PDA

View Full Version : Ngôn Từ Thơ


TC NGUYỄN
16-07-2006, 16:24
NGÔN TỪ THƠ

Khi thưởng ngọan một bài thơ, ta thường hút mình vào khoảng không gian có được bằng những ngõ ngách tạo dựng còn lại của tác giả và biến mình thành chủ thể mặc sức mà trải hồn để tìm kiếm những cảm nhận của riêng mình.
Nếu thu thập được một bài thơ nơi đó có thể hòa nhập với hồn ta thì tự nhìên nó tạo ra một thi hứng như của chính mình và bài thơ đó biến thành của ta và tác giả là ai trong khoảnh khắc bị hất ra lề cuộc chơi.
Như vậy một bài thơ khi được đưa ra quần chúng đọc thì tự nó là của mọi người đang thưởng ngoạn, nó không còn đóng khung trong sự tư riêng trong cái tôi của người tạo ra bài thơ đó nữa. Một bài có nhiều người đồng tình thả hồn vào đó một cách dễ dàng và nhớ mãi thì bài thơ ( thi sĩ ) có chổ đứng một cách hẳn nhiên.
Nhiều khi một bài thơ chỉ cần đôi câu hay cũng đủ rồi, vì bản chất của thơ là cô đọng ngôn từ, nhờ vào tiết điệu âm thanh đưa đẩy… làm nẩy ra những ý ngoài lời và người thưởng ngoạn tùy theo vị thế của mình tác động vào càng nhiều, càng đi xa…và đến một lúc nào đó sẽ qui tụ cùng nhau ở cảm nhận, đó là sự đồng điệu người thơ hay dùng để chỉ về một đẳng cấp thưởng ngoạn… , nó giống như những đường song song gặp nhau ở vô cực. Trong toán học sự gặp nhau có tính cách xác quyết nhưng trong thơ nó mông lung và lệ thuộc vào cách xử dụng ngôn từ khai triển ý nghĩa để lãnh hội được càng nhiều càng tốt và vươn dài ra để rồi co cụm hội tụ lại, thì lúc đó nó mới phơi bày ra sự cảm nhận được ý thơ, hồn thơ … theo tâm tư của người đồng điệu.

Bài thơ Màu thời gian độc nhất vô nhị của Đoàn Phú Tứ có thể là một dẫn dụ :


Màu thời gian

Sớm nay tiếng chim thanh
Trong gió xanh
Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình

Ngàn xưa không lạnh nữa, Tần phi
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian

Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh

Tóc mây một món chiếc dao vàng
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng

Duyên trăm năm đứt đoạn
Tình một thuở còn hương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát

Với một tiêu đề đầy tính Triết như vậy mà tác giả lại xoay quanh một khúc nôi tình cảm, giải bày tâm tình qua ẩn dụ vấn vương của một dòng thi tứ đầy lãng mạn. Thơ là người, người là thơ, hay nói khác hơn là sự giải bày tâm tư tình cảm bị ứ đọng do một cơ duyên nào đó có lẽ là sự cọ sát đối chọi tự trong cõi hỗn mang của hiện sinh để làm xuất hiện ra một cảnh giới mới trong tâm ảo tha hồ xuất thế đi vào một cõi mộng mơ huyền hoặc để đầy vơi tâm sự mình.

Thơ là chuỗi dài mang mác những uyển từ đầy ẩn dụ tạo thành âm điệu đầy vương vấn, khởi đầu nhà thơ cho ta đi vào một thế giới dịu mát của một sớm mai yên lành của một khoảng không gian mở ra dễ thương và đầy tình tự

Sớm nay tiếng chim thanh
Trong gió xanh
Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình

Dìu vương hương… , chỉ có ba chữ thôi đã tạo ra sợi tơ vương kéo dài quấn quýt lấy tiếng chim thanh ảo biến trong gió xanh hòa nhập vào nhau tạo ra tâm cảnh cho nhà thơ đưa hồn mình vào một quảng trời quên lãng xa tít mịt mù khơi, ở đó tự mình nhập thế và thành một Hán Vũ Đế muốn choàng tay âu yếm nàng cung phi yêu dấu để tặng nàng tất cà trời mây phảng phất nhuốm thời gian nhưng bị nàng từ chối…, đã làm lay động đến ngàn sau một nỗi nôn nao của câu chuyện tình dường như đã vùi chôn, bỗng nhiên quay về…

Ngàn xưa không lạnh nữa, Tần phi
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian

Thơ có thể nói là một sự xảo ngôn để hướng đến sự dàn dựng tâm cảnh khơi động tâm thức người thưởng ngoạn được đi về một cách tự do, để tự tìm kiếm ngả vào xuyên suốt qua tác phẩm, nẩy sinh ra một cuộc xung đột nội tại, tạo ra sự xáo trộn bất hòa vì người thưởng ngoạn thường hay bị ngưng đọng bởi ý nghĩa ngôn từ, có tính cách so đo trong buông thả có khi dường như vô nghĩa của những sáo ngữ vô căn. Nhưng đây chính là nơi mong tìm của tiếng thơ, có thể du hoặc hồn người để kích động đi tìm một ngã đời mà thế tục không có.

Tiếng thơ đã âm vang trong không gian muôn chiều, nó chỉ khởi động theo thời gian ở đó nhà thơ và người thưởng ngoạn giao thoa trong một bối cảnh lạ lùng bỡ ngỡ, vì được lảm quen trong một sát ma, mà phạm trù ngữ pháp có giới hạn, đặt để cho người thưởng ngoạn phải soi mói tìm kiếm trong những phần ký ức nhạt nhoà bị bỏ quên trong phần sâu thẳm cũ kỹ bây giờ được dịp bộc phá để hòa mhập lẫn vào hồn thơ, người đọc tự định hướng và cho ra một ngã rẽ khác mà mình không biết, vẫn đinh ninh rằng ta với nhà thơ là một.

Người đọc tự dưng bị cưỡng bách đi tìm kiếm chính mình trong một cuộc hành trình cô độc mà tiếng thơ, hồn thơ … như mời gọi nhập vào cái thân phận con người có hỉ, nộ, ái, ố… làm căn cơ cho đời sống bình nhật.
Thi nhân là người nhạy cảm và dễ lụy vì tình, sẵn sàng dâng hiến hồn mình cho người yêu, nhưng rất tế nhị khi chưa được san sẻ. nhà thơ phải dùng hình ảnh cuả trời mây phảng phất nhuốm thời gian để chỉ hồn mình, dẫn đưa người đọc đến cảnh huống khác, với màu thời gian thay đổi khi thì xanh khi thì tím và cả mùi hương thời gian thì thơm phảng phất nhẹ nhàng, pha trộn Tây-Đông, trong thơ của Pháp, thời gian màu xanh, còn trong thơ ta, trong tình yêu người con gái thường lấy hoa màu tím làm biểu tượng, nên màu thời gian lại tím theo.

Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh

Tình yêu ở đây là một thứ tình yêu tinh khiết, nhẹ nhàng, thoáng đi qua chỉ còn vương lại một lưu dấu trong cõi lòng, nhà thơ đưa vào hương thời gian còn vương vất trên ngàn cây nội cỏ lung linh biến ảo, theo nhịp dâng tràn, bay bổng… của tâm hồn.

Sự rung cảm là mối tương giao tha thiết cuả cuộc sống giữa con người và vạn vật trong cái đại ngã vô cùng tận của vũ trụ, đeo mang một chút hành trang trong cái tiểu ngã thường tranh chấp với chính mình, đó là sự đối chọi làm nẩy sinh do sự cọ sát tâm thức bật sinh ra thơ, giống như tiếng chim hót vì ngứa cổ cất tiếng hát chơi !?.
Sự hỗn mang trong thơ, tạo ra tính chất hư vô đưa đến ý tưởng là mỗi chữ trong thơ nó không hàm chứa một sự vật, gần như là dối trá với chính nó, đó có phải là sự chối bỏ thực tại, vì sự lẫn lộn nầy trong thơ thường biểu hiện, nhà thơ đã trộn lẫn chuyện nàng cung nữ đời Hán với Dương Qúi Phi của Đường Minh Hoàng, tạo ra hình tượng của mối tình chung toàn bích trong ấn tượng mà con người không muốn có một sự hư hao mất mát nào.

Tóc mây một món chiếc dao vàng
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng

Thực chất thơ là sự kết cấu ngôn từ theo một cách thức riêng để làm sao khơi động được tiềm thức trong đó đã ẩn dấu không có cơ hội hồi sinh trên bề diện tình cảm tâm linh… vậy nên sự lừa phỉnh nếu có thì đó cũng chỉ là phương tiện dẫn dắt để con người có thể cảm nhận được cái phần sâu thẳm nhất của tâm hồn, thì tự nó đã nói lên một ý nghĩa nào đó có tính cách sáng tạo và thẳng tiến vào lòng người trên bình diện dễ phổ cập hơn.

TC- N.

TC NGUYỄN
30-11-2006, 17:01
TIẾNG THƠ


Thơ là kết hợp âm nhạc và hội họa xen vào sự vẽ vời của tâm cảnh do thi sĩ tạo dựng trong một sát na cảm nhận trong phần sâu thẳm của tâm thức bất chợt bùng dậy không tính toán mà mỗi một thi nhân có phần khác biệt thốt ra thành tiếng thơ kể lể đầy vơi tâm sự, trong đó ngôn từ xử dụng là nghệ thuật làm đà cho kỹ năng tạo thành ấn tượng quyện vào nhau chèn kéo bật lên cung bậc tỉ tê lắng sâu trong lòng người thưởng ngoạn tự cho mình “có ở trong”, do sự lôi kéo của những kỷ niệm bao năm đã lắng sâu trong ký ức được khơi bùng cho một cảm nhận riêng tư không phân biệt, tự nhiên trong đó có những uẩn khúc, chiết nôi do hồn thơ quấn vào làm một.

Thử đọc bài thơ Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư

Tiếng Thu

Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ ?
Em không nghe rừng thu,
Lá thu kêu xào xạc,
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô ?
Lắng im nghe sự khua động từ tâm não tạo thành âm vang trong lòng người cô phụ phát ra một dòng âm hưởng giao thoa của tiếng thu vàng vọt với nỗi buồn mông lung khôn tả không thể sớt chia cái hiu hắt của thời gian phôi pha dưới ánh trăng mờ trong trống lạnh…

Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?

Em, là tiếng vọng của một lời nhắn nhủ của thi sĩ gọi vọng lại chính mình chuyển đạt vào hồn người cô phụ nghe chăng sự khuấy động rưng rức nhớ nhung người yêu xa vắng, cái thiệt thòi nào hơn phải đơn lẻ mà người chồng vì chinh chiến đã phí hoại tuổi xanh của đời mình khi xuân lòng còn đương độ.
Những dòng thơ ở đây tạo thành âm giai tiết tấu của một bài ca vương vãi trong không gian mịt mờ thấm nhẹ trong lòng người một điệu sầu muôn thuở của thời binh lửa mà số phận của người phụ nữ thường phải cô đơn gánh chịu khi chồng phải đi chinh chiến xa xôi không hẹn ngày về.

Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?

Hoà nhập vào nỗi buồn hiu, cây lá rừng hoang cũng góp vào cho sự cô lạnh càng đẩy xa hơn…, lá vàng lìa cành ám ảnh cái dày vò do trực giác con người cảm nhận được qua sự tô đậm âm thanh xào xạc chồng chất lên những lớp lá khô lâu đời của rừng thu vắng lặng rồi sự đớn đau gấp lên bội phần khi con nai vàng ngơ ngác một cách ngây thơ dẫm lên như báo hiệu một sự chia lìa ngăn cách một đi không trở về của chinh nhân, khẽ rung lên như tiếng nấc lệ nhòa cho số phận đã xào xạc lại càng xơ xác hơn qua những lá vàng khô bị chà đạp mấy lần.

Em không nghe rừng thu,
Lá thu kêu xào xạc,
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô ?

Thi sĩ đã chấm phá vẽ ra một khung cảnh của rừng thu, để rồi lồng vào những ngôn từ ảo diệu tự phát lấy âm thanh quấn quýt lấy nhau trong vần điệu do sự tương phản của chữ nghĩa tạo ra một cảm xúc tuyệt vời cho người thưởng ngoạn có thể đẩy đưa hồn mình vào những kỷ niệm xa xưa mà ký ức có thể làm sống dậy một quãng đời có thể chia xẻ của riêng mình.

TC NGUYỄN
06-01-2007, 12:05
THƠ- ĐÒI GIẢNG?

Trong tiểu thuyết hay, các nhân vật được mô tả rất gần gũi trong đời sống quanh mình, nhưng trong thơ thì khác hẳn, nó đòi hỏi người sáng tác phải có hồn thơ và thích thú về nó, hay nói khác hơn phải có căn cơ, sinh ra đời là nó đã nhiễm truyền thơ trong máu rồi, và lớn lên nhờ năng khiếu trui rèn nó có cơ hội phát tác trong một ý niệm mơ màng nhập thể bùng lên một khung trời cảm nhận cho riêng mình, lúc ấy là hồn thơ lai láng để lại cho đời không biết bao nhiêu huyền nhiệm của tạo hóa ban cho bằng những bài thơ xuất hồn và nương nhờ vào đó có những lời rao giảng đầy thi vị khôn lường!?.

Trong thơ, người thưởng ngoạn có những khe lách để hồn mình nhập vào, và tạo cho mình một khung trời mới không nhất thiết giống như người thơ, và tự mình rung đùi ý nhị cho rằng mình và người thơ là một, vì vậy một bài thơ được xác nhận nguyên thực ý nghĩa, nó làm mất đi biết bao cảm hứng khi thưởng thức.

Thế nên như Chế Lan Viên viết: “Tôi nghĩ thơ là một thể loại đòi giảng”(1981), đúng cho học trò khi làm luận văn cần có thước đo… chứ đối với người thưởng ngoạn thuần túy như vậy nó sẽ bị trần trụi làm cho bài thơ co cứng như khúc gỗ, thì còn đâu cái lả lướt đìu hiu của :

Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng…
(Xuân Diệu)

Thơ thuộc dạng “hồn”, lơ lửng bâng khuâng không có nơi đứng nhất định, thì khi bắt lấy, nhốt vào đâu?, để tìm dấu vết tán hưu tán vượng- thì đó là việc làm ngây ngô xâm lấn vào hồn thơ làm tan sự huyền diệu giao thoa của hồn người gởi gấm cho nhau- vì ngay cả nhà thơ tạo ra nó cũng không thể nào xác quyết là đúng như ý nghĩ ban đầu của cảm hứng nghĩ về… vì cảm hứng thì tuôn trào, mà cái nghĩ về thì giới hạn… Vậy người trung gian cố tìm hiểu về những khía cạnh của nhà thơ (như: thời đại, cuộc đời, tâm trạng… của tác giả), để tìm ra một hướng giảng, tự nó có tính cách tha hóa hay rờ voi mà thôi…vì căn cứ vào đâu để định vị đúng sai?.

Thơ tự nó đi tìm người thưởng ngoạn, nó đến một cách tự nhiên như nhập hồn, không so bì không tính toán, ân nghĩa có với nhau từ tiền kiếp, thơ và người thưởng ngoạn hài hòa bay bổng trong nỗi niềm hạnh phúc ngả ngớn vô biên trong rung động tuyệt vời tình tự tương đồng của kẻ nhàn du phe phẩy thưởng thức, không cần sự giải thích nào chỉ làm băng hoại đi những tình tự phát khởi mà thôi!.

Thơ là chuỗi dài của âm vang và nhịp tìết, quấn xoắn vào nhau, đan thành những lọn tơ óng ánh buông xỏa, bằng những ngôn từ đã được tu chỉnh, tự nó đã làm cho ngôn ngữ giàu hơn đầy thi vị, diễn đạt được những khúc nôi ẩn khuất trong tâm tư của con người nhiều khi muốn thốt lên nhưng không thể, trong những khi cô đơn hoang mang nhất, thì nó hiện về pha trộn để lôi dùm trong tiềm thức ra những ẩn uất nuối tiếc của ngàn năm không phai, làm vơi bớt những nỗi buồn cô đọng .

Nếp áo tiền thân vừa hút mất
Tiếng gà lai kiếp cách ngàn sau
(Chế Lan Viên/1937-46)

Ngôn ngữ đã bị bóp vỡ- xưa và nay- trộn vào nhau để bật lên tiếng gà lai kiếp ngàn sau- tội nghiệp- trong khoảng mênh mông của trời đất cất lên đơn lẻ, như tiếng hờn ai oán trong đêm khuya tịch mịch, làm cho tiếng thơ trở nên siêu hình, ngợp choáng mất hết ý niệm lai sinh của con người, không còn dấu vết càng kiếm tìm càng thấy lồng lộng, thăm thẳm trong không gian chờn vờn ớn lạnh hồn riêng…

Mưa giong buồn sợi xuống lơi lơi
Lạnh của không gian thấm xuống người
(Huy Cận)

Thi sĩ trong quá trình sáng tác thả hồn mình ngất ngây với những ý niệm chợt đến rồi biến đi như những đợt sóng biển xô vào bờ tan nhanh, phải cố chụp bắt còn rưng rưng bọt trắng nhạt nhòa trên đôi tay, cố ghi lại một mảnh đời với cảm xúc phơi bày chỉ còn là mảng nước mong manh thấm vào bãi cát hút ra khơi!, chỉ còn tiếng rên rỉ van lơn

Không gian ôi, xin hẹp bớt mông mênh

Là bởi:

Đường sá lạ thôi lạnh lùng biết mấy
(Huy Cận)

Ngân ra như bàng bạc lơ lửng trong cõi lòng, càng im lặng càng thấm, chỉ có thơ mới cung ứng cho người thưởng ngoạn những cảm xúc tuyệt vời- mà các môn nghệ thuật khác khó suy bì- nhờ vào sáng tạo nên những hưng phấn rung động dài ngắn khác nhau cộng hường tạo một dòng nhạc vang vọng đi vê chỉ có thể phát hiện ở thơ mà thôi và sự bình giảng nào cũng trở thành xa lạ.
……………….

TC NGUYỄN
17-01-2007, 08:16
NGÔN NGỮ DÂN CA QUAN HỌ

Trong dân ca quan họ, rất đặc thù trong ngôn ngữ khi hát đối đáp qua lại với nhau giữa nam và nữ, lời lẽ rất lịch sự khi nói hát với nhau, không bao giờ dùng những lời suồng sã trêu ghẹo quá lố, lúc nào cũng giữ lề giữ lối, một thưa hai gởi đậm đà ý nhị, thể hiện lên nép văn hóa và phong tục, tập quán… của dân tộc ta.

Đàn ông thì gọi liền anh, đàn bà là liền chị- không phân biệt tuổi tác họ xưng em khi đi hát với nhau và không có hàm ý buông thả lợi dụng trai gái hay rượu chè say sưa sàm sỡ….

Trước khi bắt đầu cuộc chơi, bên nam nhún nhường họ thưa gởi như sau :

Em xin chị hai hay chị ba, biết thì ca trước lên để anh em chúng em tiếp bước theo sau.

“Miếng trầu là đầu câu chuyện”, để làm quen và tạo không khí giao hòa, liền anh mời trầu liền chị, liền chị ý nhị trả lời :

Chị em chúng em cả sữa no căng
Ăn trầu đã vậy biết nói năng thế nào

Vì tôn trọng lẫn nhau, trong dân ca quan họ dùng chữ Người, tha thiết và tình tứ làm nhão lòng…, khi nghe hát lên làm lòng người lâng lâng quẳng đưa hồn về một chân trời xa vắng êm đềm da diết mời gọi không nỡ lòng cất bước ra đi :

Người ơi ! người ở đừng về
…….
Người về em dặn người rằng
Đâu hơn người ấy, đâu bằng đợi em

Đôi khi ta thấy trong dân ca quan họ có chữ chàng, thì đó là họ đem ca dao qua để hát quan họ, nhưng khi liền gái cất tiếng hát thì tiếng chàng trở thành âu yếm và nhắc nhở đầy trăn trở gởi gấm xin đừng quên nhau.

Chăn chiếu ai trải giường nầy
Đem qua chàng ngủ đêm nay chàng nằm

Nhưng vẫn giữ giới hạn, khi trong ca dao gặp chữ suồng sã quá như chữ mình, thì khi hát quan họ được đổi thành chữ tình :

Tình về có nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng tình cười
hay:
Đêm qua ghé nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói, thương tình bấy nhiêu

Trai gái trong làng quan họ, được các nghệ sĩ lão thành dạy cho lề lối cư xử khi cùng nhau hát hò phải giữ ý tứ, sao cho phải lễ từ lời ăn tiếng nói khi đứng khi ngồi đều theo khuôn phép chừng mực.
Thử nghe liền chị mời mời liền anh quan họ về hát cùng nhau, liền chị thỏ thẻ mời :

Mời quan họ liền anh sang chơi bên nhà chúng em, trước là thăm thầy mẹ chúng em, sau là cho chúng em học đòi quan họ vài đôi lối…

Và liền anh giữ kẻ trả lời :

Em đỡ lời chị hai, chúng em chỉ sợ nắng mưa thì tốt lúa đồng, chúng em năng đi lại thì thầy mẹ lại coi thường chúng em ra.

Ngôn ngữ đối đáp như vậy là không chỗ nào chê trách, nhẹ nhàng lịch lãm đến thế là cùng, tỏ được tình nhau trong mối giao cảm hài hòa của những người nghệ sĩ dân gian trong khung cảnh lễ giáo của một nền văn hóa dân tộc khép kín sau cổng tre làng…

Khi hát giao đối với nhau, nếu liền anh đáp đúng ý nghĩa đề hát của liền chị đưa ra thì liền chị nhẹ nhàng thưa :

Dạ, thưa liền anh, tương hằng rồi đấy ạ.

Còn nếu liên anh đáp sai thì liền chi lên tiếng :

Dạ, thưa liền anh, ca bất hợp rồi đấy ạ.

Sau khi vãn hát, quan họ thường tổ chức bửa ăn giải lao thân mật đôi bên, họ mời nhau thân mật với lời lẽ khiêm tốn lễ độ không kém phần văn hoa :

Hôm nay bên liền chị sang bên đất nhà em, anh em nhà em có mâm cơm, thì đầu mâm đĩa muối, cuối mâm đĩa gừng, mâm đan bát đàn, để xin mời đương quan họ dựng đũa, lên chén, để anh em nhà em thừa tiếp đấy ạ.

Lời mời âm vang như thơ, cầu kỳ, khách sáo rất cá biệt, nghe bứt rứt làm sao ấy, thử xem khi liền anh thấy liền chị ăn uống nhỏ nhẹ rụt rè như mèo, thì liền anh mời khéo như sau :

Cơm hẩm ăn với rau dưa
Quan họ làm khách em chưa bằng lòng, đấy ạ.

Liền chị nhỏ nhẹ đáp lại :

Liền anh nói vậy chứ:
Cơm trắng ăn với thịt gà
Tuy là ăn ít nhưng mà no lâu, đấy ạ.

Tiếng nói trong quan họ thật văn hoa bóng bẩy, tinh tế mềm mại đầy tình người trong khi giao tiếp nó trở thành luật lệ “bất thành văn” truyền nối từ đời nầy qua đời khác, tạo thành phong tục tập quán và văn hóa cá biệt mà là người quan họ thì phải tuân thủ.
Nếu trong khi đối đáp có điều gì sơ sẩy dầu chỉ lỡ lời cũng đủ làm cho quan họ băn khoăn hối tiếc không bao giờ nguôi.

TC NGUYỄN
12-04-2007, 13:47
THƠ ƠI- nhận diện là sao ?

Ngôn từ thơ đựợc tu chỉnh cho thẩm mỹ bớt đi tính trần trụi của tiếng nói thời thường, mang một nghệ thuật sáng tạo cao độ vi nếu nói như nói chuyện nó quá rõ ràng xác định nói gì hiểu nấy… thì sự gợi ý cần thiết trong thơ không còn, ta lại trở về với văn xuôi.

Vì mang tính gợi ý, nên nhà thơ trở thành nhà tạo sinh, cây cỏ , núi non, sỏi đá… ngay vật dụng, thú vật bao quanh trở thành biến thể bằng mọi hình thức du nhập vào hồn bằng ngã ngách riêng tạo thành một thế giới huyền đồng không phân biệt giao thoa đi về nói năng… và thi sĩ nghe được tiếng nói thằm thì của vạn vật, bằng vào đó mà gởi gấm tâm tư tình cảm của mình…

Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
(Bên kia sông Đuống - Hoàng Cầm)
Khi Hoàng Cầm dùng hai chữ nghiêng nghiêng để chỉ bóng dáng của dòng sông Đuống, đã gợi một cõi lòng chao đảo trong nỗi buồn khôn tả của một chiến binh thời tao loạn khi nghĩ về một cuộc kháng chiến trường kỳ mà khi đã buông mình vào cuộc chơi thì mấy ai trở về vì nó đã nghìêng trôi không điểm hặn…, chưa hẳn thế, vì là gợi ý nên ta có thể cảm nhận theo nhiều ngã và tha hồ mà theo chiều sông trôi, để cảm nhận về…

Khi một đứa trẻ vừa chập chững nhận thức được những sự vật chung quanh, có lẽ trong tâm não của chúng vương vướng ý thơ; chẳng hạn thấy đồ chơi quanh mình, vô tri vô giác, đối với chúng như có linh hồn, sự sống, sinh động và trở thành bạn bè không nghi kỵ, lớn lên nếu có kỳ duyên trờ thành thi sĩ thì tính chất trẻ con trong người hắn bộc phát, nhưng không giống như trẻ con vì là người trưởng thành theo thời gian với bao kinh qua kinh nghiệm trong cuộc sống, sẽ tự biến chế thần thoại hóa tri thức trẻ thơ thành mối giao hòa vạn vật bình đẳng trong cái ngây ngô, thành những hình tượng gởi gấm triết lý nhân sinh…và bộc phá thành một kỷ thuật thi ca khắc dấu một quá trình đời người.

Như Hàn Mạc Tử thường chơi với trăng, giỡn vớí trăng, làm như là của mình, muốn bán, muốn cho, muốn tặng thưởng ai hay đòi lại tùy hứng:

Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng Trăng!
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Không bán đoàn viên, ước hẹn hò...
Bao giờ đậu trạng vinh qui đã
Anh lại đây tôi thối chữ thơ.

Không, Không, Không! Tôi chẳng bán hòn Trăng.
Tôi giả đò chơi, anh tưởng rằng
Tôi nói thiệt, là anh dại quá:
Trăng Vàng Trăng Ngọc bán sao đang.

(Trăng vàng trăng ngọc- Hàn Mạc Tử)
Muốn nhận diện thơ không thể dễ dàng, càng viết càng thấy thiếu thốn và có tội, khi đưa ra một khuôn sáo trong khi thơ là tạo ra đời sống tinh thần và thể xác cho vạn vật và cho những ý niệm trừu tượng như thời gian, không gian, dĩ vãng, kỷ niệm… Vì vậy mà Cao Bá Quát đã viết: “Phù, thi chi, nan ngôn dã”- ôi, cái chuyên thơ, khó nói thay ! (còn tiếp…)

TC NGUYỄN
14-04-2007, 11:02
Thơ ơi !- nhận diện là sao ?(tiếp...)

Tính cách trẻ con khởi mào trong thơ bằng những ý tưởng phô bày dẫy đầy trong ngôn từ mang mang ẩn tích một suy tư hay cái nhìn nghiêng chiều qua một hướng khác, chữ dùng được coi như đồ vật thay vì gọi tên bình thường như trăng sao trên trời… thì nhà thơ tiếp xúc với sự vật rồi dùng kỷ năng ẩn tìm mân mê ngôn ngữ trong vùng ánh sáng riêng của mình, để tạo ra một thứ trăng sao khác có tương quan đến cõi tâm linh tạo ra hình ảnh :

Trăng nằm sóng soải trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
(HMT)

hay:

Rặng liễu dìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
(XD)

Trong cùng tận, hình như tạo hóa an bài cho mọi sự vật đều có sự quan hệ với nhau, khi đọc hai ngắt đoạn thơ trên, những rặng liễu, vầng trăng… nó không còn bình thường mà có dáng vóc, có linh hồn- háo hức hay buồn đau- tùy góc độ nhìn của thi nhân. Như vậy chữ nghĩa trong thơ biến thành chất liệu mà nhà thơ dùng để nắn nót, nhào nặn, pha chế, trộn lẫn, tạo ra âm thanh, màu sắc, hình tượng nhập vào hồn rồi được đẩy xô ra đó là thơ…

Vậy trong sâu thẳm nhà thơ đã tạo cho mình một sự cảm nhận khác thường, nhờ vào năng khiếu ẩn tìm tự trong tâm thức thản thốt gieo thơ nhiều khi người tạo thơ trở thành máy móc đưa ra tiếng lòng chồng chất từ tiềm thức và trong khoảng chốc mơ màng nhập hồn vào trong gió, trong trăng tạo ra ảo ảnh bằng những dòng thơ miên man như nhạc đệm đưa xa trong quên lãng, không còn thấy sự hiện hữu thực tại là đâu !?.

Tôi vẫn có hồn tôi trong gió ấy
Vì xưa kia ngồi nghỉ dưới trăng sao
Từng mảnh biếc hồn tôi trăng đã lấy
Gió đem luôn đi tận tháng năm nào
(XD)
Thi sĩ đã nhận diện trong cõi hỗn mang khi mà trời đất còn giao thoa là lúc thi sĩ đã ngồi bên thềm trăng sao cho nên giờ đây hồn trở về nơi xưa bằng thuyền gió nhẹ đưa đến Quảng Hằng có lẽ gặp lại người yêu- Hằng Nga- lạnh lẽo run chờ- có lẽ ?!…, vi ngữ nghĩa, âm điệu mang mang phiếm định, dẫn đưa người thưởng ngoạn rong chơi cùng với nhà thơ qua thể hồn tha hồ mà đi xa, mỗi người tùy theo góc độ nhìn, cộng hưởng với tri thức trải qua mà nghiệm cho từng bối cảnh môi trường tác động ảnh hưởng và tìm ra một niềm riêng cho mình bơi lội có khác nhau trong bể khơi sóng chờn vờn giao động, nhưng cùng chung một cảm nhận về thơ:- là thế ấy !... (còn tiếp…)

TC NGUYỄN
16-04-2007, 16:06
Thơ Ơi!- nhận diện là sao? (tiếp)

Khi một bài thơ hiện hữu, thị giác là cơ quan tiếp nhận, nhờ nó người thưởng ngoạn khai mở lần mò trong im lặng cảm nhận qua tiết điệu, ngữ nghĩa và cái đẹp (thẫm mỹ) của bài thơ nương vào đó đẩy đưa trí tưởng tượng đi vào một thế giới chọn lựa đã được ghi trong ký ức của mỗi người khác nhau tạo ra một tâm ảnh phù hợp với thơ theo toan tính cá biệt, vì trong ký ức có hàng vạn bức tranh được ghi, kinh qua những kinh nghiệm sống từ ấu thơ đến hiện tại giờ có dịp tiếp cận thơ tự bộc phát ngẫu nhiên một cách tình cờ…

Con người do Thượng Đế tạo ra bằng tình yêu mà thơ là cõi lòng được ban phát, là nơi ẩn chứa hỉ, nộ, ái, ố, sầu bi… làm chất liệu cho thơ nhào lộn phô bày, thi sĩ Vũ Hoàng Chương khi bị mất người yêu đ ã phản ứng m ột cách nghiệt ngã :

Kiều Thu, hề, Tố em ơi
Ta dong lửa đốt tơi bời Mái Tây
(VHC)

Chỉ hai câu thơ gây cho ta đầy ấn tượng và rung động khi nghe hai chữ em ơi não nuột khi hạ liên dòng Ta dong… tơi bời…, cho thấy một sự đau khổ cùng tận không kìm giữ được hành động nên phải đốt tơi bời Mái Tây, thế là hết, là chung cuộc không còn sót lại một mảy may nào cho cuộc tình !...

Sự đam mê trong tình yêu nó có tính cách chủ quan, tuy nhiên nó vẫn có cái chung đó là khi đọc được bài thơ trong đó có đôi câu xuất thần cũng làm cho mọi người ngẩn ngơ xúc động, vì khi chúng ta dùng chung một ngôn ngữ đã được chau chuốt thi cái đẹp óng ả của thơ nó sẽ vang đậm ghi dấu và gợi ý thì dầu cò cảm nhận khác nhau nhưng sự rung động về một nỗi niềm vẫn là chung.

Khi ta ráng tìm kiếm trong thơ một ý nghĩa thì nó không còn ý nghĩa gì cả, vì thơ là san sẻ cõi lòng, mọi sự vật bình thường trong thơ phải vượt qua những thử thách tạo mới, bỗng chốc biến thể qua trí tưởng yên nghỉ trong tâm cảnh vẽ vời làm sự vật trở thành xa lạ với chính nó, rồi tự nối kết, hoán chuyển từ vị trí nầy sang vị trí kia, cho nên khó thể nhận diện nếu không có sự thức tỉnh từ bên trong do sự tưởng tượng kéo dài khi chiêm nghiệm các dòng thơ, người thưởng ngoạn tự mình liên quan đến những sự việc đã trải qua trong cuộc sống của chính mình để san sẻ ngược lại với nhà thơ về những điều chợt thấy được.

Mỗi chữ trong thơ đều mang một linh hồn cá biệt và từ đó thi sĩ cấy vào hình ảnh lung linh trong ngữ nghĩa tạo ra những mảnh hồn nhảy múa xung quanh mình :

Bỏ trăng gió lại cho đời
Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa
Bỏ người yêu, bỏ bóng ma
Bỏ hình hài của tiên nga trên trời

Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con.
(Mắt buồn - Bùi Giáng)
Chỉ gẫy gọn sáu câu thơ, xô đẩy ta vào một chân trời thật lạ lẫm, những hình tượng đẹp xấu trong cõi ta bà đều bỏ hết và sau đó là sư cô đơn cùng tận để rồi phải đối diên với chính mình chỉ còn một con mắt (cho riêng mình) vì con mắt kia dành để khóc cho người, và rồi cũng có thể nẩy sinh ra ý khác ngược lại, thi sĩ là người kiêu ngạo coi như trong đời những cái người ta cho là cao qúy hay hèn mạt, bất cần đều là đồ bỏ, còn lại hai con mắt, một con rọi vào lòng mình để mà tự hãnh diện cho mình là cao cả trên hết ?!..., còn con mắt kia thì dùng để khóc nhạo báng tha nhân sao quá đỗi ngu si ?!...

Đi tìm ra chân tướng trong thơ khó thật, vì thơ mang tính cách nhất thể hòa nhập vào vũ trụ trong cái đại ngã vô cùng tận, trong khi con người luôn mang tính nhị nguyên, vì sự phân chia nầy, thi sĩ cùng với người thưởng ngoạn bị giới hạn trong cái tiểu ngã nhỏ nhoi để tìm kiếm vóc dáng nường thơ trang trải thì thật là chuyện “mò kim đáy biển” vậy !...

TC NGUYỄN
23-07-2007, 18:35
THƠ & CON CÓC !

Ngoài nhạc, thơ là thể làm cho ta dễ thuộc nhất, khi gặp những câu thơ vần đìệu óng ả bác học đầy gợi ý thì việc nhiều người thuộc là lẽ đương nhiên, tuy nhiên có những câu ca dao vè…dở ẹc vẫn làm cho nhiều người nhớ và còn gây hứng cho những lời bình mang tính triết lý nhân sinh như bài thơ “ Con Cóc “, chẳng hạn:

Con cóc trong hang,
Con cóc nhẩy ra,
Con cóc nhẩy ra,
Con cóc ngồi đó,
Con cóc ngồi đó,
Con cóc nhẩy đi.

Nếu xét trên ngôn từ và ý thơ…, thì chẳng có chi cả, theo truyền thuyết chẳng qua là hai anh nhà quê nào đó trong khi nhậu nhẹt nhòe ra thơ, bằng cách mỗi người làm một câu tạo ra tuyệt tác phẳng lì… và khi tỉnh rượu tưởng mình đã trở thành Đại Thi Bá, rồi suốt ngày run sợ đến đoản trí vớ vẩn sợ chết yểu vì cho mình quá “ tài hoa” nên ‘bạc mạng”.

Chuyên kể trên chỉ là lời phụ họa để giải thích tại sao lại có bài thơ ngớ ngẩn như vậy, nhưng thử đọc thoáng qua, nó đã gây ấn tượng lên người bắt gặp những câu thơ nầy, ấn tượng dở hơi thì thật rõ ràng, nhưng vì dở hơi thì người ta phải thở vào thở ra cho thoát, và trong lúc gật gù như thế làm cho người ta nhớ là chuyện dễ hiểu.

Vả lại cái tên “ con Cóc” là làm cho ta liên tưởng ngay đến “ con cóc là cậu ông trời- Ai mà đánh nó thi trời hại cho”, mà khi còn nhỏ bập bẹ chữ Việt thì hai câu Đồng Dao nầy ai cũng biết, lớn lên có dịp tiếp xúc với nền Văn Hóa Đông Phương, ta thấy trên những trống đồng âm dương Đông Nam Á có nhiều hình tượng cóc nhái, có lẽ vì sống chuyên về nông nghiệp lúa nước, việc đồng áng lệ thuộc vào những cơn mưa mùa mà trước khi chuyển mưa thì con cóc thường hay nghiến răng báo hiệu, nhà nông nhận được tín hiệu nầy ngay, vì con cóc nó ở xó hóc nhà sống chung với con người.

Thời xưa ở nhà quê người ta ở nhà tranh, vách nền đất, nên chạng vạng tối cóc thường nhảy ra từ hang hay ngồi trong hóc (góc) nhà đưa cái lưng ra ngoài trong tư thế rất thân thiện mà người nhà nông xem như bạn hữu dụng, tương thân giúp nhau: người cho nơi ở, cóc réo gọi ông trời cho mưa thuận gió hòa, cho nên có bài hát

Trông kìa con cóc,
nó ngồi trong hóc,
nó đưa cái lưng ra ngoài,
ấy là cóc con.

Hay

Cóc tía là mẹ ông trời
Nghiến răng còn co-ọc...là trời đổ mưa

Với những liên hệ mật thiết trong việc sinh tồn, con cóc tự nhiên gây nhiều ấn tượng khi được nhắc đến, và như ai cũng hiểu ấn tượng là cảm giác của tâm hồn (cảm giác là cảm biết do ngũ quan), hình ảnh di động của con cóc trong thơ từ khi trong hang... nhảy ra...ngồi đó...nhảy đi, trông thì phẳng lì nhưng vì cảm giác gây ra đưa đẩy nên sinh ra nhiều thắc mắc nghĩ ngợi làm cho động não, do đó mà ta thấy không biết bao nhiêu giấy mực, công sức cố giải đáp một bài toán « Thơ con cóc » trong ý niệm siêu hình vô hạn, trong khi sự hữu hạn nó chấn sờ cụ thể chỉ là bài thơ có tính cách châm biếm của những người dốt mà hay nói chữ, mà thực sự nói thì sự hiểu biết nào đều có mang một sự ngu si đi kèm !?.

TC NGUYỄN
30-01-2008, 09:18
Thơ là gì?

Đây là câu hỏi của một bạn thơ hỏi tôi khi thấy tôi bàn lang bang trong “Ngôn từ thơ”; câu hỏi này thực ai yêu thơ cũng muốn biết, nhưng không ai có thể trả lời trực tiếp vì chính thơ nó trơn vuột…thể hồn mà!...

Để đáp lại tấm thịnh tình của bạn đã tin rằng tôi có chút ranh mảnh trong thơ, tôi xin mạo muội đi vòng để may ra khơi dậy những mảnh tơ vương gỡ dần…

I.- Hồn ngôn ngữ:

Hồn của ngôn ngữ--.> đi ngoài ngữ nghĩa--.>khơi động một rung cảm nào đó--.>liên quan: ngữ nghĩa.<=.> rung cảm--.>qua lại xa xăm mơ hồ--.>vì tiếng nói không nhất định cho nên có thể gợi ra những xúc động khác nhau tùy vào mỗi người, mỗi dân tộc.
- Nội dung tình cảm mơ hồ--.>sống tập thể gởi vào ngôn ngữ Sống chung--.>cảm thông, không sống sinh hoạt chung--.> tình cảm hay sự cảm thông phẳng lì…
- Thơ căn cứ vào tác động bí ẩn của ngôn ngữ, khác với tính minh bạch của ngữ nghĩa--.> thơ hay ngoài phạm vi ý nghĩa của chữ…
- Thơ Tàu, thơ pháp hay vì liên quan văn hóa mà ta đã hòa nhập…
- Đọc “Âm thanh cuồng nộ” của Faulker (Mỹ) --.> không thấy hay, vì không “đồng thanh tương khí..”, lối “cuồng nộ” của Mỹ khác xa ta…

Khi đọc thơ mà dùng khối óc suy xét thì chỉ trơ vơ, không thể thưởng thức thơ, muốn thưởng thức trọn vẹn ta phải trải lòng hòa nhập với hồn thơ, mà hồn thơ thì lãng đãng vì “… ru theo gió, mơ theo trăng(XD)”…, vậy căn cứ vào đâu mà chụp nắm, cái đẹp nó lẳng lơ như trăng treo cành liễu muốn vuốt ve muốn động hờ…, thì phải có những kinh nghiệm chung chạ trong cái bổng trầm sống động hay u buồn…của ngôn ngữ mà ta khai phá để bồi đắp thêm lên, không có gắn bó sinh hoạt vào ngôn ngữ ấy(thời thường) thì làm sao hiểu được sinh khí của ngôn ngữ kia (thơ)…và thơ là sự biến ngôn ngữ thành nghệ thuật (Paul valéry), đó là sự tạo hồn thơ ẩn tiềm trong những dòng thơ cho người thưởng ngoạn…(còn tiếp)

HànTuyếtBăng
13-02-2008, 09:53
Có nhiều cách bày tỏ tâm tư tình cảm, quan điểm, nhận thức của con người. Thơ là một trong những cách mà có lẽ ai cũng có thể làm, và cũng có lẽ ai cũng có lần không thể viết nỗi thành câu dẫu tình đầy ý đẫm mênh mang.

Vậy thơ là gì?

Thơ là công cụ trao chút lời ăn tiếng nói thông qua ngôn ngữ.

Thơ là cuộc sống, cuộc đời người viết góp gom nhận định.

Thơ là cầu nối tâm hồn, tư cách để qua đó ít nhiều giúp cho mối quan hệ giữa người với người, người với vạn vật, người với linh thiêng hòa hợp vào nhau.

Có người viết chơn chu nhìn vào là cảm ngay ý tứ, ngôn lời. Có người viết ngẫm mãi hàng trăm, hàng ngàn năm sau nữa người đọc mới cảm và thấm cái tuyệt diệu ẩn chứa bên trong.

"Thơ là tâm của người đọc, là hồn của người viết."

(Muội chỉ thấm có bấy nhiêu thôi! Không được TC-N Huynh xóa hộ muội nhé!)

TC NGUYỄN
15-02-2008, 09:04
II.-Khởi nguồn thơ

Hồn-ngôn-ngữ, phát khởi từ trẻ thơ, khi được đậm mãi lời ru mẹ, chập chờn cánh bướm hay chợt tỉnh như mơ, thấy sự vật quanh mình trẻ con thường hay hỏi “ cái này là cái gì”, một con cóc chơ vơ sau buổi chiều mưa, đứa trẻ đi bên mẹ tự cảm bơ vơ, cất lời hỏi “ nhà nó đâu?, ba mẹ nó đâu?...vậy mẹ?!”. Những lời nhỏ nhẻ hỏi han đơn thuần ấy nó là thơ, vì thơ là sự bình đẳng tương giao giữa người và vạn vật rất chân tình, nó tự do phóng khoáng ngây thơ, súc tích, chân thật như lòng trinh nguyên trẻ thơ…không bợn nhơ hay vấn sầu, làm loãng đi cái tinh thể hồn, nó biểu hiện rõ nét trong thi phẩm đầu tiên còn lưu lại…Kinh Thi:

Bỉ thái cát* hề
Nhất nhật bất kiến
Như tam nguyệt hề.
(kinh Thi)

Tạm dịch
Người đi hái dây đan
Một ngày không găp mặt
Ba thu sầu miên man…

Lời thơ đơn thuần, tự do không trau chuốt, cái ngây ngô ấy là dư âm tồn đọng sâu thẳm chứa chất bên trong, khi lòng người cảm xúc bềnh bồng nổi trôi dạt ra bên ngoài, đó là tiếng nói nội tâm khó mà diễn đạt theo thời thường…

Kinh Thi là sưu tập thi ca đầu tiên còn lưu lại do các quan âm nhạc triều Chu, gồm 311 bài, trước đó truyền miệng ( thời chưa có chữ viết), còn truyền lại, cho ta thấy từ thuở sơ khai, thơ biểu hiện một sự tương giao hài hòa giữa con người và thiên nhiên, tự tại không chút gượng ép ngôn từ như về sau. Tính trong sáng này tự nó thả buông ma mảnh đưa hồn người thưởng ngoạn vể một bến bờ xa đưa…, đó phải chăng là điều mà thi sĩ nào cũng muốn mưu tìm gởi gấm hồn mình vào cho tha nhân!?...

*cát -- >là Cát đằng loại cây dây dùng để đan sau khi hái về phơi khô...

TC NGUYỄN
10-03-2008, 08:34
...

Cái đẹp trong thơ bao giờ cũng thấp thoáng vóc dáng của người đàn bà, có lẽ trên thế gian này không có người phụ nữ thì giống như ” …quả đất không có ánh sáng mặt trời” và từ thuở Hồng hoang, khi chúa tạo ra vườn Địa đàng, đã nghĩ ngay đến bà Eva bên cạnh Adam, một cái xương sườn nắn ra… đã làm nên đẹp cho thơ, bằng cách cướp hồn, cướp phách…của muôn đời thi sĩ đều lâm lụy…

Các cụ ta ngày xưa đã tả vẻ đẹp, dùng những thành ngữ ví von nào là: tóc mây, mày liễu, mặt hoa, da phấn…, thử “ lần giở trước đèn/ xem tình cổ lục còn truyền…”, trong truyện xem sao:

Nguyễn Du tả:
- Thúy Kiều... Làn thu thủy, nét xuân sơn…
-Thúy Vân...Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang…(ĐTTT)

Nguyễn Gia Thiều tả:- Người cung nữ... Áng đào kiểng đâm bông não chúng
Khoé thu ba gợn sóng khuynh thành

Nguyễn Huy Tự tả:
-Dương Giao Tiên... Môi đào hé mặt phù dung
Xiêm y bóng tuyết sen lồng ngấn rêu.(HT)

Nguyễn Đình Chiểu tả:
-Kiều Nguyệt Nga...

Má đào, mày liễu dung nhan lạnh lùng. (LVT)

Người xưa thường dùng hoán dụ( métonymie) bằng biện pháp(1)- so sánh nét đẹp đặc biệt nào đó của người phụ nữ với nét đẹp thiên nhiên được xem như mẫu mực…; (2)- hay so sánh cái đẹp của người này với người xưa bằng sáo ngữ khuếch đại:- …Tây Thi mất vía;…Hằng Nga giật mình v.v…

Khuynh hướng (2), lấy tiêu chuẩn của người đẹp nổi tiếng cổ xưa làm tiêu chuẩn không được dùng nữa, vì nhà thơ mới cho rằng đó là cách ví von khuôn sáo, gò bó, làm mòn đi ý thơ, họ muốn có sự công bằng trong cái đẹp thời thường, nó có và hiện diện giữa con người, có thực, như Hồ Dzếnh viết :

Em ăn, em nói, em cười
Kiếp này không có hai người giống em.(Giản dị)

Cho ta thấy một sự nhận thức mới cho cái đẹp, nó có tính độc lập không nhiễu loạn bằng một hình bóng khác, đó là sự độc đáo, đẹp là đẹp của người ấy, kết rất ”giản dị” em đẹp nhất, không cần hỏi vì không ai bằng, thế thôi! …

Trong khuynh hướng(1) các nhà thơ mới vẫn còn bị ảnh hưởng của cái nhìn về thẩm mỹ cổ điển, nghĩa là vẫn lồng cái đẹp của con người vào cái đẹp của vũ trụ nhưng còn đi xa hơn, thể hiện trong thơ Xuân Diệu dùng phương pháp hoán dụ nghịch lại, nghĩa là nét đẹp thiên nhiên buộc phải đẹp như người đẹp thì mới thỏa…

- Lá liễu dài như một nét mi.
- Hơi gió thở như ngực người yêu dấu.
- Mây đa tình như thi sĩ đời xưa.
- Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.

Huy Cận có bốn câu thơ so sánh xuất sắc cùng ý nghĩa trên
Mùa xuân tròn trịa
Như bụng mang thai
Ôm nghìn sức trẻ
Đi trên đường dài.

Tuy có sự đổi mới trong nhận thức là lấy con người làm tiêu chuẩn cho cái đẹp mà thiên nhiên phải theo như Xuân Diệu và Huy Cận đã làm sự so sánh đối nghịch với lối thơ cổ, cái đẹp phải phát ra từ thiên nhiên là mẫu mực…

Dầu theo khuynh hướng nào thì cũng đi đến mức có hơn thua giữa thiên nhiên và giai nhân, nhưng thực chất vũ trụ này chả có nghĩa lý gì nếu không có con người, hay nói khác hơn cái đẹp của Mỹ-nhân là “ duy ngã độc tôn”, không có gì so sánh được vậy vũ-trụ hãy né đi…vì trời đất và thiên nhiên có đẹp lộng lẫy hay không là vì có người đẹp còn “thiên địa vô tình” kìa mà!...

Thiên nhiên đã bị “ tuột dù” rồi, cho nên các nhà thơ sau đó ta không thấy có sự so sánh nào, có lẽ sự thừa mứa vô lý, rồi tư duy nghiệm ra rằng không cần thiết nữa… cái đẹp tự nó có sẵn khì con người hiện diện và con người mất là mất hết cả, nếu không vậy sao Nguyên Sa thấy cái bâng khuâng của trời đất khi em mặt áo lụa Hà Đông :
Nắng Sàigòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo luạ Hà Đông.


Như vậy cái ngoại hình cũng bị khước từ, (ngày xưa các cụ ghét hay thương đều đem ngoại hình vào làm biểu tượng, với Mã Giám Sinh thì “ Mày râu nhẵn nhụi…”, còn mê em vì “Tóc bỏ đuôi gà…”), và rồi với cái nhìn chân thật thực tế hơn để rồi đưa ra một chân lý không hơn thua:

Người đàn bà nào cũng đẹp
Mùa xuân và hoa hồng đều nở vì chúng ta
Chúng ta ban phát ái tình
Cho thiên đàng của chúng ta tươi tốt mãi.

Không ngừng ở đây, nhà thơ hiện đại lại đi xa hơn, lấy cái xấu xí để làm nổi bật ra cái đẹp trong tâm hồn, một sự cảm nhận sâu sự hiện hữu con người có tính hiện sinh giống như Sartre nói “ con người không thể thay thế được là tôi “; Cho nên những hình ảnh “ chó ốm, mèo ngái ngủ…” là hình ảnh cái đẹp “ trong tay anh “ …, Nguyên Sa tỉ tê:

Hôm nay Nga buồn như con chó ốm,
Như con mèo ngái ngủ trong tay anh.

Con người ôm lấy cuộc sống với bao nhiêu vui, buồn, khổ, não thì cái đẹp nó phải du theo, đi tìm ý nghĩa bằng những ảo tượng chỉ tạo cho xa bờ sự thật, nó ngồi chồm hổm vào giữa cuộc đời, không có đẹp xấu mà chính nó là nhan sắc chủ yếu về con người của cái tôi yêu, nếu không có tôi thì cái đẹp vô nghĩa, vì nó không hiện diện, đó là sự nhận diện ý thức về cõi nhân sinh mà vũ trụ kia chỉ là tha nhân đứng nhìn…

...

TC NGUYỄN
08-05-2008, 17:51
Khi Nietzsche bảo “ Chúa đã chết” thì chính ông đã từ bỏ cái hiện hữu quá thực (hyper real ) để đi vào cái ảo, vì thực tế có ai chết đâu, mà chỉ tội nghiệp cho ông cố bới tìm cái mà ông cho là thực và rồi vì ông không tìm được ra cái ông cố tìm (found object) cho nên cuối đời ông điên loạn (Việt Nam ta, Bùi Giáng cũng có cái điên chữ nghĩa đó), xét cho cùng thì khi sự thật có tính tuyệt đối thì tự nó chao động thành tương đối, hay nói khác hơn ảo và thật tự nó là một, khi cái này đè lên cái kia làm cho bản chất sự vật trở nên ảo diệu, trong thơ thể hiện rất thú vị về sự chuyển dịch có không này.

Hãy đọc bài thơ Tống Biệt của Tản-Đà:

Tống Biệt

Lá đào rơi rắc lối thiên thai
Suối tiễn, oanh đưa những ngậm ngùi
Nửa năm tiên cảnh
Một bước trần ai
Ước cũ, duyên thừa có thế thôi!
Đá mòn, rêu nhạt.
Nước chảy, hoa trôi
Caí hạc bay lên vút tận trời
Trời đất từ nay xa cách mãi
Cửa động
Đầu non
Đừơng lối cũ
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi...


Từ câu chuyện truyền kỳ “ Lưu-Nguyễn nhập thiên thai”, vì lòng trần còn vương vấn nên bị đẩy ra khỏi Đào Nguyên sau nửa năm du dương với Tiên nữ, trơ vơ trở về thì cảnh cũ người xưa trải bao thế hệ đã đi qua, làm cho mình thấy hụt hẫng giữa cảnh đời, cái hiện hữu nghĩ về không còn, trong cái thực tại quá thực đang có đó làm cho mình choáng váng, nó chập vào như hư ảo và hai người đã tự bỏ ra đi, một sự trốn chạy khỏi cái thực-ảo đã nhập vào bản thể của vũ trụ

Như vậy ta có thể thấy cái mà ta bảo là thực hiện hữu, tự nó đã chất chứa nhiều cái hiện hữu khác, như bài thơ, Tản Đà cũng chỉ nhại lại những bài thơ viết về “ Lưu/Nguyễn” cuả những thi nhân Tàu, bằng cách đưa hồn mình vào bằng một cảm nhận riêng, rồi tu từ tạo ra tiết tấu, âm luật, ý tứ… rất Việt, bài thơ đã bị hóa thân, và như vậy chính thơ đã đẩy đưa từ cái vô lý này đến cái vô lý khác, cái thật hoá thành ảo và ngược lại…, cứ như vậy con người lại cố đi tìm cái chân-bản-ngã của thơ trong chốn cùng không!

Trong khi lần mò giả dụ ta tìm thấy cái bổn chính mà ta cho là vậy, thì cũng không thể quyết đoán rằng bài thơ này chính là nhại của bài thơ kia, vì cái kia ấy còn nhiều cái kia khác nhại lại, như chính trong ngôn từ cũng chỉ là sự lập lại hay là bắt chước của người xưa rồi biến hóa theo kiểu thơ có gì hơn!.

Cho nên khi ta cố từ bỏ một hiện hữu chính là ta tự bỏ lấy chính mình, như Descartes nói: “ Tôi tư duy nghĩa là tôi tồn tại”, trong hiện thực thơ là một sư thách đố, nhại đi nhại lại và tự nó làm tan biến chính nó để tránh khỏi những ngộ nhận chỉ là một con đường phải đi khi nào con người vẫn còn chấp nhận dẫy đầy những nôn mửa phi lý thì thơ vẫn còn là một trò vui đầy âm vang dạt về từ quá khứ…

Caí hạc bay lên vút tận trời
Trời đất từ nay xa cách mãi
Cửa động
Đầu non
Đừơng lối cũ
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi...

Thơ nhờ vào tu từ qua thể hồn sáng tạo thì cái gọi là thơ nhại (parody) không còn nữa, mà chỉ là sự tái tục đi tìm bản thể thơ, nó thuộc về cõi trên- Thượng Đế- khi cố với tay đụng đến thì thơ trở thành mơ hồ đẩy đưa thành tiếng thơ mới, hay rõ hơn đó bổn chính bị đè đến độ tự bựt ra…

Như vậy, khi ta cố bới tìm trong thơ một cái gì đó là tự nắm lấy phần thất bại, vì nhà thơ chính mình viết từ cái không và người thưởng ngoạn phải tự chính họ tìm cái có cho chính mình thì dầu ai có bới tìm hay giải thích gì thì cũng không đi đến kết luận có tính thuyết phục được người nghe…

Nửa năm tiên cảnh
Một bước trần ai
Ước cũ, duyên thừa có thế thôi!

Thơ là nghệ thuật tự nó tình tự với chính nó, từ một góc cạnh nào đó cái nhìn sẽ khác nhau của người thưởng ngoạn tiếp cận, vậy là sự cảm nhận sẽ khác đi, có chăng từng cá nhân ấy tự giải thích cho chính mình là đúng nhất- đó là thơ- có không!?...

TC NGUYỄN
14-01-2009, 09:32
Cảm nhận “một đêm trăng” khó có thơ nào khác hơn thơ Đường làm cho ta bồi hồi xúc động, nhất là nhìn trăng nhớ về quê cha đất tổ, ở một góc trời mù sương đâu đó bỗng nhiên hiện về thơ thẩn theo dấu chân người lữ khách, làm bật lên nỗi cô đơn xa vắng- Hãy đọc bài thơ :

Tĩnh Dạ Tứ

Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương
Lý Bạch

(Note : có sách ghi
-câu 1 : Sàng tiền khán nguyệt quang
-câu 3: Cử đầu vọng sơn nguyệt)

Tạm dịch:

Quanh giường trăng vằng vặc
Hư ảo đất vương sương
Ngước đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương

Chỉ bốn câu thơ cô đọng, nhà thơ đã tạo ra được dư vị trong cái vô tình của cảnh sắc một đêm mơ màng đầy trăng, huyền ảo chập chùng hơi sương như mơ như ảo phủ tràn trên mặt đất, tứ bề lan ra vô tận… về đến bên trời cố hương, trở thành hữu tình, tạo nên cảm xúc khôn cùng khi mà nhà thơ bơi tìm trong ký ức một mảnh đời tuổi thơ khơi dậy quay về chốn quê xưa nơi dòng sông, vách núi, trăng trải lụa trên ngàn cây nội cỏ, rồi bao nhớ nhung trăn trở của kẻ tha hương canh cánh…vỡ oà loáng hơi thơ:

Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương
(ct)

TC NGUYỄN
20-01-2009, 13:01
(tt)

Thơ Đường qua những quá trình phát triển cuả các giai đoạn: Sơ, Thịnh, Trung và Mãn Đường…, dòng thơ trong thời kỳ này phản ảnh rất đặc thù ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, tâm trạng con người qua ánh trăng Thu…tạo thành một bức tranh thủy mạc tuyệt đẹp qua đó con người có thể cảm nhận sâu xa về thân phận nổi trôi của kiếp người…

Trong bài "Vọng Nguyệt Hoài Viễn (Nhìn Trăng Nhớ Phương Xa)” của Trương Cửu Linh, có những cảm nhận tương tự như Lý Bạch, đầy truyền cảm và xúc động, qua nỗi buồn xót xa trong một đêm trăng mờ tỏ trống vắng, lạnh lùng, lung linh ánh sáng của trăng, biển, đất trời lẫn lộn mơ hồ, tạo nên những âm giai thấm sâu vào hồn người quay quắt ngậm ngùi, một mảnh áo khoác hờ sương lạnh khi thấm ướt mới hay, nơi xa muốn sẻ chia cũng không làm sao gỡ được ánh trăng dính trong vạt áo để tặng cho nhau- chỉ còn chăng là dư mộng…

Vọng Nguyệt Hoài Viễn

Hải thượng sinh minh nguyệt,
Thiên nhai cộng thử thì.
Tình nhân oán dao dạ,
Cánh tịch khởi tương tư.
Diệt chúc lân quang mãn,
Phi y giác lộ ti.
Bất kham doanh thủ tặng,
Hoàn tẩm mộng giai kỳ.

Tạm dịch
Nhìn Trăng Nhớ Phương Xa

Ánh trăng sáng, tỏa lang mặt biển
Tận chân trời vằng vặt mông lung
Tình vương xót dạ khôn cùng
Thâu đêm trôi nổi chập chùng lòng ai
Đèn chong tắt chan hòa trăng sáng
Khoác áo vào, mảnh ướt sương rơi
Khó lòng múc ánh trăng vơi
Vùi trong giấc mộng thôi người tặng nhau!

Thi hào Đỗ Phủ cũng đưa hồn lung linh theo ánh trăng quê nhà, nơi mà bao nhớ thương hoài vọng thiết tha, dường như với ông không có nơi nào trăng sáng, trăng trong, vành vạch tròn to “Nguyệt Thố”, đẹp não nùng hơn cố hương, trong bài:

Nguyệt Dạ Ức Xá Đệ

Thú cổ đoạn nhân hành
Thu biên nhất nhạn thanh
Lộ tòng kim dạ bạch
Nguyệt thị cố hương minh
Hữu đệ giai phân tán
Vô gia vấn tử sinh
Ký thư trường bất đạt
Huống nãi vị hưu binh

Tạm dịch:
Nhớ Em Đêm Trăng

Trống vọng cấm người đi
Biên thùy Thu tiếng nhạn
Móc sương trắng mịt mù
Quê xưa ngời trăng sáng
Li tán người em trai
Nhà đâu hỏi mất còn
Thư thường hay thất lạc
Binh đao luống còn dài…

Trong thời nhiễu nhương, con người còn mất chỉ là cái bóng mờ, một tiếng nhạn kêu sương nơi quan tái, cũng gợi cho lòng bao nỗi bi ai, mỗi khi hồi tưởng nơi quê nhà, ánh trăng xưa vẫn còn đó, đẹp não nùng mong đợi người xưa không biết ngày trở lại, mỏi mòn du mộng, mẹ già, người em trai nay nơi đâu?- Thư đưa không tới, người mong không về, đảo mộng liêu trai còn gì để nhớ để mong- một cõi vô thường!...

(ct)

TC NGUYỄN
10-02-2010, 10:53
Lưỡng hợp: Mèo-chuột/Đầy-vơi

Khi hai chữ mèo và chuột được ghép lại với nhau thì ta nghĩ là trai gái hẹn hò lén lút ở bãi sắn-nương dâu làm tình tự theo nghĩa “mèo mả gà đồng “ vượt ngoài lễ nghi ông bà ấn định, lẽ dĩ nhiên đó chỉ là chuyện của các cụ hủ nho ngày xưa nặng thành kiến…, ở đây chỉ xét lấy ý nghĩa của chữ ghép nầy trên khía cạnh triết lý nhân sinh ẩn tiềm mà sự gán ghép lửng lơ như vậy nó bao hàm cái luật tự nhiên của Trời Đất giao hòa Âm Dương huyền đồng của hai đối cực giao thoa, người Việt ta thường hay dùng trong thi ca để gợi ý cho suy ngẫm, tô đậm hằng ngày khó nhận diện theo bề nổi mà nó ẩn hiện trong tâm thức thấy có như không, chính là nỗi băn khoăn mà con người mưu tìm cho ra lẽ sự huyền vi của Tạo Hóa thách thức truy tầm…

Thử nghiệm câu ca đầu đời mẹ Âu Cơ ù ơ cho con ngủ, mà không một ai trong ta đã có lần không nghe mẹ mình ru :

Chú mèo trèo lên cây cau
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà ?
Chú chuột đi chợ đường xa
Mua mắm mua muối giỗ cha chú mèo !

Ai cũng biết Mèo và Chuột là hai con vật xung khắc, gặp nhau thì chuột nhị tì, với lý lẽ như vậy mà Mèo lại đến nhà Chuột hỏi thăm là một đe dọa khủng khiếp cho họ nhà chuột, cho nên chuột tất tả “cao chạy xa bay “hoảng hốt đưa theo gió lời nhắn lại “… đi chợ đường xa để mua đồ cúng về giỗ cha chú mèo”, chú chuột không hổ là láu lĩnh, vừa chạy vừa trù ẻo chưởi bới cho được thì thôi, và trong tình trạng nầy thì chú mèo giả lả hỏi thăm, nhưng dầu sao thì cũng không thể chối cãi mèo chuột vẫn phải sống chung với nhau trong cùng một lãnh địa, và sự cằn cựa chỉ là biến ảo lưỡng cực mà con người nhìn qua đó một hình ảnh tương tranh nhào trộn trong 12 con giáp có chú Chuột (Tí) là kẻ đứng thứ nhất trong khi đó chú Mèo (Mẹo) đứng hàng thứ tư…, rõ ràng chú Tí quan trọng hơn hết thảy của “thập nhị địa chi”, là vì mọi vật khi mới khởi nguyên đều nhỏ “ tí ” lúc mới tượng hình, theo nghĩa tí-teo, trứng nước, nó là mầm sống của vạn vật, cho nên chú Tí được treo bảng đầu tiên là vậy.

Nhưng chú Mèo không yên phận, cho mình là chủ tể di động theo chiều thẳng đứng là trèo lên cây, tạo thành nét “dọc” tượng trưng cho Trời thuộc Dương (+), trong khi đó chú Chuột di động theo chiều ngang (…đường xa ), làm thành Vệt ngang chỉ Đất thuộc Âm (-), âm-dương lưỡng tranh để tìm cách giao thoa giữa chú Mèo và chú chuột nầy là sự di của Dịch, mưu tìm thay đổi Cái Tiểu ngã lưỡng tính mèo-chuột , thành Đại Ngã nhập vào nhất thể khi ước muốn được vò viên chuột của Chú mèo bằng cách xơi tái…

Với hai chữ Mèo-Chuột ta mường tượng một sự lưỡng hợp do tư tưởng phát sinh, thì thật ra rất khó chấp nhận với tính cách hàn lâm, nghiên cứu theo qui cách Tây Phương, vì đối với luận lý học A là A không thể là B được, vì nếu không chấp nhận nguyên lý nầy thì không có toán và khoa học thực dụng, đây là một bế tắc trên nền tảng triết Tây thuần đơn, áp đặt nhiều khi bị nghẽn, thí dụ như ta làm sao giải được một bài toán mà “diện tích một hình vuông có diện tích đúng y như một hình tròn cho sẵn “hay “xác định một chiều dài đúng số pi “v.v…, và nếu có ngày nào biến được những con toán thành khí cụ rộng rãi hơn tổng hợp được cái A và không phải A cùng chung một con số, nghe như giả tưởng, nhưng có thể thực hiện được, vì ta thấy nó ẩn hiện trên tần số thi ca có sự lưỡng hợp của những từ mà xét nó hoàn toàn riêng rẽ và nghịch lý thế mà khi lồng vào nhờ âm điệu gây một cảm giác hài hòa như khô héo, đầy vơi…

Khô héo lá gan cây đỉnh Ngự
Đầy vơi giọt lệ nước sông Hương

Đầy và vơi cũng như mèo với chuột nếu xét riêng từng chữ nó hoàn toàn đối nghịch và hơn nữa người ta lại còn đem lý với tình cặp với nhau như “tim óc”, nếu xét trên tính duy lý thì “con tim có lý lẽ riêng của nó “ kia mà, cho nên đối với Tây Phương sự ghép đặt chữ đối kháng chung vào nhau ít khi thấy, tuy nhiên với ta thì đây là một hình thức thông thường làm cho bật ra một nghĩa lý sâu kín trong cõi u linh của người Việt, mà thi ca là chứng tích để dò tìm trong cội nguồn dân tộc sẽ phát sinh ra những soi rọi mà thế giới đầy rẫy tư duy bị hao mòn đã đến lúc cần phải xem lại…

Rõ ràng là trong thi ca Việt trong cõi u minh của sự vật có một ý nghĩa mà trí năng thường tình không thể giải thích được, chỉ có cách duy nhất để soi rọi là dùng trực giác đi thẳng vào bản chất sâu thẳm mà mức độ thấp nhất là “giác quan thứ sáu “lần lên cõi siêu đẳng của hiện tượng phô bày, mà ngôn từ thông thường không diễn tả được. Muốn đạt được cái thành quả siêu việt không thể căn cứ vào cái gọi là “tư duy duy lý” để mổ xẻ phân tích rồi tổng hợp lại, như một trái cây chín chẳng hạn, nhà khoa học chẻ bổ phơi nghiền nó ra để tìm hiểu sự cấu tạo hay hương vị của nó…., khi tổng hợp lại nó trở thành chất bã trái cây, ở thể chết…, vậy xét sự vật theo ngôn từ đối-hợp ghép trong thi ca mèo chuột là bằng chứng cái nhìn trực giác tổng thể lưỡng cực huyền đồng, giải thích được khoa học điện tử (electronic) hiện đại, khi xét đến cấu tạo của một nguyên tử có điện tử âm (electrons), điện tử dương (protons) di động trì kéo hòa hợp nhờ các trung hòa tử (neutrons), vậy cái nhỏ Tí-tẹo nguyên tử ấy đúng là cái khởi sinh của vạn vật, thì chú Tí đi chung với chú Mèo để khởi động cái lý lẽ âm dương hòa hợp trong ý nghĩa “mèo mỡ gà đồng” chỉ là sự nhập dòng sinh mệnh đầy-vơi… Đúng-Sai ?!...

sao_phu08
16-04-2010, 13:37
Lạm Bàn Về Ngôn Từ Thơ

Thơ là một phạm trù nghệ thuật đòi hỏi sự chuyên tâm và một tầm kiến thức nhất định . Có rất nhiều người yêu thơ , làm thơ nhưng thực tế không mấy ai thực sự là một nhà thơ lớn được . Bên cạnh cú pháp được coi như là phần thể xác thì ngôn từ chính là trái tim để thể xác ấy có hồn sống . Ngôn từ trong thơ khác trong văn chương rất nhiều . Vì không thể lê thê giảng giải như các văn xuôi , tạp bút…nên ngôn từ trong thơ được coi là sự chắt lọc gần như cạn kiệt tinh hoa của vốn từ . Người đọc có thể đồng cảm được với tác giả hay không chính là ở cách thể hiện ngôn từ . Một bài thơ mà ngôn từ trần trụi quá dễ gây sự nhàm chán và dễ dàng bị quên lãng trong hằng hà các bài thơ khác . Độ sâu và chín của nhà thơ chính được đo trong độ sâu và chín của ngôn từ mà nhà thơ ấy dùng trong tác phẩm của mình . Ở đây , người viết xin lạm bàn về câu hồn và từ hồn , tức là những câu và từ làm sức sống bài thơ có thể trường tồn thách đố thời gian .

Nếu nhìn nhận kỹ lưỡng về các bài thơ Đường nổi tiếng còn đến ngày nay , hẳn dễ dàng nhận ra một sự xếp đặt những từ thành một câu khai sáng cho bài thơ mà chúng ta vẫn quen được biết là “ câu hồn “ . Ví dụ như :

Bồ Đào mỹ tữu dạ quang bôi ( Bồ Đào rượu ngát chén lưu ly )
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi ( Toan nhấp tỳ bà đã dục đi )
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu ( Say khướt sa trường anh chớ mỉa )
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi ( Xưa nay chinh chiến mấy ai về )

Câu hồn ở đây chính là phơi bày sự thật chua chát của thân phận con người trong chiến tranh , cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi , chính nhờ nó mà bài thơ đã nổi bật và nằm sâu trong lòng người đọc . Hay trong bài Phong Kiều Dạ Bạc được dịch qua giọng thơ của Trương Hàm Ninh mà chúng ta có một thời gian dài lầm tưởng của cụ Tản Đà :

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên ( Trăng tà tiếng quạ kêu sương )
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên ( Lữa chài cây bến sầu vương giấc hồ )
Cô Tô thành ngoại hàn san tự ( Thuyền ai đậu bến Cô Tô )
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền ( Nữa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San )

Câu hồn kết để mở thật hay và đúng trong ngoại cảnh lẫn tứ thi , dạ bán chung thanh đáo khách thuyền , kết hợp cùng trăng lặn , lữa chài le lói , thuyền cô độc neo bến đêm thành một không gian mênh mông trầm lắng thanh tịnh đến thoát tục . Bến Cô Tô lại ngỡ là chốn dừng trước ngõ Bồng Lai . Tiếng chuông đêm vọng xuống từ chùa trên núi như lời trầm niệm suy ý cho thế nhân thăng trầm . Người đọc ngỏ hồ như thấy được cả một dáng ngư phủ đang soi bóng mình bên bếp lữa hồng nhỏ nhấm rượu mà tư lự đời mình . Ngư phủ là ta hay ta là ngư phủ ? Cõi nhân sinh mỏng manh và phù du biết bao ? Thật mơ đã quyện nhau đến bất tận , cũng chính là tiếng chuông chùa nữa đêm “ đáo khách thuyền “ đấy thôi .

Trong văn học Á Đông có một thể thơ mà đến nay dù rất kén người viết lẫn người đọc nhưng vẫn trường tồn trong tâm trí những ai yêu mến tinh túy thơ ca . Đấy là thể loại Haiku của Nhật Bản . Một thể loại thơ bó buộc về hạn chế câu từ đến nghiêm ngặt . Ngay cả tại đất nước sản sinh ra dòng thơ trên cũng có rất ít nhà thơ viết về Haiku nổi tiếng . Người viết cho rằng đây chính là minh chứng cho việc lựa chọn ngôn từ quý trong thơ . Xin lấy dẫn chứng :

Ao cũ
Con ếch nhảy vào
Vang tiếng lao xao *

Đọc qua tưởng chừng như không có gì là thơ hay không có gì để cấu thành độ sâu xúc cảm . Nhưng ngẫm lại mỗi câu từ thì bất giác lại rùn mình trong hoài niệm quá khứ . Cái ao cũ phẳng lặng bình yên ấy đã thức tỉnh trong sự khuấy động của chú ếch nhỏ vang lên nhiều tiếng khua nước lao xao . Tiếng lao xao gì vậy ? Có phải là cả một bầu trời thơ ấu ngày xưa đùa nghịch quanh ao đã hiện về ? Có phải là nguyên một khoảng yêu thương ngọt lịm cùng một cô láng giềng nào đấy ngày ngày diễn ra quanh ao nhỏ đang phục sinh trong tim ? Có phải là thấy được ta hồn nhiên bên tình yêu của mình khờ khạo ? Có phải cả một chân trời đầy ắp kỷ niệm xưa đã ngủ quên lâu năm nay lại ùa về đến ngộp hồn ? Ô , chỉ một con ếch nhỏ đã làm sống dậy trong tâm tư biết bao xúc cảm đa chiều . Người đọc chìm trong tứ thơ sâu lắng ấy lại còn có thể nhìn ra hình dáng của một Người Quay Lại đang cúi đầu hồi tưởng bên bờ ao . Một người quay lại đang nuối tiếc hoặc hạnh phúc trong những kỷ niệm cũ mà mình gom nhặt được . Con ếch ấy chỉ làm nền cho những tiếng lao xao trổi dậy trong lòng nhà thơ và đọc giả đồng cảm suy ý ra biết bao điều để hồi tưởng . Bình dị , thông thường nhưng lại bao hàm cả triết lý của Á Đông , trong vô thường luôn hiện hữu cái hữu hạn , cái hữu hạn lại luôn chứa những điều vô thường ; như hòn cuội nhỏ nằm lăm lóc bên suối cạn , biết đâu ngày trước đã từng là đỉnh của núi Thái Sơn .

Ngay trong các loại thơ mới bây giờ vẫn thấy được sự quan trọng của việc chọn lựa ngôn từ để hình thành nên câu hồn giữ nhịp sống cho bài thơ . Hãy đọc qua tác phẩm sau của Đoàn Thị lam Luyến , một nhà thơ nữ mà người viết rất mực yêu thích :

Em đầy ngộ nhận như tôi
Cũng yêu chí chết cái người mình yêu
Cũng tìm những lối rong rêu
Để rồi bước trật bước trèo uổng công
Mắt thì thăm thẳm mùa đông
Trái tim mùa hạ tấm lòng mùa thu
Mùa xuân ở phía xa mù
Mà băng tuyết đến bao giờ cho tan
Gặp em cơ nhở cưu mang
Tôi đâu biết sự lỡ làng về sau
Em đương lấy sóng làm cầu
Khơi xa làm bến đáy sâu làm thuyền
Lấy khao khát để làm yên
Lấy duyên làm kiếp lấy tiền làm khinh
Rồi ra em giống chị mình
Lấy bao nhiêu cái thất tình làm vui

Mười bốn câu thơ đầu như lời đồng cảm của chị trước một người em gái dại khờ trong tình yêu . Nó sẽ chỉ tạo được chút gợn mơ hồ trong lòng người đọc và nhanh chóng bị lãng quên nếu không có hai câu cuối :

Rồi ra em giống chị mình
Lấy bao nhiêu cái thất tình làm vui

Người đọc đến đây phải thốt lên , thì ra . Thì ra chị khóc thương em cũng chính là chị đang khóc thương cho mình ngày trước và bây giờ . Thì ra cưu mang em dại khờ cũng chính là đang cưu mang cho chị vẫn còn chưa nguôi nông nổi , cho con tim hồng nhan luôn bạc mệnh trong lưới tình . “ Lấy cái thất tình làm vui “ nghe sao chua chát quá , nghe sao phải thương xót cảm thông cho một con tim chân thật bị sóng tình của dối trá bạc bẽo vùi dập đến tan hoang . Ai đã từng một lần nếm trải được vị mặn đắng tình ái , hẳn rất dễ dàng cảm thụ được phần hồn trong hai câu thơ này . Nhà thơ viết cho chính mình cũng như là đang viết cho chính chúng ta vậy . Bài thơ trên nằm sâu trong lòng người yêu thơ là vì lẻ đó

Hay trong bài Đôi Mắt Người Sơn Tây của Quang Dũng , có nhiều người đọc xong đều quên đi nhiều ít các đoạn riêng đôi ba câu sau vẫn sống mãi trong tâm trí qua thời gian :

Đôi mắt người Sơn Tây
U uẫn chiều lưu lạc
Buồn viễn xứ khôn khuây

Có nhiều người không biết Sơn Tây là ở đâu , cũng không cảm nhận được nổi đau di tản trong chiến tranh ngày trước , nhưng đọc được ba câu trên đều thấm thía mà đồng cảm được . Đều thấy ra ra mình trong đôi mắt u uẩn hoen đỏ mỗi chiều ngồi đất khách mà ngóng về cố thổ , nước mắt muốn rơi nhưng không biết bao nhiêu cho vừa . Đôi mắt u uẩn như bầu tâm sự của nhiều kẻ xa quê đau đáu về mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình . Đôi Mắt Người Sơn Tây có lẻ sống được qua thời gian là như vậy

Câu hồn trong thơ quan trọng là vậy . Nói không ngoa nó có thể khiến một bài thơ trở nên bình thường quá đỗi hoặc là hay quá đỗi . Biết chọn từ thành câu để truyền hồn sống cho thơ đòi hỏi một sự từng trải về viết lách và một vốn từ phong phú . Nó được hình thành trong sự chính chắn và chiều sâu nội tâm của nhà thơ qua nhiều tháng năm cần mẫn tích góp như chú ong nhỏ gom ngàn phấn hoa tạo ra giọt mật tinh túy cho đời . Độ già dặn và chính chắn trong cách viết nhà thơ càng cao thì cách chọn ngôn từ tạo ra câu hồn càng hay và tinh tế . Người đọc theo đó dễ dàng cảm nhận hơn về hàm ý trong tác phẩm .

Bức tranh vẻ nàng Mona Lisa của Leonardo da Vinci bất tử không phải vì nàng ấy quá đẹp hay vì lối trình bày thiên tài vượt thời đại của tác giả . Bức tranh ấy bất tử vì nụ cười vừa hiền dịu lại biểu lộ đầy bí ẩn cảm xúc trái chiều trên môi nàng mà danh họa Vinci đã dày công tô dựng . Một tác phẩm thơ cũng vậy , muốn ăn sâu vào tiềm thức người đọc nhất thiết cần phải có một nụ cười Mona Lisa !

( ct )
….
* Bài thơ Haiku này Phủ ngày trước được đọc thấy hay nên đã chép vội vào tâm trí , bây giờ không còn nhớ được tác giả và dịch giả nên để trống không dám ẩu tả viết vào .

Bách Việt 18
18-04-2010, 14:31
Lưỡng hợp: Mèo-chuột/Đầy-vơi

Chú mèo trèo lên cây cau
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà ?
Chú chuột đi chợ đường xa
Mua mắm mua muối giỗ cha chú mèo !

Ai cũng biết Mèo và Chuột là hai con vật xung khắc, gặp nhau thì chuột nhị tì, với lý lẽ như vậy mà Mèo lại đến nhà Chuột hỏi thăm là một đe dọa khủng khiếp cho họ nhà chuột, cho nên chuột tất tả “cao chạy xa bay “hoảng hốt đưa theo gió lời nhắn lại “… đi chợ đường xa để mua đồ cúng về giỗ cha chú mèo”, chú chuột không hổ là láu lĩnh, vừa chạy vừa trù ẻo chưởi bới cho được thì thôi, và trong tình trạng nầy thì chú mèo giả lả hỏi thăm, nhưng dầu sao thì cũng không thể chối cãi mèo chuột vẫn phải sống chung với nhau trong cùng một lãnh địa, và sự cằn cựa chỉ là biến ảo lưỡng cực mà con người nhìn qua đó một hình ảnh tương tranh nhào trộn trong 12 con giáp có chú Chuột (Tí) là kẻ đứng thứ nhất trong khi đó chú Mèo (Mẹo) đứng hàng thứ tư…, rõ ràng chú Tí quan trọng hơn hết thảy của “thập nhị địa chi”, là vì mọi vật khi mới khởi nguyên đều nhỏ “ tí ” lúc mới tượng hình, theo nghĩa tí-teo, trứng nước, nó là mầm sống của vạn vật, cho nên chú Tí được treo bảng đầu tiên là vậy.

Nhưng chú Mèo không yên phận, cho mình là chủ tể di động theo chiều thẳng đứng là trèo lên cây, tạo thành nét “dọc” tượng trưng cho Trời thuộc Dương (+), trong khi đó chú Chuột di động theo chiều ngang (…đường xa ), làm thành Vệt ngang chỉ Đất thuộc Âm (-), âm-dương lưỡng tranh để tìm cách giao thoa giữa chú Mèo và chú chuột nầy là sự di của Dịch, mưu tìm thay đổi Cái Tiểu ngã lưỡng tính mèo-chuột , thành Đại Ngã nhập vào nhất thể khi ước muốn được vò viên chuột của Chú mèo bằng cách xơi tái…

Đúng-Sai ?!...

Bàn thêm về Mèo - Chuột và thập nhị địa chi.
Tý là tí tị, Mão là mưu mẹo thì ... thập nhị địa chi là tiếng Việt. Chuột (Thử) và Mèo (Miêu) trong tiếng Hán không hề có ý nghĩa nào là tí tị và mưu mẹo cả. Xem tất cả các chi khác thì đều như vậy...
Thập nhị địa chi là 12 tính từ trong tiếng Việt chỉ các cấp độ khác nhau của 4 quẻ chính của Dịch lý là TO - NHỎ - LÝ - TÌNH (Càn - Khôn - Ly - Khảm).
- To (quẻ Càn, hay Cường): Tị = Tộ (to), Ngọ = Nghệ (nghệ nhân, nghệ thuật), Mùi trong chín mùi.
- Nhỏ (quẻ Khôn): Hợi = Hơi (hơi hơi), Tý trong tí ti, Sửu = Xíu (nhỏ xíu).
- Lý (quẻ Ly): Dần = Rành (rành rọt), Mão = Mẹo (mưu mẹo), Thìn =Thần (thần thông quảng đại).
- Tình (quẻ Khảm): Thân trong thân tình, Dậu = Dịu (dịu dàng), Tuất = Tiếp (tiếp xúc, giao tiếp).
Xem đồ hình gắn 12 tính từ này với 4 quẻ của Bát quái:

http://i303.photobucket.com/albums/nn137/ndtluu/Thapcan-1.jpg

Có thể thấy đúng là chú Chuột (Tý) nằm ở trục đứng (cây Cau hay Cao), còn chú Mèo (Mão) ở trục ngang. Vì thế chú Mèo phải "trèo cây cau" để "thăm chú Chuột". Còn chú Chuột "đi chợ đằng xa" theo vòng tròn (ngược chiều kim đồng hồ) lại có thể gặp được "cha chú Mèo".

Theo thứ tứ thập nhị địa chi hiện nay có: Tý - Sửu - Dần - Mão - Thìn - Tỵ - Ngọ - Mùi - Thân - Dậu - Tuất - Hợi. Tuy nhiên theo bài ca dao trên, đầu tiên chú Mèo phải trèo cây cau đã (Mão sang Tý), rồi chú Chuột chạy lòng vòng mới đến cha chú Mèo (Tý sang Mão). Như vậy thứ tự phải đổi ngược là:
Tý - Hơi - Tiếp - Dịu - Thân - Mùi - Nghệ - Tộ - Thần - Mẹo - Rành - Xíu

Một dẫn chứng khác: quẻ Khảm trong Dịch chỉ tình thương, ở phương Đông. Quẻ Ly chỉ lý lẽ ở phương Tây. Mặt trời mọc từ Đông sang Tây. Như vậy các chi của quẻ Khảm (Thân, Dậu, Tuất) phải trước các chi quẻ Ly (Dần, Mão, Thìn).
Nếu thực sự thứ tự của thập nhị địa chi bị đảo ngược thì hậu quả khôn lường vì lịch sử Trung Hoa và Đại Việt đều dùng can chi mà chép năm...

sao_phu08
03-05-2010, 12:22
Lạm Bàn Về Cảm Thụ Thơ

Thơ hay là một lẽ nhưng làm sao cảm thụ được cái hay trong thơ lại là cả một vấn đề . Thơ ca cổ điển đòi hỏi người đọc phải có được sự hiểu biết nhất định về thơ . Đây chính là rào cản lớn nhất để người trẻ đương đại bây giờ đến gần được với thơ xưa . Có một thời người ta đã gọi thơ Đường là loại thơ dành cho bác học không dành cho bình dân . Thiết nghĩ , đòi hỏi ở người cảm thụ thơ một tầm kiến thức để đồng cảm được là chính đáng nhưng làm thế nào mà ngay cả một người bình thường cũng rung cảm được với nội tâm bài thơ thì có phải hay hơn không ? Phạm Bách Lam từng nói về sự đại đồng trong văn học . Ông cho rằng , viết một tác phẩm nên để cho phần đông mọi người hiểu được . Có lẻ vì vậy mà khi phong trào thơ mới bùng nổ , nó nhanh chóng được hưởng ứng mạnh mẽ về sự thoải mái trong cách biểu đạt chiều sâu cũng như nội tâm trong thơ dung dị và thực hơn .

Có người nói thơ ca phải biết giấu kín cái hay càng kỹ lưỡng càng tốt . Để người đọc có thể được như anh chàng trai tân mới cưới vợ , mỗi ngày là mỗi khám phá ra thêm một nét yêu kiều viên mỹ . Đứng trên phương diện cá nhân tôi không tán đồng cho mấy . Văn học nghệ thuật , trong đó có thi ca , càng gần gũi với người đọc bao nhiêu càng tốt , càng dung dị với rung cảm của một người bình thường càng tốt . Có một thời sau đổi mới , nhiều nhà phê bình cấp tiến đã không ngớt lời chê thơ lục bát của cố thi sĩ Nguyễn Bính là văn học nhà quê . Tôi thú thật không biết nên cười hay nên khóc , nhưng kỳ thực đến giờ tôi vẫn chưa thấy có một nhà thơ nào lại có chất quê mộc mạc như tâm hồn làng Việt của cụ Nguyễn .

Cảm thụ thơ nếu đòi hỏi người đọc phải có được thế này thế nọ thì thật là quá bất tiện . Nói cho cùng thi ca cũng chỉ là rung cảm của nhà thơ với đời thường nên không thể tự tạo khoảng cách với đọc giả , những người đang sống thực tế trong đời thường , được . Theo tôi , một nhà thơ hay phải là người khiến bất kỳ ai cũng dễ dàng thấy được cái hay của mình . Lấy ví dụ hai câu kết của bài Mùa Xuân Chín của Hàn Mặc Tử :

Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang

Cái dòng sông buổi trưa chói chang nắng ấy , từ Bắc Trung Nam đâu đâu lại không có một dòng sông như vậy ? Ai trong lòng nhớ về quê hương của mình không có một dòng sông như vậy ? Người đọc có thể không cảm thụ được mùa xuân chín chốn nào , nhưng hình ảnh về người con gái gánh thóc ( có thể là chị , là em là một cô thôn nào đấy ) đã gợi lại nguyên vẹn tuổi thơ quê nghèo ăm ắp ký ức . Dòng sông trưa chói chang hoa nắng đã đọng lại suốt đời trong hồn người con tha hương viễn xứ , huống hồ chi lại còn thêm một chị gánh thóc gánh theo luôn bao tình cảm dại khờ thưở đầu . Ai không rung động cùng tác giả cho được .

Trong bài thơ họa lại Hai Sắc Hoa Ti Gôn của T.T.K.H , Nguyễn Bính có viết :

Đêm đêm bên cạnh chồng già
Và bên cạnh bóng người xa hiện về

Sự tréo ngoe của một người con gái đã có gia đình mà vẫn nặng lòng về mối tình cũ hiện lên thật đến trắng trợn . Người đọc dễ dàng tưởng tượng ra được khuôn mặt luôn cố gắng tươi cười nhưng cõi lòng đã chết rũ vì sầu héo của người con gái nọ . Nó rõ ràng và chân thật không lẫn khuất gì cả .

Hay nỗi lòng T.T.K.H trong bài Hai Sắc Hoa Ti Gôn :

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết từng thu chết
Vẫn giấu trong tim một bóng người

Ai cũng dễ dàng cảm nhận được sự sầu thảm của nhân vật Tôi ấy với những cung bậc cảm xúc thật , rất thật đến dung dị .

Có một thời tồn tại khái niệm thi ca bình dân và thi ca bác học . Các nhà phê bình theo mỗi lý luận riêng đều đưa ra sự thuyết phục của mình . Tôi cũng chỉ là một kẻ yêu thơ nghiệp dư nên cũng không tự tiện nhận định đúng sai , cái nào lợi . Tuy nhiên nếu mục đích nghệ thuật vị nhân sinh thì thiết nghĩ nên “ bình dân ” một chút để tất cả độc giả được dễ dàng rung cảm với nhà thơ . Ví dụ như bài Thu Vịnh của cụ Nguyễn Khuyến có câu kết :

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào

Đọc giả nếu không biết Đào Tiềm là ai thì cũng sẽ dò mò suy đoán lại thành hỏng mất cái khí tiết thanh bần của cụ Nguyễn . Lại hóa ra vách ngăn tri thức đã cản đường cho sự đồng cảm cảm thụ thơ .

Xin lan man một chút qua văn . Nếu không có một tầm nhất định khi đọc qua Ông Già và Biển Cả của nhà văn mỹ Hem_ming_quay , đọc giả dễ dàng tự hỏi cái hay thật sự của tiểu thuyết này là gì ? Đấy là do “ tảng băng trôi ” trong lối hành văn của Hem_ming_quay quá sâu sắc nên lại kén người xem . Thiết nghĩ nếu đã gọi thơ là nghệ thuật thì dù “ vị nhân sinh ” hay “ vị nghệ thuật ” cũng đừng nên bác học quá hòng dễ dàng phổ cập đến đông đảo người xem hơn .

Mỗi người đều có ý riêng nên nhìn nhận về cảm thụ thơ cũng vậy . Xin mạo muội so sáng thơ như một phụ nữ theo câu danh ngôn nổi tiếng : “ không có người phụ nữ xấu , chỉ có người phụ nữ không biết làm đẹp mà thôi ! ” . Tuy nhiên làm đẹp cũng có trăm ngàn kiểu , miễn là đừng tô vẻ nhiều quá đến đài các kiêu kỳ sẽ dễ gây phản cảm và người đọc lại mỏi mê ngại ngần khi xem tới .

Chẳng phải lục bát vẫn là thể thơ yêu thích của chúng ta đó sao ? Không phải chỉ vì nó gần gũi hay dung dị mà còn là vì sự truyền cảm dễ dàng và không cần cầu kỳ trong cảm thụ đấy thôi …

TC NGUYỄN
04-05-2010, 19:37
Lưỡng hợp: Mèo-chuột/Đầy-vơi (tt)

Khi Bàn về đặc trưng từ lắp “mèo-chuột” là muốn phơi bày cái tính lưỡng nghi mâu thuẩn trong âm có dương, trong dương có âm…, cặp đôi âm dương theo lý giải dịch lý là sự đối đẳng, không đối kháng, theo như cách nói của các nhà đạo học thì “Hai mà Một, Một mà Hai”. mới nhìn thì thấy như một thứ tư tưởng ba phải, lưng chừng mà triết Tây không chấp nhận.

Nhưng nhờ vào sự lý luận trái khoái này của triết Đông, cho ta lãnh hội được một triết lý ảo diệu, một thứ tư tưởng đầy biến động, đổi từ đối cực này qua đối cực kia, mà khi dò đến ngọn nguồn thì “…bất khả đạo, …bất khả danh” ngay!. Vì vậy nên cố lý giải thì chỉ chính mình tự đi vào con đường vòng định nghĩa một chiều, vậy muốn hiểu được đạo học Đông Phương(triết Đông) ta phải hiểu thế nào là “vô ngôn” lấy cái “ngộ” trong một sát na là chính.

Các cụ ta ngày xưa thường đọc“ê a” gù gật là để tìm cảm giác biến thành trực giác đi thẳng vả chữ “Đạo” mà không qua lý sự vì nó làm tản mác đi cái bản thể của con người mà đạo học cho là một “tiểu vũ trụ” ẩn trong cái tâm sâu thăm thẳm ấy!

Ở đây xin không đi quá xa mà chỉ quay lại tóm gọn bàn trong bài đồng dao xin nêu lại đây:

Chú mèo trèo lên cây cao
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà ?
Chú chuột đi chợ đường xa
Mua mắm mua muối giỗ cha chú mèo (!)

Trong bài đồng dao trên, từ "chú" dùng cho cả mèo lẫn chuột với ý nghĩa tương đồng mặc dù mèo và chuột là hai con vật đối nghịch khống chế mà mèo là chủ đạo sinh sát, và đây cũng mang ý nghĩa hai con vật này nhất cử nhất động đều lưu ý đến nhau…- cho nên chuột được nâng lên đồng đẳng với mèo- theo cái nhìn của dịch có mậu thuẩn nhưng tương hợp theo nghĩa như: tiên với rồng, âm với dương, trời với đất…nằm trong ý nghĩa “song trùng lưỡng hợp”, tuy hai nhưng là một, khi hai con vật mèo và chuột cùng sống trong một lãnh thổ, và cho dù mèo có ăn tươi chuột ngày nào đó thì chỉ là sự hòa đồng vào nhau thành thể nhất nguyên là lúc đi về với Đạo…

Từ những luận lý đặt trên căn bàn triết và như ta biết triết là triệt, hiểu thấu triệt tận cùng của sự vật qua cái vô hình bằng vào cái hữu hình của nó, và như vậy ở đây “Mèo” đồng nghĩa với “Trời”, là tình yêu hạnh phúc trong ý nghĩa vô biên như Vũ Trụ hay hình ảnh của Cái--.> Mẹ--.> Nữ Oa theo nghĩa anh/em trước sau như ca dao:

Anh khôn cũng ở dưới Trời,
Em là chim én đổi dời thượng thiên.

Và theo đó “chuột“ đồng nghĩa với “đất”, phần nặng chìm, “chuột” ở trong hang dưới đất, nơi mà trời đất giao hòa theo nghĩa “Thiên sinh, địa dưỡng” mà ra- khi “chuột” làm nhà trên cao, cây cau là lúc quá độ phải trở về vị trí cũ, đó là “phản phục” cả “mèo” lẫn “chuột” đổi vị cho hợp âm/dương lưỡng hợp là vậy, đây là sự nhân hòa công tạo vạn vật để bảo tồn và phát triển đời sống quần sinh.

Lưỡng hợp “mèo chuột” qua đó ta thấy được đạo trời trong ý nghĩa âm trước dương sau, tình trước lý sau, vợ trước chồng sau… gọi là “Tả Nhậm”, đó là triết lý sống với tâm linh quí trọng tinh thần lấy sự kính trên nhường dưới, bên vực kẻ khốn cùng...

Có thể bạn không đồng ý vì nó không có luận cứ khoa học nào dẫn chứng, nhưng phạm vi triết nó vượt xa lên trên mọi lãnh vực và là dẫn đạo trên hết…, vì vậy sai đúng thế nào đây?!...