PDA

View Full Version : Khóc Tản Đà của Trần Huyền Trân


Quận Chúa Quỳnh Anh
16-06-2006, 02:28
Gìn Vàng Giữ Ngọc

Cũng vào tháng sáu cách đây 67 năm , 07-06-1939 . Tản Đà , một nhà thơ lớn trong Văn Học Việt Nam tiền bán thế kỷ 20 qua đời tại nhà riêng ở Ngã Tư Sở , Hà Nội , hưởng thọ 51 tuổi . Tản Đà , trong cuộc đời thất bại về mặt tình cảm , vắng bóng trần ai tri kỷ , không thỏa Giấc mộng lớn , Giấc mộng con nhưng thành công rực rỡ về mặt thi ca . Cả hai phái mới cũ đều xưng tụng tài hoa của thi nhân và đều nhận ông là người của phe mình . Hoài Thanh mở đầu tuyển tập Thơ Mới Thi Nhân Việt Nam , đã " Cung chiêu anh hồn Tản Đà " coi ông là gạch nối giữa thơ mới và thơ cũ .

Đặc biệt , Tàn Đà trong cuộc đời ngắn ngủi , đã dùng thơ họp bạn , dùng rượu tiếp bạn và từ Bắc vào Nam , nơi nào ông cũng có kẻ quý mến . Ông đã tự hào :

Nửa đời nam , bắc , tây , đông
Bạn bè xum họp vợ chồng biệt ly

Nhờ quảng giao , có phong cách trượng phu và rất phóng khoáng , cũng nhờ yêu người nên được người yêu . Khi nhà thơ qua đời , phái trẻ khóc ông , người đồng tuổi cũng khóc ông và ngoài văn giới nhiều người nhỏ lệ vì ông , đúng như ông dự đoán khi viết bài " Còn chơi " :

Trăm năm : Tớ độ thế mà thôi ,
Ức triệu nghìn năm chửa hết đời
Chắc có một phen đời khóc tớ
Đời chưa khóc tớ , tớ còn chơi .

Những bài thơ tiêu biểu khóc Tản Đà ngay sau khi ông qua đời gồm một bài của Nguyễn Trọng Thuật , một nhà văn lớp cũ và bài khóc Tản Đà của Trần Huyền Trân , một cây bút trẻ của thế hệ 32-45 . Bài của Trần Huyền Trân dưới đây vượt được cái khuôn sáo của loại thơ " thù tạc " nhờ tình thực và ý thực :

KHÓC TẢN ĐÀ

Đêm kia sao rụng trên trời
Cõi trần lạnh lẽo mất người bạn thơ
Nước non này mấy dư đồ
Mà hồn non nước bây giờ tìm đâu?
Lấy gì , trời đổi cho nhau ,
Người sương gió nhuộm mái đầu bấy nay ?
Bao lâu tỉnh tỉnh say say
Say say tỉnh tỉnh lần này mà thôi !
Chiều nay tám chín phương trời ,
Muôn ngàn người có một người đi qua .
Dở dang này những ngày xưa :
" Người non nước hẹn thế cờ nước non
Khối tình lớn , khối tình con,
Khối tình bóp bẹp vo tròn lại nguyên . "
Lòng thơ lấy rượu làm duyên
Hồn thơ xuôi ngược con thuyền " An Nam "
Não nùng chớp bể mưa ngàn
Thuyền nan hờn sóng thuyền nan trở về .
Mai kia , mốt mốt , kia kia,
Cảnh rầu rĩ cảnh lòng tê tái lòng !
Hôm nao vút cánh chim hồng
Mình khôngh thẹn bóng , bóng không thẹn mình .
Giờ sao lủi thủi gia đình,
Rượu cay càng gửi bất bình càng cay .
Mịt mù Nam , Bắc , Đông , Tây
Đã đầy mộng lớn , đã đầy mộng con !
Còn gì là tấm lòng son !
Thân tàn một kiếp , chí tàn bốn phương .
Rồi ... gió sương trả gió sương
Nét thơ xóa sổ " đoạn trường " ra đi !
Giờ đây ,kẻ ở người về ,
Thương nhau tôi biết lấy gì khóc nhau .
Lệ lòng tôi hết từ lâu ,
Gạn lòng gọi có mươi câu chân tình

Trần Huyền Trân
(9-6-1939)

TRần Huyền Trân tuy là nhà thơ trẻ ( sinh năm 1913 ) thuộc thế hệ đàn em của Tản Đà ( sinh năm 1889 ) nhưng có nhiều cơ hội tiếp xúc với Tản Đà nhà thơ và rượu và được Tản Đà coi như là bạn vong niên từng có phen cùng nhau đối ẩm :

Cụ hâm rượu nữa đi thôi
Be này chừng sắp cạn rồi còn đâu
Rồi lên ta uống với nhau
Rót đau lòng ấy , vào đau lòng này !

Trong làng thơ mới , họ Trần không có cơ hội nổi bật như Thế Lữ , Xuân Diệu và Huy Cận , vốn được các tờ Phong Hóa , Ngày Nay hổ trợ . Ông cũng không được nhiều người biết đến như Lưu Trọng Lư của Hà Nội Báo hay Hàn Mặc Tử của văn đàn Bình Định hoặc như các nhà thơ độc lập Vũ Hoàng Chương và Nguyễn Bính . Ông cũng là kẻ bất đắc chí , ra đời trong một nhà thương làm phúc , mồ côi cha từ nhỏ , làm thơ từ tuổi 20 nhưng lận đận trên đường văn bút và cơ hàn trong tuổi xuân xanh . Sợi dây cảm thông đã hình thành giữa nhà thơ trẻ " sinh bất phùng thời " và một nhà thơ " hữu tài , hữu chí " nhưng " vô mệnh " . Tản Đà trong cuối thập niên 30 , tóc đã bạc , sức khỏe mỏi mòn sau bao năm ra Bắc vào Nam muốn mang tài , mang chí của mình vì nhân loại tài bồi " thiên lương " nhưng thất bại , đành phải lui về một xóm quạnh hiu ở ngoại ô Hà thành hoa lệ và chìm đắm trong gánh nặng thê nhi . Cảnh nghèo , sự bất đắc chí , nỗi sầu đời , tính nghệ sĩ và rượu đã nối kết một già một trẻ . Khi Tản Đà qua đời , trong đám người trẻ ngoài Nguyễn Tuân ra , có lẽ chỉ có Trần Huyền Trân gần gũi và cảm thông với ông sâu sắc nhất .

Họ Trần cảm thông được tâm trạng của Tản Đà nhà yêu thơ và được nhiều phen tâm sự cùng với ông .

Tản Đà trong vai trò một nhà Nho chính thống , ý thức được trách nhiệm trước cuộc hưng vong của quốc gia , nhưng trong hoàn cảnh lịch sử , trong điều kiện cá nhân không thành công về mặt khoa cử , ông chỉ còn biết dùng văn chương để tài bối " Bức dư đồ rách " mang thuyết " thiên lương " ra dạy đời và dùng vần điệu bóng gió gợi hồn non nước . Trần Huyền Trân đã hiểu tấc lòng của nhà thơ núi Tản - sông Đà :

Nước non này mấy dư đồ
Mà hồn non nước bây giờ tìm đâu ?

Nói đến Tản Đà , cũng như nói đến Lý Bạch của Trung Hoa , là nhắc tới thơ và rượu , chính nhà thơ đã tự hào :

Trăm năm thơ túi , rượu vò ,
Nghìn năm thi sĩ tửu đồ là ai ?

Trần Huyền Trân nhớ Tản Đà không quên những lúc có cơ hội cùng nhà thơ cạn chén hay trong cơn mộng cùng nhà thơ uống rượu :

Bao lâu tỉnh tỉnh say say
Say say tỉnh tỉnh lần này mà thôi !

Chẳng phải chỉ là một nhà Nho mạt vận , mà Tản Đà có bản chất là một nghệ sĩ đa tình , một nhà thơ giàu cảm xúc . Ông từng khiêm tốn lấy tên tác phẩm của mình là Khối tình con nhưng trong đó tình cảm lại dàn trải mênh mông và thắm đượm . Nghệ sĩ thương đời , muốn vì đời nên mới Thề Non Nước và có hoài bão vì nhân sinh mới tìm Trần ai tri kỷ cùng chung sức vì đời , nhưng kết cuộc chỉ xây được Giấc mộng lớn , Giấc mộng con . Trái tim cô đơn và bất bình đã lên tiếng và tạo thành muôn vần châu ngọc .

Trong đời thực Tản Đà đã dốc hết tâm huyết và tài chính , để ra tờ An Nam chí và thất bại nhiều lần , hết đóng cửa lại tục bản cho tới khi không còn khả năng về cả hai mặt tiền bạc và sức lực nữa mới tạm thôi .

Vì thế , khóc Tản Đà , Trần Huyền Trân không quên nhắc tới " con thuyền An Nam " mà Tản Đà đã ra công chèo chống suốt đời những chẳng tới bến bờ này :

Hồn thơ xuôi ngược con thuyền " An Nam "
Não nùng chớp bể mưa ngàn
Thuyền nan hờn sóng thuyền nan trở về .

Sau khi trắng tay vì vỡ nợ và ra báo . Tản Đà trong những năm cuối của cuộc đời sống rất cơ hàn , phải dọn về Ngã Tư Sở , ngoại ô Hà Nội . Trong chén rượu vĩnh biệt viết ngay sau khi thi sĩ tạ thế , Nguyễn Tuân đã kể lại mối ưu tư của Tản Đà vì sinh kế . Trong bữa rượu cuối cùng với Tản Đà tại căn nhà số 71, Cầu Mới , Ngã Tư Sở . Nguyễn Tuân nhớ lại , Tản Đà cho biết có nhận dịch Thơ Đường cho báo Ngày Nay trong các năm 1937 và 1938 nhưng sau đó tình hình chính trị quốc nội và quốc ngoại sôi động , độc giả giảm , tờ Ngày nay gặp khó khăn vì tài chính nên việc dịch thơ Đường gặp trở ngại . Hết việc kiếm ra tiền nhờ văn chương , Tản Đà càng lúng túng vì tài chính như Nguyễn Tuân thuật lại :

" Những bạn năng lui tới thường đã rõ , ông Tản Đà vì sao rời xóm Bạch Mai chạy về vùng Ngã Tư Sở . Mở ngôi hàng xem số tử vi Hà Lạc , không có khách . Mở lớp quốc văn hàm thụ và lớp Hán văn diễn giảng , cũng lại không có học trò nốt . Rốt cuộc đến thiếu tiền nhà , chủ nhà đuổi và lấy hết đồ đạc ."

Mấy tháng sau , Tản Đà nhắm mắt từ giã cõi đời và mang theo khối bất bình xuống tuyền đài như Nguyễn Tuân chứng kiến :

" Lúc tôi vào nhà 71 Cầu Mới , lòng tôi thắt lại . Ông Tản Đà còn hấp hối và đang thở hắt ra . Cứ đều đều , cứ nhẹ như thế cho đến hơi thở cuối cùng . Hai môi mím khít lại, ông Tản Đà có nét mặt dăn dúm của một người chết khó khăn , phải chung thân là một người bất đắc chí , sống đã chẳng được toại lòng ."

Trần Huyền Trân cũng như Nguyễn Tuân đã thấm thía cảnh ngộ Tản Đà buổi cuối đời :

Còn gì là tấm lòng son !
Thân tàn một kiếp , chí tàn bốn phương .

KHóc Tản Đà , Trần Huyền Trân đã viết những lời chí tình từ những cảm xúc thật . Nghệ thuật trữ tình rất cao , luôn luôn đối nghịch những hình ảnh , giữa chí cao và vận bĩ , giữa mộng giang hồ và gánh thê nhi , giữa tài tử và nợ đa cùng , để làm nổi bật bi kịch của một thiên tài . Đây không phải là một bài thơ thương vay khóc mướn mà là nỗi lòng của kẻ tri âm đồng bệnh tương liên .

TracMoThu
17-06-2006, 18:27
Có một bài khóc bạn cũng thắm thiết không kém giữa hai người tri kỷ trong thơ văn Việt Nam. Đó là bài Khóc Dương Khuê của Tam Nguyên yên Đỗ Nguyễn Khuyến.

Khóc Dương Khuê

Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.

Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau.
Kính yêu từ trước đến sau:
Trong khi gặp gỡ, khác đâu duyên trời.


Cũng có lúc chơi nơi dặm khách;
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo.
Có khi từng gác cheo leo,
Khúc vui con hát lựa chiều cầm xoang.

Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp:
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.
Có khi bàn soạn câu văn,
Biết bao đông bích điển phần trước sau.

Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn,
Miếng đẩu thăng chẳng dám than trời,
Tôi già, bác cũng già rồi:
Biết thôi, thôi thế thời thôi mới là.

Đường đi lại, tuổi già thêm nhác,
Trước ba năm , gặp bác một lần,
Cầm tay, hỏi hết xa gần,
Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can.

Tuổi tôi kể còn hơn tuổi bác,
Tôi lại đau trước bác mấy ngày,
Làm sao bác vội về ngay,
Chợt nghe tôi những chân tay rụng rời !

Ai chả biết chán đời là phải,
Vội vàng chi đã mải lên tiên.
Rượu ngon, không có bạn hiền,
Không mua, không phải không tiền không mua.

Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa.
Giường kia treo những hững hờ,
Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn !

Bác chẳng ở, dẫu van chẳng ở;
Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương,
Tuổi già, hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chưá chan ?

Mời Quận Chúa hay huynh đệ nào thảo vài hàng cảm xúc xem sao

Quận Chúa Quỳnh Anh
23-06-2006, 09:52
Nhắc tới Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến là muội nhớ ngay tới bài thơ của ông mà muội rất là thích " Xuân nhật thị chư nhi " ( Ngày xuân răn con cháu ) hay tuyệt .

Trần Huyền Trân khóc Tản Đà :" Lệ lòng tôi hết từ lâu " . Còn ông Nguyễn Khuyến khóc bạn cũng thương cảm làm sao :" tuổi già hạt lệ như sương " . Hai người bạn tri âm , một người còn ở lại khóc kẻ suối vàng :

Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.

Trải rộng trên trang giấy viết , những lời thơ ngậm ngùi , than thở . Tạo cho người đọc cảm hoài về cái thuyết Sinh , Lão , Bịnh , Tử . Sự vô thường trong vòng sinh diệt của kiếp người .Lời thiên thu gọi trên một niềm nhớ tưởng , qua một niềm đau . Suy ngẫm giữa cõi vĩnh hằng của kiếp sống qua cõi đi về của bạn , rồi tự hỏi bao giờ sẽ tới phiên mình . Họ đã ràng buộc vào nhau qua dòng tình cảm tri âm đã có.Tuy cách biệt âm dương nhưng tâm lại không hề chia ly , được kết nối qua một chuỗi kỷ niệm từng có với nhau của một phần đời quá thăng trầm , đã được tác giả nhớ lại :

Cũng có lúc chơi nơi dặm khách;
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo.
Có khi từng gác cheo leo,
Khúc vui con hát lựa chiều cầm xoang.
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp:
Chén quỳnh tương(1) ăm ắp bầu xuân.
Có khi bàn soạn câu văn,
Biết bao đông bích điển phần (2) trước sau.


Nhưng rồi ông cũng phải chấp nhận cái quy luật tự nhiên của tạo hóa mà thôi , nên mới thốt thành lời than :

Buổi dương cửu (3) cùng nhau hoạn nạn,
Miếng đẩu thăng (4) chẳng dám than trời,
Tôi già, bác cũng già rồi:
Biết thôi, thôi thế thời thôi mới là.

Tác giả đến tuổi già khi đi bên cạnh quỹ thời gian sắp cạn thì mới thốt lên được những lời thơ cảm hoài xiết bao đó. Nốt trầm cuối cuộc đời chỉ có những người đứng bến bờ bóng chiều tà mới cảm nhận sâu sắc nhất . Tâm trạng của Nguyễn Khuyến có giống như tâm trạng của Lý Bạch soi gương thấy mái tóc :

" Sớm như tơ mà tối đã như sương " .

Thấy thời gian trôi mau mà giật mình :

Rót nghiêng năm tháng vào ly
Mắt nheo bóng xế , tay che tuổi buồn
( Thanh Nam )

Tấm lòng tưởng nhớ người bạn đã khuất không nguôi . Lòng tưởng nhớ tới người bạn đã chết luôn quẩn quanh theo tâm tưởng của người sống . Qua những lời thơ khóc bạn đó , trước mắt người đọc như một màn hình hiện ra cảnh sinh tiền đoạn đời của hai người bạn già từng trải qua vui buồn có nhau . Giờ kẻ còn người mất , thân già khóc bạn bên bờ phận số :

Ai chả biết chán đời là phải,
Vội vàng chi đã mải lên tiên.
Rượu ngon, không có bạn hiền,
Không mua, không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa.
Giường kia treo những hững hờ, (5)
Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn ! (6)

Ôi , lời thơ ước lệ nhưng không hề khuôn sáo ,rất hay vì tình thực , gieo vần trong tâm tình xúc động khi thấy cuộc đời quá ngắn ngủi , việc đời vô thường .Đem tuổi già soi bóng nước thời gian , giòng lệ khóc bạn tri âm còn chảy được bao lâu :

Bác chẳng ở, dẫu van chẳng ở;
Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương,
Tuổi già, hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chưá chan ?


Thời gian thì cứ trôi đi theo nhịp của đất trời . Cuối cùng ai cũng đều tới lúc chờ đợi phiên mình tới một cõi hư vô tuyệt mù . Cả bài thơ bao trùm nỗi nhớ nhung thương tiếc . Sự hoài niệm như những vết xước lên trái tim già nhưng đó là những cảm giác sẻ chia , nghĩ về nhau và tìm đến với nhau dù mỗi người đã âm dương cách biệt . Chợt nhớ tới mấy vần thơ của Vũ Hoàng Chương khi ông đi tìm câu hỏi :

Dấu hỏi vây quanh trọn kiếp người
Sên bò nát óc máu thầm rơi
Chiều nay một dấu than buông dứt
Đinh đóng vào săng tiếng trả lời !

Và khi ông qua đời vào tuổi 60 , không biết ông đã tìm được câu trả lời chưa ? Ôi ! Tuổi già ... Người đã đi mất , người còn ở lại mái đầu cũng đà bạc phơ ...

***
1) quỳnh tương: quỳnh: tên ngọc quí, tương: hồ, nước cơm để làm rượu; một loại rượu quí.

(2) điển phần: chỉ chung sách vở cũ; đông bích: vách phương đông; chữ lấy câu thơ của Trương Thuyết: "Đông bích đồ thư phủ" (kho tranh và sách ở vách phương đông). Điển (nghiã đen là phép tắc) tức là ngũ điển, năm sách điển của các vua Thiếu Hiệu, Chuyên Húc, Cao Tân, Đường Nghiêu và Ngu Thuấn bên Trung Quốc ngày xưa. Phần (nghiã đen là lớn) tức là tam phần, ba sách phần của các vua Phục Hy, Thần Nông, và Hoàng Đế của thời cổ Trung Quốc.

(3) dương cửu: lúc có tai ách.

(4) đẩu thăng: đấu và thưng -- phần mười của đấu; nghiã bóng là lương bổng ít oi của một ông quan (lương các quan ngày xưa một phần trả bằng gạo; lấy đấu thưng mà đong là ít).

(5) từ điển tích Trần Phồn, người đời Hậu Hán, có một cái giường để dành tiếp người bạn quí là Từ Trĩ, hễ bạn đi lại treo lên. í câu này nói: nay bạn đã chết, cái giường để dành tiếp bạn cứ treo mãi không bao giờ đặt xuống cả.

(6) câu này nói tới điển tích Bá Nha Tử Kỳ...

Đa tạ Trác huynh phần chú thích những điển tích trong bài thơ , đã cung cấp cho muội để thêm phong phú cho bài viết . Đa tạ huynh .