên bia đá.

Nhà Hồ mở rộng thêm đất Chiêm Động (Quảng Ngãi), lập thành bốn châu mới là: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa - di dân từ Thuận Hóa vào đất mới; ai đến châu nào phải khắc tên ở châu ấy vào cánh tay, hàm ý phải giữ đất tới cùng. Để bám trụ trên mảnh đất từ nay sẽ giữ chức năng bàn đạp cho cuộc hành trình Nam tiến lâu dài, Nhà Hồ có chính sách cấp trâu cho di dân và ban phẩm tước cho người nào có trâu đêm nộp cho nhà nước (tôi liên tưởng đến tiểu thuyết Con trâu của nhà văn Nguyễn Văn Bổng). Cuộc chiến đấu sống còn của người Việt trên vùng đất phía Nam đèo Hải Vân đã diễn ra quyết liệt trong nhiều thế kỷ sau đó, sử sách đã ghi chép.

Vùng đất nước phía nam đèo Hải Vân tên gọi là Quảng Nam; đã từ xưa nổi tiếng về sản vật quý lạ. Đảo Đại Chiêm có tổ yến, nguồn Thu Bồn có quế, nguồn Chiên Đàn có mật ong, núi Thiết Khoáng có mỏ sắt, núi Bồng Miêu có mỏ vàng, núi Đức Bố có mỏ đồng, Nông Sơn co mỏ than, núi Ngũ Hành có cẩm thạch, núi Sơn Trà tương truyền có ngọc,"đêm đến thường chiếu sáng xuống biển " ( Đại Nam nhất thống chí ). Tất nhiên có sa khoáng, loại đá rắn người Chàm dùng tạc tượng, khắc bia, nghìn năm không mòn. Đặc biệt là vàng, sông suối núi non nào cũng sản sinh, làm nên sức giàu có kỳ lạ của vương quốc Chiêm Thành và vương triều của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong ngày xưa. "Trà tế cũng như Trà Nô là những ngọn núi có kim khí rất vượng, thường có một đường từ trong đất đi xiên xéo ra, khí vàng bốc lên trên, cũng có đường đi thẳng, đường đi qua núi khác" ( Lê Quý Đôn – Phủ Biên tạp lục).Sách Ô châu cận lục nói về mối liên hệ giữa sản vật và con người, nhắc lại bài viết của Hàn Dũ, rằng "kể cả thứ bạch kim, đan sa, thủy ngân và thạch anh, rồi có những bậc trung tín, tài đức sản sinh ở địa phương, đều không đáng lấy làm lạ". Sách nói trên của Dương Văn An bàn thêm rằng "các khí linh chu lưu khắp vũ trụ, nhỏ thì phát tiết ra vạn vật, lớn thì hun đúc thành nhân tài. Sản vật đá quý nhân thì tài tất phải hay".

Nghĩ về thuyết "địa linh nhân kiệt" của người xưa, bảo rằng đúng thì tôi không dám tin, nhưng bảo rằng không đúng tôi quả cũng không dám tin. Thế nhưng mối tương quan giữa nết - đất và tính người, giữa mảnh đất và con người, là một thực tế thể hiện rất rõ ở nhiều vùng đất nước.

Trên những gềnh đá sát biển phía Nam đèo Hải Vân lên tận núi Ngũ Hành, mọc tràn một loại cây lạ, thấy nói là thủy tổ của loài xương rồng lá dài đan võng. Cây thuộc họ Lô hội, tên khoa học là Aloedichotoma vì thân và cành cứ chia đi, gốc thành hai thân, thân hai cành, cành hai nhánh, mỗi nhánh lại tiếp tục chia đôi. Tôi lên Ngũ Hành Sơn, sửng sốt nhìn cây, như nhìn thấy dáng một con người buộc phải lựa chọn " hoặc là... hoặc là...". Vâng, một dáng người rất Sếch-xpia, vững, cao, thẳng tấp, luôn luôn bị đẩy và thế chọn lựa "tồn tại hay không tồn tại " ( to be or not to be ), và không còn cách nào khác.

Nhìn lại lịch sử giữ nước thời cận đại đến nay, với cuộc kháng chiến oanh liệt của Nguyễn Duy Hiệu, Trần Cao Vân, Thái Phiên..., "Quảng Nam đã trở thành một trong những ngọn cờ của cả nước đấu tranh chống xâm lược"(1). Và nếu có thể truy tặng cho " Quá khứ", tôi nghĩ rằng Quảng Nam thêm một lần nữa, nhận tám chữ vàng quang vinh cho thế kỷ trước: "Trung Dũng Kiên Cường - Đi Đầu Diệt Pháp".

Tôi nhớ câu thơ chất ngất hào khí của Thu Bồn, đã trở thành khẩu hiệu xuống đường của sinh viên thời chống Mỹ.

Cho con biển rộng sông dài
Cho con lưỡi kiếm đã mài ngàn năm.

Đúng thế, Tổ quốc đã trao cho Quảng Nam một cửa biển và một thanh kiếm. Cầm lưỡi gươm thân phụ truyền, sáu bảy trăm năm đứng tấn nơi hải khẩu chiến lược, người Quảng Nam chưa bao giờ thiếu sót trong bản lĩnh bảo vệ Tổ quốc. Trên từng dòng quốc sử, đấy là điều khẳng định.

LSB_Lãng Tử
30-10-2006, 13:09
TƯỢNG ĐÀI CHỮ QUỐC NGỮ

Đầu thế kỷ XVII các giáo sĩ người Âu bắt đầu chính thức đến truyền đạo ở Việt Nam. Địa điểm họ muốn đặt chân đến đầu tiên là Hội An lúc bấy giờ họ thường biết dưới cái tên Hoài phố, Hải phố hay Hai phố mà họ đọc theo nhiều giọng Haifo, Haito, nhưng thông dụng nhất là Faifo. Họ chọn Hội An vì đây là thương cảng nổi tiếng ở Đàng trong, tàu bè ngoại quốc đi lại buôn bán tấp nập, thuyền Bồ Đào Nha thường xuyên đến giao dịch mà giáo đoàn Bồ Đào Nha chủ quản vùng truyền đạo Đông á thì đương đóng ở Macao đi lại rất thuận tiện, hơn nữa ở Hội An đã có sẵn một số người Nhật theo ki tô giáo có thể giúp họ làm đầu cầu tiến về các miền khác. Nhưng chiếc tàu buôn Bồ Đào Nha từ Macao đến Đàng Trong chở theo phái độ đầu tiên gồm ba tu sĩ Dòng Tên do linh mục Francesco Buzomi dẫn đầu lại ghé cửa Hàn ngày 18-1-1615. Thế là các giáo sĩ lại đặt chân đầu tiên lên đất Đà Nẵng mãi mấy tháng sau họ mới đến Hội An. Đàng trong lúc bấy giờ dưới quyền cai trị của chúa Nguyễn Phước Nguyên mà Dinh Trấn Quảng Nam cai quản 3 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn, thì do con cả Chúa là thế tử Nguyễn Phước Kỳ trấn thủ. Dinh Trấn đóng tại Thanh Chiêm (nay thuộc xã Diên Phương, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam) nên thường gọi là Dinh Chiêm hay Dinh Chàm. Đây là cơ quan đầu não hành chính, mọi phép xuất nhập phải được ban bố ở đây. Vì thế các Giáo sĩ phải đến Dinh Chiêm để liên hệ, để cho được việc họ đặt ở đây một cơ sở giao cho linh mục Francisco de Pina cai quản. F. de Pina đến Quảng Nam năm 1967, ông này rất thạo tiếng Việt, là người đầu tiên để tâm nghiên cứu dấu giọng tiếng Việt và ngữ pháp Việt Nam. Chúng ta thường đánh giá cao công tập đại thành chữ Quốc ngữ của Alexandre de Rhodes, nhưng người có công tiên khởi ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự La tinh lại là F.de Pina. Pina là thầy dạy tiếng Việt của Alexandre de Rhodes và nhiều linh mục khác ở tại Thanh Chiêm. Thế nên ta có xem Thanh Chiêm như có một trường dạy chữ Quốc Ngữ đầu tiên ở Việt Nam, và Hội An - Đà Nẵng - Thanh Chiêm đã có vinh dự là miền đất khai sinh chữ quốc Ngữ.

Nói đúng ra các Giáo sĩ tạo lập chữ Quốc ngữ theo mẫu tự a.b.c không phải người Việt Nam, cũng chẳng phải là công cụ để họ truyền giáo. Công cụ truyền giáo chính là tiếng Việt, tiếng bản xứ, chữ Quốc ngữ chẳng qua là lối ký âm để giúp họ học tiếng Việt cho mau chóng. Muốn cứu vớt linh hồn của một dân tộc làm cho họ trở lại Đạo như cách nói của các Giáo sĩ thì họ buộc phải nói được tiếng bản xứ. Điều này hơn ai hết Alexandre de Rhodes biết rất rõ hiệu quả của cách làm này : "Tôi cả quyết rằng hiệu quả của việc trình bày các màu nhiệm trong ngôn ngữ của họ thì vô cùng lớn lao hơn khi giảng bằng thông ngôn: thông ngôn chỉ nói điều mình dịch chứ không sao nói với hiệu lực của lời nói từ miệng nhà truyền đạo có thánh thần ban sinh khí" (Hành trình và truyền giáo - UBĐKCG thành phố Hồ chí Minh, 1994, tr. 56). Như vậy chữ Quốc ngữ được họ tạo ra chỉ là một phương tiện để họ nhanh chóng tiếp cận công cụ là tiếng Việt. Phương chi lúc bấy giờ văn tự được dùng chính thức là chữ Hán, thứ đến là chữ Nôm, muốn truyền Giáo, muốn phổ biến kinh sách cho giới trí thức thì phương tiện nhanh chóng nhất là chữ Nôm hoặc ít ra cũng là chữ Hán, chữ quốc ngữ đã ai biết mà dùng, muốn dùng được cũng phải đợi một thời gian dài. Đó là con đường Maionca đã chọn với gần 40 tác phẩm bằng chữ Nôm. Thế nên có thể nói rằng chữ Quốc ngữ ở buổi sơ khai chỉ là phương tiện, mà phương tiện thì tùy theo tính cách, mục đích người sử dụng mà tốt hoặc xấu. Vì vậy mà ngày nay chữ Quốc ngữ có thể đi cùng dân tộc trở thành văn tự chính thức của nước nhà đem lại nhiều ơn ích cho dân ta, điều đó khiến ta không tưởng nhớ đến công lao những người đã tạo ra nó và không thể không kỷ niệm nơi họ đã sống để khai sinh chữ Quốc ngữ cụ thể là, theo thiển nghĩ của chúng tôi, nên có một tượng đài kỷ niệm chữ Quốc ngữ đặt ở nơi đã có vinh hạnh đón nó chào đời.

Nơi đó thiết tưởng không đâu có ý nghĩa và thuận tiên hơn Thanh Chiêm. Vì sao vậy?

Về mặt địa lý, Thanh Chiêm đã từng Dinh trấn của các tỉnh phía nam Đàng trong, cũng từng là tỉnh thành của Quảng Nam từ 1803 đến 1833, từng là phủ trị của huyện Điện Bàn. Thanh Chiêm là cửa ngõ của Hội An, Đà Nẵng kể từ phía Nam ra.

Về mặt văn hóa, Thanh Chiêm đã là nơi đặt Văn Miếu (1825) biểu tượng cho sự sùng bái học vấn của cả tỉnh, nơi lập đàn Tiên Nông, nơi làm Lễ Tịch điền để cổ xúy cho nền nông nghiệp tỉnh nhà. Vinh danh hơn nữa Thanh Chiêm đã từng là nơi thiết lập nhà Tỉnh học với những Đốc Học lừng danh như Nguyễn Dục từng làm Quốc Tử Giám Tế tửu, lễ bộ Hữu Tham tri sung Dục Đức Đường Giáo thọ, Nguyễn Đình Tựu lãnh Quốc Tử giám tế tửu, thăng Hồng Lô Tự Khanh, hai lần làm Đốc học Quảng Nam, Trần Đình Phong bậc thầy của Ngũ Phụng Tề Phi đồng khoa Mậu Tuất 1898.

Về mặt du lịch, Thanh Chiêm là điểm tham quan nối dài của Hội An. Thanh Chiêm sẽ là thị trấn vệ tinh của Hội An. Với số lượng du khách càng ngày càng đông Hội An cần phải mở rộng vành đai của mình. Một tượng đài chữ Quốc ngữ nằm ở Thanh Chiêm cùng một bảo tàng thời chữ quốc ngữ sơ khai sẽ khiến du khách thích thú dừng chân theo kiểu vừa du ngoạn vừa mở mang kiến thức, thêm vào đó nếu những di tích đã nêu ở trên được trùng tu, cùng với sự triển khai những lễ hội như lễ cày Tịch điền... có thể tăng thêm phần hấp dẫn đối với du khách.

Về mặt kinh tế, Tượng đài chữ quốc ngữ Thanh chiêm sẽ là tiền đề sự phát triển kinh tế vùng Điện Phương, mì Phú Triêm một thời vang bóng với những quán mì liền nhau, sầm uất đến cả cột kèo cũng vàng ánh lên theo sắc mì chắc có cơ hưng thịnh trở lại và biết đâu chẳng có một phố mì từ Phú Triêm kéo lên quốc lộ l, bởi ngày nay du khách từ Hội An đi tiếp Mỹ Sơn thích đi băng hương lộ Điện Phương hơn là ngược dòng Vĩnh Điện. Bê thui Cầu Mống, dưa hấu Đông Khương, đồ đồng Phước Kiệu đã được du khách chiếu cố từ lâu nay lai càng khởi sắc hơn.

Mong rằng một ngày nào đó tượng Đài chữ Quốc ngữ Thanh Chiêm sẽ mở rộng vòng tay đón chào du khách cùng với nụ cười rạng rỡ của người dân miền đất khai sinh chữ Quốc Ngữ.

LSB_Lãng Tử
30-10-2006, 13:12
Cái dễ thương của đồng dao Quảng Nam

Trên đường vào Nam, tổ tiên chúng ta đã mang theo bài hát trò chơi, trò diễn..., cùng lúc, có những sáng tạo mới về đời sống tinh thần, về công việc lao động ở vùng đất mới này.

Đi theo ông bà, cha mẹ, trí nhớ của con nít - ở những lứa tuổi từ 6 - 7 tuổi đến 11-12 tuổi, vẫn gắn bó với Chào con rắn, Ma gia đuổi bắt, Đánh nẻ, Đập chuồn chuồn, Gọi nghé, Cù cưa cút kít.

Dừng chân ở đất Quảng Nam, người lớn sáng tác cho con nít. Con nít thay đổi, thêm bớt vốn liếng đồng dao và sáng tác, làm giàu có thêm cái kho tàng chơi hát-học-vui của mình.

Đồng dao là thể loại ca hát hồn nhiên, bình dị, mà em bé nào cũng biết và yêu thích. Con nít yêu đồng dao như yêu cảnh thiên nhiên của đồng quê, yêu ánh nắng chan hòa làm rực rỡ thêm cảnh sắc thiên nhiên. Đồng dao làm cho tâm hồn các em thêm đẹp, thêm tươi.

Mỗi người chúng ta khi nhớ lại tuổi thơ của mình với bao kỷ niệm êm đẹp, chắc hẳn không ai quên được kỷ niệm về những câu hát ấy. Ngày ấy, ta thường mượn câu hát, câu vè để diễn đạt suy nghĩ của mình.Tại sao lại như vậy nhỉ ? Có lẽ vì những câu hát ấy thật dễ hiểu, thật ngộ nghĩnh đối với tuổi thơ.

Có hai cô bé rủ nhau đi học cùng đường, ai cũng muốn cho là đi đường mình thì thích hơn. Thế là có câu hát để dọa nhau :

Tau đi ngõ ni có hương có hoa
Mi đi ngõ nớ có ma đón đường!

Cô bạn kia chẳng chịu thua kém, khi trả lời lại :

Tau đi ngõ ni có bụi tùm hum
Mi đi ngõ nớ có hùm chụp mi!

Hai đứa đi hai ngả. Chẳng đứa nào gặp ma, gặp hùm. Nhưng, nếu lần sau có diễn lại cảnh này, thì những câu hát trên vẫn được lặp lại một cách hào hứng như chưa từng hát bao giờ. Có lẽ đây cũng chính là một đặc điểm của thể loại. Các em có thể hát đi hát lại hàng trăm lần chỉ một câu đó mà không thấy nhàm chán. Cách ví von, lối nói có vần điệu đã gây được hứng thú khi các em hát những câu ấy.

Các em đứng vòng quanh, chơi - hát Phủi tóc bạn, hát nói :

Đầu đứa mô có rơm có rác
Kêu tau bằng bác, tau phủi đầu cho
Kêu tau bằng o, tau cho cái này.

Vừa vỗ tay vừa nhảy tưng tưng theo câu hát, hát đi hát lại nhiều lần. Và, "tau cho cái này", có nghĩa là cho một quả thụi đáng yêu vào mạng sườn hoặc lưng bạn. Đôi khi, muốn hát - chơi bài này, một em nào đó đã cố ý kín đáo cho một cộng rơm hoặc một chiếc lá lên đầu tóc bạn mình, để cả nhóm nhảy vòng quanh bạn vô ý đó như một trò chơi thú vị.

Mùa hè, ở rừng, nhận ra khu nào lắm ve ve, tối đến, các em rủ nhau đi bắt ve ve, rang ăn. Đợi thiệt tối, các em nhóm một đống lá khô, châm lửa, xúm xít ngồi chồm hổm quây hình vòng tròn, vỗ tay vào miệng thành tiếng oa oa òa òa, rồi hát nói từng âm.

Các em dùng vòm miệng như một hộp cộng hưởng. Những tiếng oa oa òa òa, tiếng hát rung lên dập dồn, lung linh - âm điệu và màu âm là lạ, mơ hồ. ánh sáng lôi cuốn, hấp dẫn.

Oa oa òa òa
Oa oa òa òa
Hu hu ve ve
Xuống đây mà nghe
Ăn xôi, ăn chè
Ăn mít, ăn me
Không xuống không nghe
Tau đánh mi què
Tau ví chạy re
Oa oa òa òa, oa oa òa òa

Từng đôi em một, ngồi bệt trên đất. Tay nắm tay, bàn chân chỏi vào nhau, hát - chơi :

Cù cưa kút kít
Con nít rúc ra
Ông già rúc vô
Cù cưa kút kít
Con nít may ra
Bà già may vô
Cù cưa kít kít
Ăn ít no lâu
Ăn nhiều tức bụng
Cù cưa kút kít
Con nít nhà ai
Thì về nhà nấy.

Nhưng, chưa ai vội về nhà nấy được. Có bạn nào đó, do bụng bị ép vào đẩy ra đã té tủm. Một em vừa hát vừa chỉ vào từng bạn :

Xù xì xụt xịt
ốc mít lùi tro
Ăn no té tủm
Ba ông quan chánh
Xúm đánh phèn la
Biểu phải chỉ ra
Đứa mô té tủm ?
Đứa mô té tủm ?

Đồng dao thế giới không có câu hát này.

ở nhà quê, trẻ em yêu thương con nghé. Từ Bắc vào Nam, nhiều câu hát gọi nghé. Con nít Quảng Nam gọi nghé :

Huê...huê...
Huê con nghé nhỏ
Lạc đàn theo chó
Lạc ngõ theo trâu
Nghe mẹ rống đâu
Đâm đầu mà nhảy
Huê...huê...
Huê...huê...
Huê con nghé nhỏ
Ham cỏ bỏ bầy
Huê con nghé nhỏ
Ham chơi xa đàn lạc mẹ
Huê...huê...

Có thể nghe thấy ở đồng dao chất liệu hò khoan trộn chút ít vè hơi oán, hô thai và cái chất của lý tươi sáng, hóm hỉnh ở sắc bùa.

Con nít ở nhà quê chơi- hát-học-vui nhiều.

Còn gì thú vị bằng một buổi sáng đẹp trời, các em vắt vẻo trên lưng trâu, dong chúng ra đồng. Đàn trâu được thả trên một bãi cỏ xanh mượt, mải mê gặm cỏ. Còn các em, lúc này hoàn toàn thảnh thơi, tụ tập nhau lại một góc bãi cỏ, chơi trò chưng cộ.

Trò chơi-hát này như sau : một lớp ngồi dưới cầm tay nhau xếp thành vòng tròn, rối nhiều lớp nữa cũng cầm tay nhau, ngồi chồng lên vai lớp dưới, cùng hô "dố dậy", tất cả đều đứng lên thành trụ cao, vừa đi vòng tròn, vừa hát.

Đồng dao này có hai khúc : một khúc thiết thực nói về trẻ chăn trâu với mùa màng, một khúc kể những vật thường thức ở nông thôn.

Khúc I :

Dố dậy, dố dậy
Cây gậy bốn phương
Ra đường mạnh mẽ
Bầy trẻ chăn trâu
Bay lâu thẳng cánh
Nó mạnh như sên
Đi trên mặt nước
Đi trước đón rồng
ông đi có cồng
Bà đi có mõ
Trên trời nghe rõ
Làm gió làm mưa
Làm mùa bát ngoạt
Dố dậy, dố dậy!

Khúc II :

Trời mưa lâm dâm
Cây trâm có trái
Con gái có duyên
Đồng tiền có lỗ
Bánh tổ thì ngon
Bánh hòn thì béo
Cái kéo thợ may
Cái cày làm ruộng
Cái xuồng đắp bờ
Cái lờ thả cá
Cái ná bắn chim
Cây kim may áo
Cái giáo đi săn
Cái khăn bịt đầu.

Hát hết khúc này, trở lại đoạn đầu, bắt vào câu "bầy trẻ chăn trâu...". Cứ như thế mà hát mà quay tít vòng tròn cho đến khi nào cộ đổ

Đồng dao "hỏi tuổi" về 12 con giáp diễn ra như một hoạt cảnh. Các em ngồi vòng tròn, mỗi em sẽ là một con vật trong đồng dao, khi được hỏi đến, phải bắt chước động tác của con vật ấy, đi, bò, hoặc nhảy vòng quanh về chỗ cũ của mình.

Một em chỉ vào một bạn, hỏi : - Tuổi Tí con chi?

Trả lời : - Tuổi Tí cho chuột.

Các em hỏi : - Con chuột nó kêu làm sao?

Trả lời : - Nó kêu chút chít

(đóng vai con chuột, vừa bò vừa kêu chút chít).

Các em nói :

- Chút chít chi mày
Tau chặt khúc đầu
Tau thầu khúc giữa
Tau bửa lấy xương
Làm rường làm cột
Tau lột lấy da
Bỏ sông Ngân Hà
Còn chi chút chít !

Các em hỏi một bạn khác : - Tuổi Sửu con chi ?

Trả lời : - Tuổi Sửu con trâu.

Các em hỏi : - Con trâu nó kêu làm sao?

Trả lời : - Nó kêu ngá ngạ.

(đóng vai con trâu, khệnh khạng đi, dương đôi sừng).

Các em nói : - Ngá ngạ chi mày...

Cứ như thế, hát-nói hỏi, trả lời đóng vai con vật, cho đến con heo, mỗi con phải có tiếng kêu riêng. Con rồng kêu "rống rộng" con rắn kêu "rắn rặn" thì thật lạ và rõ là con nít !

Câu hát đố nói đúng, phát âm đúng, cho dẻo miệng :

- Ông ống nồi lội qua sông
Đóng cáí gông vào mông đít
Tròng trà tròng trành
Trâu trèo trâu trợt
Thậm thà thậm thụt
Trò trụt trò trìa
Trâu tra làm trúc bụi tre
Trách trời trơn trợt, xa trò mấy trăng
Ăn ngày ba bữa
Tắm rửa ba lần
Sạch sẽ toàn thân
mà răng ngứa xót, ngứa xót

-Nhà bà Đỏ có nuôi con gà mái đen nhảy ổ
Bà Đỏ sao không lót ổ cho con gà mái đen bà Đó đẻ.

- Cầm cây rựa quéo trèo lên hòn núi quẹo
đốn cây củi queo
đem vềnấu cám heo.

Sinh hoạt vui chơi là môi trường của trẻ em. Trong dạng sinh hoạt chơi-hát-học-vui, đồng dao luôn gắn với các trò chơi, các lối chơi. Chỉ thông qua trò chơi, đồng dao mới có điều kiện phổ biến và lưu truyền.

Nhưng, ngay trong sinh hoạt vui chơi ấy của các em, chúng ta vẫn thấy hiện lên cái bản chất xã hội của nó. Nói một cách khác, mỗi đồng dao "bài hát-trò chơi" của các em đều nhằm mục đích rèn luyện và giáo dục các em trở thành những thành viên xã hội thật sự trong tương lai.

Chọn ngõ, Phủi tóc bạn, Xù xì xụt xịt thể hiện tình bạn, Hu hu ve ve, Họa bù rầy đùng là trò chơi có ích, ông trùm Dé ơi, Đố tuổi rèn luyện trí thông minh, Cù cưa kút kít, Dố dậy, dố dậy rèn luyện thể lực tính nhanh nhẹn, Tau đố bay ăn, ăn cháo quỵt phê phán chế nhạo cái chướng tai gai mắt; Hò nghé ngơ, Người và trâu ở đợ, Dỗ sáo ăn mồi giáo dục lòng thương yêu con vật gắn bó với cuộc sống của thế giới trẻ thơ : con sáo, con gà, con mèo...,những gia súc gần gũi: con nghé, con trâu..., lòng bác ái trong con người Việt Nam.

Qua cái dễ thương của đồng dao đất Quảng Nam, chúng ta nhận ra, trong chơi-hát-học-vui cho con nít, cha ông ta đã dành một khoảng lớn cho sự tự sáng tạo của con nít, sáng tạo theo suy nghĩ, nhận thức và phương pháp của chúng. Chúng ta thấy con nít thích thú những bài, câu, đoạn, mà theo lôgíc của chúng là linh tinh, hay chí ít, cũng chẳng có ý nghĩa gì. Nhưng, chính những bài ta có khi theo lôgíc "nhảy cóc" như vậy lại đáp ứng yêu cầu tập cho dẻo miệng như kiểu "tròng trà tròng trành trâu trèo trâu trụt", đáp ứng yêu cầu "đặt vè bẻ vần" , "bẻ làn nắn điệu" của các em.

Đồng dao cổ truyền bao giờ cũng mang tải một cơ chế nhạc đậm đà màu sắc và tính chất dân tộc. Con nít tiếp nhận và hát-múa-chơi-học đồng dao như một bộ mã di truyền của dân tộc.

Cơ chế âm nhạc này lại được đưa vào một kết cấu phức tạp với các yếu tố cũng mang bản sắc dân tộc, như trò chơi, điệu nhảy, trò vui, đố học, khiến con nít rất thích thú, và lại còn dành cơ hội cho trẻ em, kích thích chúng sáng tạo thêm.

Trong xã hội xưa, đồng dao là bài học vỡ lòng về âm nhạc, vỡ lòng với ý nghĩa là những bài học đầu tiên trong cuộc đời, nhưng cũng là những bài tập sáng tạo âm nhạc dân tộc đầu tiên. Từ tuổi sơ sinh tới lúc lên ba, lên năm, con nít chỉ được tiếp thụ âm nhạc dân tộc một cách thụ động qua hát ru của người lớn. Chỉ với đồng dao, trẻ em mới bắt đầu tự mình ca hát, nhảy múa, chơi, học và sáng tạo. Nên hiểu rằng, khái niệm "âm nhạc cho trẻ em" bao gồm cả hai thể loại bài hát là hát ru và hát tré em.

Một nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa cho rằng : "Mỗi dân tộc mang vào trò chơi những đặc tính trong cách suy nghĩ mà dân tộc đó vốn có. Có biết bao nhiêu trò chơi mà con người đã nghĩ ra, đếm không xuể. Cũng như dân ca, truyện cổ tích, chúng rất nhiều, rất nhiều. Các trò chơi, cũng như con người, sống, yêu và chết. Rồi chúng tái sinh".

Dạy đồng dao cho trẻ là dạy các em chơi-hát-múa-học, dạy tiếng Việt cho trẻ. Riêng vốn từ, trẻ em có dịp nắm vững những từ thuần Việt, nghĩa là những từ làm nên bộ phận nòng cốt của tiếng Việt, chúng vốn có từ lâu đời, và có sức sống mãnh liệt. Cho nên, dù đời sống hôm nay đổi mới thế nào, con cháu chúng ta cũng cần biết để góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc như NQ TW5 (khóa VIII) đã xác định rõ.




HÁT SẮC BÙA NGÀY XUÂN


Đời sống mới việc gì cũng mới
Ngày tân xuân công việc thêm xuân
Theo lệ xưa phép điệu có chừng
Tam tiết nhựt vui xuân đều khắp"
(Bài chúc xuân)

Mỗi khi tết đến, xuân về, mai vàng nở rộ, đội hát sắc bùa làng Lệ Trạch, nay gọi là Lệ Bắc, thuộc xã Duy Châu, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam lại cất tiếng hát, giữa tiếng trống vỗ, hòa cùng âm điệu rộn ràng từ các bộ sinh tiền, bộ phách tre... đem lại không khí sôi nổi, đông vui. Còn trẻ em thì cứ bu quanh, kéo thành rồng, thành rắn, lố nhố giữa đêm xuân đèn đuốc sáng trưng khắp mọi nẻo đường. Đó là hình ảnh quen thuộc ở làng Lệ Trạch hơn hai mươi năm nay kể từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.

Hát sắc bùa là loại hình sinh hoạt văn nghệ dân gian có tính chất lễ nghi nông nghiệp pha tạp với pháp thuật đạo giáo chủ yếu diễn ra vào dịp Tết Nguyên đán hàng năm ở hầu hết các tỉnh từ Bắc vào Nam. Riêng ở làng Lệ Trạch, một làng quê nghèo khó nằm ven sông Thu Bồn, theo ước tính, hát sắc bùa hình thành muộn nhất cũng vào đầu thế kỷ XIX. Một nghệ sĩ chân đất hát sắc bùa có tiếng của làng, ông Trương Tích, năm nay đã 74 tuổi, cho biết đời ông cố của ông, tức ông Trương Văn Hiếu đă hát rồi. Thời ấy, dàn nhạc của đội hát sắc bùa ngoài trống cơm còn có trống sấm, đờn cò, kèn tiểu và bộ phách tre. Do nhạc cụ khá cồng kềnh nên hễ đội vào nhà nào nhà nấy đều đem chiếc chiếu đã chuẩn bị sẵn trải ra ngay giữa nhà để mọi người ngồi quanh vừa chơi nhạc vừa hát. Những bài hát sắc bùa xưa thường có nhiều từ cổ, từ Hán việt, Hán Nôm không phải dễ hiểu đối với mọi người. Thế nhưng chuyện ấy chẳng quan trọng. Chủ yếu người hát có hay hay không mới thành vấn đề. Hát sắc bùa thường phải tuân theo hệ thống các tiết mục, làn điệu. Đầu tiên đến ngõ hát bài mở ngõ :

" ...Nhứt khai thiên môn thiên môn lộ
Nhì khai địa lộ địa lộ thường
Tam trấc quỷ /ộ quỷ lộ khứ
Tứ độ tứ độ nhơn dân an..."

Ngày xưa, ở vùng nông thôn Quảng Nam, nhà cửa hầu hết đều tranh tre sơ sài. Nhà xây, nhà ngói là... của hiếm, cả làng giỏi lắm được một, hai nhà. Là nhà tranh tre, cửa trước thường là cửa chống, mở cửa người ta dùng đoạn tre để sẵn bên hông cửa chống lên. Lúc đóng, một tay giữ cửa, một tay rút cây, từ từ hạ xuống là xong. Nhiều nhà tết thấy đội hát sắc bùa ghé nhà mình liền chơi..."cắc cớ" là đóng chặt cửa dù cả đội đã đứng đầy trước sân, đèn đuốc sáng trưng. Không phải họ không muốn đội đến hát giúp vui mà kỳ thực là thử đội có tài hát bài chống cửa hay không. Tất nhiên trong những tình huống này, đội sắc bùa đã chuẩn bị sẵn :

"Mở ngõ đà đặng chân bước vào đây
Giả ơn trước chủ sau thầy
Có ham vui thì chống cửa này
Khai môn mở cửa
Chống cửa chống cửa
Nhà mở có lửa
Mở thắp đèn ra
Chúng tôí ở xa
Đi chơi năm mới..."

Một trong những nội dung không thể thiếu được đối với việc hát sắc bùa thời trước là dán bùa hay còn gọi là trấn bùa cho gia chủ. Bùa thực ra chỉ là mảnh giấy nhỏ do đội sắc bùa chuẩn bị sẵn, trên đó họ vẽ ngoằn ngoèo sao cho càng "bí hiểm" càng tốt. Còn bài hát dán bùa cũng không kém phần huyễn hoặc, phi thực tế.

"Đầu độí giáp ất, chân đạp bính đinh
Đứng giữa tiền đình hét một tiếng
Tà ma yêu quái tiêu tán.
Ta rèn hiệu khí vâng lệnh Ngọc Hoàng
Gầm một tiếng đã vang
Hét một tiếng nghiêng trời chuyển đất..."

Sau bài dán bùa và dán bùa, đội hát sắc bùa hát chúc mừng năm mới cho gia chủ. Tùy theo nghề nghiệp của gia chủ, đội sẽ chọn bài hát về nghề nông, dệt vải hay chài lưới trên sông... Điều không nói ra nhưng ai cũng biết là nội dung bài hát toàn những chuyện tốt đẹp, đáng ước mơ : Người làm nông thì được mùa, nhà cửa lúc nào cũng đầy ắp lúa khoai; Thợ dệt vải, vải đắt hàng, tiền vào rủng rẻng trong túi; Dân chài đánh cá ngày nào cũng được nhiều...Ngoài ra, theo yêu cầu của gia chủ, đội hát sắc bùa có thể hát thêm một số bài góp vui như bài đá gà, bài dạy con...Và, giàu nghèo cũng ba ngày tết nên đến nhà nào, đội không những được tiếp đón tử tế, niềm nở mà còn được mời trà rượu đầu xuân kèm theo thủ tục biếu ít tiền gọi là trả tí công sức. Số tiền này không nhất định, tùy vào lòng hảo tâm của gia chủ. Tuy nhiên, những nhà khá giả có thể cho "nằng nặng" một chút. Nhà nghèo, thôi thì... của ít lòng nhiều. Thật ra, đội sắc bùa hát tết là hát cho vui xóm, vui làng. Còn tiền nong không đặt nặng. Rồi, khi đi ra, sang nhà khác, đội hát bài đi ra, nội dung chúc gia chủ một năm mới an khang, thịnh vượng hơn năm... cũ !

Từ năm 1945 đến năm 1975, cuộc kháng chiến chống Pháp rồi chống Mỹ diễn ra ác liệt. Đội hát sắc bùa làng Lệ Trạch không còn hoạt động nữa. Mãi đến năm 1978, đúng 33 năm bị gián đoạn, ông Trương Tích và một số nghệ sĩ chân đất mê hát sắc bùa ở làng mới lập lại đội hát sắc bùa để hát góp vui trong ba ngày tết cổ truyền. Bây giờ, nhạc cụ chỉ có trống cơm, sinh tiền và phách. Các bài hát sắc bùa cũng được đổi mới, phù hợp với tình hình thực tế. Như bài "chúc xuân" chẳng hạn :

"...Ngày xuân đến tiết xuân thời
Cảnh người sắc đẹp vui vầy vẻ vang
Nhìn xem phong cảnh mỹ quan
Vườn lê phụng múa song lan hạc chầu
Cửa nhà trang bị oai nghi
Đường thời tráng lệ kịp thời phong thơ..."

Việc dán bùa trong hát sắc bùa xưa được thay vào đó là tiết mục dán cờ. Nói là vậy nhưng trong ba ngày tết ai không treo cờ sẵn. Cho nên, cũng hiếm người yêu cầu tiết mục này. Nhưng, xét cho cùng, những chuyện ấy chẳng quan trọng khi đội còn nhiều bài hát hay hơn, hấp dẫn hơn sẵn sàng phục vụ bà con trong những ngày đầu năm mới thiêng liêng, trang trọng.

LSB_Lãng Tử
30-10-2006, 13:18
LỄ HỘI BÀ THU BỒN

Làng Thu Bồn thuộc xã Duy Thu, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam có lăng thờ một nữ thần phù hộ cho những người sống nghề sông nước, gọi là Lăng Bà Thu Bồn.

Thu Bồn là một trong những dòng sông lớn của miền Trung Việt Nam. Cách đây hai ngàn năm, người Sa Huỳnh và sau đó là các Vương triều Champa đã dể lại những dấu vết đặc sắc của một nền văn minh rực rỡ, dọc theo hai bên bờ sông, từ Cửa Đại cho đến thượng nguồn.

Ngày 12 tháng 2 âm lịch hằng năm là ngày lễ Bà Thu Bồn. Trước đây, các làng chài từ Thừa Thiên - Huế đến Quảng Ngãi, Bình Định đều cử những đội đua ghe về tham gia lễ hội. Lễ hội kéo dài 3 ngày đêm với nhiều nghi thức phong phú, sôi động.

Lăng Bà tuy đã mang nhiều nét hoang phế bởi thời gian, nhưng dân làng Thu Bồn vẫn một lòng thành kính trước uy linh của Bà. Người già kể rằng : "Hồi xưa, Bà thiêng lắm ! ". Có người làng đến xin Bà cứu một người đẻ khó, Bà nhập vào xác đồng rồi cầm cây đèn cầy chạy băng qua cánh đồng rộng mà đèn vẫn không tắt, đến nơi bà đưa tay vuốt một cái, thai sổ ngay. Lần khác, năm Mậu Thìn (1928), làng Thu Bồn mất mùa, mọi người bàn nhau lễ hội Bà năm ấy làm đơn giản thôi. Đang bàn thì có một con bò đi vào giữa sân rồi nằm xuống, trên sừng có treo một xâu ba ngàn quan tiền. Mọi người biết là Bà cho tiền và lấy tiền tổ chức hội, còn bò thì thả vào rừng. Có người theo dõi thấy bò đi vào khu tháp Mỹ Sơn rồi nằm xuống và hoa thành đá.

Lần sắc phong đầu tiên dưới triều Minh Mạng, Bà Thu Bồn không có tên. Bà nhập đồng ở giữa kinh thành Huế để chất vấn. Quan phụ trách hỏi rằng làm thế nào để tin bà thiêng ? Bà bảo : Sẽ làm cháy chợ Đông Ba ! Một lúc sau có người chạy vào báo chợ đang cháy. Quan xin đừng cháy nữa, lập tức có một trận mưa như trút nước. Tờ sắc phong của triều đình nhà Nguyễn cho Bà Thu Bồn ghi : "Thiên Y A Na diễn phi chu ngọc tôn thần, hộ quốc túy dân, hiển hữu công đức tiết mộng ban cấp tôn thần".

Như vậy, Bà Thu Bồn chính là một nữ thần bảo hộ của người Chàm, và người Việt đã tiếp nhận sự linh thiêng của vị nữ thần này với một niềm tin mạnh mẽ và được duy trì qua các lễ hội thành kính hàng năm.


NÓI LÝ VÀ HÁT LÝ CỦA ĐỒNG BÀO CƠ TU Ở QUẢNG NAM





Tiếng Cơ-tu gọi là paprăbhma, không rõ ai đã dịch ra là nói lý. Theo một số cán bộ Kinh sống lâu năm biết sâu tiếng Cơ-tu thì cho rằng dịch như vậy chưa chính xác, nhưng chúng ta dùng quen miệng, quen tai, ngầm hiểu rằng nói lý không phải là nói lý lẽ, là biện luận dài dòng, bắt bẻ kẻ đối thoại với mình buộc họ phải chấp nhận quan điểm của mình là đúng. Nói lý chỉ là nêu lên một hình ảnh thể hiện được toàn diện và bao quát nhận thức của mình đối với sự việc, không kèm theo lý lẽ, không có phân tích, nhưng lại làm cho người nghe cảm thấy ý kiến của mình là đúng và chấp nhận.

Sau các cuộc họp hội lớn, cuộc họp giải quyết nợ nần, giải quyết tranh chấp đất đai, rừng, suối, thường có giết heo, giết bò, trâu; hoặc sau đám cúng quan trọng, khi rượu đã ngấm ngà ngà, các bên đối thoại thường cất tiếng hát qua lại để bày tỏ bụng gan của mình, nhắn nhau làm đúng lời hứa hẹn. Các đêm có trăng, khi trời trong mát, các chàng trai, cô gái chưa vợ, chưa chồng thường rủ nhau ra chòi rẫy chuyện trò, tìm hiểu nhau, hẹn hò xe tơ kết tóc, hứa giữ tình chung thủy, xây đắp mộng vàng. Họ nói chuyện thủ thỉ tâm tình, và hát những câu hát trữ tình qua tiếng trầm bổng của "đàn môi" (một loại nhạc cụ đồng dài độ 8-10cm, có lưỡi gà mỏng như lá lúa), người hát để đàn môi trên môi, dùng một ngón tay gảy nhẹ, làm cho lưỡi gà rung lên và khéo léo hát vào tiếng rung đó. Không có câu hát sẵn, phải ứng khẩu hát nên vần, nên điệu, phải nêu cho được cái hình ảnh đẹp đẽ nhất, sâu sắc nhất, bộc lộ một cách kín đáo nỗi lòng của mình. Hát như vậy gọi là hát tình ý với nhau của đôi nam nữ (theo tiếng Cơ-tu Bhnooch hoặc Bh'bh'ooch mà ai đó đã dịch ra là hát lý).

Mới nghe qua, chúng ta có thể lầm tưởng rằng nói lý, hát lý của đồng bào Cơ-tu là nói ví dụ, là hát hò khoan theo điệu và kiểu của dân tộc, không đơn giản như vậy. Hình ảnh nêu ra nghe gần gần, xa xa, có nhiều ẩn ý, có chiều sâu về tâm lý và nhận thức, hình ảnh đó quen thuộc với mọi người nhưng lại buộc người nghe phải suy nghĩ để thấy hết mọi khía cạnh của hình ảnh đó. Thật là độc đáo, muốn nói lý, hát lý hay, sâu sắc, trước hết phải hiểu vấn đề nêu ra một cách tường tận. Phải chọn hình ảnh thật chính xác, thật "chết lý" làm cho người nghe không thể vin vào những sơ hở để bắt bẻ hoặc hiểu lầm. Nói một cách khác, người nói lý và hát lý hay, ngoài việc ăn nói lưu loát, nhanh trí tìm ra vần, biết lên bổng xuống trầm đúng lúc, đúng điệu, thì điều cơ bản là phải hiểu cho rành rọt đất nước, tài nguyên, hiểu xã hội, con người đang sống ở vùng đất đó. Nói tên một con suối phải biết đó là con suối cát hay đá, nước trong hay đục, sâu hay cạn, bốn mùa có nước hay chỉ có trong mùa mưa. Biết tường tận như vậy thì khi nghe người hát nêu tên con suối là biết ngay họ nói đến cái tốt, cái trong sạch, cái bền bỉ thủy chung, hay là cái xấu, cái dơ bẩn, cái tạm thời không ổn định. Cây lan biểu hiện sự yêu mến, cây kiền kiền, cây lim biểu hiện tính kiên cường vững chắc. Nêu tên con khỉ là con vật phá hoại mùa màng, phá hoại cuộc sống, phá táo tợn hơn con heo rừng, là kẻ thù của sản xuất, ngoan cố nhất, khó trừng trị nhất.

Nêu lên con người nhịp tạ (một cách đánh thanh la bằng đồng) là nêu lên hình ảnh kẻ nhát gan, run sợ, vì người nhịp tạ giỏi, điêu luyện, có hồn nghệ sĩ, là vừa nhịp tạ, vừa nhớm chân, cúi xuống, ngẩng lên, toàn thân rung lên như tiếng tạ, đó là một hình ảnh kẻ quá sợ hãi, tay run bần bật. Cùng một hình ảnh, nhưng từng vùng, từng lúc ý nghĩa có khác nhau; người có uy tín, ăn nói vững vàng nhưng lại nói, lại hát những điều mới nghe như ngớ ngẩn, vậy phải hiểu sau cái ngớ ngẩn là cái gì, ý đồ của người nói là thế nào. Không tính toán sâu sắc, thì có thể người nói, người hát muốn nói đen ta lại hiểu lầm là trắng, muốn nói phải ta hiểu lầm là trái, họ phản đối ta tưởng họ tán thành. Đó là điều hết sức phức tạp, hết sức khó khăn trong nói lý, hát lý.

Nói chung đồng bào đều biết nói lý, hát lý, biết từ lúc nhỏ, từ lúc gùi được nước uống, biết cầm cán rựa, con dao tham gia làm rẫy. Nhưng nói lý, hát lý sâu xa, nhiều tầng, nhiều lớp, pha lẫn tiếng Cơ-tu và tiếng Kinh, nói lý và hát lý để đả thông tư tưởng, giải quyết được công việc thì mỗi bản, mỗi thôn, mỗi vùng chỉ có một vài người. Nói lý, hát lý xem ra rất khó, nhưng hiểu được nói lý, hát lý càng khó hơn. Người hát lúc cất cao giọng ngân nga, lúc hạ giọng, hát lầm thầm trong cổ họng, có lúc nói chậm từng câu, từng tiếng, có lúc dồn dập, đúng điệu, đúng phong cách.

Hát là phải hát có vần, phải xuôi vần, thuận tai, cho nên người hát có lúc dặm thêm nhiều tiếng đệm không có lời có nội dung, với lời chỉ để lấy vần, thì không nắm được ý nghĩa câu hát hoặc hiểu sai lệch. Trước đây, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, phần đông anh chị em cán bộ Kinh đều biết tiếng dân tộc, nhưng biết đủ để nói chuyện, để giải thích chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đồng bào nghe. Trong lúc công tác, anh em thường dùng một số hình ảnh tương đối đơn giản để kết luận các buổi thảo luận học tập để giúp cho cán bộ cơ sở và đồng bào dễ hiểu, dễ nhớ nội dung các bài đă học. Cũng có thể gọi là một cách nói lý. Nhưng trình độ hiểu tiếng nói của anh chị em chưa đến mức để hát lý và hiểu hát lý, trừ một số rất ít anh chị em có khả năng hơn.

Thường sau các cuộc họp giữa thôn này, thôn khác, xã này, xã khác, hay các cuộc gặp để giải quyết cưới xin, nợ nần, giải quyết một số vụ mất đoàn kết, những vụ tranh chấp đất rừng, khe suối, nhất định có kết thúc bằng hát lý. Cả ngày, cả buổi gặp nhau, hai bên trình bày ý kiến, lý lẽ của mình,bàn qua cãi lại nhất trí một số điểm. Có thể còn có một số ý kiến khác nhau, cả hai bên đều chờ ý kiến của người có uy tín nhất của mỗi bên, tất nhiên người đó thường không kết luận ngay, mà chờ đợi đến tối uống rượu, hát lý. Qua câu hát, ý kiến sẽ được trình bày rõ ràng, cụ thể, kết thúc luôn cuộc họp mà hai bên đã thảo luận và làm theo. Cơm nước xong, người chủ thôn bản chế trà mời khách. Câu chuyện xoay quanh việc làm rẫy, bắt cá, bắt chim, săn thú rừng, việc về miền xuôi buôn bán, đổi chác. Khoảng 20 hay 21 giờ đêm, chủ nhà cho dọn thịt ngon, cá ngon để làm mồi nhấm rượu, rượu sắn, rượu bắp hoặc có khi rượi tà đìn, tà vạc (là rượi được lấy nước trong buồng non cây đoát, và thân cây tà đìn có ngâm vỏ cây chuồn).

Ở vùng thấp, việc mua bán với tư thương người Kinh thuận lợi hơn thì chủ thôn bản cho mua thêm rượu chai, rượu trắng đựng trong canh nhựa. Người chủ tiệc tự rót rượu, ly đầu tiên tự uống để ra hiệu rằng là rượu này không có vấn đề gì nghi vấn, rồi sau đó rót rượu mời từng vị khách, mà trước hết là người cao tuổi, người có uy tín; nếu là rượu cần, thì những vị khách đặc biệt được mời cầm cần trước, rồi sau đó mời các đại biểu khác. Không khí trong đình bắt đầu ồn ào, náo nhiệt. Mời qua, mời lại, một vòng, hai vòng, ba vòng. Câu chuyện bắt đầu, rượu càng vào, lời càng ra, lại nói chuyện làm ăn trau đổi, buôn bán xen kẽ với một vài ý kiến về cách giải quyết vấn đề đã thỏa thuận ban ngày. Tuy nhiên, nhiều ý kiến rất dè dặt, chạy quanh lề, dò ra ý tứ nhau. Người chủ tiệc cho dọn thêm thức nhấm, thêm rượu, rồi chọn cơ hội thuận lợi nhất để cất tiếng hát "hát khai mạc" : " ô,ô, ô, adô... cáeer...".

Câu hát của người chủ tiệc không gì quan trọng, nói một cách chính xác, đó là một công thức, mà người chủ tiệc nào cũng phải hát như vậy. Nói theo kiểu hát Tuồng, thì câu hát của người chủ tiệc là câu "giáo Tuồng". Trước hết, là lời chào mừng các vị khách, sau khiêm tốn xin lỗi vì thôn bản mình còn nghèo, nhà không đủ rộng, việc tiếp khách còn vụng về, đàn bà nấu cơm không dẻo, thịt không béo, rượu không ngọt, thuốc xắt không nhỏ, tội nghiệp cho thôn bản, chỉ có tấm lòng mến khách, có bụng dạ đoàn kết, muốn làm anh em như con cháu trong một nhà,... Hát xong, người chủ tiệc xin lỗi vì hát không thạo,lời lẽ thô thiển, giọng hát ồm ồm. Câu hát "khai mạc" như một hồi chuông nhắc mọi người bớt nói chuyện. Các gia đình trong thôn bản vội vã dọn dẹp rồi kéo nhau rủ ra đình làng nghe hát, nghe cách giải quyết công việc và kết luận của người lớn. Cả ngày họ không dự họp, bây giờ họ được phép vào đình làng để nghe. Số thính giả này phần lớn là đàn bà và trẻ em, trình độ hiểu biết về hát lý còn non kém, họ xúm quanh các đại biểu, vừa nghe vừa học tập, có chỗ nào khó hiểu là hỏi nhau, nhất là hỏi các cụ già, rồi trao đổi nội dung, tìm hiểu "cái ý" của câu hát.

Điều thú vị ở chỗ, cuộc hát lý vừa là cuộc so tài về văn nghệ giữa hai bên, vừa là cuộc đấu khẩu lý lẽ, để giải quyết công việc, vì vậy hai bên đều âm thầm sắp xếp lực lượng, ai hát trước, ai hát sau, ai kết thúc. Bên này hát một câu, bên kia hát đáp laị một câu, thính giả cùng nhau bàn luận, trao đổi ý nghĩa câu hát. Từng cặp trổ tài, tuy hát cỡ nhỏ, cỡ vừa đều lên tiếng. Khi trời đã về khuya, rượu cốt trong các ché đã bày ra, thì "chủ soái" của hai bên phải lên tiếng để kết thúc cuộc hát lý, kết luận cuộc họp cả ngày. Đó là điều mà mọi người đang chờ đợi. Các tay hát cự phách này, mỗi người chỉ hát một câu, nhưng lời hát điêu luyện, hình vừa đẹp, vừa mới, ý tứ sâu xa, tóm tắt được ý kiến của mọi người. Có thể nói cả đình làng đều im lặng, mở rộng tai để thu nhận lời hát. Người sáng ý nắm được cái lý, thấy được cách giải quyết vấn đề, thấm thía cái hay, cái tinh túy của hình ảnh nêu ra. Ai chưa hiểu hết thì về nhà suy nghĩ thêm, hoặc trao đổi nhau để thống nhất. Sau câu hát cuối cùng chấm dứt, bà con trong thôn bản ra về. Trong đình làng lúc này, bếp lửa được thổi cao hơn, chiếu mới, đẹp được trải thêm ra mời khách nghỉ lưng sau một ngày thảo luận.

Tập quán nói lý, hát lý trong đồng bào Cơ-tu đã có từ lâu đời, trở thành một phong cách thể hiện tình cảm, lý trí của đồng bào, thành một nghệ thuật dân gian mà mọi người đều ưa chuộng. Nghệ thuật ấy điêu luyện đến mức nói ra, hát ra đồng bào hiểu nhau, thông cảm nhau rất dễ dàng, sâu sắc, nhưng kẻ địch lại không hiểu hoặc hiểu sai lệch. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng bào Cơ-tu dùng kiểu nói lý, hát lý để qua mắt, qua tai địch, trao đổi ý kiến với nhau, thông báo tin tức cho nhau, cam kết với nhau mà kẻ địch có tai như điếc, có mắt như mù, nghe họ chửi mà tưởng họ hoan hô tán thướng. Còn cán bộ Kinh công tác ở vùng đồng bào Cơ-tu lại biết vận dụng kiểu nói lý, hát lý để giáo dục, thuyết phục quần chúng nghe theo lời Đảng, lời Bác Hồ để làm cách mạng, mở rộng và củng cố khối đoàn kết, đề cao cảnh giác đối với địch, phân biệt rõ thù, bạn, ta để có hướng và biện pháp hành động đúng đắn.

Ngày nay, trong hòa bình xây dựng quê hương, đất nước, cán bộ dùng hát lý để tuyên truyền, giáo dục đồng bào nhận thức sâu sắc các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước để xây dựng cuộc sống mới ở vùng đồng bào dân tôc Cơ-Tu

LSB_Lãng Tử
30-10-2006, 13:25
Tết Nha Trang

Em đi chợ Tết Nha Trang,
Nhớ mua một bó mai vàng cho anh...

Chợ Tết Nha Trang bắt đầu nhóm từ phiên sau rằm tháng Chạp âm lịch, tuy nhiên chợ đông nhất kể từ ngày 25 trở đi. Chợ Đầm là chợ lớn nhất ở Nha Trang, là trung tâm buôn bán đủ các mặt hàng nội ngoại, trên rừng, dưới biển. Vào những ngày áp Tết, chợ Đầm quá tải bởi dòng người đi mua sắm quá đông, chợ ngày càng lan rộng ra chiếm các đường phố lân cận. Điểm nổi bật ở chợ Tết Nha Trang là mai vàng. Đây là loại hoa chiếm ưu thế và người địa phương ưa thích chưng bày trong mấy ngày Tết. Ngoài mai chậu còn có đủ các loại mai cành có nguồn gốc từ các vùng núi Ninh Hòa, Diên Khánh, Cam Ranh, Khánh Vĩnh, Vạn Ninh, hàng ngày nhờ xe đổ về đây nườm nượp nhưng rồi đến ngày 30 vẫn hết sạch.

Không khí Tết bắt đầu nở rộ từ 27, 28 tháng Chạp. Người ta bắt đầu gói bánh tét, đóng bánh in. Đây là hai loại bánh “chủ lực”, dù nhà giàu sang hay nghèo khó cũng phải có, trước là để cúng ông bà, sau nữa, cũng có mặt trên mâm cỗ ngày Tết theo đúng truyền thống lâu đời ở đây.

Chiều 30 (nếu là tháng đủ) nhà nào nhà nấy sửa soạn tươm tất trang hoàng sáng sủa. Các câu đối, tranh Tết cũ được thay thế bằng cái mới. Trên bàn thờ mọi thứ đều lau chùi sạch sẽ nhưng lư hương thì tuyệt đối không đụng đến, chờ cho đến khi cúng giao thừa mới thay bỏ các chân nhang cũ. Mọi nhà đều lo sắm mâm cơm để cúng gia tiên gọi là “rước ông bà” về ăn Tết. Đến nửa đêm 30, mọi người cúng giao thừa. Nhiều bô lão cao niên thức để cúng mà cũng vừa để nghe ngóng chiêm nghiệm con vật nào phát ra tiếng kêu trước mà đoán điều hung kiết trong năm mới. Sau giờ giao thừa, làn sóng người đi hái lộc đầu năm đổ về nhiều ngả. Người ta chen nhau về hướng cầu Xóm Bóng để lên Tháp Bà hay đổ về đường Trần Phú, dọc theo bãi biển Nha Trang. Mấy năm gần đây, người ta còn kinh doanh lá lộc sau giờ giao thừa. Tại các ngã ba, ngã tư, bến xe, bến đò đều có bán lá lộc. Người đi tìm hái lá lộc khỏi phải đi xa.

Tục đi hái lộc đầu năm khiến cho phố xá về đêm vẫn nhộn nhịp, xe cộ ngược xuôi hối hả, tất cả như hướng về năm nới tốt đẹp, an khang, thịnh vượng. Tuy nhiên, hái lộc xuân không chỉ có người đứng tuổi mà trái lại, phần lớn thanh niên nam nữ tranh nhau đi hái lộc. Phải chăng, hái lộc trở thành cái “mốt” đầu năm ?

Trong giờ giao thừa, một số quán cà phê cũng bắt đầu mở cửa với những bản nhạc xuân vui tươi để chào đón xuân sang, đồng thời mở hàng cho một năm mới buôn may, bán đắt.

Sáng mồng Một, người theo đạo Phật thì lũ lượt về chùa Long Sơn, người theo đạo Thiên Chúa thì đến nhà thờ Núi cầu nguyện cho quốc thái dân an, nhà nhà hạnh phúc. Đó là chưa kể đến người hành hương đầu năm về Tháp Chàm Pô Nagar để cầu tài, cầu phúc, cầu lộc, cầu duyên... Có thể nói không khí ở khu quần thể tháp Bà trong mấy ngày Tết luôn đắm chìm trong màn hương khói, nghi ngút đến nghẹt thở. Còn ở các nghĩa trang, dòng người đi viếng mộ ông bà, người thân cũng đông chẳng kém. Họ mang theo hoa quả, nhang đèn để cúng những người đã khuất. Các nghĩa địa vào ngày đầu năm đông vui chẳng khác nào những ngày hội lớn.

Đối việc thăm viếng, chúc Tết, người Nha Trang không bao giờ xem nhẹ. Ngày Tết, nhà nhà đều râm ran tiếng nói cười và những lời chúc xoay quanh công việc làm ăn, buôn bán và sức khoẻ. Khi đi chúc Tết, họ có lệ mang theo trong mình những bao tiền “lì xì” cho trẻ con. Và tục mừng nhau ly rượu đầu năm, dù không biết dùng rượu nhưng cũng không chối từ.

Thuở xưa, người Nha Trang ăn Tết kéo dài đến mồng mười và lai rai cho đến ngày rằm tháng Giêng. Còn ngày nay, người Nha Trang ăn Tết có vẻ gọn nhẹ hơn, tuy nhiên, không khí Tết vẫn kéo dài đến ngày “hạ nêu” với những trò chơi dân gian như lô tô, bài chòi sôi nổi và hào hứng.

Người Nha Trang rất thích du xuân. Chính vì vậy mà vào ngày Tết, ngành du lịch thành phố vẫn hoạt động liên tục và phục vụ tối đa để đưa đón khách chơi xuân ra các hải đảo, ven đầm để tham quan, vui chơi, thưởng thức các món ăn đặc sản biển tại chỗ. Gia đình du xuân cũng là “mốt” của người Nha Trang trong những năm gần đây. Và ngành du lịch - mũi nhọn của thành phố biển là ngành làm ăn “phát tài” sớm nhất.
Nha Trang, mùa xuân lại về! Tết Nha Trang muôn màu muôn vẻ...

LSB_Lãng Tử
30-10-2006, 13:28
Nguyễn Trãi, ngôi sao Khuê của văn hóa Việt Nam


Nguyễn Trãi (1380 - 1442) là Anh hùng dân tộc, nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hóa vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. Năm 1406, giặc Minh xâm lược Đại Việt, đánh bại nhà Hồ, áp bức muôn dân, bắt cha Nguyễn Trãi đưa về Trung Quốc. Nợ nước, thù nhà, ông đã tìm đến với phong trào khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi và trở thành nhà tổ chức soạn thảo và thực thi những quyết sách đúng đắn, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.

Dưới triều Lê, cả lúc vinh hoa tột đỉnh làm quan tới chức Gián nghị đại phu tri tam quân sư hay khi lui về ở ẩn, tấm lòng trung với nước, với dân vẫn luôn ngời sáng. Bị bọn gian thần hãm hại, phải chịu họa "tru di tam tộc", mãi đến năm 1464 ông mới được vua Lê Thánh Tông minh oan. Nguyễn Trãi để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng như Dư địa chí, Quốc âm thi tập, v.v và đặc biệt bài Bình Ngô đại cáo được người đời sau ca ngợi là áng "thiên cổ hùng văn".

Nguyễn Trãi, sinh ở Thăng Long trong gia đình ông ngoại là quan Đại tư đồ Trần Nguyên Đán. Cha ông là Nguyễn ứng Long, hiệu ức Trai (tức là Nguyễn Phi Khanh). Mẹ ông là Trần Thị Thái, con gái Trần Nguyên Đán.

Năm Nguyễn Trãi lên 5 tuổi, mẹ ông mất. Sau đó không lâu, Trần Nguyên Đán cũng mất. Ông về ở với cha tại quê nội ở làng Nhị Khê.

Năm 1400, để cứu vãn chế độ phong kiến đang khủng hoảng trầm trọng, Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần và tiếp tục thi hành các cải cách như chính sách hạn nô, hạn điền, tổ chức lại giáo dục, thi cử và y tế.

Cũng năm 1400, sau khi lên ngôi Vua, Hồ Quý Ly mở khoa thi. Nguyễn Trãi ra thi, ông đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) năm ông 20 tuổi. Hồ Quý Ly cử ông giữ chức Ngự sử đài chánh chưởng. Còn cha ông là Nguyễn Phi Khanh đỗ bảng nhãn từ năm 1374, được Hồ Quý Ly cử giữ chức Đại lý tự khanh Thị lang tòa trung thư kiêm Hàn lâm Viện học sĩ tư nghiệp Quốc Tử Giám.

Năm 1406, Minh Thành Tổ sai Trương Phụ mang quân sang xâm lược Việt Nam. Nhà Hồ đem quân ra chống cự, nhưng bị đánh bại. Cha con Hồ Quý Ly và một số triều thần trong đó có Nguyễn Phi Khanh bị bắt và bị đưa về Trung Quốc.

Nghe tin cha bị bắt, Nguyễn Trãi cùng em là Nguyễn Phi Hùng khóc theo lên tận cửa Nam Quan với ý định sang bên kia biên giới để hầu hạ cha già trong lúc bị cầm tù.

Nhân lúc vắng vẻ, Nguyễn Phi Khanh bảo Nguyễn Trãi:

- Con là người có học, có tài, nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới là đại hiếu. Lọ là cứ phải đi theo cha, khóc lóc như đàn bà mới là hiếu hay sao?

Nguyễn Trãi nghe lời cha quay trở lại tìm con đường đánh giặc, cứu nước.

Về đến Thăng Long, ông bị quân Minh bắt. Thượng thư nhà Minh là Hoàng Phúc biết Nguyễn Trãi là một nhân vật có tài, tìm cách dụ dỗ, nhưng ông kiên quyết không theo giặc.

Sau một thời gian bị giam lỏng ở Đông Quan (tức Thăng Long), Nguyễn Trãi vượt được vòng vây của giặc vào Thanh Hóa theo Lê Lợi. Ông gặp vị thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn ở Lỗi Giang. Ông trao cho Lê Lợi bản chiến lược đánh đuổi quân Minh mà sử sách Việt Nam gọi là Bình Ngô sách.

Trong bài tựa ức Trai di tập, Ngô Thế Vinh cho biết: Bình Ngô sách "hiến mưu trước lớn không nói đến việc đánh thành, mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người".

Lê Lợi khen chiến lược của Nguyễn Trãi là đúng. Và ông đã vận dụng chiến lược này để đánh quân Minh. Từ đây, ông thường giữ Nguyễn Trãi gần bên mình để cùng bàn mưu tính kế đánh quân Minh.

Cuối năm 1426, Lê Lợi lập bản doanh ở bến Bồ Đề (Gia Lâm). Tại đây, ông cho dựng một cái chòi cao ngang bằng tháp Báo Thiên ở Đông Quan. Lê Lợi ngồi tầng thứ nhất của chòi, Nguyễn Trãi ngồi tầng thứ hai. Hai nhân vật luôn luôn trao đổi ý kiến với nhau.

Trong kháng chiến, Nguyễn Trãi chủ trương phải dựa vào dân thì mới đánh được giặc, cứu được nước. Khi kháng chiến đã thắng lợi, ông cũng thấy rằng phải lo đến dân, thì mới xây dựng được đất nước. Trong tờ biểu tạ ơn được cử giữ chức Gián nghị đại phu tri tam quân sư, ông đã viết: "Chí những muốn, việc cố nhân đã muốn: để tâm dân chúng, mình lo trước điều thiên hạ phải lo".

Năm 1437, khi vua Lê Thái Tông cử ông định ra lễ nhạc, ông cũng nói cho vua biết những điều mà vua phải làm trước hết là chăn nuôi nhân dân:

- Dám mong Bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăn nuôi muôn dân khiến cho trong thôn cùng xóm vắng, không có một tiếng hờn giận oán sầu. Đó tức là giữ được cái gốc của nhạc.

Do luôn luôn "lo trước điều thiên hạ phải lo, vui sau cái vui của thiên hạ", Nguyễn Trãi lúc nào cũng sống một cuộc đời giản dị, cần kiệm liêm chính. Nhà của ông ở Đông Kinh (Thăng Long) chỉ là một túp nhà tranh (góc thành Nam lều một gian). Khi ông cai quản công việc quân dân ở hải đảo Đông Bắc, nhà của ông ở Côn Sơn "bốn mặt trống trải, xác xơ chỉ có sách là giàu thôi" (thơ Nguyễn Mộng Tuân, bạn Nguyễn Trãi).

Bài Bình Ngô đại cáo của ông là một "thiên cổ hùng văn". Đó là một thiên anh hùng ca bất hủ của dân tộc.

Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi là những thư từ do ông viết trong việc giao thiệp với quân Minh. Những thư này là những tài liệu cụ thể chứng minh đường lối ngoại giao vào địch vận hết sức khéo léo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi làm cho quân Lam Sơn không mất xương máu mà hạ được rất nhiều thành.

Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là tác phẩm xưa nhất bằng Việt ngữ mà chúng ta còn giữ được. Tác phẩm này rất quan trọng cho công tác nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam và lịch sử ngôn ngữ Việt Nam.

Năm 1442, cả gia đình ông bị hãm hại (tru di tam tộc) khiến cho người đương thời vô cùng thương tiếc.

Năm 1464, vua Lê Thánh Tông hạ chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng quan tước và tìm hỏi con cháu còn sót lại.

Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. ông là anh hùng dân tộc, là nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hóa lớn của nước ta. Tâm hồn và sự nghiệp của ông mãi mãi là vì sao sáng như Lê Thánh Tông truy tặng "ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo".

LSB_Lãng Tử
30-10-2006, 13:31
Chu Văn An - người thầy mẫu mực


Chu Văn An (1292 - 1370) người làng Văn Thôn, huyện Thanh Đàm (nay là huyện Thanh Trì-Hà Nội) đương thời đã nổi tiếng là một nhà giáo tài đức, có nhiều học trò thành đạt. Đời vua Trần Minh Tông, ông được mời làm Tư nghiệp Quốc tử giám để dạy Thái tử học. Đến đời Trần Dụ Tông, triều chính suy vị, bị bọn gian thần lũng đoạn, ông dâng sớ Thất trảm (xin chém 7 kẻ nịnh thần). Vua không nghe, ông bỏ quan về ở ẩn. Với tài năng, đức độ và tính cương trực, ông được coi là tấm gương tiêu biểu cho nhà giáo Việt Nam.

Trần vãn thử hà thời, dục vịnh đại phi hiền giả lạc
Phượng sơn tồn ẩn xứ, trĩ lưu trường ngưỡng triết nhân phong.

(Cuối Trần đó là thời nào, ngâm vịnh rong chơi đâu phải thú vui hiền giả.
Non phượng còn dấu nơi ẩn, núi sông mãi mãi ngắm nhìn phong cách triết nhân).

Đó là đôi câu đối mà người đời mãi mãi còn truyền tụng để tỏ lòng mến phục đối với Chu Văn An - nhà Nho, nhà hiền triết, nhà sư phạm mẫu mực cuối thời Trần.

Chu Văn An tên hiệu là Tiều ẩn, tên chữ là Linh Triệt, người làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là huyện Thanh Trì - Hà Nội). Theo thần tích đình làng Thanh Liệt, nơi thờ ông làm thành hoàng, thì ông sinh năm Nhâm Thìn (1292) và mất năm Canh Tuất (1370).

Chu Văn An ngay từ hồi còn trẻ đã nổi tiếng là một người cương trực, sửa mình trong sạch, giữ tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách. Khi thi đỗ Thái học sinh, ông không ra làm quan, mà trở về mở trường dạy học ở quê nhà. Học trò nhiều nơi tìm đến theo học rất đông. Trong số môn đệ ông có nhiều người thành đạt, thi đỗ ra làm quan to trong triều như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát khi về thăm thầy vẫn giữ lễ, được thầy nói chuyện ít lời thì rất lấy làm mừng. Có những học trò cũ không tốt, ông thẳng thắn quở trách, thậm chí quát mắng không cho gặp. Tính nghiêm nghị, tư cách thanh cao và học vấn sâu rộng làm cho tiếng tăm ông ngày càng lan xa. Đức độ và uy tín của ông như vậy, khiến cho học trò đến theo học càng nhiều và có đủ các loại.

Một huyền thoại vẫn được lưu truyền nói về ngôi trường và nhân cách, đạo đức của ông như sau: "Tương truyền khi Chu Văn An mở trường dạy học ở quê nhà, có nhiều học trò tìm đến theo học. Trong số này có một người sáng nào cũng đến thật sớm nghe giảng. Thầy dạy khen là chăm chỉ nhưng không rõ tông tích ở đâu. ông bèn cho người dò xem thì cứ đến khu đầm Đại (khu đầm lớn hình vành khuyên, nằm giữa các làng Đại Từ , Tứ Kỳ, Huỳnh Cung) thì biến mất. Ông biết là thần nước. Gặp lúc đại hạn kéo dài, giảng bài xong ông tụ tập các trò lại hỏi xem ai có tài thì làm mưa giúp dân, giúp thầy. Người học trò kỳ lạ trước có vẻ ngần ngại, sau đứng ra xin nhận và nói với thầy: "Con vâng lời thầy là trái lệnh Thiên đình, nhưng con cứ làm để giúp dân. Mai kia nếu có chuyện gì không hay, mong thầy chu toàn cho". Sau đó người này ra giữa sân lấy nghiên mài mực, ngửa mặt lên trời khấn và lấy bút thấm mực vẩy ra khắp nơi. Vẩy gần hết mực, lại tung cả nghiên lẫn bút lên trời. Lập tức mây đen kéo đến, trời đổ mưa một trận rất lớn. Đêm hôm ấy có tiếng sét và đến sáng thấy có thây thuồng luồng nổi lên ở đầm. Chu Văn An được tin khóc thương luyến tiếc rồi sai học trò làm lễ an táng, nhân dân các làng lân cận cũng đến giúp sức và sau nhớ công ơn bèn lập đền thờ. Nay vẫn còn dấu vết mộ thần. Theo truyền thuyết, chỗ nghiên mực bị ném rơi xuống đã biến thành đầm nước lúc nào cũng đen, nên thành tên là Đầm Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả Thanh Oai biến làng này thành một làng văn học quê hương của Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, v.v... Trong đền thờ thần còn đôi câu đối khá tiêu biểu ghi lại sự tích này.

Mặc nghiễn khởi tường vân, nhất bút lực hồi thiên tự thuận.
Chu đình lưu hóa vũ, thiên trù vọng thiếp địa phồn khô.

( Mây lành từ nghiên mực bay lên, một ngọn bút ra công trời thuận theo lẽ phải.
Mưa tốt giữa sân son đổ xuống, nghìn cánh đồng đội nước, đất nẻ trổ mùa hoa).

(Chu đình có hai nghĩa: sân son và sân họ Chu, chỉ Chu Văn An).

Câu chuyện trên đây chỉ là một giai thoại về Chu Văn An để nói rằng tài đức của họ Chu có sức mạnh cảm hóa được cả quỷ thần. Tuy nhiên, qua đó cũng thấy được đức độ của Chu Văn An lúc đương thời là rất lớn.

Đến đời vua Trần Minh Tông, ông được mời vào làm Tư nghiệp ở Quốc Tử Giám để dạy Thái tử học. Ông đã cùng với Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn tham gia vào công việc củng cố triều đình lúc đó đang đi dần vào con đường khủng hoảng, suy thoái. Đến đời Dụ Tông, chính sự càng thối nát, bọn gian thần nổi lên khắp nơi. Chu Văn An nhiều lần can ngăn Dụ Tông không được, bèn dâng sớ xin chém bảy kẻ nịnh thần, đều là người quyền thế được vua yêu. Đó là Thất trảm sớ nổi tiếng trong lịch sử. Nhà vua không nghe, ông bèn "treo mũ ở cửa Huyền Vũ" rồi bỏ quan về ở ẩn tại núi Phương Sơn thuộc làng Kiệt Đắc, huyện Chí Linh (Hải Hưng) lấy hiệu là Tiều ẩn (người đi ẩn hái củi). Sau ông mất tại đó.

Theo thư tịch cũ thì Chu Văn An viết nhiều sách, ông đã để lại cho đời sau những tác phẩm: hai tập thơ Quốc ngữ thi tập bằng chữ Nôm và Tiều ẩn thi tập bằng chữ Hán. Ông còn viết một cuốn sách biện luận giản ước về Tứ thư nhan đề Tứ thư thuyết ước. Theo một tài liệu nghiên cứu gần đây thì Chu Văn An còn là một nhà đông y đã biên soạn quyển Y học yếu giải tập chu di biên gồm những lý luận cơ bản về chữa trị bệnh bằng Đông y. Khi ông mất, vua Trần đã dành cho ông một vinh dự lớn bậc nhất đối với một trí thức là được thờ ở Văn Miếu. Vua còn ban tặng tên thụy cho ông là Văn Trinh. Ngô Thế Vinh, nhà văn học nổi tiếng thế kỷ 19 trong bài văn bia ở đền Phương Sơn đã thích nghĩa hai chữ "Văn Trinh" như sau: (Văn, đức chi biểu dã; Trinh, đức chỉ chính cổ dã. Văn là sự bên ngoài (thuần nhất )của đức; Trinh là tính chính trực, kiên địch của đức). Tên thụy như vậy nhằm biểu dương một người đã kết hợp được hai mặt của đạo đức: bên ngoài thuần nhã, hiền hòa với bên trong chính trực, kiên định. Trong lịch sử giáo dục nước nhà, ông cũng đã giành được địa vị cao quí bậc nhất, xứng đáng đứng đầu các nhà giáo từ xưa tới nay. Ông đã vượt qua ngưỡng cửa: làm thầy giáo giỏi của một đời để đạt tới làm thầy giáo giỏi của muôn đời như Phan Huy Chú đã ngợi ca ông: "học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, làng Nho nước Việt trước sau chỉ có mình ông, các ông khác không thể so sánh được".

Ngày nay, để tưởng nhớ tới đạo đức và sự nghiệp của ông, nhân dân Thủ đô đã lấy tên ông để đặt tên cho một đường phố và một trường trung học lớn của Hà Nội. Đó là phố Chu Văn An và Trường phổ thông Trung học Chu Văn An. Phố Chu Văn An, nguyên là đại lộ Van Vôlenhôven thời Pháp thuộc, đi từ đường Điện Biên Phủ đến phố Nguyễn Thái Học. Còn Trường trung học Chu Văn An nằm trên đường Thụy Khuê ngay ven Hồ Tây, nơi lưu truyền đầy những giai thoại và truyền thuyết cổ xưa. Trường này nguyên trước là Trường cao đẳng tiểu học Bảo hộ (collège du protectorat) do thực dân Pháp lập từ năm 1907 để chống lại phong trào Đông kinh Nghĩa thục, nhưng nhân dân ta thường vẫn quen gọi là Trường Bưởi.

Năm 1945, Cách mạng thành công, các nhà giáo và nhân dân Hà Nội đã nhất trí chọn tên nhà giáo dục mẫu mực Chu Văn An đặt tên cho trường.

LSB_Lãng Tử
30-10-2006, 13:33
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU (1822 – 1888)


Ông sinh ở làng Tân Khánh, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay thuộc tỉnh Bên Tre) trong một gia đình nhà Nho nghèo. Năm 1833, Lê Văn Khôi nổi lên chống triều Nguyễn, chiếm Gia Định, Nguyễn Dình Chiểu theo cha về Thừa Thiên tránh loạn và học tập. Năm 1848, ông trở về Gia Định, thi đậu Tú tài, sau đó ra Huế học thêm để chờ thi Hội, bỗng được tin mẹ mất, phải trở về Gia Định chịu tang. Dọc đường về, do khóc mẹ nhiều và nhiễm phong sương nên bị đau mắt đến mù. Từ đó ông mở trường dạy học, học trò rất đông. Thời gian này, ông viết Dương Từ Hà Mậu, nội dung cuốn sách nhằm bênh vực Nho giáo chân chính, chống bọn giả đạo đức, tham danh lợi. Gia đình trước kia hứa hôn gả con gái cho ông, nay thấy ông mù bèn cắt đứt. Sau, ông lấy em gái một học trò của ông. Khoảng năm 1850, ông viết quyển Lục Vân tinh, tỏ rõ lòng yêu chính nghĩa, ghét gian tà của mình. Quyển sách mang tính “tự truyện” này có tính chất nhân dân, có tác dụng giáo dục đạo đức rất lớn đối với quần chúng.

Năm 1859, giặc Pháp tiến đánh Gia Định, rồi mở rộng xâm lược Nam Kì. Đang dạy học ông phải chạy về Cần Giuộc (Chợ Lớn) tham gia kháng chiến, bàn bạc công việc cứu nước với các bạn hữu như Phan Văn Trị, Hố Huân Nghiệp, Bùi Hữu Nghĩa..., liên hệ mật thiết với Đốc binh Là, người chỉ huy anh dũng trong trận Cần Giuộc, tích cực giúp đỡ nghĩa quân về mọi mặt. Trương Định vẫn thường đến hỏi ý kiến và coi ông như người tham mưu của mình. Hồi này, ông sáng tác nhiều văn thơ yêu nước, ca tụng khí tiết anh hùng của những chiến sĩ hi sinh vì Tổ quốc kịch liệt lên án quân bán nước, làm tay sai cho giặc. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, cùng với nhiều tác phẩm thơ, phú, hịch khác của ông đã có ảnh hưởng rộng lớn khắp trong Nam ngoài Bắc. sáu tỉnh Nam Kì bị giặc chiếm (1867), Nguyễn Đình Chiểu vì mù lòa, không đi ra "tị địa" ở Bình Thuận được, ông tiếp tục dạy học tại Bến Tre, nêu gương bất hợp tác với thực dân. Nhiều lần, bọn quan cai trị Pháp đến tìm cách mua chuộc, nhưng đều thất bại thảm hại trước tinh thần bất khuất của một trí thức chân chính. Ngày 8-7-1888, Nguyễn Đình chiếu mất trong sự tiếc thương vô hạn của đồng bào.

Nguyễn Đình Chiểu là một chiến sĩ yêu nước dũng cảm, là ngôi sao sáng nhất trong nền văn học ở miền Nam nửa sau thế kí XIX. Ông đã sáng tác được nhiều thơ, văn tế, hịch . . góp phấn to lớn trong việc cổ vũ, động viên nhân dân chiến đấu chống giặc. Điều đáng chú ý là trong thơ văn, ông đã ca ngợi tinh thần chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, cũng như vai trò và sức mạnh của những người "dân ấp, dân lân'! trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Ngoài hai tác phẩm Lục Văn Tiên, Dương Từ Hà Mậu, ông có tập truyện thơ Ngư Tiều y thuật vấn đáp đề cao phẩm chất trong sạch, cũng như đạo đức trung hiếu, tiết nghĩa, để động viên sĩ phu và nhân dân giết giặc cứu nước.

LSB_Lãng Tử
30-10-2006, 13:35
PHAN BỘI CHÂU (1867 - 1940)


Phan Bội Châu (tên cũ là Phan Văn San) hiệu là Sào Nam, sinh ngày 26-12-1867 ở làng Đan Nhiễm (nay là xã Xuân Hòa), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình nhà Nho nghèo. Ngay từ nhỏ, Phan Bội Châu đã nổi tiếng thông minh, 8 tuổi đã thông thạo các loại văn cử tử, 13 tuổi đi thi ở huyện, đỗ đầu; 16 tuổi đỗ đầu xứ, nên cũng gọi là đầu xứ San. Phan Bội Châu còn là một người rất gần gũi cuộc sống của nhân dân lao động và từng là một chàng trai hát phường vải có tài.

Nhưng điểm đặc sắc nhất ở Phan là sớm có tinh thần yêu nước. Từ 9 tuổi Phan đã được sống giữa phong trào Bình Tây sôi nổi nổ ra ở xứ Nghệ. 17 tuổi, được tin Pháp đánh Bắc Kì (1882), Phan đã thảo hịch Bình Tây thu Bắc dán ở cây to đầu làng. 19 tuổi (1885), kinh thành Huế thất thủ, hưởng ứng chiếu Cấn vương của Hàm Nghi, thân hào Nghệ - Tĩnh nổi lên khắp nơi, Phan cũng tổ chức một đội "Thí sinh quân" 60 người để ứng nghĩa, nhưng chưa kịp hành động đã bị đàn áp tan rã.

Trong khoảng 10 năm cuối thế kỉ XIX, Phan Bội Châu vừa làm một thầy đồ dạy học để nuôi cha già vừa tìm đọc thêm "Tan thư, Tân báo” và mở rộng giao du, tìm người đồng tâm, đồng chí chuẩn bị cho công cuộc cứu nước.

Năm 1900, Phan Bội Châu dự kì thi Hương và đỗ thủ khoa (giải nguyên) trường Nghệ, chính thức bước vào cuộc đời hoạt động cách mạng. Cùng các bạn bè đồng chí, Phan thành lập hội Duy tân (1904), chủ trương dùng vũ trang bạo động và nhờ ngoại viện để đánh đuổi giặc Pháp khôi phục nước Việt Nam, lập ra chính phủ độc lập.

Đầu năm 1905, Phan Bội Châu lãnh đạo phong trào Đông Du, từ 1905-1908, ông đã tổ chức cho gần 200 thanh niên yêu nước xuất dương sang Nhật học tập ở các trường Đồng văn thư viện, Chần vũ học hiệu ; lại lập ra Công hiến hội để quản lý việc học tập, tu dưỡng tư tưởng, đạo đức của lưu học sinh. Đồng thời, ông cũng liên lạc với các hội, đảng yêu nước tiến bộ của học sinh và chính khách các nước có mặt ở Tôkiô (Nhật Bản) nhằm trao đổi kinh nghiệm vận động cứu nước, ủng hộ lẫn nhau. Đặc biệt, ông còn sáng tác rất nhiều thơ văn yêu nước như Việt Nam vong quốc sử, Hải ngoại huyết thư, Tân Việt Nam, Sùng bái giai nhân, Việt Nam quốc sử khảo v.v..:

Tháng 3-1909, tổ chức Đông Du bị giải tán. Phan Bội Châu bị chính phủ Nhật trục xuất, phải về ẩn náu ở Trung Quốc một thời gian ngắn, rồi sang Thái Lan mở trại cày Bạn Thầm để tính kế lâu dài. Năm 1911, Cách mạng Tân Hợi Trung Quốc thành công, ông trở lại Trung Quốc tập hợp số anh em còn lại, tuyên bố giải tán Duy tân hội, thành lập Việt Nam quang phục hội với tôn chỉ duy nhất : "Đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước Cộng hòa dân quốc Việt Nam".

Hội cử người về nước hoạt động, đã gây nên một số vụ bạo động vũ trang có tiếng vang, nhưng kẻ thù thẳng tay đàn áp. Phan Bội Châu bị bọn quân phiệt Trung Quốc bắt giam ngày 24-12-1913.

Năm 1917, khi ông ra tù, Chiến tranh thế giới thứ nhất sắp kết thúc, ảnh hưởng Cách mạng tháng Mười Nga và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc sôi nổi khắp thế giới, đặc biệt là ở phương Đông. Ông dần dần nghiêng về cách mạng thế giới, tìm hiểu Cách mạng tháng Mười, viết báo ca ngợi Lênin vĩ đại. Giữa năm 1924, phỏng theo Quốc dân đảng của Tôn Trung Sơn, ông đã cải tổ Việt Nam quang phục hội thành Việt Nam quốc dân đảng. Tháng 12-1924, sau khi được tiếp xúc và được sự góp ý của Nguyễn Ái Quốc, Phan Bội Châu dự định sẽ cải tổ lại Việt Nam quốc dân đảng theo hướng tiến bộ. Nhưng ngày 80-6-1925 trên đường từ Hàng Châu về Quảng Châu để gặp anh em, vừa đến ga Bắc Thượng Hải thì bị thực dân Pháp bắt cóc đem về nước, rồi đem xử ở tòa Đề hình Hà Nội. Một phong trào bãi khóa, bãi công, bãi thị đã bùng nổ rầm rộ khắp cả nước, đòi trả tự do cho Phan Bội Châu. Cuối cùng, thực dân Pháp buộc phải tha bổng ông, nhưng bắt an trí tại Huế.

Từ 1926 trở đi, Phan Bội Châu bị cách li với thực tế đấu tranh của dân tộc. Tuy vậy, ông vẫn cố vươn lên, hi vọng tiếp tục hoạt động cứu nước và trong điều kiện sống bị bao vây theo dõi vẫn cố gắng làm một người tuyên truyền yêu nước. Thơ văn của ông vẫn tiếp tục nói nhiều đến nỗi khổ nhục của người dân mất nước và trách nhiệm của người dân đối với nước. Đó là các tác phẩm : Nam, nữ quốc dân tu tri, Thuốc chữa dân nghèo, Cao đẳng quốc dân, Luân lí vẫn đáp, Lời hỏi thanh niên... Đó cũng là các công trình biên khảo có giá trị : Phan Bội Châu niên biểu, Xã hội chủ nghĩa, Nhân sinh triết học, Khổng học đăng, Chu dịch v.v. cùng với trên 800 bài thơ, phú, văn tế và rất nhiều câu đối và tạp văn khác để lại đã làm phong phú kho tàng thơ văn yêu nước và cách mạng Việt Nam thời cận đại.

Những năm tháng cuối đời, nhà chí sĩ Phan Bội Châu vẫn chan chứa biết bao nỗi niềm ưu ái, hi vọng tin tưởng vào đôgng bào, đồng chí. Cho đến trước khi mất ngày 29-10-1940, tại căn nhà tranh ở dốc Bến Ngự (Huế), ông vẫn có lời ,,Chúc phường hậu tứ tiến mau !". .


PHAN ĐÌNH PHÙNG - LÃNH TỤ PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CUỐI THẾ KỶ 19





Phan Đình Phùng là một lãnh tụ tiêu biểu của phong trào yêu nước chống Pháp vào cuối thế kỷ 19. Cụ sinh năm 1847, ở làng Đông Thái, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh (nay là xã Châu Phong, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh), trong một gia đình nho học. Phan Đình Phùng là con cụ phó bảng Phan Đình Tuyến, em ruột chí sĩ Phan Đình Thông và cử nhân Phan Đình Thuật, anh ruột phó bảng Phan Đình Vận.

Phan Đình Phùng đỗ cử nhân năm 1876. Năm sau, đậu đình nguyên tiến sĩ, được bổ làm Tri huyện Yên Khánh (tỉnh Ninh Bình). Sau đó cụ được đổi về kinh đô Huế, sung chức Ngự sử đô sát viện. Cụ Phan nổi tiếng trong triều về đức tính cương trực, thẳng thắn. Năm 1882, cụ dâng sớ đàn hặc thiếu bảo Nguyễn Chánh về tội "ứng binh bất viện" (cầm quân ngồi yên không đi tiếp viện) khi giặc Pháp tấn công thành Nam Định. Do bất đồng quan điểm với Tôn Thất Thuyết về việc phế Dục Đức, lập Hiệp Hòa (1883) cụ bị cách chức, về quê lập trại cày, tự hiệu là "Châu Phong".

Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương, Phan Đình Phùng đã đứng ra chiêu tập lực lượng chống Pháp. Các anh hùng, hào kiệt khắp bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Quảng Bình tự nguyện liên kết lực lượng dưới quyền chỉ huy của cụ Phan. Nghĩa quân đã xây dựng căn cứ tại Hương Sơn, Hương Khê (Hà Tĩnh).

Cụ Phan đã tổ chức lực lượng nghĩa quân theo đạo quân chính quy; có 15 quân thứ với cùng một kiểu trang phục, kỷ luật nghiêm minh. Các quân thứ được đặt tại các địa phương, rải suốt bốn tỉnh và hợp tác tác chiến nhịp nhàng theo kế hoạch từ đại bản doanh núi Vụ Quang. Cụ cùng các tướng như Cao Thắng nghiên cứu, chế tác thành công được gần 500 khẩu súng trường kiểu 1874 của Pháp để trang bị cho quân lính.

Phan Đình Phùng rất chú ý đến công tác ngụy vận. Cụ thường bảo với nghĩa quân: "Hễ khi giao chiến vạn bất đắc dĩ hãy bắn giết lính tập, bởi họ là anh em đồng bào với mình".

Bằng đức tính và tài năng của mình, Phan Đình Phùng đã cảm hóa được các tướng lĩnh giỏi như Cao Thắng, Nguyễn Thanh, Nguyễn Trạch, Phan Đình Cam, Cầm Bá Thước, Nguyễn Mục, v.v... hết lòng trung thành với sự nghiệp chống Pháp...

Suốt mười năm trời (1885 - 1895), bất chấp mọi khó khăn gian khổ, nghĩa quân Phan Đình Phùng đã gây cho giặc Pháp nhiều tổn thất nặng nề. Ngoài các hình thức chiến đấu tiến lui, công đồn, diệt viện, Phan Đình Phùng đã chỉ huy nghĩa quân xây dựng làng chiến đấu, áp dụng lối đánh du kích, có hầm chông cạm bẫy. Sau một loạt trận công đồn, chiến thắng lẫy lừng, trận Vụ Quang (10-1894) là nổi tiếng, vang dội và gây cho giặc thất bại nặng nề nhất.

Thực dân Pháp thấy không thể dùng sức mạnh quân sự dẹp tắt được nghĩa quân, nên dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc cụ Phan. Chúng lợi dụng các tên Việt gian như: Phan Trọng Mưu, Võ Khoa, Hoàng Cao Khải viết thư lấy tình xưa nghĩa cũ để khuyên cụ ra hàng. Trước mọi sự cám dỗ, đường mật, Phan Đình Phùng vẫn giữ lòng son sắt cự tuyệt. Trong lúc cuộc chiến đấu còn tiếp diễn thì không may ngày 28-12-1895, do mắc bệnh lỵ nặng, Phan Đình Phùng đã qua đời tại bản doanh (núi Quạt) thọ 49 tuổi.

Phan Đình Phùng mất đi, cuộc khởi nghĩa cũng kết thúc. Song, cuộc khởi nghĩa Hương Khê xứng đáng là đỉnh cao của phong trào Cần Vương. Đây cũng là thời điểm kết thúc sứ mạng lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu phong kiến Việt Nam chống Pháp.

Phan Đình Phùng không chỉ là người lãnh đạo tài năng mà còn là nhà thơ. Cụ đã sáng tác một số câu đối (Điếu Lê Ninh, Khốc Cao Thắng), thơ (Đáp hữu nhận ký thi, Thắng trận hậu cảm tác, Kiến ngụy binh thi cảm tác, Phúc đáp Hoàng Cao Khải). Tác phẩm của cụ cho ta thấy cụ là nhà nho trung nghĩa với dân với nước.

LSB_Lãng Tử
30-10-2006, 13:37
MẠC ĐĨNH CHI (1280 - 1350)


Mạc Đĩnh Chi - Danh thần nhà Trần. Ông tự là Triết Phu, quê ở Lũng Động, huyện Chí Linh Hải Dương), từ nhỏ đã nổi tiếng học giỏi. Năm 1304, ông đi thi Hội. Truyền rằng, bài thi của ông rất hay, các khảo quan xếp hạng nhất, dâng lên vua. Vua nghĩ ông là học trò của tên Việt gian Trần Ích Tắc nên lấy cớ là người xấu xí, không cho đỗ Trạng Nguyên. Ông biết được ý vua, bèn làm bài phú “Ngọc tỉnh liên” (Hoa sen trong giếng ngọc) dâng lên. Vua đọc xong xúc động vì tài năng và đức độ trong sáng của ông đã quyết định cho ông đỗ Trạng nguyên. Năm 1808, ông được cử đi sứ nhà Nguyên, khi đến Nam quan, bọn quan giữ cửa ải đã đóng cửa, ra câu đối thử tài : Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan (Qua cửa quan muộn cửa quan đóng, mời khách muộn qua cửa) . Ông đối ngay lại :
Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối (Ra câu đối dễ, đáp câu đối khó, xin tiên sinh đối trước) .

Chúng phục tài, mở cửa mời sứ đoàn ta đi. Từ đó, ông luôn được thử tài đối đáp với các đại thần nhà Nguyên, lần nào các đại thần cũng khâm phục. Thậm chí ngày vào chầu vua Nguyên, làm bài minh đề vào quạt để dâng, ông đã được vua Nguyên hết lời khen ngợi và viết bên lề bài minh 4 chữ “Lưỡng quốc trạng nguyên". Gặp lúc công chúa nhà Nguyên mất, ông được mời đọc điếu văn và một lần nữa, lời điếu của ông đã làm mọi người cảm phục. Tuy làm quan đến chức Nhập nội hành khiển, hữu ty lang trung, ông vẫn luôn luôn là vị quan nghiêm túc, liêm khiết. Vua Trần rất quý trọng, thậm chí có lúc đã bày cách để cấp thêm tiền cho ông. Ông cho sửa lại và xây thêm chùa Dâu (Bắc Ninh). Cuối đời ông được thăng Tả bộc xạ thuộc hàng ngũ đại thần

Ỷ LAN phu nhân


Nói đến triều Lý không thể không nói về Ỷ Lan, một trong những danh nhân có tài trị nước của dân tộc. Tên thật của Ỷ Lan là Lê Thị Yến, quê ở làng Thổ Lỗi sau đổi thành Siêu Loại (Thuận Thành, Bắc Ninh) nay thuộc Gia Lâm, Hà Nội. Vì mẹ mất từ lúc 12 tuổi, cha lấy vợ kế nên thân phận Ỷ Lan khổ như cô Tấm trong chuyện cổ. Sử ghi, Ỷ Lan là cô Tấm lộ Bắc, hay gọi đền thờ Ỷ Lan ở Dương Xá (Gia Lâm, Hà Nội) là đền thờ Bà Tấm là vì thế.

Năm ấy, vua Lý Thánh Tông 40 tuổi chưa có con trai nối dõi nên về chùa Dâu cầu tự. Vua và quần thần vãn xem phong cảnh trong vùng, chợt thấy trong ngày hội vui, mà trên nương vẫn có một người con gái vừa hái dâu vừa hát, vua vời xuống hỏi sự tình. Thấy Lê Thị Yến bội phần xinh đẹp, lại đối đáp lưu loát, vua cảm mến đưa về triều, rồi phong làm Nguyên phi, cho xây một cung riêng, đặt tên là cung Ỷ Lan để nhớ lại sự tích cô gái tựa gốc cây lan buổi đầu gặp gỡ.

Khác với các hậu phi, Ỷ Lan không lấy việc trau chuốt nhan sắc, mong chiếm được tình yêu của vua mà quan tâm đến hết thảy mọi công việc trong triều đình. Ỷ Lan khổ công học hỏi, miệt mài đọc sách, nghiền ngẫm nghĩa sách nên chỉ trong một thời gian ngắn, mọi người đều kinh ngạc trước sự hiểu biết uyên thâm về nhiều mặt của Ỷ Lan. Triều thần khâm phục Ỷ Lan là người có tài. Một lần vua Lý Thánh Tông hỏi Ỷ Lan về kế trị nước, Ỷ Lan tâu : "Muốn nước giàu dân mạnh, điều hệ trọng là biết nghe lời can gián của đấng trung thần. Lời nói ngay nghe chướng tai nhưng có lợi cho việc làm. Thuốc đắng uống khó chịu nhưng chữa được bệnh. Điều hệ trọng thứ hai là phải xem quyền hành là một thứ đáng sợ. Quyền lực và danh vọng thường làm thay đổi con người. Tự mình tu đức để giáo hóa dân thì sâu hơn mệnh lệnh, dân bắt chước người trên thì nhanh hơn pháp luật. Nước muốn mạnh, Hoàng đế còn phải nhân từ với muôn dân. Phàm xoay cái thế thiên hạ ở nhân chứ không phải ở bạo. Hội đủ những điều ấy, nước Đại Việt sẽ vô địch."

Nghe Ỷ Lan tâu, vua phục lắm. Bởi thế, năm 1069, vua Lý Thánh Tông thân cầm quân đi đánh giặc, đã trao quyền nhiếp chính cho Ỷ Lan. Cũng ngay năm ấy, nước Đại Việt không may bị lụt lớn, mùa màng thất bát, nhiều nơi sinh loạn. Nhưng nhờ có kế sách trị nước đúng đắn, quyết đoán táo bạo, loạn lạc đã được dẹp yên, dân đói đã được cứu sống. Cảm cái ơn ấy, cũng là cách suy tôn một tài năng, nhân dân đã tôn thờ Ỷ Lan là Quan Âm Nữ, lập bàn thờ Ỷ Lan. Vua đánh giặc lâu không thắng, bèn trao quyền binh cho Lý Thường Kiệt, đem một cánh quân nhỏ quay về. Đến châu Cư Liên (Tiên Lữ, Hải Dương) hãy tin Ỷ Lan đã vững vàng đưa đất nước vượt qua muôn trùng khó khăn, giữ cảnh thái bình, thịnh trị, vua hổ thẹn quay ra trận quyết đánh cho kỳ thắng mới về.

Năm Nhâm Tý (1072), vua Lý Thánh Tông đột ngột qua đời, triều Lý không tránh khỏi rối ren. Nhưng khi Ỷ Lan trở thành Hoàng thái hậu nhiếp chính và Lý Thường Kiệt nắm quyền Tể tướng thì nước Đại Việt lại khởi sắc, nhanh chóng thịnh cường. Ỷ Lan đã thi hành những biện pháp dựng nước yên dân, khiến cho thế nước và sức dân đã mạnh hẳn lên.

Năm Đinh Tỵ (1077), Tống triều phát đại binh sang xâm lược. Để Lý Thường Kiệt rảnh tay lo việc trận mạc, Thái hậu Ỷ Lan đã bỏ qua hiềm khích cũ, điều Lý Đạo Thành từ Nghệ An về, trao chức Thái sư như cũ, để cùng mình điều khiển triều đình, huy động sức người sức của vào trận. Nhờ vậy, nước Đại Việt đã làm nên chiến thắng hiển hách. Quân giặc hùng hổ toan làm cỏ nước Đại Việt đã phải cam chịu thất bại, lủi thủi rút quân về nước.

Làm nên chiến thắng này, công Thái hậu Ỷ Lan thực lớn. Nhưng trong đời Ỷ Lan không phải không có tì vết. Sau khi vua Lý Thánh Tông qua đời, Hoàng hậu Thượng Dương dựa vào thế lực của Thái sư Lý Đạo Thành, đã gạt Ỷ Lan ra khỏi triều đình. Mãi 4 tháng sau, có Lý Thường Kiệt giúp sức, Ỷ Lan mới trở lại nắm quyền nhiếp chính. Bà đã bắt giam Hoàng hậu Thượng Dương cùng 72 cung nữ vào lãnh cung, bỏ đói cho đến chết. Vì tội trạng ấy, sử sách phong kiến đã xóa sạch mọi công lao của bà đối với dân nước, mà quên mất rằng, trong nghiệp làm chính trị, đó là chuyện thường thấy.

LSB_Lãng Tử
30-10-2006, 13:39
Những điều ít được biết về Hoàng đế Quang Trung





Nguyễn Huệ quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, cùng dòng họ với Hồ Quý Ly và Hồ Xuân Hương. Năm Ất Mùi (1655), quân Nguyễn chiếm được 7 huyện ở sông Lam, bắt dân đưa vào Đàng Trong khai hoang. Cụ tổ bốn đời của Nguyễn Huệ bị bắt vào Nam. Lúc đầu ở ấp Tây Sơn Nhất thuộc huyện Quy Ninh, phủ Quy Nhơn. Đến đời Hồ Phi Phúc rời đến ở ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn, nay là thôn Kiên Mỹ, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, Bình Định. Hồ Phi Phúc và bà vợ là Nguyễn Thị Đồng sinh ra 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ.

Nguyễn Huệ sinh năm 1753 tại một ngôi nhà nhỏ bên bờ sông Côn, nơi có bến Trường Trầu, cùng với giếng nước, cây me xưa vẫn còn đến ngày nay. Thuở nhỏ, Nguyễn Huệ có tên là Hồ Thơm. Ba anh em Nguyễn Huệ đều theo học thầy giáo Hiến - một nhà Nho bất đắc chí với chính sách tàn ác của Trương Phúc Loan nên trốn vào Quy Nhơn mở trường dạy học ở ấp An Thái (An Nhơn ngày nay). Biết tài năng khác thường của ba anh em Tây Sơn, nên ông đã truyền cho họ hoài bão và ý chí của mình. Ông thường kể với họ việc chúa Nguyễn mưu biến Đàng Trong thành một nước riêng biệt, sống xa hoa đàng điếm. Quyền thần Trương Phúc Loan mặc sức đặt quan lập chúa, hãm hại người trung, vơ vét tiền của. Vàng bạc châu báu của Loan sáng rực cả sân. Ông khích lệ, cổ vũ cho sự nghiệp lớn của họ bằng câu sấm: “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công”, nghĩa là Tây Sơn khởi nghĩa sẽ lập nên sự nghiệp lớn ở đất Bắc, các con phải gắng sức.

Mùa xuân năm 1771, lúc Nguyễn Huệ 18 tuổi, cuộc khởi nghĩa bùng nổ, đất Tây Sơn sôi động. Lá cờ nghĩa bằng lụa đỏ dài 10m được dựng lên với khẩu hiệu lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo và lời hịch kể tội Trương Phúc Loan: “Giận phó quốc ra lòng bội thượng; Nên Tây Sơn xuống nghĩa Cần Vương”. Trong sách viết về nhà Tây Sơn được phổ biến dưới thời Nguyễn, con người và sự nghiệp Nguyễn Huệ đã bị xuyên tạc. Nhưng qua những tài liệu ấy, kết hợp với những tài liệu mới phát hiện gần đây, ta có thể thấy vài nét chân dung Nguyễn Huệ. Ông có mái tóc xoăn, da săn, mắt sáng, tiếng nói sang sảng như chuông, nhanh nhẹn và khỏe mạnh. Ông “có một con mắt nhỏ, nhưng cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn, thì ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu” (Tây Sơn lược thuật). Thậm chí, một cung nhân của nhà Lê nói rằng: “Nguyễn Huệ trỏ tay, đưa mắt, ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sợ sấm sét…”. (Hoàng Lê nhất thống chí).

Tiếng nói của Nguyễn Huệ cũng rất đặc biệt, như tiếng chuông, lời nói ngắn gọn, giản dị, thấm vào lòng người, tạo nên sự gần gũi, đồng cảm sâu sắc. Một lần ở Thanh Hóa, Nguyễn Huệ ngồi trên mình voi nói lớn: “Chư quân, hãy vì ta giết sạch chó Ngô đi. Nếu ai không muốn chiến đấu thì hãy xem ta trong một trận giết hàng vài vạn mạng người, đấy không phải là chuyện lạ đâu”. Ông vừa dứt lời, quân lính dạ ran như sấm, rung động núi rừng, trời đất biến đổi cả cảnh sắc, chiêng trống đồng thời vang lên (Lê Quý kỷ sự).

Nguyễn Huệ được xem là một bậc anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Năm lần vào Nam, ba lần ra Bắc, đều ẩn hiện như quỷ thần. Mỗi lần xông trận, ông thường dẫn quân đi đầu. Ngày mồng 5 tết Kỷ Dậu, trời còn chưa sáng, Nguyễn Huệ thân chinh đốc chiến, cho hơn trăm voi tiến lên trước, bộ binh theo sau, đánh nhau kịch liệt với quân Thanh. Giữa trưa, ông cùng với tướng sĩ, chiến bào nhuộm đen khói thuốc súng, tiến vào Thăng Long, kết thúc chiến dịch Ngọc Hồi - Đống Đa lịch sử. Tuy là võ tướng, nhưng Nguyễn Huệ rất am hiểu văn chương. Ông là vị Hoàng đế đầu tiên mạnh dạn dùng chữ Nôm để viết các văn bản của triều đình và cho lập Viện Sùng chính, sắc phong La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp làm Viện trưởng để lo việc dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm dùng vào việc dạy học cho nhân dân. Tương truyền trong một bức thư của vua Càn Long xin hai con voi đực đã được huấn luyện thuần thục của nước ta, Hoàng đế Quang Trung đã phê dí dỏm rằng: “Thằng Càn Long nó xin hai con voi; Xem con nào cụt vòi cho nó một con”. Hàng ngày, Nguyễn Huệ ứng đối, pha trò rất giỏi. Lần ra Bắc diệt họ Trịnh, khi Nguyễn Hữu Chỉnh ngỏ ý làm mối công chúa Lê Ngọc Hân cho ông, ông đã nói làm cho mọi người đều cười ầm: “Vì dẹp loạn mà ra, để rồi lấy vợ mà về, bọn trẻ nó cười cho thì sao. Tuy nhiên, ta mới chỉ quen gái Nam Hà, chưa biết con gái Bắc Hà, nay cũng thử xem có tốt không…”. Tuy vậy, Nguyễn Huệ rất nhân hậu, biết trọng nhân tài và giàu lòng thương người, với người tài và biết thời thế như Trần Văn Kỷ, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thiếp… thì ông tin dùng đối đãi rất hậu. Với kẻ có tài nhưng không chịu cộng tác, ông vẫn mở cho họ con đường sống: “Đáng lẽ trẫm phải ra oai sấm sét, khép các ngươi vào tội không chịu làm tôi, tịch thu gia sản và giết các ngươi để tỏ rõ phép thường. Nhưng các ngươi như người có bệnh nặng mà tối tăm nhầm lẫn... Trẫm một lòng yêu tiếc nhân tài, không thể chốc lát quên được. Nên đặc trách ban ơn tha tội cho các ngươi”.

Trong gia đình, Nguyễn Huệ sống với vợ con rất tình cảm. Ông có hai bà Hoàng hậu. Bà chính cung quê ở Quy Nhơn, là em cùng mẹ khác cha với Thái sư Bùi Đắc Tuyên và Hình bộ thượng thư Bùi Văn Nhật. Bà này sinh được 5 người con, 3 trai, 2 gái. Nguyễn Quang Toản là con cả, được lập làm Thái tử, về sau là vua Cảnh Thịnh. Bà họ Phạm là một phụ nữ thôn dã, nhưng có lẽ do gắn bó với Nguyễn Huệ từ rất sớm nên được ông quý trọng, thương yêu. Khi bà bị bệnh nặng, ông đã mời một thầy thuốc người Tây tên là Gi-ra vào chữa. Nhưng khi Gi-ra đến nơi thì bà đã mất. Trong một bức thư viết ngày 17/7/1791, giáo sĩ Sécrard đã kể: “Chánh hậu của Tiên vương (Quang Trung) mất vào khoảng tháng ba và ông đã khóc bà một cách sầu thảm. Ông đã cử hành tang lễ vô cùng linh đình trang trọng cho bà vào cuối tháng sáu. Dân Nam Hà đồn khắp nơi rằng ông đã băng hà vì quá đau buồn”.

Bắc cung hoàng hậu là công chúa Lê Ngọc Hân, con gái thứ chín vua Lê Hiển Tông và bà nguyên phi Nguyễn Thị Huyền người làng Phù Ninh, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay là xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà Nội). Ngọc Hân sinh ngày 27 tháng 4 năm Canh Dần (1770) tại quê ngoại, mất năm Kỷ Mùi (1799). Ngọc Hân đã sinh hạ cho Nguyễn Huệ một con trai là Nguyễn Văn Đức và một con gái là Nguyễn Thị Ngọc, sau này đều bị triều đình nhà Nguyễn giết hại. Công chúa Ngọc Hân là người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, vua Quang Trung rất yêu và có phần tự hào về bà. Hôm cưới, ông đắc ý nói với Ngọc Hân: “Con trai con gái nhà vua đã có mấy người được vẻ vang như nàng ?”. Hôm lễ tế vua Lê Hiển Tông, Nguyễn Huệ mặc đồ tang, đứng coi xét lễ nghi hết sức chu đáo… Nguyễn Huệ sống khoan dung, nhân hậu nên những người gần gũi ông đều tỏ lòng cảm kích. Bài thơ khóc chồng của công chúa Ngọc Hân thật cảm động, chứng tỏ tình yêu và lòng ngưỡng mộ của bà với tài, đức, công lao sự nghiệp của Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ...

LSB_Lãng Tử
30-10-2006, 13:41
Nhà bác học Lê Quý Đôn


Lê Quý Đôn (1726 - 1784) quê tại Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ (nay thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Ngay từ nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh, năm 27 tuổi đỗ Đình Nguyên, làm tới chức Bồi tụng. Ông được coi là nhà bác học lớn nhất của Việt Nam trong lịch sử trung đại, là tác giả của 40 bộ sách gồm hàng trăm quyển viếtvề nhiều lĩnh vực khác nhau. Ngoài ra, ông còn có cuốn Quế Đường thi tập với nghệ thuật thơ phong phú, đa dạng, tư tưởng sâu xa.

Lê Quý Đôn nguyên là Lê Danh Phương, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường, sinh ngày 2-8-1726, trong một gia đình khoa bảng; cha là tiến sĩ Lê Trọng Thứ, quê tại làng Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ, nay là thôn Phú Hiếu, xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Ngay từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh, chăm học. Năm 14 tuổi, Lê Quý Đôn theo cha lên học ở kinh đô Thăng Long. Lúc ấy cậu bé 14 tuổi đã học xong toàn bộ sách kinh, sử của Nho gia. 18 tuổi, Lê Quý Đôn thi Hương đỗ Giải nguyên. 27 tuổi đỗ Hội nguyên, rồi đỗ Đình Nguyên Bảng nhãn. Sau khi đã đỗ đạt, Lê Quý Đôn được bổ làm quan và từng giữ nhiều chức vụ quan trọng của triều Lê - Trịnh, như: Hàn lâm thừa chỉ sung Toản tu quốc sử quán (năm 1754), Hàn lâm viện thị giảng (năm 1757), Đốc đồng xứ Kinh Bắc (năm 1764), Thị thư kiêm Tư nghiệp Quốc tửGiám (năm 1767), Tán lý quân vụ, Thị phó đô ngự sử (năm 1768), Công bộ hữu thị lang (năm 1769), Bồi tụng (Phó thủ tướng) (năm 1773), Lại bộ tả thị lang kiêm Tổng tài quốc sử quán (năm 1775), Hiệp trấn tham tán quân cơ Trấn phủ Thuận Hóa (năm 1776), Hiệp trấn Nghệ An (năm 1783), Công bộ thượng thư (năm 1784)...

Lê Quý Đôn mất ngày 1-5-1784 tại quê mẹ, làng Nguyên Xá, huyện Duy Tiên (nay thuộc Hà Nam). Thi hài ông được đưa về mai táng ở quê nhà.

Trong cuộc đời làm quan của Lê Quý Đôn, có mấy sự kiện sau có ảnh hưởng lớn đối với sự nghiệp trước tác, văn chương của ông. Đó là chuyện đi sứ Trung Quốc năm 1760 - 1762. Tại Yên Kinh (Bắc Kinh), Lê Quý Đôn gặp gỡ các sứ thần Triều Tiên, tiếp xúc với nhiều trí thức nổi tiếng của nhà Thanh, bàn lận với họ những vấn đề sử học, triết học... Học vấn sâu rộng của ông được các học giả Trung Quốc, Triều Tiên rất khâm phục. ở đây, Lê Quý Đôn có dịp đọc nhiều sách mới lạ, kể cả sách của người phương Tây nói về địalý thế giới, về ngôn ngữ học, thủy văn học... Đó là các đợt Lê Quý Đôn đi công cán ở các vùng Sơn Nam, Tuyên Quang, Lạng Sơn những năm 1772, 1774, làm nhiệm vụ điều tra nỗi khổ của nhân dân cùng tệ tham nhũng, ăn hối lộ của quan lại, khám đạc ruộng đất các vùng ven biển bị địa chủ, cường hào địa phương man khai, trốn thuế... Chính nhờ quá trình đi nhiều, thấy nhiều, nghe nhiều, biết nhiều việc đời như vậy mà kiến thức Lê Quý Đôn trở nên phong phú vô cùng. Ông viết trong lời tựa sách Kiến văn tiểu lục: "Tôi vốn là người nông cạn, lúc còn bé thích chứa sách, lúc trưởng thành ra làm quan, xem lại sách đã chứa trong tủ, vâng theo lời dạy của cha, lại được giao du nhiều với các bậc hiền sĩ đại phu. Thêm vào đấy phụng mệnh làm việc công, bốn phương rong ruổi: mặt bắc sang sứ Trung Quốc, mặt tây bình định Trấn Ninh, mặt nam trấn thủ Thuận Quảng (Thuận Hóa, Quảng Nam). Đi tới đâu cũng để ý tìm tòi, làm việc gì mắt thấy tai nghe đều dùng bút ghi chép, lại phụ thêm lời bình luận sơ qua, giao cho tiểu đồng đựng vào túi sách".

Ngoài đầu óc thông tuệ đặc biệt cộng với vốn sống lịch lãm và một nghị lực làm việc phi thường, phải kể đến thời đại mà Lê Quý Đôn sống. Và ông là đứa con đẻ, là sản phẩm của thời đại ấy kết tinh lại.

Lê Quý Đôn sống ở thế kỷ thứ 18 thời kỳ xã hội Việt Nam có nhiều biến động lớn. Trong lòng xã hội Việt Nam đầy mâu thuẫn khi ấy đang nảy sinh những mầm mống mới của thời kỳ kinh tế hàng hóa, thị trường trong nước mở rộng, thủ công nghiệp và thương nghiệp có cơ hội phát triển... Tình hình đó đã tác động mạnh mẽ tới đời sống văn hóa, tư tưởng, khoa học. ở thế kỷ 18, xuất hiện nhiều tên tuổi rực rỡ như Đoàn Thị Điểm, Ngô Thì Sĩ, Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn, Lê Hữu Trác... Đồng thời các tri thức văn hóa, khoa học của dân tộc được tích lũy hàng ngàn năm tới nay đã ở vào giai đoạn súc tích, tiến đến trình độ phải hệ thống, phân loại. Thực tế khách quan này đòi hỏi phải có những bộ óc bách khoa và Lê Quý Đôn với học vấn uyên bác của mình đã trở thành người "tập đại hành" mọi tri thức của thời đại. Có thể nói, toàn bộ những tri thức cao nhất ở thế kỷ thứ 18 đều được bao quát vào trong các tác phẩm của Lê Quý Đôn. Tác phẩm của ông như cái mốc lớn đánh dấu thành tựu văn hóa của cả một thời đại với tất cả những ưu điểm cùng nhược điểm của nó.

Tác phẩm của Lê Quý Đôn thống kê có tới 40 bộ, bao gồm hàng trăm quyển, nhưng một số bị thất lạc. Những tácphẩm tiêu biểu của Lê Quý Đôn còn giữ được có thể kể ra như sau:

- Quần thư khảo biện, tác phẩm chứa đựng nhiều quan điểm triết học, lịch sử, chính trị được viết trước năm ông 30 tuổi.

- Vân đài loại ngữ, Lê Quý Đôn làm xong lúc ông 30 tuổi. Đây là một loại "bách khoa thư", trong đó tập hợp các tri thức về triết học, khoa học, văn học... sắp xếp theo thứ tự: Vũ trụ luận, địa lý, điển lệ, chế độ, văn nghệ, ngôn ngữ, văn tự, sản vật tự nhiên, xã hội... Vân đài loại ngữ là bộ sách đạt tới trình độ phân loại, hệ thống hóa, khái quát hóa khá cao, đánh dấu một bước tiến bộ vượt bậc đối với nền khoa học Việt Nam thời phong kiến.

- Đại Việt thông sử, còn gọi Lê triều thông sử, là bộ sử được viết theo thể ký truyện, chép sự việc theo từng loại, từng điều một cách hệ thống, bắt đầu từ Lê Thái Tổ đến Cung Hoàng, bao quát một thời gian hơn 100 năm của triều Lê, trong đó chứa đựng nhiều tài liệu mới mà các bộ sử khác không có, đặc biệt là về cuộc kháng chiến chống Minh.

- Kiến văn tiểu lục, là tập bút ký nói về lịch sử và văn hóa Việt Nam từ đời Trần đến đời Lê. Ông còn đề cập tới nhiều lĩnh vực thuộc chế độ các vương triều Lý, Trần, từ thành quách núi sông, đường xá, thuế má, phong tục tập quán, sản vật, mỏ đồng, mỏ bạc và cách khai thác cho tới các lĩnh vực thơ văn, sách vở...

- Phủ biên tạp lục, được viết trong thời gian Lê Quý Đôn làm Hiệp trấn Thuận Hóa. Nội dung ghi chép về tình hình xã hội. Đàng Trong từ thế kỷ thứ 18 trở về trước.

Công trình biên soạn lớn nhất của Lê Quý Đôn là bộ Toàn Việt thi lục 6 quyển, tuyển chọn 897 bài thơ của 73 tác giả từ thời Lý đến đời Lê Tương Dực (1509 - 1516). Lê Quý Đôn hoàn thành Toàn Việt thi lục năm 1768, dâng lên vua, được thưởng 20 lạng bạc.

Về sáng tác văn xuôi, theo Phan Huy Chú, Lê Quý Đôn có Quế Đường văn tập 4 quyển, nhưng sách này đã mất. Về sáng tác thơ, Lê Quý Đôn để lại có Quế Đường thi tập khoảng vài trăm bài làm ở trong nước và trong thời gian đi sứ Trung Quốc.

Nhận xét tổng quát về thơ Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú viết: "Ông là người học vấn rộng khắp, đặt bút thành văn. Cốt cách thơ trong sáng. Lời văn hồn nhiên..., không cần suy nghĩ mà trôi chảy dồi dào như sông dài biển cả, không chỗ nào không đạt tới, thật là phong cách đại gia".

Quan niệm về thơ của Lê Quý Đôn được tổng hợp lại như sau: "Làm thơ có 3 điểm chính: một là tình, hai là cảnh, ba là việc. Tiếng sáo thiên nhiên kêu ở trong lòng mà động vào máy tình; thị giác tiếp xúc với ngoài, cảnh động vào ý, dựa cổ mà chứng kim, chép việc thuật chuyện, thu lãm lấy tinh thần... đại để không ngoài ba điểm ấy".

Đây là những tiêu chuẩn về thơ mà Lê Quý Đôn đề ra cho quá trình sáng tác của mình. Đọc thơ Lê Quý Đôn, chúng ta thấy thơ ông thật phong phú đa dạng, sâu sắc về tư tưởng, nghệ thuật và để lại trong lòng ta những xúc động đẹp đẽ, sâu xa:

Thành cổ lộng

Thành hoang tường đổ đã bốn trăm năm,
Dây dưa, dây đậu leo quấn xanh tốt.
Sóng biết đã rửa sạch nỗi hận cho vua Trần,
Cỏ xanh khó che lấp sự hổ thẹn của Mộc Thạnh.
Sau trận mưa bò vàng cầy bật gươm cũ,
Dưới trăng chim lạnh kêu bên lầu tàn.
Bờ cõi cần gì phải mở rộng mãi
Đời Nghiêu Thuấn xưa chỉ có chín châu thôi.

LSB_Lãng Tử
30-10-2006, 13:48
- HỒ CHÍ MINH - Khía cạnh đặc trưng của nhà văn hóa Việt Nam




Trở lại cuộc hành trình của Bác Hồ vào những năm 20 với nhiều khao khát học tập xem nghe, tích luỹ bằng sự cần cù và trí thông minh. Bác đã nhanh chóng tạo được một vốn kiến thức khá rộng trên nhiều mặt : xã hội, chính trị, khoa học, văn hóa, văn học, nghệ thuật. Nhiều khả năng sáng tạo đã được bộc lộ : khả năng diễn thuyết, viết truyện, dựng kịch, vẽ tranh, và có thể, cả làm thơ không kể khả năng làm báo, viết báo với mọi phong cách luận chiến sắc sảo. Trong hành trang tinh thần cửa mình ở tuổi ba mươi, Bác đã có không ít các thứ vốn : tư tưởng, triết học, văn hóa, văn học, nghệ thuật...


Nhưng rõ ràng, Bác không có ý định trở thành bất cứ một nhà gì trong số đó. Bác càng không bị các ham mê đó chi phối, hay nói cách khác, Bác đã biết kìm giữ niềm yêu thích vun đắp cho mình một sự nghiệp riêng dẫu bất cứ là nghề gì. Bởi lẽ, cái định hướng lớn nhất, có sức cuốn hút mạnh nhất đối với anh vẫn là số phận của hai mươi lăm triệu đồng bào quê hương còn chìm trong đau khổ. Anh không thể là nhà văn, nhà báo : họa sĩ, diễn viên hoặc người thông dịch, hoặc khách du lịch,... Tất cả mọi thứ nghề đó, đối với anh đều chỉ là phương tiện. Và như sau này Trần Dân Tiên kể lại, để mượn lời ông Nguyễn : "Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đó là tất cả những điều mà tôi muốn, đó là tất cả những điều tôi hiểu".

Điều dễ hiểu là sau những tìm tòi để rút ra được cái "cẩm nang" cứu nước, Nguyễn Ái Quốc sẽ chuyển hướng mọi hoạt động của mình vào một mục tiêu cụ thể : đó là công việc tuyên truyền và tổ chức cách mạng. Sau rất nhiễu thử nghiệm với công cụ chữ nghĩa, bẵng đi mấy năm vào năm í927, Nguyễn Ái Quốc đã xuất hiện trong một tác phẩm có cái tên vang động : Đường kách mệnh. Đường kách mệnh đó mới chính là câu chuyện Bác ngày đêm tâm nguyện : "Sách này chỉ ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm kách mệnh. Văn chương này hy vọng này chỉ ở trong hai chữ : "Kách mệnh". Rồi tiếp đó, chỉ ba năm sau, sau cuốn sách cho đội tiên phong của "đường kách mệnh", Bác viết tiếp Nhật ký chìm tàu cho chính quần chúng cách mệnh. Nhật ký chìm tàu đó là bức tranh cần thiết cho quần chúng số đông, kịp cổ vũ họ và nâng đỡ họ bước vào một cao trào đấu tranh rồi sẽ bị dìm vào khói súng - cao trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh.

Con người mang tên Nguyễn Ái Quốc đã định hướng cho cuộc đời mình, ngay từ tên gọi. Con người có vốn hiểu biết lớn trên nhiều lĩnh vực, nhưng không có ý định làm một trí thức, một nhà văn hóa phương Tây, vì sự tất yếu của lịch sử buộc anh phải trở thành một nhà cách mạng phương Đông. Và phương Đông trong cách nhìn của "thế giới văn minh" lúc này - sản phẩm của chính sách bóc lột và ngu dân, là sự đồng nghĩa với tối tăm và đau khổ. Tác phầm lớn của Nguyễn Ái Quốc viết cho phương Đông, cho Đông Dương đang đòi hỏi "thức tỉnh", dĩ nhiên phải là Đường Kách mệnh, và Nhật ký chìm tàu. Cả hai gộp lại có vị trí của một "Nhà nước và cách mạng" của Lê-nin : nhưng là một Lê-nin của phương Đông, nói cách khác nó phải mang một hình thức chuyên chở khác : giản dị, phổ cập, dễ hiểu, mà chương đầu được chọn là chương Tư cách người cách mệnh.

Những năm 30, đối với dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc là nhà cách mạng, và nhà cách mạng trở thành lãnh tụ của dân tộc, khi tình thế cách mạng xuất hiện vào buổi đầu những năm bốn mươi. Cũng như giai đoạn tìm đường, mọi công cụ báo chí văn học, nghệ thuật, tranh vẽ để tuyên truyền cổ động cách mạng lại được Bác Hồ khẩn trương huy động. Đó là những năm xuất hiện dồn dập các thư từ, lời kêu gọi, diễn ca lịch sử, bài ca Việt Minh và báo Việt Nam độc lập... Cuộc ra quân rầm rộ của đội quân chữ nghĩa này, dưới sự điều hành linh hoạt của Bác Hồ sẽ là chất gây men, là ngòi nổ dồn dập cho các hoạt động của phong trào quần chúng xốc tới cao trào tháng Tám năm 1945. Và thời điểm 1945 đã chứng kiến sự hội nhập, và tỏa sáng của hai cuộc hành trình : vũ khí tiếng nói và tiếng nói vũ khí, trong một bản văn lịch sử : Tuyên ngôn độc lập.

Tuyên ngôn độc lập là sáng tạo của một cá nhân, cũng đồng thời là sản phẩm của lịch sử. Là kết quả của những hy sinh của dân tộc trong gần một thế kỷ, đồng thời là sự kết tinh giá trị của hàng ngàn năm văn hóa Việt Nam. Người viết Tuyên ngôn, vừa là đại diện cho nhân dân ở tư cách một hậu sinh xứng đáng với truyền thống, vừa là đại diện cho dân tộc tìm được sự khai thông với nhân loại như một người đồng thời. Trên hai bình diện lịch đại và đồng đại, Tuyên ngôn độc lập xứng đáng là đại diện cho dân tộc ở tư thế của lịch sử văn minh và văn minh của lịch sử. Đó là lời của lãnh tụ nói với dân tộc hay cũng chính là lương tâm dân tộc ? Đó là lời của dân tộc nói với nhân loại, hay chính là lương tâm nhân loại ?

*****

Người cách mạng Nguyễn Ái Quốc đi tìm sự soi sáng về lý luận, rồi dùng lý luận để soi sáng cho cả một dân tộc trên suốt 30 năm đã thành lãnh tụ Hồ Chí Minh, từ sau 1945. Cuộc sống vẫn tiếp tục không cho phép Bác đi tìm thú vui riêng cho mình - cái thú lâu lâu ta lại thấy bất chợt loé lên trong các vần thơ

"Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau"
(Tin thắng trận, 1948)
Việc quân việc nước đã bàn
Xách bương dắt trẻ ra vườn tưới rau
(Không đề)

Trong vị trí lãnh tụ của dân tộc, Người vẫn phải tiếp tục sứ mệnh mà lịch sử và nhân dân phó thác. Hai cuộc kháng chiến nối liền nhau trên trọng trách lịch sử - Tổng tư lệnh tối cao, Hồ Chủ Tịch phải tổ chức cho dân tộc Việt Nam sự kết hợp chiến đấu và sản xuất để bảo đảm chiến thắng và duy trì cuộc sống xây dựng hòa bình theo hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Quả thực cho đến bây giờ, sau 20 năm Bác đi xa, ta càng nhận rõ : Bác là lãnh tụ hiếm hoi, nếu không nói là duy nhất trong lịch sử dân tộc, có sự quan tâm đến nhiều lĩnh vực của đời sống, có vốn hiểu biết trên nhiều hoạt động xã hội. Một cái vốn lớn do sự từng trải mà có, và sau này, do yêu cầu chỉ đạo mọi hoạt động thực tiễn mà Bác là người chỉ huy và chịu trách nhiệm tối cao. Một kiểu lãnh tụ với các phẩm chất toàn năng hiếm hoi không dễ có, được tạo nên do những tình thế lịch sử đặc biệt. Một kiểu người khai sáng với ưu thế đặc biệt của trí tuệ, không chỉ có sứ mệnh mở đường mà còn phải đưa toàn dân lên đường và thực hiện từng bước các mục tiêu đã chọn. Phải làm sao cho dân tin và hiểu. Và hiểu để mà tin thêm. Đó là một quá trình rất đáng chú ý trong sinh hoạt tinh thần của dân tộc Việt Nam hơn nửa thế kỷ qua. Trong cái động tác lắng nghe và theo gương Bác Hồ của toàn dân tộc Việt Nam quả có một quá trình chiêm nghiệm và chuyển hóa, vì người nói là Bác, là người có cả một cái lớn của sự từng trải bao gồm cả cái vốn kiến thức văn hóa kim - cổ, đông - tây mà người đã thâu nhận được từ rất nhiều nguồn. Trước cái vốn ấy, quả bất cứ ai trong chúng ta, không kể những người bình thường, mà ngay cả những trí thức tên tuổi, những nghệ nhân lão luyện cũng phải khâm phục và vị nể. Chẳng hạn trong lời Bác căn dặn hai nghệ sĩ Nguyễn Nho Tuý và Ngô Thị Liễu, sau đêm diễn vở tuồng "Chị Ngộ" : "Nghệ thuật của cha ông hay lắm, tốt lắm. Cố mà giữ gìn. Nhưng chớ có gieo vừng ra ngô". Khỏi phải nói thêm, đã tuồng thì phải giữ cho được chất tuồng, chứ không phải là cải lương, kịch nói, là chèo. Còn trong lời Bác khen Tú Mỡ khi nhà thơ trào phúng biểu diễn chèo "cây nhà lá vườn" : "Chèo thì phải chèo cho vững !" lại bao hàm một ý khuyên nhủ khác, không chỉ riêng với Tú Mỡ, nhà thơ nhân dân như cách Bác nói, mà có thể là cho cả một lớp nhà văn trong buổi đầu gian nan của kháng chiến chống Pháp. Còn có thể kể thêm nhiều những dẫn chứng như thế.

Vậy là với tư cách lãnh tụ, Bác Hồ đã không nhận vai trò chuyên gia trên bất cứ lĩnh vực nào của hoạt động tinh thần hoặc thực tiễn. Nhưng với tư cách là người khai sáng, các ý kiến của Người luôn luôn có giá trị soi rọi. Có thể nói, cho đến nay, qua kiểm nghiệm của thực tiễn, và thử thách của thời gian, nhiều ý kiến của Bác vẫn cứ là chân lý. Không kể những chân lý lớn đã thành tuyên ngôn, thành khẩu ngữ chung cho dân tộc, và mang tầm thời đại, ngay trong lĩnh vực văn hoá, khoa học, nghệ thuật, nhiều ý kiến của Bác vẫn tiếp tục là sự chỉ đạo cho nhận thức và hoạt động nghề nghiệp : "Văn hóa, văn nghệ, cũng như mọi hoạt động khác không thể ở ngoài mà phải ở trong kinh tế, chính trị..."Dân tộc bị áp bức thì văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do thì phải tham gia cách mạng", "Chúng tôi không chỉ vay mà không trả...", "Phải có trước mới có sau, có cũ mới có mới, nh­ng ta không nên nệ cổ...", "Miêu tả cho hay, cho chân thật, cho hùng hồn những người mới, việc mới". Có điều, Bác là người biết dừng lại ở chỗ cần dừng, không quá đi sâu vào những điều quá "chuyên", hoặc còn có thể bàn cãi.... Đặc biệt với trí tuệ uyên bác và với lối sống giản dị, chan hoà với quần chúng của Người, Người đã tạo một từ trường rộng rãi có sức thu hút, cảm hóa mọi tầng lớp trí thức, khoa học, văn hóa, văn học, nghệ thuật Việt Nam. Với sức thu hút đó, Người đã tập hợp, dẫn dắt biết bao nhiêu trí thức đi vào con đường cách mạng và cống hiến xuất sắc cho sự nghiệp cách mạng. Trong số họ, có không ít người còn xa lạ hoặc chưa biết cách mạng, nhưng do may mắn được tiếp xúc với Bác mà đến với cách mạng. Đối với họ, giây phút gặp gỡ Bác có ý nghĩa một cuộc đổi mới.

Hẳn rồi còn phải đi sâu thêm vào sức hút đó, nó là hạt nhân, là từ trường, là vùng phát sáng lớn để tạo nên sự đồng tâm nhất trí, tạo nên mối giao cảm vĩ đại vốn là nét đặc trưng cho đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam giữa thế kỷ XX.

*****

Nguyễn Ái Quốc, rồi Hồ Chí Minh đã viết trong suốt cuộc đời mình, từ Đông Dương thức tỉnh, đến Di chúc thiêng liêng, Người đã viết trên rất nhiều thể loại nhưng chưa bao giờ lấy viết làm một sự nghiệp. Dễ hiểu, Người không nhận bất cứ tư cách chuyên gia hoặc nghệ sĩ. Trong khi trả lời những bạn bè nước ngoài, Người đã khéo léo hoặc cương quyết từ chối tất cả mọi danh hiệu. Nhưng những gì có giá trị vẫn cứ tự nhiên tồn tại. Tôi sẽ không nhắc lại ở đây những ý kiên đánh giá Nhật ký trong tù - một sản phẩm ngẫu nhiên, Bác đã hái l­ợm trên lộ trình gian nan và vĩ đại của đời mình. ở tất cả những gì Bác đã viết, ngay cả trong dạng ngắn gọn và ngẫu nhiên, vẫn thấy toát lên một phong cách riêng - vừa sự lịch lãm, am hiểu, vừa là sự giản dị, dễ hiểu. Thông thường khó có thể dung hoà hai vế thật ra là tương phản nhau như vậy. Nhưng điều kỳ diệu, nó lại chính là nét riêng làm thành đặc trưng của văn chương Bác Hồ, không bắt chước ai, và cũng không ai bắt chước được.

Lý giải điều này khỏi phải đi tìm sự tìm độc đáo, khác thường ở Bác Hồ. Người khác với mọi người, nhưng không xa lạ hoặc đứng trên mọi người. Người không bao giờ đi săn cái lạ. Mà vì một lẽ đơn giản Bác là người quan tâm hàng đầu đến chuyện viết cho ai ? Thế kỷ XX, đối với Việt Nam là thế kỷ cách mạng hoá một dân tộc, đưa dân tộc ra khỏi số phận nô lệ, cũng đồng thời là thế kỷ khoa học hóa, để đưa trình độ nhân dân thoát khỏi ra khỏi một khởi điểm quá thấp, trên 95% mù chữ. Người đã viết và sử dụng sành sõi tiếng Pháp, tiếng Hán cũng chính là người quan tâm hơn hết đến khả năng của tiếng Việt, sao cho tiếng Việt đến được với mọi tầng lớp đồng bào. Khi chưa có một cuộc cách mạng đem lại quyền sống, cơm áo và tự do cho đồng bào thì việc làm báo (tờ Le Paria, Việt Nam hồn đến Việt Nam độc lập) là đưa lại một ánh sáng văn hoá để soi cho họ con đường đi vào cách mạng chính trị. Người biết viết cho một công chúng chọn lọc bằng cách huy động tất cả cái vốn kiến thức của nhiều chục năm tích luỹ từ nhiều nền văn hóa, cũng chính là là người biết viết cho một công chúng còn đang thanh toán nạn mù chữ. Đặt nhiệm vụ chống giặc dốt, bên cạnh giặc đói và ngoại xâm, một tuần lễ sau khi dọc Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chủ Tịch đã ký sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ. Hơn một năm sau cuộc vận động Bình dân học vụ, hai triệu người Việt Nam thoát nạn mù chữ. Trong cách thức đưa nội dung chính trị vào văn chương trong yêu cầu tuyên truyền trực tiếp các nhiệm vụ cách mạng, trong cách chọn câu chữ, thể loại, văn phong sao cho linh hoạt, sát hợp với các loại công chúng khác nhau, ta nhận ra ở văn chương Bác Hồ một cách có hiệu quả và tối ưu những tình thế éo le đặt ra khá căng thẳng, ít ra là trong nửa đầu thế kỷ XX của văn chương Việt Nam hiện đại.

Trong "Sửa đổi lề lối làm việc", trong cách viết, những bài nói, bài viết của Người với các giới văn hoá, khoa học, nghệ thuật, trên một định hướng lớn "Kháng chiến hóa văn hóa và Văn hóa hóa kháng chiến" được đề ra ngay sau Cách mạng thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp công lớn vào việc xây dựng những nền tảng cơ bản cho quá trình khoa học hóa, văn hóa hoá nền dân trí Việt Nam. Ng­ời là nhà cách mạng, là danh nhân lịch sử, đó là điều hiển nhiên. Nhưng đồng thời Người còn là danh nhân văn hóa, không phải, ở cái khối lượng rộng lớn các kiến thức mà Người đã huy động để làm một nhà văn hóa phương Đông hoặc phương Tây, hoặc Đông - Tây kết hợp - mà là nhằm vào một sự nghiệp cao cả, với sự nghiệp đó, cả một dân tộc và cả một nền văn hóa dân tộc được phục hưng. Người còn danh nhân văn hóa ở chỗ đã lĩnh sứ mệnh là người đầu tiên có quyết tâm và đủ sức đưa lên trên đôi vai mình một nhân dân được trang bị cơ bản để đón nhận dần dần, từng bước các tầng cao của văn hoá.



******

HỒ CHÍ MINH trong lòng nhân loại

"Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một nền văn hóa, không phải văn hóa châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa của tương lai...

Dân tộc Việt Nam là một dân tộc giản dị và lịch sự. Qua cử chỉ cao thượng, tiếng nói trầm lắng của Nguyễn Ái Quốc, tôi như thấy được ngày mai, như thấy được viễn cảnh trời yên bể lặng của tình hữu ái toàn thế giới bao la như đại dương"

ÔXÍP MANDENXTAM, 1924

"Cử chỉ văn hóa và thân mật của Người gây một ấn tượng là Người có uy tín. Người có thể trở thành lãnh tụ không phải bằng một cái gì bề ngoài mà bằng học thức, bằng trí tuệ của Người".

"Hồ Chí Minh kết hợp chất anh hùng và đạo lý (...), ông luôn luôn là một thứ Gandhi mác-xít... đại diện cho triết lý Á Đông"

GIĂNG RU

" Hồ Chí Minh là một trong số các nhân vật lạ lùng nhất của thời đại chúng ta - pha trộn một chút Gandhii, một chút Lênin, hoàn toàn Việt Nam. Chắc chắn là hơn hẳn bất cứ nhân vật nào của thế kỷ này, Người là sự hiện thân sinh động cho Cách mạng của dân tộc Người và của toàn thế giới".

ĐAVÍT HAMBECXTAM

" Đó là một người cộng sản theo lý tưởng... Tôi thấy ông dường như luôn luôn chịu ảnh hưởng của tác giả lớn của ông là Mác, chắc chắn là cả Lênin nữa... Nhưng trong ông có Giô-rex... Ông là người đã chọn chủ nghĩa cộng sản, đúng thế, nhưng có một chủ nghĩa nhân văn sâu sắc... Tôi cho là trong thế giới cộng sản, chắc chắn ông là một trong những người chấp nhận cách mạng cộng sản chủ nghĩa, phải !... nhưng trong tự do"

ETMÔNG MISƠLÊ

" Xét thấy sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh truyền thống của văn hóa hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau".

Nghị quyết của UNESCO

" Hồ Chí Minh đã thành công trong việc liên kết nhiều sắc thái văn hóa vào một nền văn hóa Việt Nam duy nhất. Người đã làm được việc này nhờ sự hiểu biết sâu sắc và tôn trọng những đặc điểm văn hóa khác nhau. Người đã hoàn thành được nhiệm vụ này và trong việc làm và lời nói của Người, ta có thể nhìn thấy rõ hình ảnh, tư tưởng của nhà thơ, nhà văn, nhà nghệ sĩ dân ca, những người đem lại nguồn cảm xúc cho nhiều thế hệ nhân dân Việt Nam. Cuộc đời của Người mang ảnh hưởng của những giá trị và truyền thống dân tộc, có những đóng góp vào việc tạo nên một nền văn hóa Việt Nam hiện đại.

Chỉ có ít nhân vật trong lịch sử trở thành một bộ phận của huyền thoại ngay khi còn sống và rõ ràng Hồ Chí Minh là một trong số đó. Người sẽ được ghi nhớ không phải chỉ là người giải phóng cho Tổ quốc và nhân dân bị đô hộ, mà còn là một nhà hiền triết hiện đại đã mang lại một viễn cảnh và hy vọng mới cho những người đang đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi trái đất này".

Tiến sĩ M.AMÉT
Giám đốc UNESCO Khu vực châu Á - Thái Bình Dương

" Để hiểu ý nghĩa của bản Nghị quyết của UNESCO, tôi hình dung Hồ Chí Minh là người đem lại ánh sáng, ánh sáng văn hóa, ánh sáng cách mạng cho nhân dân ta và góp phần đem lại ánh sáng cho nhân dân nhiều nước khác, để xua tan bóng tối của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, của dốt nát, đói nghèo, bệnh tật đè nặng lên cuộc sống của các dân tộc bị áp bức...

Sự nghiệp văn hóa lớn lao nhất, quan trọng nhất của Hồ Chí Minh là đã huy động sức mạnh của truyền thống 4000 năm văn hiến của dân tộc kết hợp với tinh hoa văn hóa của thời đại, lãnh đạo thành công sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành lại cho nhân dân ta quyền làm người, quyền được sống một cuộc sống xứng đáng với con người. Sự nghiệp đó trả lại địa vị xứng đáng cho nền văn hóa Việt Nam, cũng là một sự nghiệp có ý nghĩa to lớn đối với nền văn hóa thế giới, góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa, từng bước tiến lên thanh toán chủ nghĩa thực dân, xóa đi một vết nhơ trong lịch sử và trong nền văn hóa của loài người.

Sự nghiệp văn hóa của Hồ Chí Minh đem đến cho kho tàng văn hóa thế giới những giá trị lớn, thể hiện khát vọng của nhân dân các nước trong cuộc đấu tranh vì các quyền dân tộc cơ bản, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc, mỗi dân tộc khẳng định bản sắc văn hóa của mình và phát triển sự hiểu biết với các dân tộc khác".

"... Hồ Chí Minh là một nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam và của loài người, với ý nghĩa đầy đủ nhất của danh hiệu Nhà văn hóa. Ở Hồ Chí Minh, nhà văn hóa lớn gắn liền với nhà nhân văn lớn, phát huy truyền thống của một dân tộc "văn hiến".

Hồ Chí Minh là một nhà văn hóa lớn, vì cuộc đời và sự nghiệp của Người là tấm gương về nhân sinh quan và thế giới quan cao đẹp, làm sáng lên một chủ nghĩa nhân văn trùng với những ước mơ cổ truyền của dân tộc Việt Nam và các dân tộc, kết tinh những tư tưởng và tình cảm lớn của loài người".

"... Đổi mới và văn hóa quan hệ mật thiết với tư tưởng Hồ Chí Minh như hình với bóng... Nghiên cứu, học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là một kho tàng đầy của báu, là di sản chứa đựng biết bao giá trị, giá trị đó nói cho cùng là giá trị văn hóa mà chúng ta khai thác chưa được bao nhiêu"

Cố thủ tướng PHẠM VĂN ĐỒNG

" Sự nghiệp văn hóa quan trọng nhất của Người là đã lãnh đạo toàn dân đánh đuổi giặc ngoại xâm trong thời đại mới, giành lại cho nhân dân những quyền sống của của người, một cuộc sống có văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần cùng với loài người loại trừ một trở lực to lớn trên con đường tiến lên thế giới văn minh, xóa đi một vết nhơ trong lịch sử là chế độ thuộc địa".

"...Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao, nhưng cũng rất coi trọng văn hóa. Văn hóa là sức mạnh cơ bản của mọi dân tộc, của mỗi một con người. Dân tộc Việt Nam đã từng bị đô hộ 1000 năm, nhưng vẫn tồn tại và phát triển, vì Việt Nam giữ vững được dân chủ ở cơ sở, xóm làng, giữ được nền văn hóa truyền thống lâu đời.

Bác Hồ, văn hóa là sự kết tinh văn hóa nghìn năm của đất nước Việt Nam trên cơ sở đổi mới, kết hợp hài hòa tinh hoa văn hóa của nhân loại, tinh hoa của Sếch-spia, Vích-to Huy-gô, Lỗ Tấn, v.v...tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin...

Bác Hồ là nhà văn hóa kiệt xuất, là sự kết tinh tinh hoa của nền văn hóa Việt Nam và phần nào đó là tinh hoa văn hóa của nhân loại."

Đại tướng VÕ NGUYÊN GIÁP