PDA

View Full Version : Danh nhân đất Việt


killerroi
24-05-2006, 16:34
Lý Phụng Hiểu



Ngày xưa, ở làng Băng Sơn, huyện Hồng Hóa, tỉnh Thanh Hóa, có người to lớn vạm vỡ, râu ria rậm rạp, khỏe mạnh phi thường, tên là Lê Phụng Hiểu. Khi hai mươi tuổi, có hai thôn Cổ Bi và Đàm Xá tranh nhau ruộng đất đem dân làng ra đánh nhau, Phụng Hiểu vung cánh tay lên bảo với người làng Cổ Bi rằng: "Chỉ một mình tôi có thể đánh được muôn người".

Dân làng mừng lắm, làm rượu để mời Phụng Hiểu ăn uống. Phụng Hiểu uống hết một vò lớn, ăn sạch một nồi ba mươi cơm mới no, bấy giờ mới ra khiêu chiến với người làng Đàm Xá. Khi hai xã giáp chiến, Phụng Hiểu vươn mình lên nhổ một cây to bên vệ đường cầm ngang trong tay, xông vào đánh nhau với dân Đàm Xá. Dân làng này phải bỏ chạy, không ai dám địch, chạy không kịp thì bị thương, đành phải nhường trả ruộng cho làng Cổ Bi.

Bấy giờ vua Thái Tổ nhà Lý đang kén người có sức mạnh để sung vào quân túc vệ, nghe tiếng Phụng Hiểu liền cho vời đến phong ngay chức Võ Vệ tướng quân.

Đến khi vua Thái Tổ mất, Thái Tôn nối ngôi, có ba vị vương là Dực Thánh Vương, Võ Đức Vương và Đông Chính Vương mưu làm phản, đem binh vào Đại Nội để cướp ngôi vua.

Phụng Hiểu vâng mệnh vua Thái Tôn đem quân túc vệ ra cửa vung kiếm giết ngay Võ Đức Vương. Quân tam vương thấy vậy, rùng rùng bỏ chạy tìm đường thoát thân, quân túc vệ thừa thế đánh tràn ra, giết quân ba phủ không còn một mống nào, chỉ có hai vị vương kia chạy được thoát. Bình xong cuộc biến, lúc trở vào triều, vua Thái Tôn vỗ vai Phụng Hiểu khen ngợi: "Trẫm xem sử nhà Đường, thấy Uất Trì Kinh Đức cứu nạn cho vua Đường Thái Tôn, tưởng là các bày tôi về sau không còn ai trung dũng được như thế nữa, nay không ngờ có khanh".

Rồi phong cho làm Đô Thống tướng quân. Được ít lâu, Phụng Hiểu theo vua Thái Tôn vào đánh Chiêm Thành, làm tiên phong phá tan quân giặc, bắt được vua Chiêm là Chế Vũ. Thành công trở về, vua định thưởng nhiều vàng bạc và phong tước hầu cho Phụng Hiểu, nhưng Phụng Hiểu đều từ chối, xin cho đứng ở trên núi Băng Sơn ném một lưỡi dao ra ngoài, hễ rớt xuống chỗ nào, thì xin đất đến đấy để lập nghiệp.

Vua bằng lòng cho, Phụng Hiểu đứng ở trên đỉnh núi, ném vút thanh đao ra ngoài mười dặm, sa xuống cắm vào làng Đa Mỹ, quy vuông tính ra được hơn nghìn mẫu. Tự đấy ruộng thưởng cho công thần gọi là ruộng thác đao (nghĩa là cắm đao) là do sự tích ấy.

Phụng Hiểu cho con cháu đến ở, lập thành một làng, sống đến 73 tuổi mới mất. Dân lập đền thờ ông làm Phúc thần, gọi là Lịch Đại Đế Vương miếu.

(Sưu tầm)

killerroi
24-05-2006, 16:38
Lý Nam Đế
(544-603)


Năm Ất Dậu (265), nhà Tấn đánh bại Ngụy, Thục, Ngô, đất Giao Châu lại thuộc về nhà Tấn. Nhà Tấn lại phong cho họ hàng ra trấn trị các nơi, nhưng các thân vương cứ dấy binh chém giết lẫn nhau, làm cho anh em cốt nhục tương tàn, nước Tấn nhanh chóng suy yếu. Nhân cơ hội ấy, các nước Triệu, nước Tần, nước Yên, nước Lương, nước Hạ, nước Hán v.v...nổi lên chiếm cả vùng phía Bắc sông Trường Giang, nhà Tấn chỉ còn vùng đất ở Đông Nam, phải dời đô về Kiến Nghiệp (Nam Kinh ngày nay) gọi là nhà Đông Tấn.

Năm Canh Thân (420), Lưu Dụ cướp ngôi nhà Đông Tấn, lập ra nhà Tống ở phía Nam. Nước Trung Quốc phân ra làm Nam Triều và Bắc Triều. Bắc triều có nhà Ngụy, nhà Tề và nhà Chu, nối nhau làm vua. Nam triều có nhà Tống, nhà Tề, nhà Lương và nhà Trần trị vì. Năm Kỷ Mùi (479) nhà Tống mất ngôi nhà Tề kế nghiệp, trị vì được 22 năm thì nhà Lương lại cướp ngôi nhà Tề.

Nhà Lương sai Tiêu Tư sang làm thứ sử Giao Châu. Cũng như các triều đại phong kiến Trung Quốc thuở trước, các viên quan lại nhà Lương sang cai trị Giao Châu đã áp dụng những biện pháp khắc khe, độc ác khiến dân Giao Châu cực khổ trăm bề , người người đều oán giận. Bởi vậy, năm 542, Lý Bôn đã lãnh đạo dân Giao Châu nổi lên đánh đuổi Tiêu Tư, chiếm giữ thành Long Biên lập nên nhà nước đầu tiên.

Lý Bôn còn gọi là Lý Bí quê ở Long Hưng Thái Bình, xuất thân từ một hào trưởng địa phương. Tổ tiên Lý Bí là người Trung Quốc, lánh nạn sang nứơc ta từ cuối thời Tây Hán, khỏang đầu công nguyên. trải qua 07 đời, đến Lý Bí thì dòng họ Lý Bí đã ở Việt Nam hơn 5 thế kỷ. Chính sử Trung Quốc đều coi Lý Bí là "Giao Châu thổ nhân".

Lý Bí sinh ngày 12 tháng 9 năm Quý Mùi (17-10-503), Ông là con độc nhất trong gia đình. Bố là Lý Toản mẹ là Lê Thị Oánh (người ái Châu Thanh Hóa) từ nhỏ Lý bí đã tỏ rõ là cậu bé thông minh, sớm hiểu biết. Khi Lý Bí 5 tuổi thì cha mất, 7 tuổi mẹ qua đời, Cậu bé bất hạnh phải đến ở với chú ruột. Một hôm có một vị pháp tổ tiền sư đi qua, trông thấy Lý Bí khôi ngô, tuấn tú; liền xin Lý Bí đem về chùa Linh Bảo nuôi dạy. Qua hơn mười năm đèn sách chuyên cần, lại được vị thiền sư gia công chỉ bảo, Lý Bí trở thành người học rộng, hiểu sâu, ít người sánh kịp. Nhờ có tài văn võ kiêm tòan, Lý Bí được tôn lên làm thủ lĩnh địa phương. Có thời kỳ Lý Bí ra làm quan cho nhà Lương, nhận chức giám quân ( kiểm soát quân sự) ở Cửu Đức, Đức Châu ( Đức Thọ, Hà Tĩnh. Nhưng do bất bình với bọn đô hộ tàn ác, Lý Bí bỏ quan, về quê, chiêu binh mãi mã chống lại chính quyền đô hộ. Tù trưởng ở Chu Diên (Hải Hưng) là Triệu Túc cùng con là Triệu Quang Phục, mến tài đức Lý Bí đã đem quân nhập với đạo quân của ông. Rồi Tinh Thiều, Phạm Tu, và hào kiệt các nơi cũng nổi dậy hưởng ứng.

Tháng giêng năm Nhâm Tuất (542), Lý Bí khởi binh tấn công giặc. Không đương nổi sức mạnh của đoàn quân khởi nghĩa, thứ sử Tiêu Tư khiếp sợ không dám chống cự, vội mang của cải, vàng bạc đút lót cho Lý Bí xin được toàn tính mạng, chạy về Trung Quốc. Không đầy 3 tháng, Lý Bí đã chiếm được hầu hết các quận, huyện và thành Long Biên. Được tin Long Biên thất thủ, vua Lượnglâp tức ra lệnh cho quân phản công chiếm lại. Bọ xâm lược vừa kéo sang bị Lý Bí cho quân mai phục đánh tan.

Đầu năm Quý dậu (543) vua Lương lại huy động binh mã sang xâm lược một lần nữa. Tướng sx giặc còn khiếp sợ còn dùng dằng chưa dám tiến quân, thì Lý Bí đã chủ động ra quân, đón đánh giặc ở bán đảo Hợp Phố , miền cực bắc Châu Giao. Quân Lương mười phần chết bảy, tám. Tướng địch bị giết gần hết, kẻ sống sót cũng bị vua Lương bắt phải tự tử.

Tháng hai năm Giáp Tý (544) Lý Bí tụ xưng là Hòang Đế lấy hiệu là Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân (ước muốn xã tắc truyền đến muôn đời), đặt kinh đô ở miền cửa sông Tô Lịch ( Hà Nội) và cho dựng điện Vạn Thọ làm nơi vua quan họp bàn việc nước. Triều đình gồm có hai ban văn võ. Phạm Tu được cử đứng đầu hàng quan võ. Tinh Thiều đứng đầu hàng quan văn, Triệu Túc làm tái phó, Triệu Quang Phục là tướng trẻ có tài cũng được trọng dụng.

Lý Nam Đế sai dựng một ngôi chùa lớn ở phường Yên Hoa ( Yên Phụ) lấy tên là chùa Khai Quốc, sau này trỏ thành một trung tâm phật giáo và phật học lớn của nước ta. Chùa Khai Quốc là tiền thân của chùa Trấn Quốc, trên đảo cá vàng (Kim Ngư) ở Hồ Tây (Hà Nội).

Việc Lý Bí đặt tên nước là Vạn Xuân, tự xưng là Hoàng Đế, lập một triều đình riêng ngang hàng với nước lớn phương Bắc là sự khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc, sự bền vững muôn đời của đất trời phương Nam.

(Sưu tầm)

Nếu copy thì cũng làm ơn có lương tâm một chút, copy chính xác information và các danh từ riêng (ex, cướp ngôi nhà Đông Tấn là Lưu Dự chứ không phải Lư Du)! Ngoài ra, không thể làm ngơ lỗi chính tả và những chữ cần phải viết hoa.

killerroi
24-05-2006, 16:45
Hoàng Diệu

(Mậu Tí 1828 - Nhâm Ngọ 1882)

Chí sĩ yêu nước, tự Quang Viễn, hiệu Tĩnh Trai, quê làng Xuân Đài, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam (nay tuộc huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Trước vốn tên Hoàng Kim Tích, sau mới đổi là Hoàng Diệu. Ông sinh ngày 10 tháng2 năm Mậu tí 1828, đỗ cử nhân khoa Mậu thân 1848 và phó bảng khoa Quý sửu 1853, lúc 25 tuổi.

Sơ bổ Tri huyện Tuy Phước (Bình Định), rồi thăng Tri phủ Tuy Viễn cũng trong tỉnh Bình Định. Sau đó ông phải giáng, đổi về Tri huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. ít lâu thăng Tri phủ Lạng Giang (Bắc Giang), án sát Nam Định, rồi Bố chính Bắc Ninh. Ông nổi tiếng công minh và thanh liêm. Suốt 30 năm làm quan nhiều nơi, cảnh nhà vẫn thanh bạch, nghèo túng.

Đến năm Đinh sửu 1877, ông về Huế làm Tham tri bộ Hình, qua Tham tri bộ Lại, coi viện Đô sát và dự vào viện Cơ mật. Năm sau, làm Tuần vũ Quảng Nam, rồi làm Tổng đốc An Tịnh. Chẳng bao lâu ông được triều đình ủy nhiệm chức Phó toàn quyền Đại thần để hiệp thương với sứ bộ Y Pha Nho (Tây Ban Nha).

Canh Thìn 1880, ông làm Tổng đốc Hà Ninh, lãnh chức hàm Thượng thư bộ Binh, gồm coi cả việc thương chính.

Đầu năm Nhâm ngọ 1882, đại tá Pháp Henri Rivière đem quân ra cướp miền Bắc, lấy cớ bảo vệ sinh mạng và tài sản Pháp kiều. Ông bất bình, chuẩn bị đề phòng và sẵn sàng đối phó mọi bất trắc, đột biến do quân Pháp âm mưu gây ra.

Quả nhiên, lúc 5 giờ ngày 8 tháng 3 Nhâm ngọ (25 tháng 4 -1882) H. Rivière sai thông dịch viên tên Phong đưa tối hậu thơ, yêu sách 3 điều:

- Phá các tạo tác phòng thủ trong thành

- Giải giới binh lính.

- Đúng 8 giờ các vị tổng đốc tuần phủ, bố chính, án sát và chánh, phó lãnh binh phải thân đến trình diện tại dinh đại tá. Sau đó, quân Pháp sẽ vào thành kiểm kê. Xong sẽ giao trả thành lại. Ông tiếp tối hậu thư, phẫn uất sai Tôn Thất Bá đi điều đình. Nhưng không đợi trả lời, lúc 8 giờ 15 Rivière tấn công với số quân 450 người và một ít thân binh, có 4 tàu chiến yểm trợ: La Fanfare, La Massue, La Hache, La Surprise (tàu này không kịp tới, vì mắc cạn dọc đường Hải Phòng đi Hà Nội).

Trước hoả lực của quân cướp nước, Hoàng Diệu quyết liệt đối phó. Ông chỉ huy quân sĩ chống cự ở cửa Bắc. Trong khi ấy Tôn Thất Bá chạy trốn vào làng Mọc (Nhân Mục) ở phía Đông Nam Hà Nội theo giặc.

Một lát sau, kho thuốc súng trong thành nổ, do Pháp thuê Việt gian đốt (có sách nói là Tôn Thất Bá đã làm nội tuyến cho địch).

Bố chính Nguyễn Văn Tuyển, Đề đốc Lê Văn Trinh và các lãnh binh bỏ thành chạy, còn Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng trốn trong hành cung.

Một mình Hoàng Diệu vào hành cung, thảo tờ di biểu, rồi ra trước Võ miếu dùng khăn bịt đầu thắt cổ tự tử, hưởng dương 50 tuổi. Sĩ tử Hà thành điếu ông.

Hoàng Hữu Xứng, Võ Trọng Bình, Trần Đình Túc đều có thơ, liễn cảm niệm ông và ngậm ngùi thân phận họ. (X. Hoàng Hữu Xứng, Trần Đình Túc, Võ Trọng Bình).

(Sưu tầm)

killerroi
24-05-2006, 16:50
Bùi Thị Xuân

( - Nhâm Tuất 1802)

Nữ kiệt triều Tây Sơn, vợ danh tướng Trần Quang Diệu, cháu thái sư Bùi Đắc Tuyên, quê làng Xuân Hòa, huyện Bình Khuê, tỉnh Bình Định.

Bà là vị anh thư đã cùng chồng hết lòng hết sức giúp nghĩa quân Tây Sơn chống nhau với quân Nguyễn Ánh hơn 10 năm, chiến đấu cực kỳ dũng cảm.

Tháng giêng năm Nhâm Tuất 1802 bà chỉ huy 500 quân thuộc hạ góp mặt trong trận đánh Lũy Trấn Ninh , dưới quyền vị Thống lãnh chư quân là Nguyễn Quang Thùy, và vị Tư lệnh cánh quân tiên phong là Nguyễn Văn Kiên.

Trong trận này bà tấn công địch quyết liệt, khiến quân Nguyễn Ánh hết sức khiếp sợ.

Sang tháng 3, sau mấy phen cùng chồng lo chiêu quân để toan gầy dựng lại nghiệp Tây Sơn đã nghiêng đổ, hai vợ chồng đều bị bắt tại huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, rồi bị đem hành hình.

Về cái chết của bà, theo Thiên Nam nhân vật chí và hầu hết các tư liệu khác đều dựa vào đấy mà cho bà bị lăng trì, đốt cháy cả thi hài. Lại có thuyết, theo tư liệu của giáo sĩ De La Bissachère, bà và người con gái bị hành hình bằng cách voi tung xé xác, và bà đã tỏ ra can đảm phi thường trước sự trả thù tàn bạo và vô nhân đạo ấy của Nguyễn Ánh.

Hiện nay, dãy gò Xuân Hòa là nơi bà tập luyện đàn voi chiến, mặc dù đã bị phá vỡ thành ruộng, song vẫn còn di tích.

Công luận bình phẩm, hầu hết đều khen ngợi oai danh và tiết tháo của bà.

Người đời sau có vịnh thơ:

Vận nước đang xoay chuyển
Quần thoa cũng vẫy vùng
Liều thân lo cứu chúa
Công trận quyết thay chồng.
Khảng khái khi lâm nạn!
Kiên trinh lúc khốn cùng
Ngàn thu gương nữ liệt
Gương sáng hãy soi chung.

(Sưu tầm)

killerroi
24-05-2006, 16:57
Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm

I

Sinh chẳng gặp thuở Đường Ngu

Cái tin vua Lê Tương Dực bị tướng Trịnh Duy Sản giết chết đã được loan truyền đi nhanh chóng khắp các phường phố kinh kỳ. Bởi vì đó nào phải là việc bí mật gì trong cung cấm. Nó đã xảy ra một cách công khai, đang lúc ban ngày ban mặt, ngay giữa đường phố, có thể nói là hả hê của thiên hạ.

Hơn thế nữa, đối với người thạo tin tức -mà ở cái đất kinh kỳ này thời nào chả có loại người như vậy - thì điều này hầu như người ta đã chờ đợi từ mấy hôm nay như là một câu chuyện thế tất sẽ xảy ra, chỉ ngày một ngày hai.

Trịnh Duy Sản là ai? Có thể nói đấy là một tướng mạnh, một cánh tay đắc lực của nhà vua trong việc đàn áp các cuộc "nổi loạn" đang dấy lên liên tiếp khắp nơi từ Nghệ An, Thanh Hóa đến Kinh Bắc, Hải Dương, đặc biệt là vụ "phản nghịch" của Trần Tuân ở Sơn Tây hồi tháng 11 năm Tân Mùi, Hồng Thuận thứ 3 (1511). Hồi ấy thế "giặc" rất mạnh. Chúng đã tiến sát

kinh thành. Nhiều cánh quân lớn do nhà vua phái đi ứng chiến liên tiếp bị đánh bại. Dân chúng hoảng loạn. Nhà vua đã phải chuẩn bị thuyền bè để chạy vào Thanh Hóa. ấy thế mà Trịnh Duy Sản, lúc ấy chỉ còn lại trong tay vỏn vẹn hơn ba chục thủ hạ, đã xé áo làm hiệu, thề đánh đến cùng, đang khi xuất kỳ bất ý, xông thẳng vào trại địch, đâm chết tươi tướng giặc Trần Tuân, làm cho quân địch như rắn mất đầu, bị quan quân triều đình quay lại dồn

đ

uổi tan tác. Nhờ có chiến công xuất sắc này,

ô

ng ta được nhà vua phong đến tước Nguyên


quận công, thế lực không phải là nhỏ.

Nhưng mặt khác, cũng chính trong những cuộc đánh dẹp vất vả liên miên này, ông ta đã thấy rõ nguy cơ sụp đổ ngai vàng treo ngay trước mắt, nếu nhà vua không mau mau tỉnh ngộ, bỏ bớt thói xa xỉ ăn chơi, đặc biệt là trong việc xây dựng đại điện và đài cửu trùng hết sức tốn kém, giữa lúc muôn dân đang rên xiết trong cảnh đói nghèo cùng cực. Oán hận đã chất cao như núi. Mà một khi ngai vàng sụp đổ thì bao nhiêu công lao đánh dẹp sẽ trở thành công cốc, hơn thế nữa sẽ trở thành lưỡi dao kề cổ ngay chính ông ta.

Vì vậy ông ta đã hết sức can ngăn nhà vua. Tiếc thay bao nhiêu lời nói thống thiết đều bị Lê Tương Dực bỏ ngoài tai, không những thế còn đem lòng oán giận, tìm cách làm nhục ông ta. Có lần nhà vua đã sai lính nọc ông ta ra mà đánh trượng như đối với một kẻ tội phạm tầm thường. Tránh sao Trịnh Duy Sản khỏi ngầm nuôi ý khác.

Thế rồi gần đây người ta bỗng thấy ông tướng này lui tới dinh thái sư Lê Quảng Độ. Cả đất kinh đô này còn ai lạ gì tâm địa phản trắc như trở bàn tay của vị quan đầu triều này nữa. Trước đây, tuân theo di chiếu của vua Trúc Tông(1) ông ta đã tôn phò Lê Uy Mục và được ông vua này khá tin dùng. Nhưng đến khi kinh thành bị quân của Giản Tu Công Lê Oanh (sau này trở thành vua Lê Tương Dực) vây khốn thì ông ta đã không ngần ngại quay mũi giáo làm nội ứng cho quân bên ngoài để hại Lê Uy Mục. Tất nhiên là ông ta được chủ mới hết sức trọng đãi. Từ chức Trung quân đô đốc phủ tả đô đốc, tước Bình Sơn hầu, ông ta đã được gia phong tước Thiệu Quốc công, rồi chẳng bao lâu lại nhảy lên đến chức Bình chương quân quốc trọng sự thái tể thái sư, một chức vụ tối cao nắm giữ tất cả quyền chính trong nước mà từ thời Lê Thánh Tông đã bãi bỏ.

Mặc dầu được hưởng nhiều ân sủng đặc biệt như vậy, ông thái sư Lê Quảng Độ vẫn còn đủ sáng suốt, tỉnh táo để nhận ra rằng vua Lê Tương Dực, từ khi tạm được yên vị, đã ngày càng lao sâu vào vết bánh xe đổ của Lê Uy Mục và vì thế sớm muộn rồi cũng sẽ chịu

(1) Nối ngôi Lê Hiến Tông, làm vua từ tháng 6 năm Giáp Tý (1504) đến tháng 12 năm ấy thì mất, truyền ngôi cho anh là Lê Uy Mục.

chung vận mệnh với ông vua xấu số này. Vả lại gần đây ông lại thường nghe bọn tướng số lưu truyền một nhận xét rất đáng chú ý. Họ nói: Nhà vua có khuôn mặt đẹp ra dáng một gã phong lưu công tử hơn là một vị đế vương. Lại phải cái dáng đi hơi lệch, khó mà ở ngôi được lâu! Vậy thì còn phải cân nhắc gì nữa. Nếu mà không sớm tìm kế thay thầy đổi chủ một lần nữa thì rồi đây số phận của mình sẽ ra sao? Dưới con mắt tinh đời của ông, Trịnh Duy Sản quả là một cánh tay vàng trong âm mưu phế lập đã định sẵn.

Thời cơ đã đến, thuận tiện đến mức không thể còn mong ước gì hơn được nữa. Cứ như có bàn tay Trời sắp đặt cho vậy! Hầu hết những đoàn quân tinh nhuệ lúc này đã được dồn cả sang bên kia sông Cái để chặn đường quân "giặc" Trần Cao đang từ Hải Dương tiến thẳng vào kinh thành, thế mạnh như nước vỡ bờ. Nguyễn Hoằng Dụ, vị tướng đáng gờm nhất của ông và của Trịnh Duy Sản cũng đã dời cả hành dinh sang bến Bồ Đề. Kinh thành hầu như bỏ ngỏ. Thế là hai người quyết định khởi sự.

Thuyền bè, khí giới được gấp rút sửa soạn. Trên dưới 3000 quân còn lại của các vệ Kim Ngô và Hộ Vệ được điều về đóng chật cả vùng bến Thái Cực(1), nói phao lên là để sẵn sàng ứng viện cho đại quân đánh Trần Cao. Nhưng vào khoảng canh hai đêm mồng 6 tháng 4 bất thình lình cánh quân ấy đột nhập vào thành qua cửa Bắc Thần.

Nhà vua vẫn chẳng hay biết gì cả, còn đương túy lúy với bữa tiệc rượu kéo dài suốt từ chiều đến giờ, giữa đám cung tần mỹ nữ. Bỗng gã thừa chỉ Nguyễn Vũ hớt hơ hớt hải từ đâu chạy xộc tới, mặt tái mét tưởng chừng như cắt không còn giọt máu:

- Tâu bệ hạ, dễ chừng có biến. Một cánh quân lạ đã lọt vào thành.

- Quân nào?

- ...

Lâu nay hầu như suốt ngày đêm gã thừa chỉ này vẫn ăn dầm nằm dề trong nội điện để uống rượu và đánh bạc. Y vốn là một tên văn dốt vũ dát vô tích sự không hơn không kém. Nhưng sẵn đầu óc phiêu lưu, thừa dịp Giản Tu Công Lê Oanh ở Thanh Hóa đang chiêu binh mãi mã để làm thanh thế áp đảo vua Lê Uy Mục thì y tìm đến ứng nghĩa ngay. Vì vậy mà khi vị hoàng thân này trở thành vua Lê Tương Dực thì y nghiễm nhiên được đứng vào hàng công thần số một. Con đường danh vọng bẩn thỉu đã mở rộng trước mắt y. Khoa thi Hội Giáp Tuất (1514), mặc dầu đã bị loại vì văn thể lủng củng, y vẫn được nhà vua ban đặc ân cho thi lại để lấy đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân. Rồi chỉ vài năm sau y nhảy lên chức Hình bộ

thượng thư kiêm Bảo thiên điện Đông các đại học sĩ, Hàn lâm viện thừa chỉ nhập thị kinh diên, được phép ra vào tự do nơi nội điện. Mọi người đều khinh ghét y, y cũng biết rõ điều đó. Cho nên số phận của y trong lúc nguy cấp này không thể tách rời số phận của nhà vua. Và nhà vua cũng tự biết còn có một gã vô lại ấy là có thể tin cậy được.

Thế là suốt đêm hai thầy trò dắt díu nhau lẩn trốn như chuột, cho mãi đến tờ mờ sáng hôm sau mới dám mò ra cửa Bảo Chánh. Nhưng vừa đi tắt qua cửa nhà Thái Học, đến hồ Chu Tước thì họ đụng ngay phải Trịnh Duy Sản. Vẫn chưa hay biết chuyện gì, nhà vua còn quát hỏi: "Giặc ở phương nào?". Duy Sản không trả lời, chỉ ngoảnh mặt đi mà phá lên cười và khi nhà vua định rẽ sang đường khác thì ông ta đã ra hiệu cho vũ sĩ cầm giáo đâm chết ngay trên mình ngựa. Liền đó, gã thừa chỉ Nguyễn Vũ cũng bị đập chết tươi, không kịp kêu lấy một tiếng.

Mặt trời đã lên đến một con sào mà người ta vẫn thấy cái xác dơ bẩn của gã tay chân này còn nằm co quắp bên lề đường, bê bết những máu và bụi đất. Còn xác nhà vua thì được đặt ngang trên lưng ngựa, béo ị, nhợt nhạt, chở về cửa Nam, trước viện Đãi Lậu chỗ phủ Tể tướng, để thiêu.

Ngôi viện đồ sộ này, chỉ mới hôm qua còn tấp nập ngựa xe, mà bây giờ đã trở thành vắng tanh vắng ngắt như chùa Bà Đanh. Lão thái sư cáo già Lê Quảng Độ đã lẩn đi đâu từ lúc nào, đố ai mà biết được! Lão dại gì mà xuất đầu lộ diện trong lúc mọi sự còn đang rối ren này. Lão cũng phải còn gờm đại quân của Nguyễn Hoằng Dụ chứ. Chưa biết lúc nào đạo quân ấy sẽ trở lại kinh thành để hỏi tội những kẻ đã giết vua. Viên tướng này không phải là không có nhiều tham vọng. Chỉ một cái danh nghĩa là vừa đánh quân "phiến loạn" Trần Cao bên ngoài vừa dẹp bọn phản nghịch bên trong cũng đủ đưa ông ta đến được địa vị thao túng cả quyền bính trong nước. Thế rồi bọn giặc Trần Cao chẳng dại gì mà không thừa dịp các cánh quân của triều đình lục đục với nhau để thực hiện cái mộng "được làm vua" của mình. Chặng đường kéo quân của chúng về kinh thành chẳng còn phải xa xôi mấy đỗi... Tốt hơn hết trong lúc này là hãy để một mình gã võ biền Trịnh Duy Sản gánh lấy cái tiếng nghịch đảng giết vua trước dư luận.

Trong dư luận thì ở Nghị sự đường trong thành cấm giữa các quan đại thần và cùng người tôn thất đang xảy ra một cuộc tranh chấp gay go quanh việc lập ông vua mới. Một phe thì muốn lập con Mục ý Vương là Quang Trị, lúc ấy mới tám tuổi, lên nối ngôi. Cánh khác lại đòi lập con Cẩm Giáng Vương là Y, dù sao

(1) Quãng phố Hàng Buồm, Hà Nội ngày nay.

cũng đã mười bốn tuổi. Nghe đâu trong cuộc cãi lộn này đã xảy ra án mạng. Tường quận công Phùng Dĩnh trong lúc nóng gáy đã sai lực sĩ giết chết Vũ Tá hầu Phùng Mại... Rồi ông vua tám tuổi được lên ngôi, đâu có ba ngày, chưa kịp đổi niên hiệu thì đã bị Trịnh Duy Ngạc

đ

em biệt về Tây Đô rồi thủ tiêu mất. Rút cục,

ô

ng vua mười bốn tuổi được các phe phái Trịnh


Duy Sản cùng Lê Nghĩa Chiêu và nhiều người trong đám huân cựu tông thất đại thần tạm thời thỏa hiệp với nhau, phò tá lên ngôi, nhưng tình hình đã rối loạn đến mức chính những người này cũng phải lật đật rước vua về Tây Đô nốt để còn mưu việc dấy quân ra chiếm lại kinh thành đã để lọt vào tay Trần Cao.

Thật chẳng còn ra thể thống gì nữa!

*

Buổi sáng hôm ấy, có một chàng thanh niên trạc hai nhăm hai sáu tuổi, ghé đò vào bến Giang Khẩu(1).

Rõ ràng là anh ta mới từ xa tới, chưa rõ tình hình ở kinh đô, nên vẫn cứ diêm dúa với tấm áo the thâm dài lượt thượt của đám nho sinh và vành khăn nhiễu to bè quấn lên đến đỉnh đầu.

Thực ra thì phố phường kinh kỳ nào phải xa lạ gì đối với anh. Anh đã từng sống nơi đây suốt cả thời kỳ niên thiếu. Vả lại giới sĩ phu ở đây mấy ai đã quên được cái anh nho sinh nổi tiếng thần đồng của xứ Hải Dương, Nguyễn Bỉnh Khiêm(1) ấy. Nhưng mấy năm xa cách với những biến cố phi thường dồn dập cũng làm anh phải bỡ ngỡ ít nhiều.

Vừa mới bước đi vài bước, anh đã bị thu hút bởi những cảnh tượng khác lạ. Mới sáng sớm mà bến đò đã đông nghẹt những người từ khắp các phường phố đổ tới. Toàn là đám đàn bà con trẻ, ông già bà cả dắt dìu, bồng bế, kêu khóc như ri. Cứ mỗi lần có con đò ghé vào bờ là người ta ùa cả xuống, xô đẩy, bám víu, chửi rủa. Có người sảy tay lộn cả xuống sông. Suốt tám năm trời ở ngôi của Lê Tương Dực, dân phố kinh kỳ đã phải chạy nạn biết bao nhiêu lần, nhưng chưa thấy lần nào hỗn loạn đến mức này.

Thế mà quanh chợ Cầu Đông, quang cảnh lại vắng vẻ lạ lùng. Các căn lều trống huếch trống hoác. Các cửa hiệu đóng cửa im ỉm. Chỉ có những quán rượu là cứ tấp nập như thường. Bọn du thủ du thực, bọn lính tráng trốn ngũ, bọn phu phen khuân vác... thôi thì tha hồ mà lè nhè, mà tục tĩu:

- Mẹ kiếp, chỉ nay mai bọn quân "ba chỏm"(2) ấy nó kéo vào đây, thì đến cái mạng ông vua cũng chẳng hơn gì cái mạng con lợn! Tội gì mà chẳng say... Và bọn ăn mày chẳng biết từ đâu kéo đến mà đông vô kể. Họ cứ bu lấy những quầy hàng

rượu, ăn xin có, cướp giật cũng có. Đối với lớp người này thì chẳng có tình thế nào trên đời là đáng phải sợ cả. ấy cứ loạn to lên lại có khi sướng cơ đấy! "Thứ nhất quận công, thứ nhì không khố", cứ bảo thế chứ những lúc như thế này dễ thường anh "không khố" lại đứng hàng đầu.

Nhưng bỗng nhiên cái khối người bát nháo ấy cùng sững cả lại như bị một sức mạnh thần bí nào thôi miên vậy. Rồi cứ thế, chẳng ai bảo ai, tất cả đều rùng rùng nhổm dậy, tranh nhau mà chạy cả về một hướng.

- Anh em ơi, bọn lính canh biến mất tất cả rồi!

- Quân ông Dụ đã đổ lên chật cả bến Đông Bộ Đầu. Quân ông Sản thì tếch từ hôm qua. Nhà vua cũng chuồn nốt...

- Cấm thành bỏ trống toang. Không vào mà hôi của còn đợi lúc nào. Máu mỡ của chúng mình cả chứ của ai. Mau lên. Mau lên nào! Nguyễn Bỉnh Khiêm còn chưa hết ngạc nhiên sửng sốt thì đã thấy từ phía cửa Đông túa ra từng tốp từng tốp người, mặt mày hớn hở, khiêng khiêng vác vác đủ thứ của cải táp nham. Lụa là, châu báu, vàng bạc, trầm hương, cho đến cả hạt muối, hạt gạo... cứ thế vương vãi khắp các ngả đường, có chỗ ùn lên đến mắt cá chân. Thật không ai có thể ngờ được ngần ấy của cải lại chỉ để phục vụ cho một con người!

Nhưng kìa, sao lại từng đàn từng lũ người, lớn bé, già trẻ kêu khóc như ri, đang từ các phường mạn bắc kinh thành kéo xuống thế kia? Họ đi về đâu mà trông người nào người nấy hớt hơ hớt hải như bị ma đuổi? Có những cụ già dường như kiệt sức đành ngồi bệt xuống vệ đường, mặc cho bụi bám đầy người, bên mình chỉ tòn ten một cái tay nải lép kẹp hay chiếc bị cói bẹp dúm.

- Giặc thì chửa thấy đâu, chỉ thấy quân triều đình quay giáo tàn hại dân lành. Trông kìa, suốt từ Đông Hoa, Ngũ Xã xuống đến Hòe Nhai... phen này thì ra tro hết. Lửa cứ ngập trời thế kia thì còn gì nữa!

- Thật chẳng có cái thời nào lại cơ cực như cái thời này...!

Nguyễn Bỉnh Khiêm không còn lòng nào mà dừng lại nhìn cảnh tượng ấy nữa, đành cứ sải chân theo dòng người ban nãy, lúc này đã thưa dần, để lọt vào thành.

Từ mấy năm nay, tuy ở xa, anh vẫn được nghe kể nhà vua đang cho đắp một bức tường thành mới dài hàng mấy nghìn trượng, chắn ngang sông Tô Lịch, bao quanh cả điện Tường Quang, quán Trấn Vũ và chùa Thiên Hoa phường Kim Cổ, chạy suốt từ góc đông đến góc tây bắc thành cổ, chiếm cả một khoảnh đất mênh mông để xây dựng ngôi điện trăm nóc với đài Cửu Trùng cực kỳ lộng lẫy, lại cả một khu vườn cấm với một dãy hồ quanh co,

khuất khúc thông ra hồ Tây, cùng đội "thuyền chiến" trang hoàng bằng đủ thứ gấm vóc, châu báu để những đêm trăng nhà vua ra du ngoạn cùng bầy cung nữ trần truồng chèo lái... Tất cả những thứ đó, nếu không có dịp này thì người dân như anh làm sao được chứng kiến tận mắt.

Mặc dầu đã được nghe đồn đại nhiều, anh vẫn sững sờ kinh ngạc trước quy mô của những công trình mà trong tưởng tượng anh cũng không thể hình dung ra nổi. Những cột lim tròn nhẵn bóng cao đến vút tầm mắt kia, nghe nói

đã được đưa từ những cánh rừng già bạt ngàn tận bên đất Ai Lao về. Bao mạng người đã bị vùi sâu dưới vực thẳm hay làm mồi cho thú dữ vì những cây cột đó? Rồi những phiến đá to bằng cả ngôi nhà kia cũng phải chở từ đất Chiêm Thành tới, còn hằn trên mình những nét hoa văn tuyệt xảo, những hình người, hình thú cực kỳ sinh động mà chỉ có bàn tay tài năng đặc biệt của những nghệ sĩ Chàm mới tạo ra được. Biết bao nhiêu thuyền mảng kiên cố cùng những tay thợ tài ba đã bị sóng gió nhận chìm để chở những khối đá đồ sộ ấy về đây? Tất cả, tất cả những vật xa lạ đó như đã được chế ngự, được sắp đặt bởi một bàn tay thần để biến thành những ngọn tháp chọc trời, những dãy hành lang thăm thẳm, những bệ đá uy nghiêm, những vòm cổng bề thế tưởng chừng như cả một đoàn voi có thể đi qua một cách dễ dàng...

Nhưng ở đây cảnh tượng hỗn độn đã lên đến mức không thể tưởng được. Dân trại, dân phố, thợ thuyền, phu phen, binh lính, tù nhân... thật chẳng còn phân biệt được ai với ai nữa. Nào vồ, nào búa, nào cuốc, nào câu liêm, họ lăn xả cả vào những dãy điện dài như những con thú dữ khổng lồ đã từng gây cho họ biết bao tai họa. Họ hè ó, họ xô đẩy, họ phá phách. Từng tảng ngọn tháp, vòm cổng từ tận trời cao rùng rùng đổ xuống. Từng dãy cột lực lưỡng như từ lòng đất mọc lên cũng ngã lộn tùng phèo. Cứ như trời long đất lở. Bụi đất lầm lên che tối cả bầu trời...

Sự căm phẫn của lớp chúng đông đảo kia, bị nén lại từ bao lâu, khi nó đã bùng lên thì thật là khủng khiếp! Đã bao năm rồi họ phải quằn quại trong cảnh lao động khổ sai, trong roi vọt, cùm kẹp, trong đói khát, bệnh tật. Biết bao nhiêu đồng đội của họ đã bỏ mạng nơi đây, vì kiệt sức, vì đau ốm mà chẳng được thuốc thang, vì gỗ đá đè bẹp, vì xẩy chân trượt ngã từ những tầng cao. ấy là chưa kể cha mẹ, vợ con của họ ở quê nhà chết dần chết mòn vì sưu cao, thuế nặng, vì thiên tai, dịch lệ để cung đốn cho cái trò ăn chơi xa xỉ.

Thế mới biết "Phúc chu thủy tín dân do thủy", thật không sai chút nào với lời dạy của cụ ức Trai xưa(1).

Nhưng mà cái xác nào kia vẫn còn nằm phơi ra đấy giữa một đám cỏ đầy bụi bậm? Cái xác đã xám ngoách, méo xệch, hai mắt bị khoét sâu hoắm ruồi nhặng bu đầy. ấy thế mà kẻ qua người lại vẫn chưa tha nhổ vào mặt, quẳng đá vào đầu, hoặc ít nhất cũng chửi tục mấy câu cho bõ ghét.

Thì ra đó là xác Vũ Như Tô, người chủ trương tất cả những công trình này. Vũ Như Tô, chỉ một cái tên đó cũng đủ làm cho Nguyễn Bỉnh Khiêm phải bàng hoàng như đứng trước một số phận éo le đến kỳ lạ. Một công trình thế kia, không phải tài năng thì làm sao sáng tạo nổi. Từ một anh thợ bình thường ở làng quân Cẩm Giàng Hải Dương, anh ta đã trở thành ông đô đốc kiêm quản các sở thuộc bộ Công. Nhưng số phận đã gắn bó tài năng ấy với một ông vua vô đạo. Rút cục anh ta cũng trở thành một kẻ vô đạo. Có lẽ nào anh ta lại không trông thấy, không nghe thấy, không cảm thấy chút nào nỗi oán hận chồng chất của muôn dân vì cái công trình oan nghiệt này? Để rồi giờ đây anh ta đã tự chuốc lấy một số phận bi thảm!

Tài năng với số phận! Mà xét cho cùng lại là tài năng với thời thế! Thời thế! Nhưng rốt cuộc cái thời thế này nó là thế nào? Dù sao thì Vũ Như Tô cũng không hiểu gì về thời thế, điều đó đã đành. Nhưng người quân tử thì lẽ nào không hiểu thời thế. Tất cả phương châm hành động của anh ta, kinh quyền, hành tàng, xuất xử đều phải bắt đầu từ hiểu thời thế. Nhưng điều đó, chính lúc này mới khó làm sao!

Khi vua Uy Mục lên ngôi thi hành bạo chính, đảo lộn cương thường, người trong nước thảy đều oán giận. Nhưng nào có ai đã dám nghĩ rằng cơ đồ nhà Lê đến đây là đến thời đổ nát. Công nghiệp vĩ đại dẹp yên giặc nước, gây dựng kỷ cương của các triều Thái Tổ, Thái Tông như hãy còn sờ sờ trong ký ức mọi người. Làm sao một triều đại thuận ý trời, hợp lòng dân như vậy mà vận số chưa quá được một trăm năm? Vậy thì Uy Mục ra đời chẳng qua là một sự biến bất thường.

Có lẽ cũng vì vậy mà ông "vua quỷ" này đã không tác oai tác quái được quá năm năm. Và khi một hoàng thân là Giản Tu Công Lê Oanh đứng lên phất cờ trừ bạo, thì chỉ trong khoảnh khắc là ông ta đã tập hợp được cả một lực lượng hùng hậu để đè bẹp một cách dễ dàng và chóng vánh mọi sự cố gắng phản kháng của Lê Uy Mục. Trong số những người ứng nghĩa nào phải chỉ có những cựu thần tông thất đang bị săn đuổi vào Thanh Hóa, mà còn rất nhiều vị khoa bảng nổi tiếng đương thời...

(1) Niên hiệu dưới triều Lê Hiến Tông (1498-1504), người kế vị Thánh Tông.

Lúc ấy có ai dám ngờ rằng tình thế lại đến như ngày nay. Có ai ngờ rằng chính ông hoàng thân mang dòng máu họ Lê mà mọi người suy tôn lên ấy chẳng bao lâu đã phản bội họ để đi theo con đường mòn của người trước. Và sau ông ta, cho đến lúc này, vẫn chỉ là một viễn cảnh tối tăm mù mịt, không có đường ra.

*

Đi miên man giữa những cảnh tượng khác thường dồn dập, mãi đến quá trưa Nguyễn Bỉnh Khiêm mới ra khỏi cửa tây hoàng thành, lòng trĩu nặng ưu tư. Anh bước lần theo một con đường đất khá rộng dẫn về khu thập tam trại của tổng Nội. Đây rồi dãy hồ ao xanh rờn nối nhau liên tiếp, đứng trên cao trông xuống như một chuỗi hạt cườm. Và những chỏm gò xinh xắn, lè tè như những chiếc nón úp, nổi lên đó đây giữa những xóm làng và đồng ruộng. Kia núi Bò rợp bóng những cây muỗm rườm rà, thân cây trám lực lưỡng chạy men theo một dã đầm rồi bỗng lội hẳn xuống nước, tiến thẳng đến cửa đền Linh Lang, tạo thành một cảnh lâm tuyền bên lề thành thị. Và kia nữa, rẽ về phía Bắc một chút là núi Voi, hay núi Thái Hòa, tên phường gốc tích của vị anh hùng kiệt xuất dưới triều Lý, Lý Thường Kiệt.

Tất cả cái khung cảnh quen thuộc ấy bỗng nhiên đã làm sống dậy biết bao kỷ niệm êm đềm và tươi sáng của cả một thời niên thiếu anh đã từng sống nơi đây. Những ký ức đó đã làm cho tâm hồn anh lắng dịu trở lại, gần như thanh thản trong chốc lát.

Phải rồi, đó là vào cái thời Cảnh Thống(1) mà nhân dân còn được sống trong cảnh thái bình thịnh vượng; cái thời mà mọi kỷ cương phép tắc từ triều đình đến nơi thôn xã đều còn vững vàng, chặt chẽ tưởng như không bao giờ có thể phá vỡ được; thời kỳ mà đạo học vẫn còn thịnh đạt, cứ như một làn gió ấm chan hòa rộng khắp, thấm đượm đến tâm can lớp người non trẻ như anh, xốc lên cả một hoài bão công danh vĩ đại: học thành tài để phò vua giúp nước, xây dựng một triều đại Đường, Ngu ngay trên cơ đồ Đại Việt này.

Hồi ấy, xóm làng nơi đây, mặc dầu vẫn mang danh là "trại", đã có một nề nếp làm ăn sinh sống thật là tươi vui, đầm ấm. Cứ sáng sáng, từng gánh, từng gánh cỏ non to bằng cả đống rạ, từ mãi tận Cống Yên, Cống Vị, Liễu Giai kìn kìn trẩy ra cửa Nam để bán cho các quan trông voi trông ngựa chiến của nhà vua. Rồi những con thuyền đầy ắp rau dưa, ngược xuôi trên những dòng kênh, kẻ về Vĩnh Phúc, Thủ Lệ, kẻ xuôi ra Xuân Biều, Ngọc Hà... Tiếng hát, tiếng cười, tiếng ghẹo nhau lao xao, lánh lót. Lại những ngày hội hàng năm ở đình Tổng, trại Vĩnh Phúc, nhất là đám rước kiệu mang bài vị thần Linh Lang từ Voi Phục về thì thật là hấp dẫn. Qua núi Bò, phu kiệu phải cúi, phải

bò mà kiệu trên vai vẫn không hề nghiêng lệch...

Chả vậy mà từ mấy đời nay, nhiều vị quan trí sĩ và cả tại triều nữa, đã tìm về khu này để lập tư dinh xung quanh núi Thái Hòa, núi Trúc, núi Vạn Bảo, khi thành xóm, có khi xen lẫn với nhà dân. Hồi ấy các quan còn có thời gian được thư thái tâm hồn để nghĩ đến việc di dưỡng tính tình và thực hiện một trong những niềm vui lớn của người quân tử là dạy người không biết mỏi (giáo nhân bất quyện).

Thấm thoắt thế mà hơn mười năm đã trôi qua. Anh thanh niên hai sáu hôm nay khi ấy mới chỉ bước vào ngưỡng cửa của thời niên thiếu với cái tuổi mười ba, mười bốn tràn đầy sức sống và khát vọng lý tưởng, cái tuổi mà mọi ký ức vui buồn đều khắc sâu trong tâm khảm cho đến trọn đời không bao giờ phai nhạt. Cho đến hôm nay, lại đặt chân trên những nẻo đường cũ, anh vẫn còn thuộc như chính lòng bàn tay mình từng ngõ xóm, từng bụi cây, từng căn nhà và nhất là từng con người, không phải chỉ những người thầy, người bạn của anh, mà là cả những bác nông dân cần cù, gan góc đã đem hai bàn tay trắng tới đây khai phá một vùng đất hoang vu để lập nên cả mười ba trại trù phú này.

Anh quên làm sao được ngôi trường xưa thân yêu, một nếp nhà năm gian, hai chái, mái ngói, cột lim vững chãi mà giản dị, nằm dựa vào chân núi Thái Hòa. Đó chính là tư dinh của quan Lại bộ thị lang Lương Đắc Bằng. Chính người đã sửa sang nó, vừa làm nhà ở, làm từ đường thờ tổ, lại vừa làm nơi giảng học.

Hồi ấy lớp học mới đông vui làm sao! Những con nhà thế gia vọng tộc ở chốn kinh kỳ, những thiếu niên tuấn tú từ bốn phương trời đã tìm về đây, tìm đến một người thầy nổi tiếng uyên thâm và đức độ. Những buổi giảng sách cứ như cuốn hút mọi người, nhiều khi kéo dài, say sưa đến nỗi tối trời từ lúc nào mà không ai để ý.

Tuy về tuổi tác chỉ vào hạng em út trong trường, nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm lại được thừa nhận như người học sinh ưu tú nhất. Ngoài những buổi học chung, thầy thường cho vời riêng anh cùng vài bạn nữa để cùng đàm đạo thêm về thời thế, về lẽ kinh quyền, xuất xử của các bậc thánh nhân. Thầy còn đặc biệt hướng dẫn anh đi sâu về dịch lý, nắm cho vững mọi lẽ biến thiên tuần hoàn của tạo vật, coi đó như là cái chìa khóa vàng để tìm hiểu và dự đoán mọi diễn biến phức tạp trong lịch sử, trong cuộc đời, để có thể tùy thời mà xử thế sao cho xứng với tư cách của người chính nhân quân tử.

Tiếc thay tình thế đã biến đổi quá mau lẹ. Người thầy tôn kính đó đã buộc lòng phải từ

(1) Nay là huyện Nghi Lộc, Nghệ An.

giã đám môn sinh đầy hứa hẹn để lao vào những công việc cấp bách hơn, trọng đại hơn của một quốc gia mà một vị đại thần đầy tâm huyết như người không thể từ nan.

Thế là từ đó đến nay...!

*

Vừa rẽ vào con đường xóm trường cũ, anh đã cảm thấy một nỗi xúc động, hồi hộp khó tả. Cứ như người đi xa lâu ngày vừa được trở về quê hương vậy. Nhưng cảnh tượng trước mắt còn đâu như trong ký ức của anh nữa. Mọi thứ đã thay đổi quá nhiều! Đồng lúa vẫn xanh, xanh lúa, xanh cả bờ cỏ. Nhưng xóm làng hình như đã già cỗi hẳn đi. Vắng lặng chỉ lay lắt đó đây vài sợi khói lam chiều. Xen giữa những túp lều đó, nhiều chỗ chỉ còn là những nền cũ rêu phong, cỏ dại mọc đầy. Thì ra trong những ngày loạn lạc này, nhiều vị quan lớn đã không còn dám tin vào lòng dân nữa. Họ đã phải dỡ cả dinh cơ để dọn về quê quán, hoặc vào ẩn núp trong thành, mặc dầu cái bức thành cao ngất ấy bây giờ cũng chẳng lấy gì làm vững chãi cho lắm.

Anh bỗng như sững lại trước một bức tường vây đã sụp lở từng mảng, còn trơ lại một nếp cổng trống hoác, phủ kín rêu xanh và tầm gửi. Nhìn qua cái sân gạch rậm cỏ, ngôi nhà chính chỉ còn như một cái miếu cổ với mái ngói rêu đen đã lún xuống từng mảng và những tấm giại gỗ nứt nẻ, bạc phếch thời gian.

Phải rồi, đây chính là ngôi nhà của cố thượng thư Lễ bộ Đàm Văn Lễ, một nạn nhân của bạo chúa Lê Uy Mục. Hồi ấy vua Hiến Tông bị bệnh nặng sắp băng, có để lại di mệnh cho người con thứ ba là thái tử Thuần lên nối ngôi, tức là vua Túc Tông. Nhưng một số thân vương trong đó có người anh thứ hai của thái tử là hoàng tử Tuấn, tức Uy Mục sau này, đã mưu sự thoát đoạt. Mẹ nuôi của Tuấn là Kính phi - vì mẹ đẻ đã mất - sợ các đại thần không theo về con mình bèn cho người đem vàng bạc đút lót quan thượng thư Đàm Văn Lễ là người đang có uy vọng bậc nhất trong đám triều thần bấy giờ. Nhưng ông không những khước từ mọi âm mưu đen tối mà còn cẩn thận đề phòng mọi biến loạn có thể xảy ra, lẻn vào tẩm điện lấy ấn truyền quốc cất giấu về nhà, rồi cùng các đại thần, tông thất lập tức phò vua Túc Tông lên ngôi, theo đúng ý chỉ của tiên đế.

Thật chẳng may, Túc Tông mới trị vì được sáu tháng đã băng. Người lên nối nghiệp lại chính là Uy Mục. Thế thì ông tránh sao khỏi bị nạn! Uy Mục đã theo kế gian của bọn nịnh thần Khương Xung, Nguyễn Nhữ Vi biếm ông cùng Đô ngự sử Nguyễn Quang Bật đi làm Thừa tuyên sứ Quảng Nam, để rồi giữa đường, khi các ông vừa đến khúc sông Lam thuộc địa phận huyện Chân Phúc(1) thì cho người đuổi kịp bắt phải tự tử. Nghe nói khi sắp gieo mình xuống nước, hai ông còn ngâm một bài thơ tuyệt mệnh bằng quốc ngữ. Nhưng bài thơ ấy

nay còn đâu!... Dĩ nhiên là sau vụ án đen tối ấy, tất cả con cháu của ông làm sao còn có thể ở yên trong ngôi nhà này được.

killerroi
24-05-2006, 17:01
ại, những con người kiên trinh, trong sạch thì cứ mỗi ngày một vắng bóng mãi đi, còn những bọn gian ngoan, xu nịnh thì càng ngày càng nhao nhao nhảy nhót như ếch nhái gặp trời mưa. Còn gì là tiền đồ của đất nước nữa!

*

Cuối cùng thì Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã đến được cái đích của cuộc hành trình đầy biến cố hôm nay, ngôi trường cũ thân yêu của anh, nhà quan thị lang Lương Đắc Bằng. Trong những ngày tình thế rối ren khó hiểu này, anh thấy không thể thiếu được một lời chỉ giáo vàng ngọc, thậm chí chỉ một lời khuyên răn hay động viên của người thầy từng trải và sáng suốt ấy.

Thực ra thì suốt mấy năm trời xa cách, anh vẫn cố gắng theo dõi được phần nào công việc của người, nhằm tìm ra trong đó những bài học thực tiễn bổ ích cho nhận thức và phương châm xử thế của anh. Nhưng với tầm hiểu biết còn chưa vượt ra ngoài khuôn khổ sách vở của một chàng thư sinh trẻ tuổi, anh làm sao có thể dễ dàng nhận ra mọi ý nghĩa của những việc làm đó. Thời thế? Cái thời thế đầy biến cố bất ngờ mà anh đang sống đây, nó là cái gì? Rút cục đó vẫn là bài toán nan giải hằng ngấm ngầm day dứt tâm can anh từ bao năm nay. Có những lúc anh tự cảm thấy như hổ thẹn với bản thân mình. Thì ra sau bao nhiêu năm đèn sách, anh vẫn chỉ là một gã "dài lưng tốn vải". Trong khi đó thì người thầy của anh vẫn một mình bôn tẩu, dốc lòng chèo chống giang sơn.

Anh còn nhớ như in cái cảm giác sửng sốt đến bàng hoàng khi lần đầu tiên nghe tin thầy anh đã thảo bài hịch dụ các quan đại thần và các quan, kể tội tên bạo chúa Lê Uy Mục. Mà cảm giác đó đâu phải là chỉ của riêng anh. Lạ quá! Phi thường quá! Làm sao có thể đến nông nỗi ấy được nhỉ? Việc làm này rồi sẽ đi đến đâu?

Thế rồi với bài hịch đó hoàng thân Lê Oanh, lúc ấy đang thân cô thế cô vì mới vượt ngục ra, đã nhanh chóng tập hợp được cả một đội ngũ hùng mạnh nào quan văn, quan võ, nào binh lính, chúng dân, khiến cho chỉ trong vòng hai mươi hôm bạo chúa Uy Mục đã không còn có chốn nương thân.

Vậy thì sức mạnh là ở đâu, nếu không phải là ở lòng người? Phải rồi, bài hịch đã đi vào lòng người. Và đã đi đúng lòng người thì sao còn là kỳ lạ, còn trái lẽ nữa. Chẳng phải là chính anh đã thuộc lòng từng lời, từng chữ trong bài hịch vang dội đó sao.

"Bạo chúa Lê Tuấn, phận con thứ kém hèn, làm nhơ bẩn nghiệp lớn. Lần lữa đã năm năm. Giết hại người xương thịt, dìm hãm các thần liệu. Bọn họ ngoại được tin dùng mà phường đuôi chó tung hoành làm bậy. Kẻ cương trực

bị ruồng bỏ mà người đầu cá ẩn nấp nẻo xa. Tước đã hết rồi mà thưởng bậy không ngớt, dân đã cùng rồi mà vơ vét không thôi..."

Thật là sảng khoái!

Hoàng thân lên ngôi, trở thành vua Lê Tương Dực, liền gia phong chức tước cho hàng loạt người có công phò tá, tất nhiên trong số đó không thể thiếu người thảo hịch Lương Đắc Bằng. Nhưng chỉ sau đó ít lâu, nhân có tang, người đã xin cáo quan về. Và khi nhà vua vời ra để khôi phục chức Lại bộ tả thị lang, cho kiêm thêm Đông các đại học sĩ nhập thị kinh diên, thì người vẫn một mực chối từ, chỉ nhân dịp này mà dâng lên bảng kế sách trị bình mười bốn điểm, có ý mượn lời người xưa để răn đe ông vua trẻ tuổi chớ vội kiêu sa vì thắng lợi dễ dàng, mà phải biết tỉnh táo nhìn rõ tình thế nguy ngập trước mắt để chăm lo chỉnh đốn mọi việc.

Hồi ấy, anh làm sao giải thích nổi hành động này của người thầy cao kiến. Nhà vua mới lên ngôi còn tỏ ra biết chăm lo giáo hóa, cẩn thận hình phạt. Lại cho ban hành Trị bình bảo phạm để răn bảo bề tôi giữ gìn lòng trung thành lương thiện, chăm chỉ chức phận, không được cậy thế ngược đãi dân đen. Mọi người còn đang mong ngóng một sự đổi mới đem lại thịnh trị thái bình. Có ai ngờ đâu chỉ vài năm sau sự thật đã diễn ra đúng như người dự đoán. Thì ra cái câu châm ngôn "phòng vi dỗ tiệm" của thánh hiền mà anh vẫn thuộc lòng ấy, anh đã nắm được gì đâu. Một con người sáng suốt lẽ nào lại không biết đề phòng tai họa ngay khi nó mới manh nha, không biết chèn lấp lỗ hổng khi nó mới đang rạn nứt ngấm ngầm.

Cứ như thế, người thầy tuy ở xa mà vẫn như luôn luôn có mặt bên anh, dìu dắt anh, thôi thúc anh đào sâu thêm mãi mọi lý lẽ của sự vật và nhất là, ngoài ý thức của anh, lôi cuốn anh từng bước dân mình vào cuộc đời để kiểm tra sở học của mình.

Có những đêm thanh tĩnh, ngồi suy ngẫm về lý lẽ kinh sách thầy giảng năm xưa với những hành động thầy làm hôm nay, anh lại cảm thấy trong lòng như rạo rực lên một niềm khát khao, một sức mạnh vươn tới mơ hồ nào đó. Phải rồi, "thời thế tạo anh hùng". Thời thế có khó khăn mới cần đến anh hùng chứ. Cái khó ở chỗ là nắm bắt được thời thế. Được thời và có thế thì sẽ biến mất thành còn, chuyển nguy thành an...

Chính vì vậy mà hôm nay, mặc dầu quê nhà gặp loạn, có thể nguy hiểm đến tính mạng dọc đường, anh vẫn quyết tâm lặn lội về đây để được tận mắt chứng kiến những gì đang xảy ra chốn đế đô và thỉnh giáo người thầy đã lâu năm xa cách.

Nhưng một điều bất ngờ quá đau đớn đã xảy đến với anh. Người thầy kính yêu đó sắp vĩnh viễn từ biệt anh, thế mà nào anh có biết.

Trước mắt anh lúc này, người chỉ còn như bộ xương bọc da đang hổn hển kéo những hơi thở tàn nặng nhọc. Bất giác anh quên cả việc thi lễ đối với các bạn đồng môn đang ngồi quây chật cả mấy gian nhà, đến sụp lạy dưới chân giường, khóc nức nở.

Nghe cái tên yêu quý "Nguyễn Bỉnh Khiêm", người hấp hối bỗng như bừng tỉnh giấc. ạng ngơ ngác ra hiệu cho mọi người vực dậy. Lúc này trời đã tối. Nhưng những ngọn lửa từ phía kinh thành vẫn ngùn ngụt bốc cháy, chiếu sáng vào tận trong rèm. ạng cố hé mở cặp mắt mờ đục như muốn bao quát lại một lần cuối cùng tất cả những gương mặt tươi trẻ, tuấn tú của đám môn sinh, rồi bằng một giọng thều thào đứt quãng, ông nói:

- Ta vốn chỉ là một gã thư sinh hèn mọn, nhờ ăn mày cửa Thánh mà lập được chút công danh. Ta vẫn thẹn mình không theo gót được người xưa làm cây cột vững chống giữa dòng. Nay ta xem chừng vận số của nhà Lê khó lòng mà vãn hồi được nữa. Tình thế từ nay về sau sẽ như thế nào, ta chỉ khuyên các con hiểu cho đúng cái nghĩa "tùy thời" của người quân tử mà xử thế. Nhưng dù sao đi nữa cũng phải nhớ đến bài học cuối đời Trần, không bao giờ được rước voi về giày mả tổ, để đến nỗi trăm họ phải lầm than. Đó là cái tội không gì lớn bằng...

Dường như không còn đủ sức nói tiếp nữa, ông đành ra hiệu cho mọi người xích lại gần hơn, rồi từ từ đặt tay người con trai yêu quý Lương Hữu Khánh vào lòng bàn tay người học trò ưu tú nhất, Nguyễn Bỉnh Khiêm, với một cái nhìn ân cần gửi gắm. Người thiếu niên đã hiểu ý, vội vàng thụp xuống lạy cha, đoạn hướng về Nguyễn Bỉnh Khiêm mà thi lễ theo đúng nghi thức thầy trò, trước con mắt đồng tình của tất cả mọi người.

Vừa lúc ấy thì người lão bộc do Lương Đắc Bằng phái đi từ chiều để theo dõi tình hình ngoài kinh thành đã hớt hải trở về. Trông nét mặt bác, ai cũng có thể đoán ra sự chẳng lành, nhưng không ai dám ngăn bác lại vì sợ trái ý thầy. Vừa phủ phục xuống dưới chân giường, bác vừa nói như mếu máo:

- Bẩm quan lớn cùng chư vị, "giặc" Trần Cao đã kéo vào kinh thành. Nhà vua cùng chư tướng đã dời vào Tây Đô. Thái sư Lê Quảng

Độ đã ra hàng "giặc". Trần Cao đã tự xưng hoàng đế, tiếm đặt niên hiệu Thiệu ứng, thiết triều và dùng Lê Quảng Độ coi việc nước...

Lương Đắc Bằng chỉ còn kịp ú ớ vài tiếng, rồi thở hắt ra.

II

Rồng thiêng dành sức chờ xuân noãn

Sau khi cùng các bạn đồng môn lo việc giả nghĩa thầy, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn nấn ná ở lại kinh kỳ một thời gian khá dài. Bạn bè của anh ở đây còn khá đông. Chính trong cái buổi thời loạn ly này, những cuộc gặp gỡ lại càng trở nên quý giá. ít nhất thì người ta cũng có thể cùng nhau san sẻ chút ít gánh nặng lo

â

u đang đè trĩu trong tâm hồn mỗi người.
Vả lại, tuy không nói ra, nhưng trong thâm


tâm anh vẫn cảm thấy như muốn chờ đợi một cái gì đó mơ hồ đến chính anh cũng không nhận rõ được, nhưng dù sao cũng vẫn là một tâm lý chờ đợi, chờ đợi đến nóng lòng. Chẳng lẽ thời thế rồi đây cứ mãi thế này sao? "Vật cực tắc phản", một sự vật khi đã phát triển đến cực độ ắt sẽ làm nảy sinh ra cái ngược lại với nó. Bĩ đến thế này là cùng cực rồi còn gì. Vậy thì điều gì ắt sẽ xảy đến?

Trần Cao? Tất nhiên đó không phải là con người mà anh mong đợi. Đối với anh, y dứt khoát là một tên giặc không hơn, không kém. Chỉ nội một việc y tự xưng là Đế Thích giáng sinh, lại là cháu chắt của vua Trần Thái Tông, họ ngoại của Quang Thục hoàng hậu(1) cũng đủ chứng tỏ cái tà thuyết của y nhảm nhí đến mức nào. Rồi đến việc y dùng tên Lê Quảng Độ phản phúc mà mọi người đều phỉ nhổ để nắm việc nước thì thật hết chỗ nói. Vẫn biết là quân tướng của y không đến nỗi ăn tàn phá hại đến của dân như chính những đạo quân mang danh nghĩa triều đình. Nhưng chỉ một việc ấy thôi cũng chưa đủ làm người ta có thể tin tưởng ngay được.

Mà quả như vậy. Y chưa kịp ngồi nóng chỗ trên ngai vàng thì đã bị đánh bật ra khỏi kinh thành. Trước nguy cơ bị mất hết quyền lợi, bọn tướng tá của nhà vua, những Trịnh Duy Sản, những Nguyễn Hoằng Dụ, những Trịnh Tuy vốn đang hục hặc đá nhau, liền vội vàng tự dàn xếp, khiến vua Lê Chiêu Tông đã có thể dựa vào chúng để khôi phục Đông Kinh chỉ vẻn vẹn trong vòng nửa tháng. Ngày 27 tháng 4 năm Bính Tý, nhà vua đã chính thức làm lễ đăng quang, đặt niên hiệu Quang Thiệu năm thứ nhất (1516).

Tiếc thay, Quang Thiệu đế lại càng không phải là con người của thời cuộc. Ngay từ đầu, ông vua mười bốn tuổi này đã tỏ ra chỉ là một con rối thảm hại trong tay các phe phái quân phiệt hung hãn mà ông ta chẳng làm sao hòa giải, chứ đừng nói chế ngự được.

Vì vậy bóng Trần Cao mới tạm được đẩy lùi xa đôi chút thì lập tức các phe phái lại quay lại cắn xé lẫn nhau kịch liệt hơn bao giờ hết. Phường phố Thăng Long lại một phen náo động hẳn lên vì những trận hỗn chiến chí mạng giữa những cánh quân của Trịnh Tuy và của Nguyễn Hoằng Dụ.

Trịnh Duy Sản lúc này đã chết vì tay Trần Cao rồi. Nhưng một tay chân của y là Trần Chân lại nhảy vào cuộc. Thế là chẳng bao lâu cả một dải từ Sơn Tây, Sơn Nam vào đến Thanh Hóa, khói lửa chiến tranh lại bùng lên dữ dội. Làng xóm hoang tàn, dân chúng táo tác, chẳng còn biết trông cậy vào đâu được nữa.

Thái Hòa nào phải Ngu, Chu,

Nực cười giao chiến hai thù không ngơi. Máu sông xương núi khắp nơi, Cá đầm, sẻ bụi, vì ai đuổi cùng...(1)

Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ còn biết nhìn đời mà ngâm lên mấy câu thơ ngụ ý cùng bạn bè.

(1) Dưới đây, những đoạn trích thơ in chữ đứng đều là dịch thơ chữ Hán, khác với các đoạn in chữ nghiêng là thơ chữ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

"Nực cười giao chiến hai thù không ngơi", cái cười mới mỉa mai, chua chát làm sao! Nhưng không cười thì còn biết làm gì bây giờ, trong khi anh, anh vẫn chỉ là một thư sinh chưa có danh phận.

Chẳng còn gì để chờ đợi nữa, đau buồn, tủi hổ, Nguyễn Bỉnh Khiêm lại đành lủi thủi trở lại quê nhà.

*

Trời đã sang thu. Sau những ngày mưa lũ dữ dội, các triền sông lại trở nên êm ả như thường. Con đò nhỏ nhẹ lướt dưới bầu trời xanh thẳm, giữa những làn gió mát rượi. Đôi bờ, cây cỏ vẫn còn giữ được cái vẻ xanh tươi rực rỡ của mùa hè. Những gốc gạo lực lưỡng vẫn thanh thản vươn cao, lác đác đôi chùm hoa mập mạp đỏ thắm. Mấy bác phu đò, mặc dầu vẫn luôn mồm nhắc nhở hành khách phải nghe ngóng, dè chừng, nhưng chốc chốc lại cất lên một giọng hát đò đưa nghe mới yêu đời làm sao.

ại, cuộc sống thanh bình, cuộc sống thanh bình vẫn quanh quất đâu đây, trong cảnh vật, trong lòng người. Cuộc sống thanh bình bất diệt như lẽ hóa sinh của trời đất. Thế mà tại sao, tại sao chỉ vì một chút lợi ích vị kỷ nhỏ nhen nào đó, người ta đã đang tâm chống lại nó, xô đẩy cả hàng vạn con người vào cảnh tương tàn khủng khiếp?

Kìa, sau những lũy tre xanh lại thấp thoáng những đống tro tàn, những khung nhà trơ trụi. Mà sao suốt cả một giải bãi sông màu mỡ này lại vắng bóng con người, không một tiếng gà, tiếng chó? Họ đã trôi dạt đi đâu cả rồi? Xa lìa quê hương, đồng ruộng thân yêu họ còn biết sinh sống ra sao?

Miên man với những ý nghĩ chập chờn như trong giấc mộng ấy, nhiều lúc Nguyễn Bỉnh Khiêm như quên đi mất là mình đang đi trên đất "giặc" Trần Cao. Sau khi bị đánh bật khỏi kinh thành, Trần Cao vẫn còn chiếm cứ cả một vùng rộng lớn bao gồm hầu hết đất Hải Dương lên đến Bắc Giang, Lạng Sơn. Nhưng ông ta đã gọt đầu đi tu và trốn biệt tích, nhường ngôi cho con là Trần Cung. Với niên hiệu Tuyên Hòa, Trần Cung đang lợi dụng chút thời gian thư thả, vì các cánh quân của triều đình đang mải quần nhau ở phương khác, để củng cố khu vực của ông ta. Cho nên cái cảnh yên tĩnh không bình thường nơi đây, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng thừa hiểu đó chỉ là nhất thời, tạm bợ. Nhưng dù sao đó cũng là những khoảnh khắc thời gian rất đáng ghi nhớ. Với cái điều đáng lạ là các cánh quân của họ Trần mà anh vẫn đinh ninh là "giặc" này dường như cũng biết trân trọng những phút hiếm hoi quý giá đó, họ không đi

(1) Vĩnh Lại nay là khoảng huyện Vĩnh Bảo, Tiên Minh khoảng huyện Tiên Lãng, đều thuộc ngoại thành Hải Phòng.

cướp bóc, đốt phá như nhiều đạo quân khác. Những cảnh hoang tàn đổ nát dọc đường chỉ là dấu vết của những cuộc "đánh dẹp" của quan quân triều đình, vừa mới diễn ra không lâu.

Và thế là chuyến đi của anh về đến quê nhà đã được hoàn toàn trót lọt, thoải mái như chẳng hề có sự chiến tranh nào hết.

*

Kia rồi, khúc sông quê nhà! Dòng sông Thái Bình càng ra tới biển càng trải rộng mãi ra, nhưng vẫn một vẻ hiền hòa bình lặng. Chiếc đò ngang nho nhỏ vẫn cần mẫn đi về, nối liền đôi bờ, bên này là đất Vĩnh Lại, có làng Trung Am, quê nội của Nguyễn Bỉnh Khiêm và bên kia là đất Tiên Minh với làng An Tử Hạ, quê ngoại của anh(1).

Dường như đã thành thói quen, cứ mỗi lần đi xa về đến quãng sông này là anh lại ghé vào thăm quê ngoại, mặc dầu ở đó anh hầu như chẳng còn ai quen thuộc. ạng bà ngoại anh đã mất từ lâu. Mẹ anh cũng không còn trên cõi đời này nữa. Hai bác đều đã xiêu cư bạt quán đi tận phương xa(1). Cứ như vật đổi sao dời vậy!

Cho đến nay, cái làng quê hẻo lánh chỉ nổi tiếng về một món thuốc lào cổ truyền, nằm trong cả một vùng quê thuần phác, rất ít phát triển về văn học, với sự bột phát của một dòng họ Nhữ, vẫn còn là điều khó hiểu đối với anh.

Nào phải xa xôi gì, mới vào thế hệ các cụ ngoại anh, cụ Nhữ Văn Thực vẫn còn là một dân nghèo trong một gia đình bán nông bán thương. Cụ cũng có học hành ít nhiều, cũng võ vẽ thi cử nhưng không đỗ. Thế là suốt đời cụ đành an phận với một quán nước chè và một mụn con trai duy nhất, Nhữ Văn Lan. Cụ có ngờ đâu chính người con trai mà hai cụ nuôi nấng chỉ bằng tình thương yêu ấy đã tỏ ra thông minh khác thường ngay từ tấm bé và chẳng bao lâu đã làm rạng rỡ cho dòng họ và quê hương với cái bảng vàng tiến sĩ, vào đúng thời kỳ mà văn học thịnh vượng, kẻ sĩ thành đạt được vinh hiển tới mức chưa từng có trong lịch sử. Đó là vào khoa thi hội năm Quý Mùi, niên hiệu Quang Thuận đời Lê Thánh Tông (1463).

Nhữ Văn Lan chính là ông ngoại anh. Nổi tiếng về đức độ chính trực, cụ được nhà vua hết sức tin dùng, trải qua nhiều lần thăng thưởng đã làm đến chức Thượng thư bộ Hộ. Nhưng chỉ vừa tới tuổi 60, cụ đã kiên quyết xin cáo quan về nghỉ ở quê nhà, lấy việc trực tiếp chăn dân làm nguồn vui duy nhất. Cụ đã sử dụng uy tín của mình để khuyến khích mọi việc nông tang, khởi xướng các cuộc khơi mương,

đắp đập. Cụ cũng bỏ nhiều công sức để cùng các bô lão tu tạo làng xóm, mở mang việc học và nhất là bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan. Cụ được chúng dân khắp vùng yêu kính như cha đẻ.
Tiếc thay, bao nhiêu công sức đó, qua những biến cố của thời cuộc, giờ đây hầu như chẳng để lại được dấu vết gì đáng kể nữa. Còn chăng chỉ là những lời truyền tụng dù sao cũng đủ khơi dậy trong anh những ký ức khó phai mờ.

Nhưng ký ức sâu sắc nhất ở chốn quê ngoại này lại thuộc về bà mẹ của anh. Nó đã trở thành như một vết thương lòng mãi mãi chẳng bao giờ hàn gắn được... Thế là bà đã không thể trọn đời chung sống với cái gia đình nhỏ bé do chính tay bà gây dựng. Cuối cùng thì bà đã phải từ bỏ cha anh, từ bỏ cả chính anh để trở về với chốn quê ngoại này, sống những ngày tàn cô độc, cho đến khi nhắm mắt xuôi tay.

Tại sao? Tại sao vậy? Câu hỏi đau đớn ấy cứ day dứt mãi trong tâm hồn anh ngay từ thời niên thiếu. Tất cả những điều anh nghe lại được ở người lớn xung quanh, mặc dầu rất nhất trí, vẫn không hề làm anh yên tâm được.

Theo người ta kể lại thì mẹ anh vốn là một bậc nữ lưu phong vận tài hoa vào bậc nhất ở chốn kinh kỳ. Từ buổi ấu thơ cho đến thời con gái, bà vẫn ở với cha, hồi ấy còn làm quan trong triều. Bà đã được hưởng một nền giáo dục hết sức chu đáo và những cuộc giao thiệp hết sức rộng rãi mà địa vị của người cha cho phép.

Điều không ai hiểu nổi là với hoàn cảnh đặc biệt như vậy, suốt cả thời kỳ con gái bà vẫn hoàn toàn thờ ơ với việc chồng con. Chẳng lẽ ở cái đất phồn hoa đô hội vào bậc nhất cả nước ấy lại không có lấy một tài tử văn nhân hay một con nhà thế phiệt trâm anh nào xứng đáng với bà? Người ta chỉ biết rằng tuổi trẻ của bà đã trôi qua trong những cuộc ngao du sơn thủy với bầu rượu túi thơ. Hầu như khắp các nơi danh lam thắng cảnh trong nước đều có in dấu chân bà.

Thế rồi bỗng nhiên chỉ qua một lần gặp gỡ, bà đã tự nguyện làm vợ một ông đồ nhà quê. ạng đồ ấy chính là cha anh, húy Văn Định, đạo hiệu Cù Xuyên tiên sinh.

Người ta đã giải thích cuộc hôn nhân không bình thường ấy như là chủ động thuộc về mẹ anh. Vốn rất tinh thông thuật số - ấy là theo lời người ta đồn đại - ngay từ thời nhà Lê còn đang cực thịnh, bà đã tiên đoán bước đường suy vong chẳng còn bao xa. Và bà đã muốn đón trước tình thế đó bằng niềm mong ước để lại cho đời một người con "quý tử". Người con ấy sẽ chẳng phải chỉ là một vị trung thần, lương tướng như trong ước mơ tầm thường của bao bà mẹ tầm thường khác. Người con ấy trong mơ ước của bà, nếu chẳng phải là bậc đế vương, thì cũng phải là bậc thầy của thiên hạ,để lại tiếng thơm cho muôn thế hệ mai sau. Bà đã tìm đến với cha anh chỉ vì nhận thấy ở người có tướng sinh "quý tử". Và thế là anh,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, đã sinh ra trong cuộc hôn phối kỳ lạ đó.

killerroi
24-05-2006, 17:04
Nhưng rồi thực tế dường như đã không đáp ứng được niềm mong muốn của bà. Cha anh và cả bản thân anh nữa, đã càng ngày càng tỏ ra không theo kịp mẫu người lý tưởng mà bà hằng tìm kiếm. Thất vọng, bà coi đời bà đến đây như đã uổng phí hoàn toàn. Bỏ lại tất cả, bà lại ra đi với bầu rượu túi thơ, mãi mãi làm bạn với non xanh nước biếc.

Bây giờ thì trước mắt anh, còn lại chỉ là ba ngôi mộ nằm quây quần trên một khoảnh đất rộng chừng mười mẫu ruộng, nổi bên rìa làng. Hai ngôi lớn song song gần nhau, đó là mộ ông ngoại và bà ngoại anh. Và cách xa đôi chút, một ngôi nhỏ, đó là mộ mẹ anh. Ba nấm đất trơ trụi, im lìm như chẳng còn muốn nghe bất cứ một lời bình phẩm, một lời thanh minh nào của người đời, kể cả của bản thân anh.

Đến lúc này thì anh đã có đủ lý trí để vượt qua lời đồn đại ít nhiều mang tính chất sáng tạo dân dã như trên rồi. Anh đã hiểu ra thực chất của tấn bi kịch gia đình, nó đã đưa mẹ anh tới nông nỗi này. Nhưng "biết bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu". Thì ra chính anh, anh đã là tiêu điểm cho cuộc xung đột ngấm ngầm nhưng quyết liệt đến mức đổ vỡ ấy. Tất cả vấn

đề đều chỉ xoay quanh một việc dạy dỗ cho anh mà thôi.

Cha anh quả là một nhà nho mẫu mực của thời Hồng Đức, một nhà nho trọn đời chỉ sống với niềm tin duy nhất ở kinh sách thánh hiền, ở đạo lý trung hiếu mà ông coi là nền tảng bất di bất dịch của đạo làm người. Một ông vua thánh vời vợi ở trên như đấng chí tôn thay Trời trị nước. Người tiêu biểu bằng xương bằng thịt cho đấng chí tôn đó chính là vua Lê Thánh Tông. Quây quần xung quanh người, như các vì tinh tú quây quần quanh mặt trời, chính là các vị lương thần của triều đại, mà trong tầm mắt ông thì "nhị thập bát tú" trong hội Tao Đàn, những Trạng nguyên Lương Thế Vinh, những tiến sĩ Thân Nhân Trung, Sái Thuận... đều là những khuôn mẫu cao nhất cho kẻ hậu tiến noi theo. Cái trật tự minh quân lương tướng tuyệt vời ấy đời nào có thể thay đổi được.

Thế nhưng mẹ anh lại là một con người hoàn toàn khác. Có thể nói suốt cả thời kỳ niên thiếu bà đã được sống ngay giữa cái triều đình cụ thể mà cha anh chỉ mới có thể mường tượng qua kiến thức sách vở. Bà đã tận mắt thấy được nó chẳng có gì là lý tưởng, là vĩnh hằng như nhiều áng thơ ca của thời kỳ đó vẫn ra sức ca tụng.

Ngay cả đến những ông trạng, ông nghè, những vì tinh tú trong cái hội Tao Đàn lừng danh đó cũng chẳng có gì đáng phải mơ ước như người ta hằng mơ ước. Trong quan niệm riêng của bà thì hình như tất cả cái vốn liếng học vấn và tài năng của họ chỉ đủ cho họ thi đỗ làm quan, trở thành một cánh tay chỉ biết phục tùng và làm thơ để ca ngợi nhà vua, tâng bốc đến tận mây xanh cái trật tự do một bàn tay nhà vua nhào nặn ra hết cả.

Sau này, Nguyễn Bỉnh Khiêm dường như đã tìm thấy trong thái độ quá ư khắt khe, có phần nào thiên lệch này của bà một lý do khiến bà sớm xa lánh cuộc sống ở chốn quyền môn, để rồi cuối cùng đã tự chọn lấy thân phận của một bà đồ giữa đám quê mùa.

Có điều là bà không bao giờ có thể bằng lòng với lối học cử tử đang trở nên thịnh hành thời bấy giờ. Một lối học chỉ loanh quanh với mớ từ chương, thơ phú, kinh nghĩa, văn sách... và một mớ giáo điều về đạo đức quân thần, phụ tử, phu phụ. Đối với bà, học là để hiểu nghĩa lý, để đi đến tột cùng cái lẽ biến thông, sinh hóa hết sức huyền vi và màu nhiệm của tạo hóa và của nhân sinh, để có thể tùy thời, tùy cơ mà xác định cho mình một phương châm xử thế thích hợp nhất.

Thành ra đối với cha anh thì những tên tuổi trên đây là những cái đích cuối cùng mà anh sẽ phải vươn tới. Còn đối với mẹ anh thì đó mới chỉ là những cái mốc đầu tiên anh sẽ phải vượt qua. Đối với cha anh thì đó là những mẫu mực anh phải noi theo. Còn đối với mẹ anh thì đó lại là những khuôn khổ anh cần phải phá vỡ.

Điều đáng lạ là cả cha anh và mẹ anh đều được đào luyện rất kỹ càng theo kinh điển của Tống nho, ấy thế mà mẹ anh đã có được những quan điểm khác vời của riêng mình đến thế. Trong những câu chuyện về học thuật đối với riêng anh - rất tiếc là hồi ấy anh hãy còn thơ dại quá - giữa các nhân vật chủ chốt của Nho học đời Tống, hình như bà đặc biệt chú trọng đến thầy Thiệu Ung, chẳng phải vì cuộc sống cao khiết, trọn đời không ra làm quan mặc dầu được trưng triệu nhiều lần, mà chủ yếu là vì sự nghiệp trước tác thuần triết lý của ông. Vả lại ông chính là một bậc thầy về môn thuật số, môn học mà bà ham thích.

Bà thường nhắc đi nhắc lại câu nói bất hủ của Thiệu Ung: "Tam Hoàng sự nghiệp chỉ có nghìn đời; ngũ Đế sự nghiệp chỉ có trăm đời; tam Vương sự nghiệp chỉ có mười đời; ngũ Bá sự nghiệp chỉ có một đời. Duy đức Khổng Tử mới là sự nghiệp đến vạn thế". Thì ra ở trên đời này, sự nghiệp của các bậc đế vương, dù là các bậc vua thánh, vẫn chưa phải là sự nghiệp đáng mơ ước nhất. Người ta vẫn có thể

tìm kiếm một sự nghiệp vĩ đại hơn nhiều. Đó chính là điều bà muốn đòi hỏi ở con bà.

Bà cũng thường thích thú kể cho anh nghe những mẩu chuyện về tài thuật số của Thiệu Ung. Có lần thầy đang dạo chơi trên cầu Thiên Tân thì bỗng nghe thấy tiếng chim Đỗ quyên là thứ chim chỉ có ở miền Nam Trung Quốc. Thầy đã tiên đoán ngay là Thiên Tân sắp có loạn. Một nhân vật miền Nam sẽ lên nắm quyền, nhà Tống sắp suy vong. Sự thật quả nhiên đã xảy ra đúng như điều thầy dự đoán. ại, nếu như con bà cũng có được trình độ uyên thâm về dịch lý và thuật số đến như thế!...

Cũng cần phải nói ngay rằng trong mớ ký ức rất rõ nét về cuộc sống gia đình từ thời thơ ấu, anh không hề ghi nhận một lần xung đột gay cấn nào giữa mẹ anh và cha anh cả. Bề ngoài cái gia đình bé nhỏ ấy vẫn giữ đúng nề nếp nho phong "phu xướng, phụ tùy". Ngay cả trong lĩnh vực dạy dỗ con cái mà bà rất mực quan tâm, bà vẫn tỏ ra tôn trọng quyền gia trưởng của cha anh. Anh đâu có biết rằng cái bề ngoài êm đẹp đó đã phải trả giá bằng nghị lực tự kiềm chế ghê gớm đến mức nào, cho đến ngày niềm hy vọng đã trở thành niềm thất vọng của đời bà.

Có thể nói tất cả cái nền giáo dục vô giá mà bà đã truyền thụ cho anh, tạo thành hướng đi cho cả đời anh sau này, chỉ được tiến hành hầu như là thầm lén trong những buổi cha anh vắng nhà, hoặc bận khách.

Anh còn nhớ như in buổi sáng hôm đó, cha anh vừa mới cắp nón bước ra khỏi cổng thì mẹ anh đã gọi anh vào buồng riêng để hỏi chuyện học hành.

Cứ mỗi lần như vậy, trước khi vào chuyện, bao giờ bà cũng ôm anh vào lòng một lúc lâu và nhìn anh với một cặp mắt khó tả, cứ như muốn tìm kiếm cái gì, không phải ở bề ngoài thân hình khá cường tráng của anh, mà tận trong tim óc anh. Cái nhìn làm cho anh vừa sờ sợ, lại vừa khấp khởi chờ đợi.

Lần này thì bà hỏi anh về bài học hôm qua. Anh chỉ mong có thế! Bởi vì đó là một câu rất khó nhớ trong sách Luận Ngữ, lủng củng những tên người xa lạ. Anh còn hình dung rất rõ những bộ mặt ướt đẫm mồ hôi, trông đến thảm hại, của các bạn anh, đánh vật suốt cả một ngày mà vẫn phải ăn đòn vì không thuộc nổi. Chỉ có anh là chẳng phải vất vả mấy tí mà đã thuộc làu. Thế là anh tuôn ra một mạch cả câu văn lẫn lời giảng của cha anh: "Dật dân... i... a... Bá Di, Thúc Tề... i... a..., Ngu Trọng, Di Dật... i... a..., Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên... i... a... Tử viết: Bất giáng kỳ chí, bất nhục kỳ thân, Bá Di, Thúc Tề dư? Vị Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên giáng chí nhục thân hỹ, ngôn trúng luân hành trúng lự, kỳ tư nhi dĩ hĩ. Vị Ngu Trọng, Di Dật ẩn cư, phóng ngôn, thân

trúng thanh, phế trúng quyền. Ngã tắc dị ư thị. Vô khả, vô bất khả. Nghĩa là... i... a... Dật dân

ở đời xưa có ông Bá Di i... a... Thúc Tề chịu chết đói ở núi Khúc Dương không chịu nhụt chí nhục thân ư? Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên tuy đã nhụt chí nhục thân, nhưng nói điều gì tất cũng đúng với luân lý, làm việc gì tất cũng đúng với lương tâm, thế cũng là tốt rồi. Còn Ngu Trọng, Di Dật lánh đời ở ẩn, nói năng tự do mà không chiều theo miệng tục, dẫu chỉ toàn thân mà cũng xứng đáng với bậc thanh cao, dẫu bỏ đời mà cũng đúng phép quyền biến. Ta thì khác hẳn thế. Đối với ta thì không có cái gì là "khả", không có cái gì là "bất khả"... Anh đang hí hửng chờ đợi một lời khen của mẹ, như những lời ca ngợi về trí thông minh anh thường nhận được ở bạn, ở các bậc cha chú, thậm chí ở cả người thầy nghiêm khắc là cha anh nữa. Nhưng không! Bà chỉ mở to mắt trừng trừng nhìn anh như ngắm một vật xa lạ. Rồi bà quay mặt đi, hình như để lau một giọt nước mắt. Mãi đến khi lấy lại được bình tĩnh, bà mới siết chặt anh vào lòng, và vẫn âu yếm như không có chuyện gì xảy ra, bà lại nựng con:

(1) Có sách nói tên bà là Ngô Chi Lan, có sách lại nói là Nguyễn Hạ Huệ. Thờ hai đời vua Thánh Tông và Hiến Tông. Được vua rất khen ngợi, thường gọi là "Phù gia nữ học sĩ".

- Thế con vẹt thân yêu của mẹ, con có nhớ một đoạn văn nào cũng trong Luận Ngữ nói về con chim trĩ tìm lúc mà đỗ hay không?

Như được gỡ khỏi thế bí, anh hồ hởi đọc thêm: "Sơn lương chuy tri... i... a... sắc tư cử hỹ, tường nhi hậu tập. Tử viết: Thì tai! Thì tai! Nghĩa là i... a... Con chim trĩ mái ở trên cầu cạnh núi. Nó thấy vẻ người có ý chẳng lành bèn bay lên ngay. Nó bay liệng mấy vòng rồi sau mới đậu xuống. Khổng Tử thấy thế bèn thốt lên: Đúng thời vậy thay! Đúng thời vậy thay!"


-
ấy thế đấy con ạ. Đối với thánh nhân thì không có gì vốn nó là "khả" hay "bất khả", nên hay không nên cả. Phải tùy nơi tùy lúc mà đoán định điều đó, cũng như con chim trĩ mái khôn ngoan kia biết bay lượn trên cao để quan sát tình thế rồi mới quyết định đỗ xuống hay bay đi. ại, mẹ chỉ muốn con sau này bay cao, bay cao lên mãi, trên đầu tất cả những bọn tầm thường để nhìn xa trông rộng, tùy thời mà lựa chọn con đường lập thân xử thế của mình, há chỉ phải khư khư một lẽ như mấy ông Bá Di, Thúc Tề ấy hay sao. Điều quan trọng nhất là ở chữ "Thì"...

Những buổi trò chuyện ngoài lề với mẹ như vậy bao giờ cũng để lại ấn tượng hết sức sâu sắc trong tâm hồn trong trẻo khát khao tìm hiểu của cậu bé Nguyễn Bỉnh Khiêm, khiến cậu

không thể nào yên tâm được với những điều mình đã học, khêu gợi trong cậu những hoài bão mênh mông vô tận về tương lai, về cuộc sống.

*

Thơ văn cũng là lĩnh vực bà hết sức quan tâm. Ngoài những mẫu mực của nước ngoài như Lý, Đỗ, Œu, Tô mà anh đã được nghe cha anh giảng giải hết sức kỹ càng, bà thường hướng anh trở về với vườn thơ dân tộc. Thơ văn thời Lý, Trần với hào khí của cả một thời dựng nước, giữ nước vĩ đại vẫn là niềm say mê bất tận đối với bà. Cả đến những áng thơ văn đầu triều Lê, cái kỳ lạ mà tiêu tao của Chuyết Am Lý Tử Tấn, cái duyên dáng mềm mại của Cúc Pha Nguyễn Mộng Tuân và nhất là những bài thơ khi hùng tráng bi ai, khi tinh vi tế nhị, nhưng bao giờ cũng tràn trề một niềm trung ái hết sức cao thượng của ức Trai Nguyễn Trãi cũng thường trở đi trở lại trong câu chuyện của bà.

Chỉ có thơ văn thời Hồng Đức là bà ít khi nói đến. Ngay cả thơ của một bậc nữ lưu tài danh nổi tiếng đương thời, bà phu nhân ông học sĩ Phù Thúc Hoành(1), đã được vua Lê Thánh Tông rất coi trọng, cho vời vào dạy các cung nữ, hình như bà cũng không mấy cảm tình.

(1) Tam khôi: ba danh hiệu thi đỗ cao nhất thời xưa: trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa.

Điều làm cho anh đôi khi đến phải ngạc nhiên là trong những câu chuyện thơ văn nhiều khi hết sức thâm thúy, tế nhị tưởng như rất khó diễn đạt, bà vẫn có được một lối giảng giải riêng, đơn giản, suôn sẻ, dễ hiểu đến không ngờ. Cứ như là muốn trực tiếp truyền vào mối cảm xúc còn rất hồn nhiên, ngây thơ của anh vậy.

Mãi về sau anh mới nhận ra được, ngoài một tâm hồn thơ hết sức dạt dào, nhạy bén, bà còn có cả một vốn liếng ngôn từ rất tự nhiên, tươi tắn mà chẳng kém phần tinh tế, rất gần với lời ăn tiếng nói, điệu ví câu hò trong dân dã. Cái đó nào phải xa lạ gì đối với anh. Ngay từ ngày còn nằm trong nôi anh đã được nghe từ miệng người mẹ và bà con lối xóm mà gia đình anh chẳng sống xa cách bao nhiêu. Thế nhưng không hiểu sao, mỗi khi nói đến chuyện thơ phú, chữ nghĩa nghiêm chỉnh thì nó lại biến đi đâu mất cả.

killerroi
24-05-2006, 17:08
Thì ra những năm tháng ngao du sơn thủy


khắp đó đây, hòa mình vào trong sinh hoạt hội hè, làm ăn của dân chúng đã biến đổi bà từ một cô gái cung đình trở thành một hồn thơ hoàn toàn xa lạ với lối thơ phú cung đình vốn đang thịnh hành như một thứ thời thượng.
Đó sẽ là một bài học quý giá cho anh sau này, khi anh bắt đầu đánh vật với những vần thơ Nôm mà anh không dễ gì thành công ngay được. Trong khi chờ đợi những câu chuyện của bà, dường như ngoài cả ý thức của anh, dần dần đã dắt dẫn tâm hồn anh đi sâu mãi vào một thế giới kỳ diệu, đầy hứng thú, thế giới của thơ ca.

*

Cuối cùng thì bà đã tìm ra được một giải pháp thích hợp nhất để giải quyết mối mâu thuẫn với cha anh trong quan niệm giáo dục con bà: Gửi Nguyễn Bỉnh Khiêm lên kinh đô theo học quan Bảng nhãn Lương Đắc Bằng.

Được biết ý định này, cha anh vui mừng khôn xiết. Con ông từ nay sẽ được theo học một nhà khoa bảng vào hàng tam khôi(1), lại đang làm quan to trong triều. Còn gì vinh dự hơn cho ông nữa. Phải có tiếng nói thần thế của bà, mới được như vậy chứ.

Nhưng trong thâm tâm bà lại nghĩ khác. Bà được biết họ Lương rất nổi tiếng uyên thâm về phần dịch lý, lại có được một pho sách bí truyền Thái ất thần kinh, có thể giúp được người ta suy đoán những việc xảy ra hàng trăm năm về trước cũng như hàng trăm năm về sau. Những cái đó rất cần cho đường học vấn của

(1) Đêm 27 tháng 7 năm Nhâm Ngọ (1522), vua Chiêu Tông lo sợ trước uy quyền quá lớn của Mạc Đăng Dung, đã cùng một số cận thần trốn ra ngoài thành về huyện Minh Nghĩa, trấn Sơn Tây, Mạc Đăng Dung liền lập em của Chiêu Tông là hoàng đệ Xuân lên ngôi, tức Lê Cung Hoàng. Sau Đăng Dung sai bắt được Chiêu Tông đưa về kinh rồi tìm cách giết đi. Cung Hoàng sau lại bị Đăng Dung ép nhường ngôi và ngầm thủ tiêu nốt, cùng với Hoàng thái hậu. con bà. Vả lại bà cũng muốn sớm buông cậu bé ra ngoài đời để tập vỗ cánh, để nhìn thấy cả bầu trời. Không phải chỉ là cái bầu trời êm ả, dường như khép kín ở chốn thôn quê mà là cả cái bầu trời đầy sóng gió, luôn luôn biến động ở chốn thị thành.

Đến đây thì bà coi trách nhiệm làm mẹ đã hoàn thành, để có thể trở lại cuộc sống riêng tự do phóng khoáng như bà đã sống hồi nào.

*

Ngần ấy cơ sở tài năng và học vấn cũng đủ dọn sẵn cho Nguyễn Bỉnh Khiêm một con đường tiến thân rộng lớn và chắc chắn: thi đỗ, làm quan, hành đạo. ở cái thời ấy dường như chẳng mấy ai phải băn khoăn về câu chuyện chọn đường. Trên đã có vua thánh thì dưới còn phải lo gì mà không thi thố được hoài bão tôi hiền?

Thế rồi đùng một cái, đúng vào cái tuổi mười lăm, mười sáu đầy hứa hẹn của anh thì thời thế biến chuyển. Uy Mục lên ngôi. Rồi Tương Dực, Chiêu Tông, Cung Hoàng kế tiếp. Cứ mỗi lần thay đổi triều vua là người ta lại nghe ngóng, chờ đợi, hy vọng để rồi chẳng bao lâu lại thất vọng và lại chờ đợi.

Quả thật là đối với tuổi thanh niên sung sức và đầy khát vọng hành động ấy, chờ đợi là cả

(1) ý trong bài thơ Ký hữu nhân (gửi bạn). Những đoạn thơ văn trích dẫn không ghi xuất xứ dưới đây đều do B.B.T rút lại. Thành thật xin lỗi bạn đọc và tác giả.

một thử thách, một nỗi khổ. Đã có lúc một bài thơ bi phẫn của một trung thần triều Lê, trạng nguyên Vũ Duệ làm cho bầu máu nóng trong người anh cứ muốn sôi lên.

Đó là vào khoảng năm Mậu Dần (1516), bọn Nguyễn Kính, Nguyễn áng làm loạn, đánh sát tới kinh thành, khiến vua Lê Chiêu Tông cùng hoàng đệ Xuân phải long đong chạy khắp nơi này chốn khác. Hàng loạt trung thần như Đô ngự sử Đỗ Nhạc, phó đô ngự sử Nguyễn Dự đều bị giết hại chỉ vì trái ý Mạc Đăng Dung. Muôn dân đói khổ; quân lính thiếu lương, kinh sư bị cướp phá tan hoang, thành "nơi đánh cá và săn bắn".

Bài thơ đã nói rõ tình cảm vua tôi, tình cảm chúng dân đến như thế! Thật không cầm nước mắt được nữa. Nỗi bi phẫn của nhà thơ có lúc cũng muốn trở thành nỗi bi phẫn không thể kiềm chế nổi của chính Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Thăng Long là đất hưng vương cũ, Sống mái sao không quyết một trường?

Câu hỏi kết thúc bài thơ như muốn xoáy vào chính tâm can anh, không để cho anh ngồi yên được nữa.

Kinh sách thường khuyên người quân tử phải biết tìm nước trị mà đến, tránh nước loạn mà đi. Nhưng đó chỉ là câu chuyện của những thời

(1) Minh Đức: Niên hiệu triều đại Mạc Đăng Dung. Đại Chính: Niên hiệu triều Mạc Đăng Doanh.

Xuân thu, Chiến quốc xa xôi nào ấy, "nước" chẳng qua cũng chỉ là những bọn cát cứ đánh lộn nhau để tranh bá đồ vương. Còn đây, nước là nước của mình, dân là dân của mình hẳn hoi, nào phải của ai mà bỏ đi đâu?

Nhưng rồi bình tâm mà xét cho kỹ thì Chiêu Tông có còn thật sự là một ông vua của dân của nước nữa không? Hay chỉ còn là ông vua trong tay một phe cánh cường thần, để rồi cuối cùng sẽ bị làm vật hy sinh cho một ông vua khác nằm gọn trong tay Mạc Đăng Dung hơn, vua Lê Cung Hoàng(1). Ra tay phò tá một ông vua như vậy thì có khác gì chịu cúi mình xu phụ một nhóm quyền gian? Không, không đời nào! "Gươm trời nỡ để tay trần tuốt"? Không, người quân tử phải biết yêu danh tiết của mình cũng giống chim phượng hoàng biết tiếc vũ mao của nó vậy. tại vì tùy thời mà phải chờ thời, hiểu được điều đó đã là rất khó, mà giữ trọn được điềuđó nào phải dễ dàng! Biết bao lời ong tiếng ve trong thiên hạ. Nhiều khi ông đã phải thanh minh với bạn bè: "Lâu hay chóng xét ra cũng phải tùy theo cảnh ngộ, dầu có phải chậm thành đạt thì cũng xin đừng ân hận" và "hẹn nhau sẽ có bước đi xa, làm lớn".

Sự nghiệp anh hùng cái thế của cụ ức Trai hãy còn sờ sờ ra đó. Chẳng phải sự nghiệp của một bậc trí giả cao kiến, biết chọn thời và

chờ thời hay sao? Cảnh nước mất nhà tan đã dày vò ruột gan cụ, thôi thúc cụ biết chừng nào. Thế mà những cuộc nổi dậy khá vang dội ban đầu của các vua Hậu Trần vẫn chưa đủ để cụ từ bỏ căn lều nhỏ ở góc nam thành Đông Quan để vào cuộc. Nhưng liền sau đó, chỉ mới le lói một chút ánh sáng từ phía Lam Sơn là cụ đã dấn bước lên đường...

*

Cuối cùng thì câu chuyện tất yếu phải xảy ra đã xảy ra. Mạc Đăng Dung ép vua Lê nhường ngôi, tự xưng hoàng đế, đổi niên hiệu Thống Nguyên năm thứ 6 (1527) làm Minh Đức năm thứ nhất.

Thế là lại một tình thế mới đòi hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm phải đắn đo cân nhắc.

killerroi
24-05-2006, 17:11
*

Cuộc hồi loan của nhà vua đã được nhân dân khắp vùng đón rước thật là nồng nhiệt. Suốt dọc đường, hai bên bờ sông, cờ vũ mao của nhà vua đi đến đâu là người ta đổ xô ra tới đó, reo hò, tung hô "Vạn tuế", có lúc đẩy nghiêng cả tàn lọng, cờ quạt. Các làng xã đều đặt long đình, hương án bên đường để làm lế bái vọng. Có nơi các bô lão còn dâng sớ chúc mừng cùng bày tỏ niềm tin sẽ được nhà vua khoan giảm. Khắp các phường phố kinh đô, cờ xí rợp trời, tiếng loa dậy đất, quân dân chen chúc nhau hồ hởi khác thường. Lâu lắm rồi người ta mới được thấy một cảnh tượng như vậy.

Ôi, người ta khao khát hòa bình, trật tự biết bao. Chỉ cần đẩy lùi được chiến tranh, giặc giã là người ta thấy sướng vui như chết đi sống lại. Người ta tưởng chừng như chính vua Mạc đã làm được việc đó và sẽ đem lại cuộc sống bình yên như họ hằng mơ ước. Trong chốc lát, người ta như quên đi tất cả những cảnh đen tối trước mắt, mà chỉ còn nhớ đến những ngày an lạc mà chính nhà Mạc đã đem lại cho họ trước

đây.

Người ta lại hy vọng. Nguyễn Bỉnh Khiêm

đã

được chứng kiến đầy đủ cảnh tượng này


trong khi hộ giá nhà vua trở lại kinh thành. Như vậy thì nhà Mạc phải đâu đã mất hết thời cơ để thống nhất đất nước và đem lại cuộc sống yên vui cho trăm họ, nếu như vua tôi đều đồng tâm nhất trí lo toan việc đó. Họ còn có lực. Họ còn có dân. Nhưng tiếc thay, bọn triều thần đớn mạt bao quanh nhà vua nào có nghĩ thế.

Tuy nhiên tai họa lớn vừa qua cũng làm cảnh tỉnh được phần nào nhà vua cùng một số triều thần còn có ít nhiều tâm huyết. Nhà vua đã cố gắng tự nắm lấy quyền chính để cho Khiêm vương Mạc Kính Điển được chuyên tâm hơn vào việc quân. Hàng loạt đại thần dều dâng sớ nêu rõ thực trạng lộn xộn, thối nát trong chính sự và mạnh dạn khuyên nhủ nhà vua gia tăng phép nước để bầy tôi không dám chuyên quyền.

Mạc Phúc Nguyên không phải là không chấp nhận tất cả những ý kiến chân thành và

xác đáng của họ. Nhưng thi hành những điều đó lại là chuyện khác. Cả bộ máy thừa hành từ trên xuống dưới đã không còn là công cụ đắc lực cho nhà vua nữa rồi. Tuy nhiên trên một số mặt sinh hoạt bình thường, tình hình bề ngoài cũng đã trở lại được nhịp điệu như trước. Khoa thi Hội năm Quý Sửu (1553) vẫn được mở theo đúng kỳ hạn. Năm sau đó, Giáp Dần (1554), niên hiệu Cảnh Lịch được đổi thành niên hiệu Quang Hòa năm thứ nhất để chứng tỏ với muôn dân là nhà vua đã quyết tâm đổi mới.

Tình thế đã tạm thời cho phép quân Mạc mở những cuộc phản công quy mô hòng gỡ khỏi thế bị động trên cả hai mặt trận. Mặt trận

phía nam, đánh thẳng vào căn cứ Lê Trịnh
Thanh Hóa, và mặt trận phía tây bắc nhằm
thẳng vào sào huyệt của Vũ Văn Mật ở vùng Hưng Hóa, Tuyên Quang. Bọn này càng ngày càng tỏ ra hung hãn, quấy rối sau lưng quân Mạc và gần đây đã phối hợp với quân Trịnh tiến đánh kinh thành, trở thành một thế hết sức nguy hiểm.

Và lần này Nguyễn Bỉnh Khiêm lại được sung vào đạo quân Tây Bắc cùng với một số văn thần khác.

*

Đây không phải là lần đầu Nguyễn Bỉnh Khiêm được cử vào nhiệm vụ này. Vào khoảng đầu đời Cảnh Lịch chính ông đã hộ giá nhà vua thân chinh đi chiến dịch đó. Những ký ức về cuộc hành quân gian nan vất vả này hãy còn như rất mới mẻ trong tâm trí ông.

Hồi ấy quân Mạc quả thật là một lực lượng hùng hậu. Khí thế ra quân cũng rất hùng dũng. Nhà vua đã biết sử dụng khá nhiều văn thần để làm nhiệm vụ an dân sau khi quân đội chiến thắng. Nhưng Vũ Văn Mật đã tỏ ra là một địch thủ lợi hại hơn người ta tưởng rất nhiều. Chỉ sau khi quân Mạc "khải hoàn" về ít lâu là y đã nghiễm nhiên trở lại làm chủ hầu hết những vùng đất đai phải tạm rút bỏ, và lại còn nắm trong tay cả một lực lượng còn lớn hơn trước nhiều. Cuộc tấn công mãnh liệt và bất ngờ vừa rồi về tới kinh đô cùng với những cánh quân tiên phong của họ Trịnh đã làm cho nhiều người, trong đó có Nguyễn Bỉnh Khiêm phải hết sức ngạc nhiên.

Vũ Văn Mật là ai? Y cùng người anh, Vũ Văn Uyên, thực ra chỉ là những gã phiêu lưu gặp thời. Trong cái buổi thế nước rối ren loạn lạc này, những hạng người như anh em hắn chẳng phải là hiếm. Vốn người xã Ba Động, huyện Gia Phúc, trấn Hải Dương. Vào cái thời Quang Thiệu (1516-1522) hay Thống Nguyên (1522-1527) nhà Lê gì đó vì can tội giết người, hai anh em liền trốn khỏi quê quán, lần mò lên đến vùng Tuyên Quang này nương nhờ một nhà giàu ở xứ Đại Đồng, châu Thu Vật. Nhân thấy người tù trưởng ở đây bị dân chúng địa

phương oán ghét vì tham lam, độc ác, hai anh em liền liên kết bè đảng đi giết và cướp lấy đất, tự biến thành lãnh chúa cả vùng này.

Thế là từ đó hai anh em đã bắt tay vào một cuộc kinh doanh rộng lớn, mở mang ruộng nương, phố xá, chợ búa, cầu đò. Lại chiêu tập những người dân phiêu tán từ những miền xuôi chạy lên đây đã khai phá đất hoang, lập thêm làng ấp. Chẳng bao lâu khu vực Đại Đồng đã trở thành một thị trấn sầm uất, trên bến dưới thuyền bán buôn tấp nập. Nhân dân no đủ. Thật khác xa với quang cảnh tiêu điều đang bày ra khắp nước hồi đó. Văn Uyên đã mất để lại toàn bộ giang sơn cho em nối nghiệp.

Thời đó vua Lê đã không còn đủ sức nắm lấy những vùng biên viễn xa xôi nữa, đành phải phong cho Văn Mật chức Đô tổng sứ Tuyên Quang, tước Khánh Dương hầu và cho quyền được tùy nghi tuyển mộ binh lính trấn giữ địa phương. Lợi dụng điều kiện hết sức thuận lợi này, Văn Mật đã mặc sức mở rộng phạm vi thế lực ra khắp cả một miền rộng lớn bao gồm các châu Thủy Vĩ, Văn Bàn, Lục Yên, Thu Vật, Vị Xuyên thuộc trấn Tuyên Quang, và có lúc ra đến tận các phủ Lâm Thao, Đoan Hùng, Đà Dương trấn Sơn Tây và các huyện Phổ Yên, Đồng Hỷ trấn Thái Nguyên nữa.

Cho đến khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê thì Vũ Văn Mật đã có thể đường đường tuyên bố chống Mạc, xây đắp cả một hệ thống thành lũy kiên cố khắp các châu huyện và chia quân thành 11 doanh để trấn thủ các nơi hiểm yếu. ở trấn Đại Đồng, y đã xây dựng một triều đình riêng, cũng đủ bá quan văn võ. Y còn mời cả nhà ẩn sĩ Nguyễn Hàng ra giúp việc chính sự. Tuy đã từ chối mọi nhiệm vụ mà Văn Mật giao cho, những Nguyễn Hàng cũng phải thốt lên những lời ca ngợi đến kinh ngạc trước cảnh sống phồn vinh và quy mô đường bệ của cái triều đình riêng một góc trời ấy.

Như vậy là khi tuyên bố chống lại nhà Mạc,

ý đồ của họ Vũ đâu phải là nhằm khôi phục nhà Lê mà là để lập nên một vương triều cát cứ lâu dài. Nhưng khi được tin nhà Lê bắt đầu công cuộc trung hưng ở Thanh Hóa, thì Văn Mật không dại gì mà không bắt tay với lực lượng này để chia sẻ thế lực của nhà Mạc và mượn danh phù Lê để tăng thêm uy tín trong quần chúng. Vì thế y đã dâng biểu quy thuận vua Lê Trang Tông (1533-1548) và tất nhiên tờ biểu đã được chấp nhận một cách hết sức vui vẻ.

Vua Lê và nhất là Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm đã thấy ngay được vị trí lợi hại của Vũ Văn Mật trong sự nghiệp trung hưng của mình, vừa là một gọng kìm kẹp vào sau lưng quân Mạc, lại vừa là một cửa ngõ thông sang nước Minh để khi cần có thể qua đường này mà xin cầu viện. Và quả nhiên khi nhà Minh mượn cớ phù Lê diệt Mạc mà sai bọn Cừu Loan, Mao Bá ạn tiến quân thì bọn này đã có mật hẹn với Vũ

Văn Mật để dùng y làm quân tiên phong dẫn đường cho chúng. Tuy sự việc này đã không xảy ra, nhưng Văn Mật cũng thường có những mối quan hệ ngấm ngầm nguy hiểm với bọn quan lại bên kia biên giới. Chính những hoạt động này đã làm cho Nguyễn Bỉnh Khiêm phải suy nghĩ nhiều trong chuyến đi chinh phạt trước đây. Sứ mạng của ông quả thật tế nhị hơn nhiều so với quan niệm của triều đình và nhất là bọn võ tướng chỉ huy mặt trận.

Trước hết là phải nêu cao được danh nghĩa điếu dân phạt tội của nhà vua, ban hành nhân chính để cảm hóa lòng người chứ không thể chỉ đơn thuần dựa vào võ lực. Điều đó lại càng khó khăn vì nhân dân vùng này đã có cả một thời khá lâu được sống yên ổn và no đủ dưới bàn tay cai quản của hai anh em họ Vũ. Tuy những năm gần đây họ có bị bọn này vơ vét khá nhiều để đổ vào cuộc chiến tranh với nhà Mạc, đời sống có giảm sút đi, nhưng vẫn chưa thể vì thế mà họ dễ dàng từ bỏ lãnh chúa của họ.

Hơn nữa, cũng không thể dè chừng một cuộc đụng độ, tuy chỉ xa xôi bóng gió nhưng không thể tránh khỏi với bọn quan lại "thiên triều" vốn vẫn giữ liên hệ với họ Vũ để tính chuyện lâu dài. Có lẽ cũng chính vì vậy là lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh của nhà Mạc, nhà vua cùng Khiêm vương phụ chính đã cử nhiều văn thần vào hàng cao cấp đến thế đi theo việc quân. Ngay chính nhà vua, khi ấy hãy còn nhỏ tuổi, cũng thân chinh ra trận để nêu thêm danh nghĩa.

Chuyến ấy ra đi, Nguyễn Bỉnh Khiêm cùng các bạn ông đã phấn khởi tin tưởng biết bao nhiêu. Nhà vua đã tin dùng bọn văn thần? Nhà vua đã quyết định thi hành đường lối nhân chính, mở rộng việc chiêu hàng để chinh phục lòng người và hạn chế phần nào thói tham bạo của đám tướng lĩnh? Có lẽ lúc này là cơ hội thuận tiện nhất để được gần gũi nhà vua, thuyết phục nhà vua hướng theo đường lối đó? Và nếu như chiến dịch này mà toàn thắng, đúng như quan niệm chiến thắng của các ông, nghĩa là chiến thắng về mặt nhân tâm, khiến cho lòng dân ở cả những miền rừng núi xa xôi này từ nay cũng sẽ tự nguyện từ bỏ bọn cát cứ yêu nghiệt mà hướng về nhà vua, thì quả thật đó sẽ là một chiến thắng kiểu mẫu, một phương thức chiến tranh kiểu mẫu giúp cho nhà Mạc thu phục được giang sơn, chấm dứt cảnh đất nước chia cắt.

Tiếc thay, tất cả những lý lẽ ấy đã không thể thuyết phục được bọn tướng lĩnh. Những cuộc chinh chiến liên miên và cả cuộc đời vào sanh ra tử mà họ rất đỗi tự hào có lẽ đã tạo

cho họ những thói quen, những nếp nghĩ thật là đen tối, tàn bạo. Kiêu ngạo, độc đoán, chỉ thích chém giết, tàn phá, cướp bóc.

Nhưng trước những đội quân hùng mạnh của triều đình, Vũ Văn Mật đã không dại gì mà tung lực lượng ra đánh. Trái lại y đã khôn khéo dùng kế lui quân về cố thủ trên vùng thượng nguồn hiểm trở. Thế là cả một vùng rộng lớn, từ Lâm Thao, Đoan Hùng sang đến Phổ Yên, Đồng Hỉ lại trở về với nhà Mạc hầu như không qua một trận đụng độ đáng kể nào. Công việc bình định như thế tưởng chừng là sẽ dễ dàng. Đây chính là lúc nhân danh nhà vua ban bố chiếu mệnh an dân, mở lối chiêu hàng, rộng tha những kẻ bị lôi cuốn theo giặc, chiêu mộ dân lưu tán trở lại làm ăn, cắt đặt kẻ chăn dân để mau chóng ban hành giáo hóa, làm cho xa thư lại về một mối.

Nguyễn Bỉnh Khiêm cùng các bạn của ông đang hăm hở bắt tay vào một công cuộc đầy hứng thú như vậy thì bọn tướng tá đã làm cho các ông phải thất vọng hoàn toàn. Căm tức vì không thể tiêu diệt được chủ lực và đầu não của đối phương trong những căn cứ hiểm hóc của họ, lại bị sa lầy vào những vùng hẻo lánh xa xôi, rừng thiêng nước độc, tin tức không thông, lương thảo cạn sạch, bệnh tật ốm đau, cả đạo quân hùng hậu mang danh nghĩa vương sư chẳng bao lâu đã biến thành những toán giặc cướp không còn kỷ cương gì hết. Cả một vùng Đại Đồng trù phú là vậy mà sau khi quân Mạc rút qua chỉ còn là đống tro tàn. Khắp nơi xóm làng xơ xác, vườn tược tiêu điều, đồng ruộng hoang rậm. Còn đâu là danh nghĩa của đoàn quân điếu phạt, còn đâu là lòng tin của dân chúng nữa. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã phải khóc lên trước những cảnh thương tâm ấy, khóc lên về sự bất lực của chính mình, vì trách nhiệm không được hoàn thành.

Rút cục, cuộc hành quân đã thực sự thất bại, mặc dù người ta vẫn cố bày trò "khải hoàn", luận công ban thưởng để trấn an quân sĩ. Và chỉ ít lâu sau đó, khi Vũ Văn Mật trở về thì vùng Đại Đồng cùng các châu huyện xung quanh lại thuộc về vương quốc của y như cũ...

Vậy thì trong chuyến đi này, liệu ông còn có thể thi thố được điều gì tốt đẹp? Sự thật vẫn diễn ra chẳng có gì khả quan hơn cả.

Đã thế vừa đặt chân về tới triều đình thì Nguyễn Bỉnh Khiêm lại nhận được những tin bại trận còn thảm hại hơn nữa. Cả một đoàn quân lớn đông đến vài vạn chiến sĩ cùng hàng trăm chiến thuyền dưới sự chỉ huy trực tiếp của Khiêm vương Mạc Kính Điển vừa thua lớn ở mặt trận Thanh Hóa. Hàng mấy nghìn quân cùng vài chục viên tướng, trong đó có Thọ quận công chỉ huy thủy quân đã bỏ mạng. Khí giới thuyền bè hầu như mất sạch. Kính Điển

chỉ còn thu nhặt được ít tàn quân lếch thếch chạy về kinh thành.

Cũng như mấy lần trước đây, cuộc đại thắng của quân Trịnh lần này vẫn chủ yếu là do bọn hàng tướng Lê Bá Ly, Nguyễn Khải Khang và nhất là danh tướng trẻ tuổi Nguyễn Quyện đóng vai chủ chốt. Điều đó càng làm cho nhà Mạc hết sức lo ngại.

Tình thế đã cấp bách đến mức nhà vua cùng Khiêm vương không thể để cho Nguyễn Bỉnh Khiêm, mặc dầu tuổi già sức yếu, được nghỉ ngơi về thăm nhà, theo yêu cầu khẩn thiết của ông nữa. Một nhiệm vụ hết sức quan trọng, mà lại mười phần khó khăn tế nhị, chỉ có ông mới có khả năng làm được. ạng được cử đi mặt trận Sơn Nam để tìm cách liên lạc với tướng Nguyễn Quyện, vốn là học trò cũ, mà lại là con của người bạn thân, để dụ anh ta trở về với nhà Mạc.

Tất nhiên, một lần nữa, Nguyễn Bỉnh Khiêm không thể từ nan. Nhưng ông cũng lường trước được tất cả những nỗi éo le sẽ đặt ra trước mắt. Mọi việc đưa đón sắp đặt thì đã có viên tướng Nam đạo chịu trách nhiệm cả rồi. Nhưng biết ăn nói với anh học trò Nguyễn Quyện sao đây, trong khi ông cầm chắc là sẽ không thể lay chuyển được ông bạn Nguyễn Thiến, cha anh ta rồi. Chỉ nội một việc cha con Phạm Quỳnh còn đó và vẫn được nhà vua trọng dụng cũng đủ làm cho ông ta không thể trở về. Vả lại ông bạn cũng đã ngoài bảy chục tuổi đầu rồi còn gì. Thế mà một khi ông bạn còn ở bên đó thì làm sao con ông ta đành lòng bỏ về với Mạc?

Nhưng những cảnh tàn phá đau thương mà chính tay anh ta đã gieo rắc mấy lần trên đất Sơn Nam trù phú kia, và có lần ngay cả bên cửa ngõ kinh thành đã làm cho Nguyễn Bỉnh Khiêm phải suy nghĩ nhiều. Vả lại, nghĩa vua tôi dầu sao cũng là rường mối trong đạo lý làm người. Thà rằng như Lương Hữu Khánh hay Phùng Khắc Khoan thì lại là chuyện khác. Cả hai người đã có quan hệ vua tôi gì với nhà Mạc đâu. Đằng này, ít ra thì anh ta cũng đã có hai đời gắn bó với vua Mạc, làm sao nỡ một ngày dứt tình mà quay giáo làm thù. Cái cảnh tàn quân của Mạc Kính Điển lếch thếch trở về cùng nỗi hốt hoảng của nhà vua đã để lại ấn tượng quá sâu trong tâm trí ông.

Thế là một lần nữa ông lại phải tạm gác mối tình quê để ra đi.

X

"Thiên hạ chăng tư, ấy của chung"

"Bụt Nam hạ lại từ oản chiêm?", cái câu nói chẳng ra khôi hài mà cũng chẳng ra than vãn ấy quả đã nói lên rất đúng một nét sinh hoạt của người dân miền chiêm trũng hạ bạn trấn Sơn Nam. Thì ra ở đây đến Bụt cũng chịu chung một số phận chẳng lấy gì làm tươi đẹp lắm của con người, quanh năm chẳng bao giờ được nếm miếng cơm dẻo gạo mùa, còn nói chi đến miếng oản nếp mùa thơm tho, béo ngậy. ở đây làng xóm cứ như là những hòn đảo nhỏ chật hẹp, nhà cửa chen chúc cùng với mảnh vườn chỉ bằng lòng bàn tay. Bước ra khỏi xóm là chỉ có nước và nước. Đi một bước cũng phải lội, hoặc dùng thuyền thúng.

Một cuộc sống bình thường vốn đã vất vả như vậy mà giờ đây còn bị đảo lộn cả lên. Đất Sơn Nam từ lâu đã trở thành như một khu đệm giữa hai vương quốc đối địch: Nam triều và Bắc triều. Chính cái tính chất đó đã tạo cho cả một vùng rộng lớn này những nét sinh hoạt thật là khác lạ.

ở đây hầu như vắng bóng đàn bà, con trẻ, vắng bóng những cụ già, những người chân yếu tay mềm và những hạng người có của. Họ

đã

phiêu dạt đi khắp nơi để tránh họa binh

đ

ao, hoặc sống lẩn lút trong những túp lều tạm


bợ giữa những lùm cây rậm hay trong hang núi. Còn lại chỉ là một hạng người khỏe mạnh, gan góc, táo tợn với một nếp sống khá kỳ quặc, có thể nói là "ngoài vòng pháp luật".

Lúc thường thì đám người này cũng làm ăn lương thiện như ai. Cũng cày cấy, cũng chài lưới... Nhưng nếu có dịp thì không ít người đã tụ tập nhau lại thành đoàn để đi cướp bóc, phá phách như những tên lục lâm chính cống. Có bọn bỗng trở thành những tay buôn chuyến giàu sụ. Có gì đâu. Một cuộc hạn hán hay lụt bão ở phía bên này hay bên kia, giá gạo bỗng lên vùn vụt. Thế là họ "vượt tuyến" chở gạo đến. Thật cứ như là vơ được tiền của, vàng bạc vậy. Nhưng tất cả số của trời ơi ấy họ cũng chẳng cần giữ làm gì. Họ quẳng cả vào những canh bạc hay quán rượu cho thỏa thích chốc lát, rồi lại ra đi mạo hiểm làm một chuyến khác. Có khi họ lại đường hoàng chuyên chở cả vũ khí, lương thảo cho một cuộc hành quân lớn bên này hay bên kia. Và tất nhiên là cả hai bên đã khôn khéo sử dụng bọn họ như những tên gián điệp chuyên nghề lợi hại để dò la tin tức, đưa đón nhân vật này hay nhân vật khác, hoặc có khi làm hướng đạo trong những cuộc hành quân bí mật qua những đường ngang lối tắt mà hầu như chỉ có họ biết được. Có người trong bọn họ vì vậy mà đã lập được công lớn, được phong chức tước hẳn hoi... Cuộc đi công cán của Nguyễn Bỉnh Khiêm lần này đã được bố trí khá kín đáo. Hành dinh bí mật của ông

được đặt ở một nơi khá xa mặt trận để có đủ an toàn và yên tĩnh cho ông làm việc, nhưng đồng thời lại rất thuận tiện cho việc liên lạc một mặt là với kinh đô, mặt khác là những đầu mối đi lại bí mật của quan Mạc thông sang đất địch. Đủ biết là nhà vua cùng Khiêm vương coi trọng và trông chờ ở kết quả việc làm của ông đến mức nào.

ạng được xếp đặt ở ngay gần một ngôi chùa cổ nổi tiếng ở vùng hạ bạn trấn Sơn Nam. Đó là chùa Phổ Minh, một địa điểm có thể khêu gợi cho người ta khá nhiều ký ức lịch sử. Nơi đây chính là làng Tức Mạc, đất thang mộc của nhà Trần xưa, sau được đổi làm phủ Thiên Trường với cả một loạt cung điện, đình chùa được dựng lên làm nơi di dưỡng cho những vị Thái thượng hoàng sau khi đã nhường ngôi báu cho con(1).

Nhưng tất cả cái quy mô đường bệ ấy nay còn đâu! Lịch sử chỉ mới trải qua vài trăm năm thôi, mà biết bao nhiêu cuộc tang thương biến đổi! Đâu rồi những cung Trùng Quang, cung Trùng Hoa... của vua Trần? Cái vạc chùa Phổ Minh nổi tiếng là thế mà nay cũng chỉ còn là niềm luyến tiếc của mọi người. Quân xâm lược tàn bạo nhà Minh đã đang tâm phá hủy nó, như chúng đã chủ trương phá hủy mọi di tích văn hóa truyền thống của ông cha ta, để đúc thành súng đạn bắn vào nghĩa quân ta. Ngay đến cái chùa Phổ Minh, niềm tự hào của nền kiến trúc địa phương này cũng đã phải trùng tu biết bao nhiêu lần rồi? Còn chăng của quá khứ là mấy cái bậc thang tam cấp chạm rồng uốn khúc mà thôi.

May thay, lòng dân đối với cái triều đại anh hùng ba lần chiến thắng quân Nguyên ấy thì vẫn còn nguyên vẹn. Trong một ngôi miếu cổ khiêm tốn thôn Tức Mặc, 12 tấm bài vị của 12 vua Trần, vẫn được đặt trên ngai rồng và vẫn ngát mùi hương khói vào những ngày kỵ, những ngày tuần tiết, mặc dù quanh đây, hàng mấy chục năm rồi vẫn là chiến tranh, loạn lạc.

Bâng khuâng xúc động với những ký ức xưa, Nguyễn Bỉnh Khiêm ngẫu hứng nên bài thơ Chơi chùa Phổ Minh. Cảm giác về sự mất mát quá ư phũ phàng qua dòng thời gian, đã làm cho ông đến choáng ngợp. Nhưng chính trong những giây phút cảm động ấy ông lại như chợt phát hiện ra một nhân tố vĩnh cửu, bất khả chiến bại, ngang tầm rộng lớn với trời đất, tuy đó chỉ là một nhân tố vô hình. Phải chăng cái đó là lòng người?

Nhưng lúc này Nguyễn Bỉnh Khiêm đâu còn thư thái tâm hồn để mà thả mình theo hồn thơ, theo những suy tưởng cao siêu như thế. Công việc trước mắt đã thu hút cả tâm trí ông.

Kế hoạch của quân Mạc là bố trí phục binh, nhằm bắt sống được Nguyễn Quyện để giao

cho ông dụ hàng. Nhưng rủi thay, chờ đợi đến hàng tháng trời mà vẫn chẳng thấy tăm hơi viên tướng vốn rất xông xáo này đâu cả. Œm mưu mai phục đã bị lộ rồi chăng? Rất có thể. Chỉ mới về đây ít ngày Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nhận ra ngay thái độ rất chủ quan, thiếu cảnh giác khá lan tràn từ trên xuống dưới trong đám quân tướng nhà Mạc. Việc bố phòng vì vậy còn quá sơ sài, trễ nải. Cuối cùng thì ông đành phải thuyết phục viên tướng Nam đạo thay đổi chiến thuật, cứ để ông viết thư dụ hàng và tìm cách bí mật gửi thẳng đến cho cha con Nguyễn Quyện ở phía bên kia.

Tất nhiên là công việc này cũng chẳng dễ dàng gì hơn kế hoạch đã định trước.

Cái khó nhất vẫn là chỗ không thể không có mấy lời với ông bạn già Nguyễn Thiến. Trách móc ư? Khêu gợi sự ăn năn nghĩ lại ư? Làm sao có thể như thế được. ạng hiểu lắm. ạng bạn nào có vui vẻ gì khi phải từ bỏ nghĩa vua tôi, từ bỏ bạn bè thân yêu của mình để ra đi một cách phũ phàng như vậy. Vả lại kẻ gây ra nông nỗi éo le này lại chính là những người "thân" của mình. Nhưng có việc gì mà phải thanh minh nhiều lời cơ nhỉ. Có bao giờ ông bạn không hiểu cho lòng ta đâu. Tốt hơn hết vẫn là tình bạn thông cảm như xưa. Nhưng chính cái đó lúc này mới khó ăn nói làm sao! ạng đã viết rồi lại phải xé đi biết bao nhiêu dòng chữ, biết bao nhiêu trang giấy mà vẫn không sao thấy xuôi được. Chỗ thì đọc lại nghe sao mà giả tạo làm vậy. Chỗ vừa mới xem qua đã thấy chướng làm sao, cứ như lên mặt nhắn nhủ dạy đời. Mình còn thấy thế thì ông bạn làm sao mà cảm thông được. ại, tình bạn! Khi còn ở bên nhau, có bao giờ hai người phải nhắc đến nó đâu nhỉ. ấy thế mà cử chỉ nào cũng thật ăn ý với nhau, lời nói nào cũng thấy ngọt ngào, ý vị. Còn bây giờ thì...

Bỗng một đêm thanh vắng, còn đang mơ mơ màng màng trong giấc ngủ chập chờn bên ngọn đèn tàn, thì ông chợt giật mình tỉnh hẳn dậy. Cái gì thế nhỉ? ồ, một bài thơ nguyên vẹn, hoàn chỉnh vừa mới bật ra trong tâm trí ông như một tia sáng. Một bài thơ. Thế mà tại sao suốt mấy hôm nay ta chưa nghĩ đến điều đó nhỉ. Chỉ có thơ mới dễ dàng đi thẳng vào lòng ông bạn được thôi. Chỉ có thơ mới dễ ngọt ngào tình xưa nghĩa cũ.

Ta giữ kẻ côi vì chút nghĩa, Bạn đương khi biến há cam lòng, Khí vận một vòng ly lại hợp, Sông dài há có hạn Nam, Đông.

Chưa mấy khi Nguyễn Bỉnh Khiêm cảm thấy được bình tâm như thế, khi ghi lại bài thơ dự định gửi đi cho bạn. Một bài thơ đúng lúc, đúng ý mình. Một bài thơ hợp tình, hợp cảnh.

Và suốt đêm ấy hình như bài thơ đã trả lại cho

ô

ng một giấc ngủ yên lành.
Sẵn cái đà đó, chỉ sáng hôm sau là bức


thư bằng thơ gửi cho anh học trò Nguyễn Quyện cũng được soạn thảo xong, sẵn sàng giao cho người chuyển đạt.

Đạo ở mình ta có khó gì, Phương chi chí khí đã tương kỳ

Nghìn năm quân phụ cương thường đó Trung hiếu một lòng chớ đổi đi.

Thế là trách nhiệm được giao phó, ông đã hoàn thành một cách suôn sẻ đến không ngờ.

Nhưng thực tình mà nói, Nguyễn Bỉnh Khiêm đâu dám tin vào kết quả của những bức thư này. Tình bạn ư? Tình thầy trò ư? Vẫn là sâu nặng đấy. Nhưng đối với những con người biết suy nghĩ như cha con ông bạn Nguyễn Thiến thì bên trên những thứ tình cảm cao quý ấy, lúc này còn có một điều hệ trọng hơn nhiều, đáng làm cho người ta phải cân nhắc hơn nhiều, đó là câu chuyện chọn chúa.

Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn chưa thể quên được những lời lẽ tuy có vẻ phũ phàng nhưng không phải là không có sức mạnh thuyết phục bằng sự thật của Lê Bá Ly hồi nào, trước các hàng quân, khi quyết định từ bỏ nhà Mạc về với nhà Lê: "Nay gặp hôn quân, không biết minh đoán, chỉ nghe lời dèm pha khiến cho bao nhiêu nghĩa biển tình non đều thành băng tan ngói trút. Sự thể đã như vậy, thôi còn nói làm gì..." Những lời nói ấy đã được tất cả các tướng sĩ đồng thanh hưởng ứng. Vậy thì từ đó đến nay, vua Mạc, triều đình nhà Mạc đã làm được những gì để xóa dần cái ấn tượng đó, để giữ vững lòng tin của những người còn ở với mình, để những người trót đã ra đi còn có cớ để quay đầu trở lại? Nếu không thế thì chẳng phải chỉ có một Nguyễn Quyện ra đi mà sẽ có thể còn nhiều Nguyễn Quyện khác nữa cũng sẽ nối gót.

Nhưng chỉ nội một việc nhà vua, tiếc thay lại cả Khiêm vương Mạc Kính Điển nữa, đã tỏ ra quan trọng hóa quá mức chuyến đi công cán này của ông, cũng đủ chứng tỏ rằng họ chưa hề nghĩ đến những điều cơ bản trên đây. Hình như những thất bại dồn dập trước mắt đã làm cho ngay cả một con người có bản lĩnh như Khiêm vương cũng phải nao núng, nghĩ quẩn, tưởng đâu nếu như không có một Nguyễn Quyện ở phía bên kia thì làm gì đến nông nỗi ấy.

Cũng may cho Nguyễn Bỉnh Khiêm là sau chuyến đi công cán này nhà vua thương tình ông tuổi tác mà phải vất vả, đã chấp nhận lời thỉnh cầu khẩn thiết của ông, lại cho ông được trở về nghỉ ở chốn quê nhà.

killerroi
24-05-2006, 17:17
Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nhưng thời gian ngắn ngủi lưu lại đất Sơn Nam đã đem đến cho Nguyễn Bỉnh Khiêm một việc thật là bất ngờ, tưởng như không thể xảy ra được, một việc mà cho đến mãi về sau vẫn còn làm cho ông phải xem xét như là một câu hỏi đối với lương tâm. Phải có một tầm suy nghĩ vượt lên trên những khuôn khổ bình thường thì mới dám dấn mình vào câu chuyện như vậy.

Buổi tối hôm ấy, ông đang ngồi tựa án một mình trong quán xá vắng vẻ, lòng nặng trĩu ưu tư chẳng khác gì cái bầu trời tối đen dày đặc bên ngoài cửa sổ, thì bỗng có một ông khách lạ xuất hiện.

Nhác trông nét mặt người khách, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có phần ngờ ngợ. Hình như đã gặp đâu đó một đôi lần nhưng chưa hề quen biết. Nghe điệu nói của ông ta, cứ loanh quanh

ấp úng mãi, ông lại càng thấy đáng ngại hơn.

Hẳn là có chuyện đen tối chi đây. Mãi hồi lâu ông khách mới dám nhích lại gần và bằng một giọng nói rất nhỏ nhưng rành rọt đi vào câu chuyện: - Thưa tôn ông, kẻ tiện nhân này hôm nay dám mạo muội đến hầu tôn ông, nguyên là cũng có một việc rất hệ trọng mong được thỉnh giáo tôn ông, nhưng chưa biết tôn ông có rộng lượng cho không, nên chưa dám đường đột.

- Xin mời quý ông cứ dạy.

- Trước hết xin tôn ông vui lòng nhận cho những lời vấn an thành kính của một người học trò cũ của tôn ông, quan thị lang Lương Hữu Khánh của chúng tôi(1).

à ra thế đấy! ạng ta là người của phía bên kia. Thảo nào mà cứ úp úp mở mở mãi. Bất giác Nguyễn Bỉnh Khiêm cảm thấy như dờn dợn trong người. Ta đến đây một cách hết sức bất ngờ và bí mật, mới chưa bao lâu, làm sao mà "họ" cũng biết về ta một cách chính xác đến như vậy. Mới hay màng lưới gian tế của họ Trịnh quanh vùng này lợi hại biết chừng nào. Trách sao nhiều lần quân tướng nhà Mạc đã trở tay không kịp với những cuộc ra quân chớp nhoáng. Và lần này kế hoạch phục binh cũng đã thất bại hoàn toàn. Nhưng đã đến nước này thì ta còn tránh mặt làm gì nữa. ạng chỉ đành nghiêm sắc mặt và bằng một thái độ lạnh lùng, "tấn công" ông khách lạ:

- ạng Lương đâu còn là học trò của tôi nữa. ạng ta đã là quan thị lang của các ông rồi cơ mà.

(1) Có thuyết cho rằng Phùng Khắc Khoan là người hiến kế cho Trịnh Kiểm sai người ra hỏi ý kiến Trạng Trình. Nhưng họ Phùng khi vào với nhà Lê chỉ làm ông thầy đồ. Vua Lê bắt đầu mở khoa thi năm 1554, dù Phùng có thi đỗ trong khoa thi lúc này (1556) cũng chưa thể đứng vào hàng ngũ đại thần thân tín để họ Trịnh có thể đem ra bàn bạc chuyện quốc sự cơ mật này.

Khách cũng không phải tay vừa. Một khi đã biết là không còn đất lùi thì ông ta chẳng ngần ngại đi thẳng vào vấn đề:

- Quan Thái sư chúng tôi tuy đối với nhà Mạc là địch thù nhưng riêng với tôn ông thì vẫn một lòng thành kính, coi như bậc thầy của thiên hạ vậy.

- Tôi chẳng biết quan Thái sư của các ông là ai cả.

- Quan Thái sư Lạng quốc công, Trịnh tướng quân... Chẳng may vận nước khó khăn, Trung Tông Vũ hoàng đế nhà Lê (1549-1556) băng mà không có con nối dõi. Tất nhiên là nước không thể một ngày không có vua. Các quan đại thần chúng tôi đều hết lòng lo lắng. Biết tìm đâu ra một người con cháu đích tông của họ Lê xứng đáng với ngôi trời trong lúc này? Trong khi đó thì lòng người từ lâu đã hướng về quan Thái sư là một nhân vật tài ba đảm lược, vẫn từng sánh vai rường cột quốc gia. Nhưng trước trọng trách quá lớn lao với dân với nước, quan Thái sư chúng tôi vẫn hết sức phân vân... Chính vì vậy mà quan thị lang họ Lương mới định kế với ngài xin cử người ra thỉnh cầu ý kiến tôn ông.

Phải tự kiềm chế mình hết sức, Nguyễn Bỉnh Khiêm mới có đủ bình tĩnh để nghe hết câu chuyện. Một cơn phẫn nộ ghê gớm chỉ muốn bùng lên như lửa đốt trong ông. Thế đấy. Hóa ra tất cả những điều dự đoán xấu nhất

của ông về Nguyễn Kim trước đây, cũng như về Trịnh Kiểm ngày nay đã hoàn toàn không sai sự thật. Họ chỉ là một phường lừa gạt, tạm thời mượn cái danh nghĩa của nhà Lê để giành giật ngôi vua của nhà Mạc cho chính bản thân họ. Chỉ vì thế mà họ đang tâm đẩy cả đất nước vào cảnh chia cắt, đẩy cả muôn dân vào vòng khói lửa chiến chinh. Thế mà bây giờ, nhà Mạc vẫn chưa trừ diệt xong, họ lại đã nỡ lòng nhen nhóm một cuộc tàn sát khác nữa. Một khi họ đã dám vứt bỏ cái danh nghĩa hờ của nhà Lê đi, thì cũng có nghĩa là sẽ có một bọn lừa gạt thứ hai, thứ ba, biết đâu lại cả thứ tư, thứ năm nữa, sẽ nhặt lấy cái của bỏ rơi hiếm có đó để làm vốn đứng lên chống lại chính bản thân họ. Như thế thì cái họa Xuân Thu, Chiến Quốc này sẽ còn khốc liệt đến chừng nào và còn kéo dài đến bao giờ?

Nhưng ông cũng còn đủ sáng suốt để thông cảm cho cái trò chơi "hỏi ý kiến" này của anh học trò họ Lương. Anh ta chẳng đến nỗi kém cỏi gì mà không còn lường trước được những hậu quả tai hại của âm mưu phế lập này để can ngăn Trịnh Kiểm. Nhưng anh ta đã cân nhắc đúng sức nặng lời nói của mình trước tham vọng quá lớn của ông Thái sư họ Trịnh, vì vậy mới có cuộc cầu viện kín đáo này. ý nghĩ đó đã làm cho ông nguôi lòng một phần nào. Thì ra dù ở đâu, dù ở phía nào, những người có thiện chí, thực tâm vì dân vì nước vẫn có thể có những chỗ gặp nhau "Thiên hạ chăng tư, ấy của chung".

Vừa lúc đó thì anh lính hầu đã bưng trà vào. Hình như không để ý đến người sứ giả lạ mặt, Nguyễn Bỉnh Khiêm hất hàm về phía anh ta mà ra lệnh: - Anh hãy sửa cho ta mươi phần phẩm oản và giữ cửa chùa để sớm mai ta lên lễ Phật. à mà nhân tiện cho ta nhắn các ông sãi, năm nay không được mùa là vì giống má chẳng ra gì, nên tìm lấy giống cũ mà trồng.

ạng khách đã hiểu ý, vội vàng cáo từ ra về. Cái bóng dáng nhỏ bé của ông ta mất hút vào trong màn đêm mù mịt.

XI

"Có ai biết được lòng tri kỷ"

Tuy đã trở về nơi am, quán cũ, nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm đâu có được nghỉ ngơi. Những biến cố mới của thời cuộc ngày càng dồn dập, ngày càng phức tạp khó khăn vẫn cứ dội tới, không để cho tâm trí ông được yên phút nào.

Câu chuyện gặp gỡ bất ngờ giữa ông với viên sứ giả của họ Trịnh mới hôm nào ở trấn Sơn Nam vẫn chưa thể quên lãng đi được. ạng có hay tin Trịnh Kiểm cuối cùng đã tạm kiềm chế được tham vọng trước mắt của mình để nghe theo những lý lẽ sáng suốt, hợp thời hơn. Tất nhiên không phải vì lợi ích của nhà Lê. Càng không phải vì vận mệnh của dân. Chính là vì lợi ích sâu xa và lâu dài của con cháu ông ta đã buộc ông ta phải mở mắt. ạng ta đã sai tìm được - tất nhiên là chẳng phải khó khăn gì - một người cháu bốn đời của Lam quốc công Lê Trừ là Lê Duy Bang ở hương Bố Vệ để lập lên làm vua.

Khỏi phải nói, mọi thứ nghi lễ đều được ông ta cho tiến hành một cách hết sức trọng thể, đúng theo quy chế của các triều đại chính thống trong sử sách, cứ như chẳng có chuyện uẩn khúc gì đằng sau cả. ạng vua nằm xuống đã được dâng tôn hiệu Vũ hoàng đế, miếu hiệu Trung Tông. ạng vua mới lên ngôi đã đổi niên hiệu năm sau, Đinh Tỵ, làm năm Thiên Hựu thứ nhất (1557) và xuống chiếu đại xá. Nhân dịp này một số đại thần có công hoặc chẳng có công cũng được thăng quan, thăng tước. Các khoa thi lại tiếp tục mở đều.

Có thể nói mọi việc đã diễn ra đúng như ý ông. Nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm không vì vậy mà thấy thanh thản trong lòng. Như thế là sau việc ông đồng tình để cho Lương Hữu Khánh và Phùng Khắc Khoan ra đi, lại một lần nữa ông dấn mình vào những hành động phi thường mà chỉ riêng ông mới hiểu được động cơ và lý lẽ.

Nhớ lại hồi nào, trong buổi khai trương lớp học, đám môn sinh đông đảo đã đồng thanh tôn ông làm thầy "thầy thiên hạ". Bản thân ông có bao giờ dám nghĩ tới điều ấy. Có ngờ đâu, đến bây giờ, cái nhiệm vụ đó lại tự nó đặt lên vai ông, mà đặt vào đúng một hoàn cảnh éo le đến thế. Mới hay cái nghĩa "Thì tai! Thì tai!" ở đời thật biến hóa vô lường!
Đã có nhiều lúc ông phải tự vấn lương tâm về việc làm này. ạng không thể gợn lên một chút hổ thẹn nào hết. Tất cả đều chỉ xuất phát từ một tấm lòng lo nước thương dân chân thật mà thôi. Nhưng còn công luận, còn hậu thế? Người ta sẽ nghĩ ra sao? ại, cái đó đâu phải là điều quan trọng nhất. "Quân tử cầu chư kỷ, tiểu nhân cầu chư nhân", người quân tử chỉ biết đòi hỏi ở mình chăm lo đến nghĩa vụ của mình, há lại như bọn tiểu nhân chỉ cầu chuốc lấy tiếng khen, còn nghĩa vụ thì chẳng kể vào đâu hết.

*

Những nỗi băn khoăn trên đây còn chưa kịp tiêu tan trong ký ức Nguyễn Bỉnh Khiêm thì bỗng lại có sứ giả của nhà vua tới. Quả thật là từ ít lâu nay ông đã bắt đầu thấy ngán về bóng dáng của ngọn cờ sứ ấy rồi. Còn mấy

đỗi nữa đâu, ông sẽ tới tuổi thượng thọ bảy mươi. ạng cần được nghỉ ngơi lắm.

Nhưng mấy cha con ông còn chưa kịp khăn áo chỉnh tề thì vị sứ giả đã bước vào nhà với một dáng điệu hồ hởi ra mặt. ạng ta mừng cho Nguyễn Bỉnh Khiêm lại được nhà vua gia phong chức tước, vì đã có công lao trong chuyến đi công cán vừa qua, nhất là đã có thành công lớn trong chuyến đi Sơn Nam năm trước. Cả hai anh em Nguyễn Quyện và Nguyễn Miễn đã do bức thư khuyên giải của ông mà trở về với nhà Mạc. Nhà vua cùng Khiêm vương vui mừng khôn xiết, đã phong cho Nguyễn Quyện tước Văn Phái hầu và Nguyễn Miễn tước Phù Hưng hầu, lại đem con gái tôn thất gả cho và giao giữ binh quyền như cũ. Chính Quyện đã lại lập công đầu, đánh tan năm vạn quân Trịnh ở vùng Giao Thủy trấn Sơn Nam, giữa lúc quân Mạc đang có cơ bị núng thế.

Hào hứng quá, vị sứ giả còn thao thao kể lại trận đánh một cách tỉ mỉ, cứ như là đích thân ông ta đã được chứng kiến vậy.

Dường như đã thật hả hê, ông ta mới đi đến kết luận: - Thánh thượng cùng triều thần đều hết sức vui mừng về chiến thắng thần diệu này. Ai cũng nói là công đầu phải thuộc về quan lớn đã dụ được dũng tướng Nguyễn Quyện trở về. Riêng kẻ bất tài này xin được tỏ lời bái phục quan trạng đã đào tạo cho nước nhà một người học trò kỳ tài đến như vậy. Thật là "dũng thả tri phương"(1)...

Nhưng tất cả cái hào hứng sôi nổi của ông khách vẫn chẳng làm giãn nở được những nét tư lự vẫn hằn sâu trên vầng trán Nguyễn Bỉnh Khiêm. Dù sao thì ông cũng đã làm tròn sứ mạng khó khăn mà nhà vua giao phó. Hai anh em Nguyễn Quyện, Nguyễn Miễn, hai người học trò của ông, cuối cùng cũng đã quay về với ông, quay về với đạo nghĩa vua tôi, thầy trò. Nhưng tình hình đại cục thì có thay đổi gì đâu. Chém giết vẫn hoàn chém giết! Mà sao cả cái triều đình đông đảo bá quan văn võ ấy lại hình như chỉ biết trông chờ vào một tay dũng tướng?

Mãi sau khi cả hai bên chủ khách đã cùng tiến hành xong nghi thức đón nhận sắc chỉ của nhà vua, vị sứ giả chừng như mới sực nhớ ra, báo cho Nguyễn Bỉnh Khiêm biết cái tin Lê Bá Ly cùng Nguyễn Thiến đã mất ở bên địch.

Tin đó thực ra chẳng đột ngột gì với ông. Từ lâu ông đã đoán trước được cái kết cục ấy của hai ông già. Bá Ly lúc này đã ngoại tám mươi, còn Nguyễn Thiến cũng xấp xỉ tuổi đó rồi còn gì. Nhưng mà sao ông khỏi xúc động bùi ngùi được!

Bá Ly thì đã đành rồi. Dù sao quê ông ta cũng là ở trong ấy, vùng huyện Đông Sơn,

Thanh Hoa. Con cháu họ hàng theo về khá đông. Đất Thanh Trì ngoài này chỉ là nơi trú ngụ trong thời làm quan với nhà Mạc.

Nhưng còn ông bạn Nguyễn Thiến? Thế là ông vĩnh viễn nằm xuống nơi đất khách quê người. Biết bao giờ đất nước mới bình yên, nhất thống để cho nắm xương tàn của ông lại được trở về với cái làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, nơi chôn nhau cắt rốn của ông, mà sinh thời khi còn được ở bên nhau, ông bạn vẫn thường nhắc tới với tất cả niềm yêu mến và tự hào.

Cáo chết vẫn quay đầu về núi. Có lẽ vì thế mà trước lúc lâm chung ông đã trăng trối cho hai người con trai trở về đất Mạc để không còn bao giờ phải xa lìa quê hương nữa, mặc dầu như vậy thì trước nấm mồ ông sẽ phải hương lạnh khói tàn.

Chỉ có một điều làm cho Nguyễn Bỉnh Khiêm nguôi lòng chút ít là đã gửi kịp một bức thư tâm tình cho bạn. Bức thư chắc cũng có đủ thì giờ đến được tay ông trước khi ông nhắm mắt. Lẽ nào ông bạn lại không hiểu cho lòng ông...
Đêm hôm ấy, khi vị sứ giả đã yên giấc,


Nguyễn Bỉnh Khiêm mới lặng lẽ trở vào buồng riêng đốt mấy nén hương thơm để viếng vong hồn ông bạn. Và cứ thế, cho đến sáng, ông vẫn một mình ngồi tựa cột trên ổ rơm, âm thầm ôn lại những vần thơ hai người đã từng xướng họa bên nhau như để khơi lại đống tro tàn của một thời kỳ đã qua chẳng còn bao giờ trở lại.

*

Vị sứ giả của nhà vua vừa mới ra đi chưa được bao lâu thì một vị sứ giả khác lại đã tới. Nhưng lần này thì không phải người của nhà Mạc, mà lại là con người bí mật đã từng lén gặp Nguyễn Bỉnh Khiêm hồi nào ở Sơn Nam.

Không hiểu sao con người ấy đã để lại cho ông những ấn tượng khó chịu đến như thế. Chỉ vì tâm lý rất ghét bọn thuyết khách xảo quyệt trong truyện ngày xưa? Không phải thế. ạng ta có "thuyết" gì đâu. Nhưng hình như mỗi lần ông ta đến lại đặt ra cho Nguyễn Bỉnh Khiêm một vấn đề của lương tâm. "ám thất thùy năng úy tử tri", trong ngôi nhà tối thì ra cũng có bốn người biết cơ đấy. Có trời biết, đất biết, ta biết và cả con người lạ lùng ấy biết nữa chứ. Nhưng ta có làm gì trái với lương tâm mà phải sợ, phải lánh mặt ông ta. Rất bình tĩnh, Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ động hỏi trước:

- Quan Thái sư của ông hẳn lại có việc gì nên mới hạ cố đến tôi?

- Thưa tôn ông, lần này không phải là việc của quan Thái sư chúng tôi, mà là việc của em vợ ngài. Hẳn là tôn ông thừa biết Chiêu huân tĩnh công(1)...

Bất giác Nguyễn Bỉnh Khiêm ném một cái nhìn khinh bỉ về phía ông khách lạ, cái dáng người nhỏ loắt choắt, bộ mặt khô khan với cặp mắt sâu quá ư là lanh lợi mà giảo hoạt. Chẳng biết là Trịnh Kiểm vứt bỏ ông ta hay là chính ông ta thay đổi chủ? Không đợi ông ta nói dứt câu, Nguyễn Bỉnh Khiêm tiếp luôn:

- Vậy ra là việc của Đoan quận công Nguyễn Hoàng? Tôi cứ tưởng Thái sư với quận công, anh em cùng chia sẻ binh quyền tước lộc, dưới vòm trời của Nam triều các ông thật là thiên hạ đệ nhất gia, còn có gì mà phải phiền đến ông lặn lội tới đây?

Câu nói dụng ý quả đã làm cho ông sứ giả lạ mặt hoàn toàn kinh ngạc. "Thì ra cái ông già quê mùa ở đất Vĩnh Lại hẻo lánh này đã biết hết mọi chuyện rồi sao? ạng ấy đã biết việc Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm giết? Nếu không thì sao trong hai người con trai của Chiêu huân tĩnh công, ông già chỉ hỏi tới đích danh có mình Nguyễn Hoàng? Và câu nói tiếp theo thì rõ ràng bao hàm ý nghĩa mỉa mai khá cay độc?" Thực ra thì ông già Vĩnh Lại còn biết nhiều hơn thế nữa cơ. ạng biết rõ tim đen của Trịnh Kiểm ngay khi mới được Nguyễn Kim nhận về làm rể. Ngay từ đó Trịnh Kiểm đã nuôi mộng đoạt quyền về tay mình. Chả thế mà khi Nguyễn Kim bị nạn thì mọi quyền bính đã lọt vào tay ông ta, chứ không phải vào tay hai người con của vị công thần khởi xướng công cuộc trung hưng ngày nay. Trái lại, từ đó chính hai người con này đã bị Trịnh Kiểm ngầm coi như là những địch thủ nguy hiểm, khó có thể cùng chung hưởng lộc nước được.

Đã thế tuổi ông ta mỗi ngày một cao, sức ông ta mỗi ngày một yếu. Lại phải luôn luôn tham gia trận mạc, xông pha nơi lam sơn chướng khí, chẳng biết sống chết lúc nào. Đã đến lúc ông ta nghĩ đến chuyện giao phó lại quyền hành cho con. Khốn một nỗi là cũng vì cái viễn cảnh nắm quyền hành này mà hai người con của ông ta, Trịnh Cối và Trịnh Tùng ngày càng tỏ ra hiềm khích lẫn nhau, tìm cách hãm hại lẫn nhau. Vậy thì cái nguy cơ hai anh em họ Nguyễn chẳng còn là điều xa xôi gì. Phải kịp thời trừ ngay hậu họa. Nhưng bẻ đũa không nên bẻ cả nắm. Vì thế mà Nguyễn Uông, anh trai trưởng đã "đi" trước.

Tất nhiên là Nguyễn Hoàng không ngu dại gì mà bó tay ngồi chờ tới lượt mình. Hẳn là vì vậy nên mới có chuyến thăm bất ngờ này của

ô

ng khách lạ...
- Thế ra tôn ông cũng đã biết cả mọi việc


rồi. - ạng khách tiếp lời. - Thế gian thường đồn đại về ông, trên thông việc trời, dưới tường việc đất, thấu chuyện đời xưa, tỏ sự đời sau, quả thật không sai. Nếu vậy thì hà tất phải rườm tai tôn ông. Chỉ mong tôn ông thông cảm cho mọi nỗi lo lắng khó xử của Đoan quận công chúng tôi trong tình cảnh này mà mở lượng trời bể bày kế cho được chu toàn.

- Tôi thường nghe Đoan quận công cũng là bậc cao minh, hùng lược, thế mà chuyện anh em trong nhà há lại nhờ đến người ngoài xa lạ phân xử hay sao? Tuy nói thế nhưng trong thâm tâm Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không dễ gì mà giải đáp được ngay câu hỏi hóc búa đến như vậy. Nếu nó chỉ liên quan đến lợi ích của hai con người ấy thôi thì hà tất phải bận tâm làm gì. Chẳng qua đó cũng chỉ là câu chuyện tranh ăn giữa giống sài lang với nhau mà thôi. Nhưng đây lại là những con người có quyền hành và thế lực. Thậm chí rất có quyền hành và thế lực. Như vậy thì cuộc tranh giành sẽ không dừng lại ở mức riêng từng người được nữa. Mà cuối cùng thì tai vạ vẫn sẽ lại đổ lên đầu người dân cả thôi. Cái chính là phải làm thế nào để tránh được cái họa đó.

Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thừa biết, từ mấy năm nay người dân vùng Thanh, Nghệ trong ấy cũng chẳng được yên ổn gì hơn người dân nhà Mạc ở ngoài này. Mỗi lần phản công của quân Mạc vào đó đối với họ lại là một lần lưu ly nhất sở, nhà mất, ruộng hoang. Còn mỗi lần quân Trịnh tấn công ra ngoài này thì lại là một lần bắt phu vét lính, thuế nặng sưu cao. Gia dĩ mấy năm nay lại thiên tai dồn dập. Chỉ riêng vụ úng lụt khủng khiếp tháng mười năm Đinh Tỵ (1557) mưa lớn hàng mấy tháng trời, cũng đủ làm cho hàng triệu dân đen chết đói đầy đường.

Thế mà nào ai đã nghĩ đến chuyện nuôi dưỡng sức dân một cách bền vững lâu dài đâu. Người ta chỉ bày trò chẩn cấp nhỏ giọt để xoa dịu lòng dân. Rồi vua lại xuống chiếu đổi niên hiệu nữa chứ. Làm như sắp có những sự đổi mới tốt đẹp vậy. Trong khi đó thì họ đã có trong tay một vùng Thuận, Quảng mênh mông đất rộng người thưa, phì nhiêu màu mỡ. Sao họ không nghĩ đến chuyện đem người vào đó mà khai phá làm ăn để có thêm của cải, đỡ phần đóng góp cho dân?

ý nghĩ đó bỗng lóe lên như một tia sáng bất ngờ trong tâm trí Nguyễn Bỉnh Khiêm. à, phải rồi, tại sao Nguyễn Hoàng không thể đảm nhận được việc này nhỉ. Vả lại đối với ông ta lúc này thì đó lại là cái kế toàn thân êm đẹp duy nhất. Mà về lâu dài thì biết đâu một dải Hoành Sơn hiểm trở kia lại chẳng là cái kế dung thân cho con cháu muôn đời. Còn đối với họ Trịnh thì còn có giải pháp nào khôn khéo hơn để tạm thời đẩy xa được một địch thủ lợi hại, mà chẳng phải mang tiếng anh em trong nhà sát hại lẫn nhau. Chỉ một cái mạng Nguyễn Uông cũng đã đủ làm cho ông ta phải phiền lòng trước dư luận rồi.

Như thế thì trước mắt cũng có thể cách ly được hai con hổ đói ham mồi nhất. Còn bọn chúng thì chắc chắn chưa thể tính chuyện cắn nhau ngay được. Bởi vì chúng vẫn còn có kẻ thù chung là họ Mạc mà chúng đều muốn thanh toán cho nhanh. Vả lại cái danh nghĩa

hờ của nhà Lê vẫn còn cần thiết cho cả hai bên để tính chuyện mai sau...

Thế là hôm sau vị sứ giả thầm lén đã sung sướng ra về với một pho bảo bối thần diệu không ngờ: "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân"...

Quả nhiên sau đó ít lâu, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được tin Thái sư Trịnh Kiểm tâu với vua Lê xin cho Đoan quận công Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa với quyền hạn rất lớn: "Phàm công việc của địa phương, không cứ lớn nhỏ, và các ngạch thuế, nhất thiết giao cho, hàng năm đến kỳ thu nộp" và cùng với viên trấn thủ Quảng Nam Trấn quận công Bùi Tá Hán giúp đỡ lẫn nhau phòng giữ bờ cõi. Thế rồi chẳng bao lâu đất Quảng Nam cũng giao cho Nguyễn Hoàng nốt. Tình nghĩa anh em rể đối với nhau đến thế là "tột bậc" rồi còn gì!

Cái tin "tốt đẹp" ấy không thể không làm cho Nguyễn Bỉnh Khiêm mỉm cười một cách chua chát.

killerroi
24-05-2006, 17:21
Triệu Thị Trinh



(248)







Bà Triệu, Triệu Trịnh Nương hay Triệu Thị Trinh đều là tên các đời sau gọi người nữ anh hùng dân tộc hồi đầu thế kỷ thứ III. Theo dã sử, Bà Triệu sinh ngày 2 tháng 10 năm Bính Ngọ (255). Bà là em gái Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng lớn ở miền núi Quảng Yên, huyện Cửu Chân (Thanh Hóa). ở đó cho đến nay vẫn còn lưu truyền nhiều truyền thuyết về thời kỳ bà chuẩn bị khởi nghĩa chống giặc Ngô. Đó là chuyên Bà Triệu thu phục được con voi trắng một ngà, chuyện "Đá biết nói" rao truyền lời thần nhân mách bảo từ trên núi Quan Yên.



Có Bà Triệu tướng

Vâng lệnh trời ra

Trị voi một ngà

Dựng cờ mở nước

Lệnh truyền sau trước

Theo gót Bà Vương....



Triệu Thị Trinh là người có sức khỏe, gan dạ và mưu trí. Năm 19 tuổi, bà cùng người anh tập hợp nghĩa quân, lập căn cứ Phú Điền (Hậu Lộc - Thanh Hóa). Đấy là một thung lũng giữa hai núi đá vôi, vừa gần biển lại vừa là cửa ngõ từ đồng bằng phía bắc vào. Lúc đầu anh bà có ý can ngăn lo phận gái khó đảm đương trọng trách. Bà trả lời:



Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chép cá tràng kình ở biển Đông, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không thèm cúi đầu, còng lưng để làm tì thiếp người ta.

Mến mộ bà, nghĩa quân ngày đêm mài gươm luyện võ, chờ ngày nỗi dậy:



"Ru con con ngủ cho lành

Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi

Muốn coi lên núi mà coi

Coi bà Triệu tướng cỡi voi đánh cồng".



Năm Mậu Thìn (248) nghĩa quann bắt đầu tấn công quân Ngô. Các thành ấp của quân Ngô đều bị đánh phá tan tành. Bọn quan cai trị kẻ bị giết, kẻ chạy trốn hết. Từ Cửu Chân, cuộc khởi nghĩa lan rộng nhanh chóng. Thứ Sử Châu Giao hỏang sợ bỏ chạy mất tích. Sử sách của nhà Ngô phải thú nhận:"Tòan thể Châu Giao chấn động".



Mỗi lần ra trận, Triệu Thị Trinhthường mặc áo giáp đồng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi dẫn quân xông trận, oai phong lẫm liệt. Quân Ngô kinh hồn, bạt vía đã phải thốt lên:



Hòanh qua đưởnghô dị

Đối diện Bà Vương nan



Nghĩa là:



Vung giáo chống hổ dễ

Giáp mặt Bà Vua khó



Hay tin khởi nghĩa ở Cửu Chân và thứ sử Châu Giao mất tích, vua Ngô hốt hỏang phái ngay Lục Dận, một tướng từng kinh qua trận mạc, lại rất quỷ quyệt sang làm thứ sử. Lục Dận đem 8.000 quân tinh nhuệ sang đàn áp. Lục Dận vừa đánh vừa đem của cải chức tước ra dụ dỗ mua chuộc các thủ lĩnh người Việt. Một số kẻ giao động mắc mưu địch. Mặc dầu vậy, Triệu Thị Trinh vẫn kiên cường đánh nhau với giặc không nao núng. Sau 6 tháng chống chọi, vì có kẻ phản bội, bà đã hy sinh trên núi Tùng (Hậu Lộc-Thanh Hóa). Bấy giờ bà mới 23 tuổi.



Về sau, vua Lý Nam Đế khen ngợi là người trung dũng, sai lập miếu thờ, phong là:"Bật chính anh liệt hùng tài trinh nhất phu nhân". Nay ở Phú Điền (Thanh Hóa) còn có đền thờ bà.


ST: Nguyễn Minh Đức

killerroi
24-05-2006, 17:24
Lý Ông Trọng





Ngày xưa, cuối đời Hùng Vương, ở huyện Từ Liêm, quận Giao Chỉ, có một người họ



Lý, tên Thân, thân hình to lớn, cao hai trượng ba thước, sức mạnh vô cùng. Thân lỡ tay làm chết người, bị tội tử hình, song vua Hùng Vương tiếc người kỳ dị, dũng mãnh nên không nỡ giết. Đến đời Thục An Dương Vương, Tần Thủy Hoàng muốn xua quân sang chiếm Việt Nam, vua Thục bèn đem Lý Thân ra cống hiến. Tần Thủy Hoàng được Lý Thân lấy làm quý lắm, phong cho làm Tư lệnh Hiệu úy mang quân ra đóng giữ ở bờ cõi Lâm Thao. Trông thấy hình thù khổng lồ của Lý Thân, quân sĩ nước Hung Nô khiếp sợ không dám quấy nhiễu. Tần Thủy Hoàng lại phong cho Lý Thân làm Vạn Tín Hầu và cho phép được trở về Nam thăm xứ sở.



Mấy năm sau, quân Hung Nô lại quấy rối ở biên thùy, Tần Thủy Hoàng nhớ đến Lý Thân, sai sứ sang vời. Lý Thân không chịu đi làm tôi cho nước ngoài bèn trốn vào rừng. An Dương Vương phải nói dối là Lý Thân chết rồi. Tần Thủy Hoàng đòi lấy xác của Lý Thân. Bất đắc dĩ, Lý Thân phải tự tử, An Dương Vương sai lấy thủy ngân ướp xác Lý Thân rồi mang nộp cho Tần Thủy Hoàng. Thấy Lý Thân đã chết, Tần Thủy Hoàng cho đúc đồng làm tượng đen đem dựng ở cửa thành Tư Mã đất Hàm Dương, gọi là tượng Lý Ông Trọng. Tượng cao lớn hai trượng, thân hình khổng lồ, bụng rất to, trong bụng làm rỗng có thể chứa được nhiều người, hai tay và đầu, cổ có máy cử động, mỗi khi có người nước ngoài đến viếng, thì đã có người ở trong bụng tượng kéo máy cho tượng cử động. Nước Hung Nô lầm tưởng Lý Thân còn sống nên sợ oai mà không dám phạm vào cửa ải.



Đến đời Đường, Triệu Xương sang đô hộ đất Giao Châu, nghe tiếng lập đền thờ Lý Thân. Tới khi Cao Biền qua Việt Nam đánh quân Nam Chiếu, cho trùng tu lại ngôi đền và tạc tượng để thờ gọi là đền Lý hiệu úy, ở làng Thị Hiện, huyện Từ Liêm, ngay bên sông Cái, cách phía tây thành Đại La (Hà Nội ngày nay) trên năm mươi dặm.


ST: Nguyễn Minh Đức

killerroi
24-05-2006, 17:27
May sao cuộc đời ở chốn am mây vẫn còn có thể dành cho Nguyễn Bỉnh Khiêm được những ngày vui tạm gọi là trọn vẹn.

Một cuộc viếng thăm mà ông hằng mong ước, cuộc viếng thăm của người học trò tin yêu nhất, đáng nể vì nhất, Nguyễn Dữ.

Anh ta không hề mang đến cho ông một tin tức chiến sự hay chính sự nào, ông đã quá đau đầu nhức óc về những thứ đó rồi. Thật là nhẹ nhõm, món quà mà anh ta mang đến lại là một bản thảo văn chương. ại, bài luận văn chương trong lúc này, mấy ai đã có được cái may mắn ấy nhỉ? Nâng tập giấy trong tay, nhìn những hàng chữ sắc nét tài hoa mà Nguyễn Bỉnh Khiêm cứ thấy đôi mắt mình rưng rưng lệ.

Nhưng mà là câu chuyện gì thế này? Truyền kỳ mạn lục à? Lại truyện truyền kỳ? Từ ít lâu nay cái loại truyện này ra đời sao mà nhiều đến thế không biết. ấy chính vì vậy mà người ta lại rất khó thành công, rất khó biết mình viết hay hay dở. Chỉ cần làng nhàng một chút là có bao nhiêu người xem, bao nhiêu người truyền tụng. Nhưng ấy là nói chung thế thôi, chứ ở con người này thì không có chuyện như thế được.

Ngay từ hồi anh ta mới treo ấn từ quan, ta đã đoán ngay ra con đường trước thư lập ngôn của anh ta rồi. Hình như trời sinh anh ta ra để làm việc đó. Con người mới thâm trầm, kín đáo làm sao! Vành khăn nhiễu thâm quá rộng như muốn che bớt vầng trán cao đĩnh đạc. Đôi lông mày rậm giấu kín cặp mắt quá sắc sảo càng làm tăng thêm vẻ mặt trầm tư. Cái miệng chỉ họa hoằn mới nhếch một nụ cười, như muốn khép kín bên trong một thế giới suy tưởng, luôn

luôn được gạn lọc đến tinh chất trước khi thốt ra thành lời.

Nhưng có ai ngờ đâu một con người tưởng như khép kín, tưởng như sống cách biệt với cõi đời ấy lại chú ý đến tất cả, nhìn tất cả và nghiền ngẫm tất cả mọi sự xung quanh mình. Con người ấy trước thư lập ngôn không phải để trở thành một "nhà", mà là để gửi gắm với tất cả người đời.

Suốt mấy ngày liền, ngoài những bữa rượu suông với món niềng niễng, đòng đong quê mùa mà chỉ riêng hai người mới biết thưởng thức, anh ta chỉ thẩn thơ thăm thú những nơi cảnh cũ người xưa, am Bạch Vân, quán Trung Tân, sông Tuyết, chợ Hàn... Mà sao anh ta lại cứ đứng ngẩn ra mà trầm tư trước bài văn bia quán Trung Tân với bài ký về chiếc khánh đá của ta bên chùa Trang Hoa vậy nhỉ? Mấy lời lẽ quê mùa ấy thì có gì là mới mẻ, cao siêu đối với anh ta? Có trời mà biết được anh ta đang nhào nặn những gì trong lòng, trước những kỷ vật thô sơ ấy.

Chỉ có những buổi tối về, khi chỉ còn hai thầy trò thì anh ta mới cởi mở đôi chút để cùng bình luận về chính bản thân của anh ta. Anh lại còn khiêm tốn yêu cầu ta hiệu đính nữa cơ chứ. Chẳng biết rằng ta sẽ có thể giúp anh ta được gì?

Thực tình mà nói, ta chỉ còn biết vui mừng và thán phục mà thôi. Một cây bút tài ba đến thế là cùng! Trong một tác phẩm mà gần như đủ thể văn, tản văn có, biền văn có, rồi thơ, phú, cả đến cái thể tứ lục khó khăn là thế mà vẫn cứ đâu ra đấy, chắc nịch mà suôn sẻ, già dặn mà bay bướm, tung hoành mà vẫn chặt chịa sáng sủa lạ thường. Thật khó có thể tưởng một cây bút nào lại bao hàm được nhiều cái

ư

u việt đến như vậy.
Mà hình như từng lời, từng ý trong từng câu


chuyện đều làm ta phải đến kinh ngạc. Chẳng biết là anh ta định nói chuyện ma quỷ thần tiên hay nói chuyện người đời, định nói chuyện đời xưa hay nói chuyện đời nay nữa. Và những lời bình mới xác đáng, mới nghiêm liệt làm sao. Đến như mấy câu thơ còn đề trên vách đá của lão tiều trong Truyện đối đáp của người tiều phu núi Nư thì thật là đáng kinh người.

Kỳ La cửa biển hồn thơ dứt

Cao Vọng đầu non dạ khách buồn.

Vẫn biết là câu chuyện chỉ nói về nhà Hồ, Kỳ La và Cao Vọng chẳng phải là nơi cha con Hồ Quý Ly bị bắt hay sao. Nhưng sao đọc lên ta cứ có cảm nghĩ như đây là những câu sấm ký của anh ta ngụ

ý

về số phận của nhà Mạc trong tương lai...
Nguyễn Dữ ra đi đã mấy hôm rồi mà


Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn còn bâng khuâng ngơ ngẩn vào ra như vừa mất đi một cái gì quý giá vô cùng.

Anh bạn đã ra đi. Chẳng biết còn dịp nào gặp lại trong cái thời buổi loạn ly này. Anh ra đi, mang theo cả một mối tình tri âm, tri kỷ cả đời người đã mấy ai gặp được đến hai lần.

Anh bạn đã ra đi. Có biết đâu rằng anh đã cuốn theo đi mất cả một chút hy vọng mong manh còn sót lại trong lòng ông già Nguyễn Bỉnh Khiêm này. Chẳng lẽ rồi từ đây, đối với cái vương triều mà ông đã từng phục vụ đến ba đời vua này, ông cũng chỉ còn giữ lại được một mối nghĩa tình vẫn thủy chung như nhất mà thôi ư. Ngoài cái đó ra thì chẳng còn gì hết!

XII

"Rất nhân sinh bảy tám mươi"

Cũng như mấy dịp trước, lần về nghỉ ở quê nhà này chưa được bao lâu thì Nguyễn Bỉnh Khiêm lại phải về triều. Đó là vào khoảng tháng giêng năm Nhâm Tuất (1562), vua Mạc Phúc Nguyên mới băng tháng trước và vua Mạc Mậu Hợp lên ngôi. Lúc này ông đã 72 tuổi.

Cuộc đi lần này chẳng để lại cho Nguyễn Bỉnh Khiêm một ấn tượng mới mẻ nào hết. Nhà vua mới chưa đầy năm, còn phải ẵm ngửa khi làm lễ đăng quang và ra coi chầu. Một ông chú khác của nhà vua được cử làm phụ chính cùng với Khiêm vương Mạc Kính Điển, lúc này

đã được gia phong là Khiêm thái vương và đã phải chuyên chú vào việc binh nhung. Đó là

œ

ng vương Mạc Đôn Nhượng.
Trong số những hoàng tử của vua Mạc


Đăng Doanh, sau Mạc Kính Điển, Đôn Nhượng cũng là người có ít nhiều tài cán. Nhưng vì ít tham dự việc nước nên từ lâu ông ta đã có thói quen thích nghỉ ngơi yên tĩnh ở chốn Dương Kinh xa cách đô thành. Ngay sau khi đã nắm quyền ông ta vẫn cứ về đó luôn, việc triều đình vì thế không được siêng năng lắm, nhất là khi tuổi tác ông ngày càng cao. Vì vậy mà tín nhiệm của các triều thần đối với ông cũng có phần hạn chế. Có lúc ông ta đã nghĩ đến chuyện xin từ chức, nhưng không được.

Công bằng mà nói thì buổi đầu ông cũng đã cùng Khiêm thái vương lo toan chấn chỉnh một số công việc, nhất là việc xếp đặt lại quân ngũ đang có phần xộc xệch, sau những cuộc thử thách lớn vừa qua với quân Trịnh.

Mặc dầu vậy, mọi sự vẫn chẳng được đóng đả hơn lên chút nào. Trái lại, nề nếp sinh hoạt

của triều đình chỉ cứ theo đà mà ngày một rời rã thêm, cứ như là phiên chợ về chiều vậy.

Sống giữa cảnh tượng ấy, Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ thấy mình nhớ nhà, nhớ cái am Bạch Vân, cái quán Trung Tân thật da diết. Công việc thì cũng chẳng có gì. Người ta cố lưu ông lại chủ yếu chỉ vì cái danh Trạng Trình của ông mà thôi. Còn ông cũng giữ phận một "cụ thần"(1), chẳng tha thiết gì hết. Có lẽ chỉ việc thăm viếng bạn bè là còn mang lại cho ông đôi chút niềm vui.

Rất nhân sinh bảy tám mươi Kẻ còn bạn cũ mấy lăm người

Thì ra đã đến cái tuổi mà mỗi lần được gặp nhau người ta lại phải điểm mặt ai còn, ai khuất!

Cũng may cho ông là chỉ một năm sau, chiếu cố đến công lao và tuổi tác, nhà vua chấp nhận cho ông được về trí sĩ, mà lần này là về hẳn.

Để tỏ rõ thái độ của triều đình trọng đãi kẻ hiền tài và tri ân bậc huân thần cố cựu, nhà vua đã xuống chỉ gia phong chức tước cho ông và cho mấy người con trai được ấm phong để trọng dụng. Việc này không phải là không làm cho Nguyễn Bỉnh Khiêm xúc động. Trong tờ biểu tạ ân dâng lên nhà vua ông đã chân thành tỏ ý lo ngại mấy đứa con ông, chẳng biết có được giỏi giang, cần mẫn, xứng đáng với lòng tin cậy của triều đình.

Cuộc chia tay, có lẽ là lần chót, với những người bạn còn ở lại kinh đô quả thật là cảm động. Làm sao ông chẳng hiểu được lòng họ. Dù có tiếp tục làm quan thì họ cũng có vui thú gì đâu. Không phải là không có nhiều người muốn xin về hưu như ông. Nhưng biết làm thế nào. Non nước này chẳng lẽ để cho ai. Thôi thì đành chúc nhau hãy gắng gỏi hơn nữa để giúp đỡ nhà vua cho tròn nghĩa vụ.

Riêng đối với ông Giáp Hải, Nguyễn Bỉnh Khiêm dường như chẳng muốn rời tay. Tuy cảnh mỗi người có khác nhau, nhưng tấm lòng lo âu thì chỉ là một. Tiếc thay, một con người tài năng đức độ như thế mà rút cục vẫn chẳng làm nên được trò trống gì. Đó đâu phải là lỗi tại ông bạn. Chẳng qua là cái thời thế nó xui nên như vậy. Trong lúc chia ly đáng buồn này, ông chỉ còn biết tặng bạn mấy vần thơ man mác như tấm lòng man mác của ông:

Tuổi trời tính đốt bảy mươi ba Thẹn nỗi treo xe đã xế tà Chẳng sức ruổi rong đành lẽ vậy, Không nề vinh, tiện khá cầu a? Mong ai việc nước ra tay giúp, Cười tớ am mây hưởng tuổi già. Sao Thọ cùng trông tua sáng tỏ

Khắp nơi rạng rỡ núi sông ta.

Và ông cũng thầm cảm ơn về những lời chúc tụng, e có phần quá đáng, nhưng thật tình thông cảm của ông bạn, trong lúc không phải là không có người chê trách ông là cố chấp:

Trù hoạch từng nghe hào kiệt Hán Tiên sinh lui tới đẹp đôi bề.

...

Chon von đức vọng lâu dài mãi Vằng vặc soi đường Bắc Đẩu kia.

Con đò xuôi dòng đã trôi xa. Bóng dáng những người bạn đi tiễn cũng khuất nẻo từ lâu rồi, nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn không sao rời mắt khỏi chốn kinh thành vẫn đang ẩn hiện nơi kia, rực rỡ dưới ánh hồng trong suốt của buổi sáng mùa xuân. Có lẽ chưa bao giờ ông thấy cố đô Thăng Long đẹp đẽ, hùng vĩ như buổi hôm nay. Nó vẫn như đang ấp ủ trong lòng một sức mạnh tiềm tàng vĩ đại, sức mạnh của một con rồng khổng lồ. Con rồng ấy hiện nay vẫn còn đang nằm lỳ ra đó như một thế lực vô hình trói buộc. Nhưng chưa biết lúc nào nó sẽ cựa mình, sẽ vùng dậy, cuồn cuộn bay lên không có sức nào cản nổi. Kìa, hãy thử nhìn tỏa rộng ra đôi chút, hai dãy núi Tam Đảo, Ba Vì chất ngất một màu xanh thẳm đang dàn ra như chầu về nó, nâng nó lên cao, uy nghiêm, đường bệ...

Thế mà giờ đây ta phải vĩnh biệt nơi cố đô anh linh ấy, vĩnh biệt cho đến ngày ta nhắm mắt xuôi tay. Chỉ với ý nghĩ đó thôi, trên đôi mắt khô của ông già bỗng trào ra hai hàng lệ tưởng đến không cầm nổi nữa.

*

Quả thật cũng đã đến lúc Nguyễn Bỉnh Khiêm cảm thấy thấm mệt.

Tóc đã thưa, răng đã mòn, Việc nhà đã phó mặc dâu con. Bàn cờ, cuộc rượu, vầy hoa trúc, Bó củi, cần câu, trốn nước non.

Chung quanh ông, mọi chốn dường như cũng vắng vẻ đi cả. Trong am Bạch Vân suốt ngày quanh quẩn vẫn có mình ông với mụ già chung thủy. Mụ thì vẫn suốt đời tần tảo vì ông. Vẫn sớm tối chén nước chè mai tỏa hương thanh đạm, rất hợp với tính ông. Vẫn ngày hai bữa canh cua rốc nấu với rau rút và mấy lát khoai sọ do chính tay mụ vun trồng, hái lượm. Vẫn bốn mùa đắp đổi với mấy bộ quần áo sồi dấn già đỏ quạch do chính tay mụ khâu vá... Nhưng người mụ thì cứ mỗi ngày một khô quắt như con mèo già. Có nhiều lúc nhìn mụ tiều tụy quá mà ông muốn khóc.

Con trai ông thì đã đi vãn cả rồi, đứa thì ra làm quan, đứa thì tìm đi nơi khác làm ăn. Con gái thì đã trở thành dâu con nhà người. Ngôi trường cũ cũng đành bỏ vắng. Còn hơi sức đâu mà dạy dỗ con người.

Ra khỏi nhà thì chỉ toàn gặp những bộ mặt lặng lẽ, nặng trĩu lo âu, sợ hãi, những căn nhà xơ xác, tiêu điều. Thỉnh thoảng làng xóm lại xôn xao lên vì một đợt bắt phu bắt lính, một vụ tróc thuế thu sưu, hay một đợt người tỵ nạn từ những chiến trường xa gần giạt tới.

Làm bạn bên ông lúc này có lẽ chỉ còn cây gậy trúc, lặng lẽ mà chung tình. Buổi sáng cây gậy vẫn lẽo đẽo theo ông bên những luống rau, khóm trúc, lượm chút hương bay để đưa vào bữa rượu ban trưa. Tối tối lại cùng ông la đà bên bến nước, chờ bóng trăng lên mang theo tới những làn gió mặn nồng của biển cả. Cây gậy vẫn nâng giấc ông lúc ốm đau, coi giấc ngủ cho ông những đêm đông giá buốt.

Cây gậy mới quý làm sao. Những đốt nó cứng thẳng. Lòng nó hư không, thông suốt như chính lòng ông vậy. Biết đâu lại chẳng có ngày nó biến thành rồng để đưa ông lên cõi tiên, sống một cuộc đời đầy lạc thú thênh thênh, không chút lo phiền.

Chao ôi, lúc này ông mới thấy thèm khát một cái nhàn, một cái nhàn với ý nghĩa tầm thường thô thiển nhất, chẳng cần triết lý cao siêu. Một sự nghỉ ngơi hoàn toàn về tâm hồn và thể xác, để chờ ngày được về với tổ tiên.

Cũng may mà trong nhà ông còn một thứ gia sản hết sức quý báu. Đó là kho đồ thư khá phong phú được tích lũy từ mấy đời nay. Ngoài những lúc khề khà chén rượu, có thể nói ông đã lao vào đọc sách một cách không biết mệt mỏi. Đọc để khuây khỏa, để tiêu sầu. Đọc đấy mà nhiều khi tâm thần bất tại, chẳng cần suy nghĩ gì hết. ích chi điều đó nhỉ. Đã đến lúc ông phải thừa nhận rằng mình chẳng còn thi thố được gì với đời nữa rồi "Hào kiệt chi kinh luân hữu hội". Những kẻ hào kiệt muốn kinh luân cũng phải chờ vận hội. Cái vận hội đó chắc chắn là sẽ không đến được với ông nữa rồi. Nhưng có sao đâu. Đó chỉ là phận của riêng ông. Còn trời đất, còn non nước kia thì vẫn chuyển vần, bĩ cực tất sẽ thái lai:

Chín mươi thì kể xuân đã muộn Xuân ấy qua thì xuân khác còn.

Hà tất phải lo cho những thế hệ mai sau.

Đã có lần Nguyễn Bỉnh Khiêm tự bắt gặp mình đang mơ màng lẩm nhẩm một đoạn văn ngôn trong quẻ Bát Thuần Càn sách Chu Dịch.

Tiểm long vật dụng Dương khí tiềm tàng Hiện long tại điền Thiên hạ văn minh...(1) mà chẳng biết vì sao. Hóa ra là hồi còn niên thiếu, đã nhiều lần trong lúc đùa vui, bạn bè thường đem nội dung những câu sách bí hiểm này mà vận dụng vào số phận của ông. Hồi ấy ông đã kịch liệt phản đối cái trò chơi nhảm nhí này. ạng càng khinh bỉ những thứ bói toán càn xiên.

Thế mà giờ đây, chẳng phải chỉ đôi ba lần,

ng đã cùng với anh học trò còn gần gũi bên
ng nhất là Đinh Thì Trung đem những quẻ
trong Kinh Dịch ra bói, tất nhiên là không phải bói xem tiền vận hậu vận của bản thân ông -

đã

đến lúc này thì ông còn tiền đồ gì nữa - mà

để

bói xem cuộc vần xoay của vận nước. ại!


Đến cả cuốn sách triết lý cao siêu mà suốt đời

ng hằng nghiền ngẫm giờ đây trong tâm trí
ng chỉ còn là một cuốn "phệ thư" (sách bói
toán) tầm thường như lối nghĩ của người thời cổ. Thật không thể ngờ tới được.

Mà nào chỉ có thế. ạng còn làm ra cả những bài thơ sấm ký nữa chứ. Chả là đã có một thời sao người ta hay đồn đại những thứ

(1) Phan Bội Châu trong cuốn Chu Dịch của ông đã diễn ra quốc ngữ là: Rồng ngầm chớ đụng, là tượng hào Sơ Khí dương ở dưới, rồng chửa mây mưa.

Rổng ra ở ruộng, hào Nhị bây giờ, Rõ ràng văn hóa, khắp cả gần xa...

gọi là sấm ký đến thế. Chỉ vì cái thứ sấm ký này mà bỗng dưng Trần Cao thấy mình có mệnh làm vua, nên mới gây loạn. Nhưng cái "họa" Trần Cao chưa trừ diệt xong thì từ đâu lại thấy mọc ra một câu sấm khác: "Trần hữu nhất nhân, vi thiên hạ quân. Thỏ đầu hổ vĩ, thế thế an dân"(1).

Nhưng lần này người con họ Trần có số làm vua ấy lại không phải là Trần Cao, mà là Trần Chân. Thế là anh này liền bị đem ra chém đầu, giữa lúc anh ta đang cậy có công giúp vua Lê Chiêu Tông đánh dẹp một số phe phái khác mà nắm lấy quyền cao chức trọng, lấn át cả các đại thần... Chẳng qua đó cũng chỉ là câu chuyện các phe phái hại nhau mà thôi.

killerroi
24-05-2006, 17:30
Trần Thái Tông



(1225 - 1258)







Nhờ Trần Thủ Độ thu xếp, Lý Chiêu Hoàng đã nhường ngôi cho Trần Cảnh tức là vua Trần Thái Tông. Chiêu Thánh Hoàng hậu lấy Trần Thái Tông được 12 năm, tức là 19 tuổi mà chưa có con, trong khi triều Trần cần kíp phải có hoàng tử. Bởi vậy, Trần Thủ Độ bắt vua Thái Tông bỏ Chiêu Thánh, giáng xuống làm công chúa rồi đem người chị của Chiêu Thánh, vợ của Trần Liễu , đang có thai vào làm Hoàng hậu. Trần Liễu tức giận đem quân làm loạn. Vua Thái Tông cũng đang đêm bỏ trốn lên chùa Phù Vân, núi Yên Tử (Quảng Ninh) tỏ ý phản đối. Trần Thủ Độ đem quần thần tới đón về. Thái Tông từ chối, nói rằng:



Trẫm còn nhỏ dại, không kham nổi việc to lớn, các quan nên chọn người khác để cho khỏi nhục xã tắc. Nói mãi không chuyển, Thủ Độ ngoảnh lại nói với các quan:



Hoàng thượng ở đâu là triều đình ở đấy.

Nói đoạn truyền lệnh xây cung điện điện ở chùa Phù Vân. Vị quốc sư ở chùa vào van lạy Thái Tông về triều. Thái Tông bất đắc dĩ theo xa giá về kinh.



Được ít lâu Trần Liễu biết không địch nổi, đang đêm làm người đánh cá lên thuyền ngự xin hàng. Hai anh em ôm nhau mà khóc. Thủ Độ hay tin, tuốt gươm xông đến toan giết Trần Liễu. Thái Tông lấy thân che cho anh, xin Thủ Độ tha cho Trần Liễu. Trần Thủ Dộ quẳng gươm xuống, nói:



Ta là con chó săn thôi. Chưa biết anh em bay ai thuận ai nghịch.

Vua Thái Tông tha cho Trần Liễu, cắt cho đất An Sinh làm thái ấp và phong cho làm An Sinh vương.



Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất năm Đinh Tý (1-1258), Thái Tông biết dựa vào Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn (tức Trần Hưng Đạo, con của Trần Liễu) để lãnh đạo nhân dân Đại Việt quyết chống giặc. Bản thân Thái Tông cũng tự làm tướng đi đốc chiến, xông pha tên đạn.



Tháng 12 năm Đinh Tý (21-1-1258), vua Thái Tông cùng Thái tử Hoảng đã chỉ huy quân Trần phá tan quân Nguyên ở Đông Bộ đầu, giải phóng Thăng Long.



Trần Thái Tông đã trở thành ông vua anh hùng cứu nước. Nhưng Thái Tông còn được sử sách lưu truyền còn bởi ông là một nhà Thiền học, một triết gia có tư tưởng sâu sắc, một cốt cách độc đáo, là tác giả Khóa hư lục, một cuốn sách xưa nhất hiện còn giữ được trong kho thư tịch cổ nước ta.



Trong một văn bản Khóa hư lục có bài "Tự Thiền tông chỉ nam" của Trần Thái Tông viết. Ông kể lại sự việc năm 1236 đang đêm bỏ cung điện vào núi và lý do trở về. ấy là khi Thái sư Trần Thủ Độ thống thiết nói:



" Bệ hạ ở tu cho riêng mình thì được, nhưng còn quốc gia xã tắc thì sao? Vì để lời nói suông mà báo đời sau thì sao bằng lấy chính thân mình làm người dẫn đạo cho thiên hạ? Do đấy, trẫm cùng các vị quốc lão về kinh, gắng lại lên ngôi".

Có lẽ ít thấy trong lịch sử Phật giáo nước nào lại nêu vấn đề "quốc gia xã tắc" lên trên hết, trước hết là như thế. Thái độ đối với quốc gia xã tắc là thước đo giá trị mỗi người, bất kể họ ở cương vị nào. Nghe theo quốc gia xã tắc, Trần Thái Tông đã trở về triều để 22 năm sau đã lãnh đạo nhân dân Đại Việt phá tan quân Nguyên. Trần Thái Tông quả là người có tính cách đặc biệt. Lúc làm vua thì thân làm tướng đi đánh giặc "xông vào mũi tên hòn đạn", làm vua nhưng xem thường vinh hoa phú quý, có thể từ bỏ ngai vàng không chút luyến tiếc. Ông là gương mặt văn hóa đẹp và lạ đến khác thường trong lịch sử Việt Nam.



Mùa xuân năm Mậu Ngọ (1258), Thái Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Hoảng, một cách tập sự cho Thái tử quen việc trị nước. Triều đình tôn Thái Tông lên làm Thái Thượng hoàng để cùng coi việc nuớc.



Thái Tông trị vì được 33 năm, làm Thái Thượng hoàng 19 năm thì mất, thọ 60 tuổi.







TRẦN THỪA



Trần Thừa sinh năm Giáp Thìn (1184), vị Thượng hoàng đầu tiên của triều Trần và là con cả của Trần Lý, anh ruột của Trần Tự Khánh và Linh Từ quốc mẫu Trần Thị Dung.



Ông tổ của Trần Thừa là Trần Kính vốn gốc ở Đông triều, nối đời làm nghề đánh cá, trên đường đi tìm đất làm ăn sinh sống đã cắm sào, dừng chân ở Tức Mạc (Nam định). Kính lấy vợ



Kính lấy vợ ở Tức Mạc sinh ra Trần Hấp tòm sang Hải ấp (Thái Bình) nơi giáp ranh các sông Nhị Hà và sông Hải Triều, là vùng đất cổ trù phú rồi định cư ở đó. Nhờ có công phò tá triều Lý , khôi phục lại kinh thành, năm Bính Tý (1216), Trần Thừa được vua Lý Huệ Tông phong làm Nội thị phán thủ. Năm Quí Mùi (1223) khi Trần Tự Khánh mất, vua phong làm Thái úy phụ chính.



Khi Lý Chiêu Hoàng làm vua, Trần Thủ Độ nghĩ ngay tới việc truyền ngôi cho Trần Cảnh, con trai thứ của Trần Thừa, bèn thưa với Trần Thừa chuyện ấy. Trần Thừa ngần ngại:



Chúng ta với Thái hậu và Chiêu Hoàng là chỗ họ ngoại chí thân, nay làm việc tranh đoạt ấy tôi e chẳng khỏi mang tiếng với hậu thế.

Trần Thủ Độ phân trần:



Tôi xem diện mạo Trần Bố (Trần Cảnh) mũi cao, hai gò má trội đúng là là long chuẩn long nhan. Tính lại rộng rãi, biết thương nguời, có khí độ của vị thái bình thiên tử. Vả chăng thời thế lúc này có họ Trần thay ngôi nhà Lý mới cứu vãn được vận nước suy vi. Trời cho mà mà không lấy sẽ phải chịu tai ương. Xin đại huynh nên suy nghĩ kỹ.

Trần Thừa bảo Thủ Độ:



Mọi việc tùy chú định liệu, làm sau cho thành sự thì làm. Hoá nhà làm nước hay đến phải diệt tộc cũng ở một chuyện này đó.

Khi Trần Cảnh lên ngôi vua, nhiều đảng loạn mượn cớ phù Lý chống Trần nổi lên ngày càng nhiều, Trần Thủ Độ mời Trần Thừa lên làm Thượng hoàng, lo giúp Thái Tông điều khiển triều đình để Thủ Độ rảnh tay dẹp loạn. Không đầy mội năm , Thủ độ vừa đánh dẹp vừa thu phục được các đảng giặc để trở lại nắm triều chính. Thuợng hoàng Trần Thừa yên vị có người tài năng hơn mình trông coi việc nước, mặc sức lao vào thú vui săn bắn. Vùng Từ Sơn còn lưu truyền câu chuyện tình của Thượng hoàng với cô thôn nữ xinh đẹp có tên là Tần:



Sáng ấy, Trần Thừa cùng lính tùy tùng về châu Cổ Pháp để săn chim. Xế chiều, Trần Thừa bắn trúng một con bạch trĩ. Mũi tên không trúng vào chỗ hiểm. Trần Thừa phi ngựa đuổi mãi đến nỗi đám lính tùy tùng bị lạc. Đến khu rừng quang, không thấy bóng chim nữa. Thất vọng định quay về thì thấy ở một đồi sắn gần đó có cô thôn nữ khỏe mạnh, xinh đẹp đang vừa làm vừa hát. Trần Thừa tìm đến. Khi thấy Trần Thừa, cô gái sợ hãi, luống cuống về sự ăn mặc trễ tràng của mình. Sự e lệ càng khiến cô gái thêm vẻ quyến rũ. Cô biết Trần Thừa là người quyền quý. Niềm tin vào người quyền quí khiến cô gái không thấy sợ nữa. Vị Thượng hoàng đắm đuối ngắm nhìn cô gái, hỏi thăm gia cảnh. Cô tên là Tần, cha cô mất sớm, chỉ còn mẹ già. Trần Thừa giãi bày tình yêu nồng nàn của mình. Cô gái phần vì khiếp nhược, phần vì e lệ mà không dám trối từ. Chiều ấy đám lính tùy tùng không tìm thấy chủ. Bởi vì, Trần Thừa đã về nhà Tần, ép cô gái phải chiều chuộng mình.



Sáng hôm sau, Trần Thừa từ biệt gia đình lên ngựa về kinh. Linh cảm có điều hệ trong sẽ xảy ra, Tần chạy theo níu lấy áo Trần Thừa khóc như mưa. Cô nói tới trách nhiệm của người đã làm chồng cô một đêm. Trần Thừa thề thốt sẽ quay lại và để làm tin, ông đã rút kiếm cắt một vạt áo tía của của mình trao cho cô gái. Ông dặn dò nếu có bề nào hãy tìm ông ở kinh sư. Rồi năm tháng qua đi, Trần Thừa đã quên khu rừng săn ấy. Còn Tần, cô đã lo đúng điều đã xảy ra, cô đã mang thai. Chịu búa rìu dư luận nhưng cô không về kinh sư tìm Trần Thừa vì cô biết rằng nếu vị Thượng hoàng yêu cô thì đã quay trở lại. Rồi cô sinh được một bé trai khỏe mạnh. Đứa bé được đặt tên là Trần Bà Liệt. Lớn lên Trần Bà Liệt theo học một lò vật và khỏe mạnh ít người địch nổi.



Năm ấy kinh sư có giải vật lớn nhằm tuyển chọn nhân tài ra giúp nước. Vua Thái Tông và Thượng hoàng thân đến xem. Đô Liệt cũng về dự. Sau cả tuần thi vật, đô Trâu (khỏe như trâu) đã lần lượt hạ hết các đối thủ. Đô Liệt xin vào tỉ thí. Ngay từ đầu đô Trâu đã phải gờm sức khỏe của Đô Liệt. Trống thúc đồn dập, keo vật sôi động. Bỗng sau miếng đánh trượt, Đô Liệt bị đô Trâu dùng miếng hiểm vít được cổ xuống, mong giết chết một địch thủ đáng gờm. Trong lúc điên cuồng để thoát khỏi chết ngạt, chiếc khăn trên đầu đô Liệt tung ra. Một vạt áo tía rất lạ nằm trên thảm cỏ bê bết đất. Thượng hoàng Trần Thừa đã nhận ra vạt áo ấy. Ông hạ lệnh ngừng ngay keo vật, quên hẳn địa vị của mình đến ôm lấy Liệt, đứa con mà ông đã phũ phàng bỏ rơi mẹ nó. Trần Bà Liệt được giữ lại ở kinh sư và được nhận làm con Thượng hoàng


ST: Nguyễn Minh Đức

killerroi
24-05-2006, 17:34
Bẵng đi một dạo, thế rồi gần đây câu chuyện sấm ký bỗng dưng được khuấy lên. Có điều là sấm ký không vận vào một nhân vật này hay nhân vật khác nữa, mà lại ám chỉ cả một sự kiện thời sự, hoặc dự đoán cả một tương lai của đất nước.

Thoạt đầu người ta ghè ngay mấy câu thơ có sẵn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, mà dần dần người ta chỉ còn quen gọi bằng cái tên Trạng Trình, làm như ở trên đời này có một ông trạng tên là Trình vậy, một ông trạng mà người ta

(1)

Họ Trần có một người làm vua thiên hạ. Đầu thỏ (năm mão)

đ

uôi hổ (năm dần), đời đời yên dân.

(2)

Ngô Lập Chi dịch:


Trùng hưng ngựa sẽ sang sông Cáo già vào cửa đề phòng chớ quên. (Ngụ ý) sẵn sàng tin là có tài nhìn thấu mọi việc trăm năm về trước, trăm năm về sau. Chẳng hạn người ta quả quyết rằng hai câu:

Trùng hưng dĩ bốc độ giang mã Hậu hoạn ưng phòng nhập thất khu.(2) là những câu sấm của Trạng Trình dự đoán trong tương lai nhất định nhà Lê sẽ trung hưng, nhưng rồi lại bị họ Trịnh lấn quyền. Cái đó nghe còn có lý đi. Đến như những câu:

Văn đao chấn cung trùng xuất chấn Thánh vương khắc kỷ bốc hưu tường.(1) mà người ta cũng cho là dự đoán sắp có vua thánh ra đời để cứu muôn dân thì thật là quá đáng.

Chẳng qua đó cũng chỉ do lòng mong ước đã quá ư nóng bỏng của người dân, mong sao cho sớm chấm dứt cảnh loạn ly, mong một đấng minh quân ra đời để đem lại cho trăm họ cảnh sống thái hòa an lạc. Tất cả những cái đó người ta không còn trông chờ gì được ở vua quan nhà Mạc nữa rồi. Người ta phải tìm đến một ông trạng để giải đáp những mối băn khoăn cho họ, để nuôi dưỡng trong họ một chút niềm tin, bởi vì không còn niềm tin thì ai mà sống được!

(1) Nghe nói cung Chấn lại xuất hiện quả Chấn

Bậc vua thánh biết sửa mình, dự đoán là có điềm lành (Cảm hứng thi - nhị)

ại! Lòng dân chính là lòng trời. Kẻ trí giả lẽ nào lại không hiểu điều đó, căn cứ vào cái

đó

để xét đoán tương lai. Huống chi ông, ông

đã

có cả một cuộc đời để nghiền ngẫm về lý


số, chiêm nghiệm về mọi lẽ sinh hóa tuần hoàn của vũ trụ, mọi điều cùng thông đắc táng trong cõi nhân sinh, chẳng lẽ ông không có được chút gửi gắm gì đối với người đời, đối với hậu thế.

Tất nhiên là chẳng ai dám cầm chắc về những điều dự đoán tương lai của mình cả. Vả lại có phải câu chuyện nào cũng dễ dàng nói toạc móng heo ra được đâu. Nhưng đã có bao nhiêu tiền lệ rồi đó. Người ta dùng lối nói lắt léo, bóng gió. Người ta mượn chữ nghĩa của những phường bói toán càn xiên. Hay người ta dùng lối chiết tự... Còn ai muốn gọi đó là sấm ký, hay gì gì đi nữa thì có sao đâu.

Mà nào ông có ý định truyền bá rộng rãi những điều ước đoán đó đâu. Thậm chí cũng chẳng buồn ghi chép lại nữa. Hãy cứ ấp ủ đấy, để mà "ngẫm" xem. Hoặc có khi để cùng bàn luận với con cháu trong nhà, hay một vài ông bạn chí thiết...

ạng có ngờ đâu cái của bí truyền đó tự nó lại có cánh bay đi, mà bay đi nhanh, bay đi xa đến thế. Người biết chữ thuộc nó, người không biết chữ cũng thuộc nó. Cụ già truyền cho con trẻ, đàn ông mách bảo đàn bà. Người ta rỉ tai nhau, thì thào với nhau với tất cả những điệu bộ còn bí hiểm hơn cả câu sấm nữa!

- Đấy là những câu sấm đấy!

- Sấm là từ trên trời rơi xuống à?

- Không. Sấm là của ông Trạng Trình. ạng Trạng là người ghê gớm lắm. Việc trước, việc sau trong khắp thiên hạ, chẳng có việc gì là lọt qua mắt ông Trạng được hết.

- Thật đúng như thế à?

- Cứ như đinh đóng cột ấy. Đấy, thử ngẫm mà xem. Này, nhưng mà hãy liệu cái mồm, nói lộ thiên cơ thì chỉ có mà chết oan!


-
ấy thế nên ông Trạng mới chỉ nói bóng gió thôi. Cố mà hiểu...

Cứ như thế sấm ký sinh sôi nảy nở như bươm bướm vậy. Mấy ông đồ nhà quê hay chữ cũng tấp tểnh "tiên tri". Có điều là sấm nào cũng dự đoán những điều tốt đẹp cả. Mà lạ thay sấm nào người ta cũng bảo là của Trạng Trình:

Long vĩ xà đầu khổ chiến tranh, Can qua xứ xứ khỏi đao binh Mã đề dương cước anh hùng tận, Thân dậu niên lai kiến thái bình(1).

(1) Đuôi rồng (cuối năm thìn) đầu rắn (đầu năm tỵ) khổ chiến tranh, khắp nơi nổi binh đao.

Gót ngựa (năm ngọ), móng dê (năm mùi) anh hùng chết hết. Năm thân dậu tới sẽ thấy thái bình.

Thật là lạ. Đã nói toạc ra đến thế thì còn "sấm" với "ký" gì nữa. ấy thế mà ai cũng tin đấy!...

*

Nhưng rồi thực tế cuộc sống vẫn cứ lôi bật Nguyễn Bỉnh Khiêm ra khỏi những cơn mộng mị.

Những nỗi than van rên xiết của hàng vạn hàng triệu người dân vô tội vẫn cứ hàng ngày vọng đến tai ông, xoáy sâu mãi vào tim óc ông, không để cho ông được yên. Thì ra ông có thể trốn tránh tất cả, nhưng không thể trốn tránh được chính bản thân ông, chính cái tấm lòng ưu ái trong ông nó không hề già cỗi đi cùng với tuổi tác.

Tin tức về thời cuộc vẫn được các bạn bè ông, nhất là các bạn còn làm quan trong triều, cung cấp khá thường xuyên. Đã có lúc người ta đâm ra lạc quan, tưởng đâu như thời vận nhà Mạc đã đến lúc chuyển vần, đổi bại thành thắng.

Đó là vào khoảng đầu năm Canh Ngọ (1570). Lúc này Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tròn tám mươi tuổi thọ. Trịnh Kiểm mất. Con trưởng là Tuấn Đức hầu Trịnh Cối cùng con thứ là Phú Lương hầu Trịnh Tùng vì tranh quyền mà đánh lộn nhau kịch liệt. Tất nhiên là Khiêm thái vương Mạc Kính Điển không bỏ lỡ cơ hội hiếm có này để đem đại binh đánh thẳng vào căn cứ đối phương, khiến Trịnh Cối lâm vào thế bí, phải đem cả quân bản bộ cùng hàng loạt tướng lĩnh ra hàng, làm cho hàng ngũ quân Trịnh rối ren cực độ.

Chính trong dịp này, danh tiếng của Nam đạo tướng quân Nguyễn Quyện càng thêm lừng lẫy. Đã có lúc ông ta làm chủ một vùng phía Bắc sông Lam của đất Nghệ An, đi đến đâu là quân Trịnh kinh hãi bỏ chạy đến đấy.

Nhưng đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm, tất cả những tin tức bất ngờ ấy chẳng thể là những triệu chứng mới mẻ gì hết. Có chăng chỉ là chút tâm lý dễ thở của những người dân vùng Hải Dương quê ông, cũng như toàn miền đất nhà Mạc. Nhưng người ta đã có thừa kinh nghiệm để hiểu rằng tình trạng đó chỉ là nhất thời, nên chẳng một ai vì thế mà dám nghĩ đến chuyện làm ăn lâu dài cả.

Điều đáng làm cho Nguyễn Bỉnh Khiêm phải suy nghĩ nhiều lại chính là ở chỗ nhà Mạc đã không thể lợi dụng thời cơ này để củng cố nội bộ về mọi mặt. Không hẳn là họ không nghĩ tới điều đó, nhưng họ đã không thể làm được gì theo ý muốn của họ nữa rồi. Họ đã để mất một lực lượng quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định trong tất cả mọi việc. Đó là lòng dân.

Mạc Mậu Hợp vừa mới lớn lên đã tỏ ra là một ông vua hoang dâm vô độ, chẳng chăm lo gì đến việc triều chính. Đang lúc tình hình khẩn trương như vậy mà ông ta vẫn điềm nhiên dốc sức người, sức của để xây dựng một ngôi điện lớn, gọi là điện

Giảng Học, nhưng kỳ thực chỉ để làm nơi yến tiệc chơi bời. Triều thần thì lãng đãng, rời rã, mạnh ai nấy lo thân mình. Hàng loạt đại thần văn võ kế tiếp nhau dâng sớ từ chức. Và cuối cùng thì đến phụ chính œng vương Mạc Đôn Nhượng, thuộc hàng tôn thất rất gần gũi với nhà vua, cũng chán nản xin được giải nhiệm nốt.

Nào phải họ muốn bỏ mặc nhà vua. Không, họ đã cùng với rất nhiều đại thần khác liên tiếp dâng sớ can gián. Họ đã nói trắng ra tình hình nguy ngập trước mắt, nếu không lo kịp thời chấn chỉnh thì "bại vong chưa chắc gì tránh khỏi". Họ đã vạch trần những tệ lậu không dễ gì làm ngơ được: "Kỷ cương rối loạn, chính sự hững hờ, hình ngục oan uổng, pháp lệnh sai lầm, tướng chưa hòa thuận, binh chưa chỉnh nghiêm". Họ đã vạch mặt chỉ trán đích danh nhiều vị đại thần bất lực, trễ biếng, kể từ œng vương phụ chính trở xuống. Họ dám chất vấn ngay cả nhà vua, khẩn thiết kêu gọi: "Đôn sùng căn bản quốc gia, cố kết nhân tâm, hậu đãi dân mà không bắt dân khốn...". Nhưng rồi tất cả đều vô hiệu. Mạc Mậu Hợp đều cho những lý lẽ của họ là xác đáng, nhưng rồi vẫn cứ bỏ qua. Thật chẳng còn cách nào nữa.

Giữa lúc tình hình khốn đốn như vậy thì Khiêm thái vương Mạc Kính Điển mất. Lòng người trong nước càng thêm bâng khuâng, giao động. Trong suốt hai chục năm trời nắm giữ binh quyền, gồm cả văn võ, ông đã tỏ ra xứng đáng là cột trụ vững vàng chống đỡ cho cái lâu đài đã quá rệu rã của nhà Mạc. Trải qua bao gian nan vất vả vẫn một dạ trung cần, tiếp đãi thần liêu có lễ, đối với quân sĩ có ân, thật khó có người thay thế ông được.

Cái tin đau buồn ấy đã đem đến cho Nguyễn Bỉnh Khiêm những phút chống chếnh khó tả. Sau vua Mạc Đăng Doanh, Khiêm thái vương chính là người tôn thất duy nhất mà ông coi như một người tri kỷ.

*

Tuổi tác và lo âu đã nhanh chóng bào mòn đi cái cơ thể vốn rất cường tráng của ông. Cũng trời đất ấy, nhưng những ngày đông tháng giá hình như cứ kéo dài thêm mãi ra, lạnh lẽo thê lương hơn bao giờ hết. Cũng cảnh vật ấy, nhưng hình như những lối đi về với quán Trung Tân, với gốc đa, bến cá cứ mãi thêm ra. Ngày tháng cứ dần dần khép kín lại bên mấy vồng quýt, mấy luống rau, bờ ao cá, hầu như đã trở thành nguồn vui duy nhất của ông. Những đêm tối cứ như dàn đều ra, san bằng đi, âm thầm lặng lẽ với mấy chén rượu thuốc thơm nồng hương vị bạn bè từ khắp nơi gửi đến, cùng những tiếng kẽo kẹt buồn thiu từ mấy chiếc khung cửi bên dưới nhà ngang.

Đã nhiều lúc ông nghĩ đến cái chết như một sự yên nghỉ hoàn toàn, sau cả một cuộc đời đằng đẵng, lao tâm khổ tứ đã nhiều mà rút

(1) Mạc Đĩnh Chi, trạng nguyên đời Trần.

cục chỉ là dã tràng xe cát. Giá như xuống "dưới kia" lại được gặp vong hồn các cụ Tiều ẩn, ức Trai thì sung sướng biết chừng nào. Chỉ mong các cụ mở lượng tha thứ cho kẻ học trò "sinh bất phùng thời" này. Mà biết đâu chẳng làm bạn với Tiết phu tiên sinh(1) mà cùng ngâm mấy câu phú Hoa sen giếng ngọc. "Anh cũng là người quân tử ưa hoa sen đó chăng?..." Thật là thú vị. Người ta nói khi chết là chỉ có thể phách nát đi, còn tinh anh thì vẫn cứ lưu truyền mãi mãi. Ngâm mấy câu trong bài phú bất hủ mà ta cứ có cảm tưởng như tinh anh của ông trạng đời Trần vẫn còn quanh quất đâu đây. ại, giả sử ông không có cái tướng mạo xấu xí khiến nhà vua có lúc muốn ruồng bỏ ông, thì sao có cái bài phú để tỏ phẩm giá thanh cao như hoa sen giếng ngọc này. Phải chăng nhiều khi chính nỗi bất hạnh đã làm cho những tâm hồn cao khiết càng thêm ánh lên những tia sáng rực rỡ.

Thế rồi một buổi sáng cuối thu se lạnh, ông thấy trong người tự nhiên đổi khác. Chân tay rời rã, mồ hôi vã ra, tâm thần thảng thốt. Chiếc gáo nước tưới rau như tự nó tuột khỏi tay ông. Chỉ kịp ú ớ lên một tiếng thì đã ngã khụy xuống. Linh tính cho ông thấy ngay là đã đến ngày tận số. Lúc này ông đã 95 tuổi đời rồi còn gì!

Tin Nguyễn Bỉnh Khiêm ốm nặng đã làm cho đám môn sinh và bạn bè khắp nơi, kể cả

ở Kinh đều hết sức xúc động. Họ kéo nhau về thăm hỏi rất đông với tất cả tấm lòng thành kính, ngưỡng mộ. Đã từ lâu cái am Bạch Vân vắng vẻ lạnh lẽo của ông mới lại bày ra cảnh xum vầy đầm ấm như thế này. Người ta đã đem đến cho ông không thiếu gì những thứ thuốc quý, cùng các món sơn hào hải vị đắt tiền. Nhưng nào phải những thứ đó đã có phép nhiệm màu kéo dài những ngày hấp hối của ông. Chính là tình nghĩa, tình bạn, tình thầy trò, tình xóm làng đã làm cho ông chưa thể dứt cuộc đời. Có những lúc nằm yên một mình sau tấm màn che ám khói, một giọt nước mắt bỗng từ từ lăn trên gò má nhăn nhúm của ông, nóng bỏng, nặng nề, lặng lẽ.

Rồi một hôm sứ giả của nhà vua đến. Vẫn là vị sứ giả quen thuộc của những lần trước. Nhìn thấy tấm thân tiều tụy của người nằm đó, bất giác ông ta cũng bưng mặt thở dài.

Sau mấy lời thăm hỏi, ông ta mới ghé sát lại bên tai Nguyễn Bỉnh Khiêm mà rỉ sẽ mấy câu.

Nguyễn Bỉnh Khiêm như tỉnh hẳn lại. Nhưng ông không trả lời câu hỏi, mà đưa mắt ra hiệu cho người con trai vẫn đứng túc trực bên dưới chân ông. Chỉ một lát sau anh này đã bưng ra một phong thư dán kín, đặt trên một cái khay và thi lễ trao tay cho vị sứ giả. Đó chính là lời sớ cuối cùng của ông dâng lên nhà vua Mạc Mậu Hợp. Ngay từ hôm mới thấy khác trong mình ông đã gắng hết tinh thần để thảo tờ sớ này. Dù sao thì nghĩa vua tôi vẫn

là điều ông đinh ninh trong dạ cho đến hơi thở cuối cùng: "... Thần suy tính độ số, thấy vận nước nhà

suy, vận nhà Lê đã đến hồi tái tạo. ý trời
định, sức người khó theo. Song nhân giả
có thể hồi thiên ý, xin nhà vua hết lòng tu nhân phát chính, lấy dân làm gốc, lấy nước làm trọng, trong sửa sang văn trị, ngoài chuyên cần võ công, may ra giữ được cơ nghiệp tổ tiên thì thần chết cũng được thỏa lòng..." Tiếp đó ông lại ra lệnh cho tất cả mọi người lùi đi và chỉ khi còn một mình với vị sứ giả, ông mới cố hết sức nhỏm dậy, phác một cử chỉ mơ hồ như là một lễ bái vọng hướng về cửa khuyết và nói qua hơi thở nặng nề, đứt quãng:

- Ngày sau, nhược bằng có biến cố gì thì đất Cao Bằng dầu nhỏ hẹp cũng có thể hưởng phúc được vài đời...

Bất giác vị sứ giả thấy lạnh toát cả mình. Lời nói của người sắp chết thường là những lời nói rất linh ứng. Vả lại ngay lúc bình thời, những dự đoán của ông Trạng về thời cuộc có mấy khi sai lạc đâu!

*

Cuối cùng rồi cái cây đại thụ đã từng tỏa rợp bóng trên cả một thời ấy cũng phải ngã xuống. Nhưng nó đã ngã xuống không chút nặng nề, ồn ào nào hết. Trái lại rất nhẹ nhàng, thanh thoát, lâng lâng. Cứ như đó là một cây thần vì không chịu được những chất dơ bẩn người ta bón vào gốc nó, đã bay lên, lên bổng đến tận cung trăng, để rồi lại soi bóng xuống mặt đất.

Đó là vào ngày 28 tháng 11 năm Đinh Dậu niên hiệu Diên Thành thứ 8 nhà Mạc (1585), Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa tròn 95 tuổi thọ.

Tang lễ ông được tiến hành hết sức trọng thể, quá ư trọng thể so với ước muốn cuối cùng của ông. Nhà vua đã cử một đoàn khâm sai khá đông đảo với nhiều vị quan đầu triều về viếng. Cũng đủ cờ tiết, nghi trượng và cả đạo sắc phong nữa. Cũng loa dọn đường, trống hiệu lệnh, lính thị vệ dàn trước, theo sau.

Những bạn thân của ông còn đang làm quan trong triều cũng về hầu như đủ mặt. Chỉ vắng bóng có một người, mà rủi thay đó là người ông hằng quý trọng nhất. Đó là Sách quốc công thái bảo Giáp Hải. Chắc lúc lâm chung ông không thể ngờ được rằng người bạn chung thủy ấy, cũng sẽ "ra đi" sau ông có mấy ngày.

Rồi thì các quan lại sở tại, từ trấn, phủ xuống đến huyện, xã, cũng lục tục tề tựu. Lại cả những đoàn người mà dân làng Trung Am chưa hề biết mặt, không hiểu từ những phương trời nào tới, cũng tự xưng là học trò, là người chịu ơn sâu của quan trạng quá cố. Tất nhiên là đám môn sinh thì đã đủ mặt từ khi ông ốm nặng rồi. Cả làng xóm đều rộn hẳn lên, không

phải chỉ vì cảnh ngựa xe, cờ quạt, mà vì mỗi người dân, lớn bé, già trẻ đều muốn góp một phần việc gì đó vào cuộc tiễn biệt cuối cùng con người mà suốt đời họ tôn quý như cha đẻ vậy.

Trước linh cữu ông, từ trong nhà ra đến ngoài sân, ngoài đường, người ta bày la liệt nào cờ lọng, nào long đình, hương án, nào bảng vàng tiến sĩ, nào các hòm sắc, hoàn mũ áo vua ban... Tất cả đều là vàng son lộng lẫy. Tất cả đều rực sáng lên dưới ánh những hàng bạch lạp thắp sáng suốt ngày đêm. Tất cả đều lung linh qua những làn khói hương nghi ngút không lúc nào dứt.

Một hồi chiêng trống nổi lên. Phường bát âm cất giọng véo von, cùng phường kèn réo rắt. Tất cả mấy hàng người túc trực hai bên linh sàng vội vàng thụp xuống. Vị khâm sai, mũ áo chỉnh tề, trịnh trọng bước từng bước khoan thai lên hàng chiếu cạp điều, hai tay nâng cao hòm sắc, kính cẩn hướng về phía kinh khuyết làm lễ bái mạng.

Tiếp đó, tất cả đều im bặt để nghe tuyên đọc sắc chỉ của nhà vua: Nguyễn Bỉnh Khiêm được truy phong Lại bộ thượng thư, thái phó, Trình quốc công. Tổ khảo hai đời cùng các con trai được ấm phong chức tước. Ba bà phu nhân cũng được mỹ hiệu cao sang... Thật là hiển vinh đến tột độ vậy!

Nhà vua còn ra đặc ân ban cho mấy chữ đại tự "Mạc triều trạng nguyên tể tướng

từ" do chính tay nhà vua viết và sai lập đền thờ và ban cập tự điền.

Người ta có cảm tưởng như dưới bóng cả của cây đại thụ Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa mới đổ xuống, ánh hào quang của nhà Mạc bỗng lại được bừng sáng lên. Nhưng đó chỉ là những tia hào quang cuối cùng, như những làn nắng quái trong buổi chiều tà. Thực tình thì giữa cái đám người áo xiêm rực rỡ đang ngồi quây quần trước cảnh vàng son này chẳng mấy ai có bụng dạ thanh thản để hướng về hương hồn người quá cố.

Bởi vì chính lúc này, chính lúc họ đang buộc phải dựng nên những tấn trò huy hoàng giả tạo này, thì một cuộc bắt phu bắt lính quy mô chưa từng có đang đổ lên vai họ. Mạc Mậu Hợp sau nhiều năm phải lẩn quất ở ngoài vì sợ quân giặc tiến công và vì nhiều lần bị hỏa hoạn, bị sét đánh, đã quyết định trở về kinh thành. Vì vậy ông ta đã chủ trương một cuộc tu sửa hết sức to lớn, từ tường thành, hào lũy, cho đến cung đền, đài tạ, bất chấp lời can ngăn của nhiều vị đình thần. Từ hàng năm nay, dân các trấn đã phải huy động để tải đá, vận chuyển gỗ tre, nung vôi nung gạch, trong lúc ở quê họ chính là lúc hạn hán kéo dài hàng bốn năm tháng trời, không ai lo cho cả...

Đám tang hình như chỉ mới thực sự bắt đầu sau khi đã chấm dứt những thứ nghi lễ ồn ào và sau khi các quan khâm sai đã lên đường

trở lại triều. Lúc này mọi người mới thấm thía nỗi mất mát to lớn mênh mông mà người ta đang phải chịu đựng. Một thiên tài mà dễ có mấy đời khí thiêng đất nước mới chung đúc nên được. Một người thầy, một phu tử mà học vấn uyên thâm, đức độ cao cả khó ai sánh kịp. Một người cha mà lượng cả và tình thương bao trùm lên khắp cả muôn người, đến cả cỏ cây sông núi.

Người ta bỗng ngao ngán nhìn vào hàng ngũ của mình, giờ đây sao đã vơi đi đến nửa. Kẻ còn người khuất, cái đó là lẽ thường tình. Nhưng nào phải chỉ có thế. Nhiều tên tuổi vắng mặt lại còn sống sờ sờ ra đó, những Lương Hữu Khánh, những Phùng Khắc Khoan... Chẳng biết giờ đây họ đã nghe được cái tin đau đớn này chưa? Mà có nghe biết thì cũng làm gì được nữa. Họ đã ở bên kia trận tuyến mà người ta gọi là quân địch.

ại, thầy chúng ta đã mỏi mòn chờ trông, chờ trông đến chín mươi nhăm năm trời rồi, mà vẫn chưa được nhìn thấy cái cảnh thái hòa vũ trụ, cảnh xa thư về một mối cảnh đất nước lại xum vầy như muôn dân hằng mong ước. Thầy chúng ta đã suốt đời lo toan cho bát cơm manh áo của đám dân lành, cho kỷ cương rường mối. Thế mà Người đã phải nhắm mắt xuôi tay giữa cảnh rối ren đổ nát, đói rách lầm than!

Nhưng "cùng" rồi thì tất sẽ phải "biến", mà "biến" thì ắt sẽ phải "thông", lời thầy đã dạy, lẽ nào những kẻ hậu sinh ta không ghi lòng tạc dạ.

Giữa lúc đó thì Đinh Thì Trung bước ra. Trong đám môn sinh có lẽ anh này là người có cái may mắn nhất được hầu hạ bên thầy trong những năm tháng tàn của Người. Cầm trong tay bài văn tế anh đã thay mặt cho tất cả môn sinh để soạn thảo, mà giọng anh cứ nấc mãi lên, không sao đọc được. Nhưng cả hàng ngàn con người xung quanh thì đã im bặt chờ anh.

Kính nhớ tiên sinh: Bể Đông Hải chung anh, Núi Nam Sơn dục tú. Mắt tai sáng suốt,

Trời xanh phú dữ vốn không nghèo. Bụng dạ mở mang Đạo lớn uẩn tàng nguyên sẵn có...

Mọi người đều ngước mắt nhìn lên. Qua làn khói trầm nghi ngút, bất giác ai cũng cảm thấy như hương hồn của người quá cố cùng với khí thiêng sông núi đang quanh quất đâu đây, trong căn nhà, ngoài xóm làng, trên khắp đồi cây nội cỏ, như chẳng bao giờ muốn tan đi vào cõi hư vô, tịch diệt.

(1) Theo Tuyết Giang phu tử, Chu Thiên. Nguyên văn bằng chữ Hán.

Đạo thống Thánh nhân từ tiên sinh mà truyền ra, Bờ cõi Thánh nhân duy tiên sinh là thấu đáo.

Những tưởng đạo càng ngày càng sáng, Cửa đã thông Châu Lỗ cung tường, Hay đâu sinh ra chẳng gặp thời, Đời nào phải Đường Ngu vũ trụ...

Có những tiếng nấc, tiếng thở dài được nén lại. Giọng người đọc càng thêm run run, đứt quãng:

Cảm tiên sinh, núi sông đều biến sắc Nước triều man mác đôi phen, Nhớ tiên sinh, sâu kiến cũng đau lòng Tơ nhện vấn vương khôn gỡ.

Đền trên non lạnh lẽo khói mây, Nhà đầu xóm ủ ê hoa cỏ Chợ nọ kỳ phiên vẫn họp

Khách buôn huyên náo mà tiên sinh âm hưởng vắng không.

Chùa kia cơ chỉ vẫn còn.

Tòa Phật trang nghiêm, tưởng tiên sinh dung nghi còn đó.

Bia đá của tiên sinh dựng,

Nhớ tiên sinh muốn tìm dấu cũ, thì nét chữ mịt mờ, rêu chen mặt đá, đã thành ra một chiếc tàn bia.

Cây đa của tiên sinh giồng,

Nhớ tiên sinh muốn ngắm cảnh xưa, thì còn cành lá lơ thơ, tuyết rủ đầu cây, đã hóa hẳn một chòm cổ thụ.

Hàn Giang là chỗ tiên sinh ở,

Trông tiên sinh, ở trên sông ấy, chỉ thấy khi nước xuống, khi nước lên.

Bạch Vân là tên tiên sinh đặt.

Trông tiên sinh ở trên mây kia, chỉ thấy đám mây tan, đám mây tụ...(1)

Không còn ai nén nổi xúc động nữa. Tất cả đều òa lên khóc. Từ đám bạn bè, môn sinh cho đến ông già bà cả, lớn nhỏ trong làng.

Khói trầm hương vẫn âm thầm nghi ngút, thơm tho, thanh tịnh, vấn vương, quyến luyến như chính cuộc đời và tấm lòng của người nằm đó, của Nguyễn Bỉnh Khiêm, của Trạng Trình, của một danh nhân mà tên tuổi sẽ đời đời sống mãi với nhân dân với non sông đất nước.

ST: Nguyễn Minh Đức

killerroi
24-05-2006, 17:41
Lê Đại Hành-Lê Hoàn













(980 - 1005)







Lê Hoàn sinh năm (941) ở Xuân Lập, Thọ Xuân, Thanh Hoá trong một gia đình nghèo khổ "bố dỡ đó, mẹ xó chùa". Cha là Lê Mịch, mẹ là Đặng Thị Sen đều lần lượt qua đời khi Lê Hoàn còn nhỏ tuổi. Bởi vậy, cũng ngay từ bé, Lê Hoàn phải làm con nuôi cho một vị quan nhỏ, người cùng họ. Lớn lên, Lê Hoàn đi theo Nam Việt vương Đinh Liễn. Dù chỉ là lính thường nhưng trí dũng khác thường tính tình phóng khoáng nên được cha con Đinh Bộ Lĩnh yêu mến. Trong công cuộc đánh dẹp các sứ quân, Lê Hoàn tỏ rõ là người có tài nên được Đinh Bộ Lĩnh giao cho trông coi 2000 binh sĩ. Đến khi dẹp yên các sứ quân, thống nhất đất nước, lập nên cơ nghiệp nhà Đinh, Lê Hoàn được phong chức Thập đạo tướng quân, Điện tiền đô chỉ huy sứ (tỗng chỉ huy quân đội kiêm chỉ huy đội quân cấm vệ) của triều đình Hoa Lư. Lúc này Lê Hoàn vừa tròn 30 tuổi.



Tháng 10 năm Kỹ Mão (979), cha con Đinh Tiên Hoàng bị Đỗ Thích giết hại. Đinh Toàn 6 tuổi lên ngôi vua, Lê Hoàn làm nhiếp chính, trong một tình thế đầy khó khăn. Các đại thần Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp nổi loại nhưng bị Lê Hoàn dẹp tan. Ngô Nhật Khánh, phò mã nhà Đinh, bỏ vào Nam rước vua Cham pa cùng hơn nghìn chiến thuyền toan cướp kinh đô Hoa Lư nhưng bị bão đắm hết. Tháng 7 năm Canh Thìn (980), đại quân Tống theo hai đường thủy, bộ xâm lược Đại Cồ Việt. Lê Hoàn lúc này đã lên ngôi hoàng đế tức Lê Đại Hành vừa triển khai lực lượng sẵn sàng chiến đấu vừa sai sứ đưa thư cầu hòa. Vua Tống đòi Dương Vân Nga và con là Đinh Toàn sang chầu. Tình thế bức bách, Lê Hoàn buộc phải cho quân đánh giặc quyết bảo vệ đất nước. Ông đã tái tạo một Bạch Đằng, sáng tạo một Chi Lăng, thắng lợi lớn trên cả hai mặt thủy bộ, giết được tướng giặc Hầu Nhân Bảo, diệt quá nưả quân Tống, buộc vua Tống phải xuống chiếu lui quân.



Đại thắng năm Tân Tị (981) đã mở đầu kỷ nguyên Đại Việt bách thắng bọn phong kiến phương Bắc.



Không chậm trễ, Lê Hoàn dốc sức chăm lo xây dựng và bảo vệ đất nước. Bên trong, Lê Hoàn chống cát cứ, xây dụng cơ sở của nền kinh tế. Đối với bên ngoài thì Ông thi hành chính sách ngoại giao mềm dẻo khôn khéo nhưng cương quyết bảo vệ nền độc lập của đất nước. Ông là vị vua nội trị, ngoại giao đều xuất sắc. Chuyện rằng:



Năm Canh Dần (990), vua Tống sai Tống Cảo dẫn đầu đoàn sứ mang chiếu thư sang phong cho Lê Hoàn hai chữ "Đặc Tiến". Vốn biết nhà Tống hống hách, ngạo mạn, Lê Hoàn thay đổi cách đón tiếp. Ông sai Đinh Thừa Chính mang chín chiến thuyền và 300 quân sang tận Liên Châu (Quảng Đông, Trung Quốc), để đón sứ rồi bảo vệ đoàn sứ đến Đại cồ Việt. Tháng 10 năm đó, đoàn sứ Tông tới kinh đô Hoa Lư trong cảnh tưng bừng khác lạ: dưới sông, chiến thuyền tinh kỳ san sát; bên các sườn núi, quân lính võ phục chỉnh tề, gươm giáo sánh lòa; trên các cánh đồng, hàng trăm hàng ngàn trâu bò rong ruổi đen đặc, bụi bay mù mịt. Sứ Tống không thể không thấy sự hùng mạnh, giàu mạnh của nước Việt.



Theo nghi lễ của Tống triều, khi nhận chiếu thư của "Thiên Triều", vua các nước chư hầu phải "lạy". Nhưng Lê Hoàn lấy cớ ngã ngựa, bị đau chân, không chịu "lạy". Tống Cảo đành chấp nhận.



Sau bữa tiệc vui, Lê Hoàn cho người khiêng một con trăn lớn, dài vài trượng đến quán dịch nói với sứ Tống:



- Nếu sứ thần ăn được thịt trăn thì vua tôi sẽ cho người làm cỗ để mời.



Sứ Tống khiếp đảm từ chối.



Lần khác, Lê Hoàn cho dắt tới hai con hổ dữ để sứ thần thưởng ngoạn. Sứ thần lại một phen sợ toát mồ hôi.



Trước khi bọn Tống Cảo về nước, Lê Hoàn bảo họ:



- Sau này, nếu có quốc thư thì nên giao nhận ngay đầu địa giới, không phiền sứ thần đến đây nữa.



Năm Quý Tị, nhà Tống sắc phong cho vua Đại Hành làm Giao Chỉ quận vương rồi năm Đinh Dậu (977) là Nam Bình Vương.



Năm ất Tị (1005) vua Lê Đại Hành mất, thọ 65 tuổi, làm vua được 24 năm




ST: Nguyễn Minh Đức

killerroi
24-05-2006, 17:45
Triệu Quang Phục



(549-571)







Khi được Lý Nam Đế trao toàn bộ binh quyền, Triệu Quang Phục người huyện Châu Diên (Hải Hưng) thấy rõ lúc đó giặc còn mạnh, không thể đánh thắng ngay được nên đưa hơn một vạn quân từ miền núi về đồng bằng tìm cách đánh giặc. Vốn thông thuộc miền sông nước Chu Diên, ông đưa quân về Dạ Trạch (Bãi Màn Trò, Hải Hưng) một vùng đồng lầy rộng mênh mông, lau sậy um tùm, ở giữa có một bãi đất khô ráo có thể ở được. Đường vào bãi rất khó khăn, chỉ có thể dùng thuyền độc mộc, chống sào lướt nhẹ trên đám cỏ nước, theo mấy con lạch nhỏ mới tới được đại bản doanh của nghĩa quân.



Ngay khi đem quân về Dạ Trạch, Triệu Quang Phục đã nghĩ đến việc tự túc lương thực để kháng chiến lâu dài. Ông chia quân ra làm nhiều tóan: tóan chặt cây làm trại, tóanh chuyên đục đẽo thuyền độc mộc, tóan chuyên bắt cá, toán đi săn chim, vịt trời để nuôi quân. Lương thực thiếu, Triệu Quang Phục cùng nghĩa quân ăn củ súng, khoai dại, để dành thóc gieo mạ. Khi doanh trại đã căn bản xây dựng xongcũng là lúc tướng giặc là Trần Bá Tiên đánh hơi được, đem quân trùng trùng, điệp điệp đến bủa vây. Nhìn đầm rộng chỉ có lau sậy, tướng giặc đắc ý nói với tả hưũ:



Số phận quân Dạ Trạch đã được định liệu. Một vạn quân ăn chen chúc trong đầm tất sẽ chết vì đói. Ta chỉ cần vây mà không cần đánh.

Trần Bá Tiên chia quân lập thành một hệ thống đồn binh vây bọc kín khu đầm cắt đứt liên lạc, tiếp tế giữa nghĩa quân với dân chúng. Hắn không thể ngờ được, bên trong vòng vây, Triệu Quang Phục một mặt cho quân do thám theo sát hành tung giặc, mặt khác cho đắp bờ, khoanh bãi, tôn nền ruộng, gieo mạ để làm vụ chiêm. Hơn thế, vị tướng tài còn nhằm trước khu đất cao ở gần sông Cái để sửa soạn làm vụ sau. Tất cả những công việc này đều được tiến hành trong điều kiện thiếu thốn nông cụ và sức kéo. Vì vậy trong ngày hội xuống đồng, để làm gương cho binh sĩ, Triệu Quang Phục lúc cầm cày, khi cùng nghĩa quân thi nhau dùngdùng đòn kéo thay trâu, không phân biệt trên dưới, tạo nên không khí phấn khởi trong sản xuất. Vì vậy sau những ngày thiếu thốn, nghĩa quân chẳng những có đủ lương ăn mà còn có thóc để dành, đủ sức quần nhau với giặc lâu dài. Theo lệnh Quang Phục: " Lúa quý như mệnh người", nghĩa quân vừa đánh giặc vừa thay nhau tiếp tục sãn xuất.



Bao vây lâu ngày không thấy nghĩa quân chết đói, ngược lại các đồn giặc liên tiếp bị đánh, lương thực bị cướp nên chính giặc lâm vào tình trạng thiếu thóc gạo trầm trọng. Giặc càng khó khăn, đêm đêm nghĩa quân đánh càng mạnh.



Sau khi Lý Nam Đế mất Triệu Quang Phục xưng hiệu là Triệu Việt Vương. Dân gian gọi ông là Dạ Trạch Vương. Đến năm Canh Ngọ (550) nhân nhà Lương có loạn to, thế giặc suy yếu, Triệu Việt Vươngtừ căn cứ Dạ Trạch, biết rõ gan ruột giặc, xuất toàn quân giao chiến, giết được tướng giặc là Dương Sàn, thu lại Kinh đô, khôi phục lại nền độc lập dân nước.



Như trên đã nói, khi Lý Nam Đế thất thế chạy về Khuất Lão thì người anh họ là Lý Thiên Bảo cùng người anh trong họ là Lý Phật Tử đem quân chạy vào Cửu Chân. Bị quân Lương truy đuổi, Lý Thiên Bảo, Lý Phật Tử phải chay sang Lào, đến đóng ở động Dã Năng, xưng là Đào Lang Vương. Năm ất hợi (55) là năm thứ 7 của đời Triệu Việt Vương, Lý Thiên Bảo mất, không có con, binh quyền về tay Lý Phật Tử.



Đến năm Đinh Sửu (557) Lý Phật Tử đem quân về đánh Triệu Việt Vương để giành ngôi nhà Lý. Nhưng đánh không thắng, Phật Tử xin chia đất giảng hòa. Triệu Việt Vương nghĩ tình họ Lý , cũng thuận chia đất cho Lý Phật Tử. Phật Tử đóng ở Ô Diên (làng Đại Mỗ, Từ Liêm) Triệu Việt Vương đóng ở Long Biên, lấy bãi Quần Thần (làng Thượng Cát, Từ Liêm) làm giới hạn. Triệu Việt Vương còn gã con gái là Cải Nươngcho Nhã Lang con Phật Tử để tỏ tình hòa hiếu. Nhưng Phật Tử vẫn có ý muốn thôn tính. Bởi vậy, Phật Tử khẩn trương chuẩn bị lực lượng chờ cơ hội hành động.



Năm Tân Mão (571), Phật Tử phản trắc, bất ngờ đem quân đi đánh Triệu Việt Vương. Vì không phòng bị Triệu Việt Vương thua chạy đến cửa biển Đại Nha, cùng đường gieo mình xuống biển tự vẫn.



Dân đã lập miếu thờ tại nơi ông mất. Năm Trùng Hưng thứ nhất (1285), vua Trần Nhân Tông sách phong Minh Đạo Hoàng Đế. Năm Trùng Thông thứ tư, vua ban thêm hai chữ "Khai cơ". Năm Long Hưng thứ 21 (1313) đời Trần Anh Tông, vua ban thêm bốn chữ: "Thánh Liệt Thần Vũ".




ST: Nguyễn Minh Đức