PDA

View Full Version : Tóm tắt lịch sử Việt Nam


LSB_VươngAnh
12-01-2005, 10:03
Họ hồng bàng - Hùng Vương - An Dương Vương
Thực chất thì bây giờ còn rất nhiều tranh cãi về cái họ này , như ta biết từ trước họ người Việt là mang theo họ người Trung Hoa ( sẽ nói phần sau ). Nước ta thời Hùng Vương do 15 bộ lạc Giao Chỉ liên minh lại với nhau , mà người đứng đầu lấy hiệu là Hùng Vương , truyền đc 18 đời ( ko nhất thiết là truyền ngôi cho con của Hùng Vương trước mà người đc truyền ngôi là người phải có thực tài ). Thì đời Hùng Vương thứ nhất để củng cố sự bền vững của liên minh bộ lạc , nhân dân Giao Chỉ đã sáng tạo truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra trăm trứng và cũng về họ Hồng Bàng , có nhiều nhà sử học cho rằng thời Hùng Vương nước ta chưa có họ và họ Hồng Bàng cũng chỉ do người Trung Hoa đặt ra để tiện việc chép sử của họ...
Về nước Văn Lang ở thời Hùng Vương thì gồm ba tỉnh bây giờ là Thanh Hóa , Nghệ An và Hà Tĩnh đóng đô ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Vĩnh Yên , dưới Hùng Vương là các Lạc Tướng và Lạc Hầu
Năm 258 trước công nguyên , vào đời Hùng Vương thứ 18 thì đột nhiên danh hiệu Hùng Vương mất tích thay vào đó là An Dương Vương , ở đây lại có sự tranh cãi nhau ( mỗ cứ ghi rõ ra cho mọi người đọc )
một cho là : vào thời Hùng Vương thứ 18 thì nhà Tần bên Trung Hoa với hoàng đế là Tần Thủy Hoàng cho quân xang xâm chiếm Văn Lang , lúc đó để đối phó với quân Tần thì Hùng Vương 18 đã rút toàn bộ dân vào trong rừng và triệu tập một cuộc họp giữa các Lạc Tướng đứng đầu 15 bộ lạc Giao Chỉ , sau đó Thục Phán một trong 15 người Lạc tướng đc cử ra làm tướng nắm giữ binh quyền giúp Vua Hùng đánh quân Tần , sau khi thắng quân Tần thì Thục Phán lên ngôi vua , lấy hiệu là An Dương Vương đổi tên nước là Âu Lạc , đóng đô ở Phong Khê xây lên thành Cổ Loa còn Hùng Vương thì làm đầu lĩnh ở một bộ lạc nào đó..
cái thứ hai cho là :vào thời Hùng Vương 18 thì Thục Phán ( vua của nước Thục ở phía Bắc ) sang đánh , Hùng Vương thua đã nhảy xuống sông tử vẫn , Thục Phán lên ngôi vua lấy Hiệu là An Dương Vương , đổi tên nước là Âu Lạc , đóng đô ở Phong Khê vào năm thứ 257 TCN

Thời Bắc Thuộc :
sau khi An Dương Vương lập nên nước Âu Lạc , thì vấp phải sự xâm chiếm của Triệu Đà ( thuộc nhóm người Việt bên Trung Hoa) . Mỗ xếp Triệu Đà vào thời Bắc Thuộc là do Triệu Đà thuộc nhóm người Bách Việt bên Trung Hoa , sau khi người Việt bị quân Tần đánh cho tan tác thì họ li tán thành các nhóm người Bách Việt và tập trung nhiều ở Nam hải ( Quảng Đông ) Trung Quốc , sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa đã cho TRiệu Đà quản lí đất Nam Hải , về sau nhà Tần bị Nhà Hán lật đổ thì Triệu Đà tách riêng ra lập nên Đông Việt và Tây Việt. Sau nhiều lần xâm chiếm ko đc vì An Dương Vương có nỏ thần ( cái này còn nhiều tranh cãi ) , Triệu Đà đã cho Trọng Thủy sang ở rể Âu Lạc để tìm bí mật của An Dương Vương , lần này thì An Dương Vương đã thua thật và Triệu Đà sáp nhập Âu Lạc cùng với Đông Việt và Tây Việt trở thành Nam Việt , lấy hiệu là Triệu Vũ Vương ( chứ ko phải là Triệu Vũ Đế như Tiểu Siêu trả lời bên topic ô chữ... ) và truyền đc 5 đời là :
- Triệu Vũ Vương
- Triệu văn Vương
- Triệu Minh Vương
- triệu Ai Vương
- Triệu... ko nhớ
sau đó bị nhà Đông Hán sang đánh..... ( còn nữa )

LSB_VươngAnh
12-01-2005, 20:54
hehehe... xin lỗi nha hơi bị nhầm nhọt sang trồng chọt , sau khi về nghĩ lại thì eng mới nhớ ra là nhà xâm lăng Nam Việt là Tây Hán ( hay còn gọi là Tiền Hán ) chứ ko phải là Đông Hán....
Thời Bắc thuộc ( tiếp theo )
vào thời Triệu Đà còn làm vua do là dân Bách Việt nên Triệu ko có ý thuần phục Trung Hoa , mà muốn lập riêng một quốc gia cho mình. Chính sự Trung Hoa lúc ấy rất rối ren , nhà Hán vừa lên trị vì còn nhiều điều cần chấn chỉnh nên ko tiện gây hấn với Nam Việt , nhưng sau đó ít lâu Trung Hoa ổn định trở lại bởi nhà Tây Hán dưới sự trị vì của Hán Cao Tổ , nhà Hán lúc này mới nhòm ngó tới Nam Việt và vua Hán muốn Nam Việt trở thành chư hầu của mình nên đã cử sứ sang phong vương cho Triệu Đà và bắt Triệu Đà phải thuần phục nếu ko sẽ mang quân sang đánh. Dưới uy vũ của " thiên triều " Triệu Đà chấp nhận sự phong vương của nhà Hán và nhận làm nước chư hầu. Nhưng sau khi Hán Cao Tổ qua đời , Triệu Đà liền tìm mọi cách tách ra khỏi sự khống chế của nhà Hán , thấy vậy " thiên triều " liền cho quân sang quyết " diệt tận gốc mối họa khôn lường " ( năm 183 TCN ) nhưng sau đó lại phải rút quân về nước ( 181 TCN ) do ko thể đánh được...
Sau đó một thời gian nhà Hán sau khi chấn chỉnh lại nội tình lại cho sứ sang chiêu hàng Triệu Đà , thấy nhà Hán lúc này thế mạnh khó chống lại Triệu Đà liền chấp nhận thư chiêu hàng và lại " giao hảo " với nhà Hán.... đến năm 131 TCN Triệu Đà quan đời , cháu đích tôn của Triệu lên nối ngôi lấy hiệu là Triệu Văn Vương nhưng do ko đủ tài đức nên Triệu Văn Vương phải cho con trai minh sang làm tin ở nhà Hán , đến năm 125 TCN Triệu Văn Vương mất thì Triệu Anh Tề ( con trai Triệu Văn vương ) mới đc về nước nối ngôi lấy hiệu là Triệu Minh vương. sau khi Triệu Minh Vương chết thì người con thứ của ông lên nối ngôi lấy hiệu là Triệu Ai Vương , mẹ của Triệu Ai vương là người gốc Hán đã dụ dỗ con trai sang chầu vua Hán. Lúc ấy đại thần của Nam Việt là Lữ Gia ngăn cản ko được liền nghịch phản giết chết cả hai mẹ con Triệu Ai Vương và lập người anh cùng cha khác mẹ của Triệu Ai Vương lên ngôi đồng thời gấp rút chuẩn bị chống quân Hán đang lâm le thôn tín Nam Việt. năm 111 TCN tướng của nhà Hán là Lỗ Bác Đức đem quân sang chiếm Nam Việt , Lữ Gia yêu thế bị quân Hán bắt ngay giữa trận tiền và bị chém bêu đầu làm gương cho quân Nam Việt sau đó quân Nam Việt nhanh chóng thua trận , Nam Việt bị sáp nhập vào nhà Hán...

thời kì thuộc nhà Tây Hán (tiêng Hán) ( từ 111 TCN đến 39 SCN )
Nhà Tây Hán chiếm đc Nam Việt liền đổi tên thành giao Chỉ chia ra thành các quận - huyện lị và cho quan là người Hán sang để dễ bề cai trị , đứng đầu là Thái Thú sau đó là Đô Úy và Thứ sử
ở cấp huyện thì vẫn do các Lạc tướng cai quản...
Thái thú người Hán ngoài hai người đầu tiên có công dạy dân ta trông lúa nước , chữ viết , đặt họ dân giao chỉ , lễ nghĩa... thì phần lớn đều tham tàn và bạo ngược vô cùng ngoài vơ vét sản vật cống nạp cho chính quốc thì chúng còn ra sức vơ vét của cải của nhân dân để đổ đầy túi riêng khiến nhân dân lầm than khôn cùng...
thời thuộc Đông Hán (hậu Hán ) và cuộc khởi nghĩa hai Bà Trưng ( 40-43 SCN)
sau nhà Tây Hán là nhà Tần nhưng triều đại này nhanh chóng bị diệt vong thay vào đó là nhà Đông Hán (25-220 SCN)...
năm 34 SCN Thái thú của Giao Chỉ lúc này là Tô Định , là một kẻ tham tàn vô đạo. Đứng trước tình cảnh của dân chúng lầm than như vậy Thi Sách con trai của lạc Tướng Châu Diên đã nuôi dưỡng ý chí phản Hán dành lại độc lập cho dân tộc , nhưng sự việc bại lộ , Tô Định giết Thi Sách để trừ họa. Lúc này vợ Thi Sách là Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị liền nối nghiệp chồng dựng cờ khởi nghĩa ở Hát Mô trên đất Mê Linh với lời thề mang nặng thù nhà nghiệp nước :
"Một xin rửa sạch thù nhà
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kẻo oan ức lòng chồng
Bốn xin vẹn vẹn sở công lênh này"

Tô Định thua chạy về TRung Quốc năm 40 SCN chấm dứt sự đô hộ của nhà Hán đối với Nam Việt lần thứ nhất. Hai Bà lên ngôi vua đóng đô ở Mê Linh (năm 40SCN) . Năm 41 danh tướng nhà Hán là Mã Viện mang quân sang đánh, cầm cự cho đến năm 43 thì Hai Bà thất trận chạy đến sông Hát Giang rồi trầm mình tự tử . Từ đó nước ta lệ thuộc Trung Hoa lần thứ hai .

( còn nữa )

LSB_VươngAnh
14-01-2005, 20:26
thời bắc thuộc ( tiếp theo )
thời thuộc Đông Hán (hậu Hán ) ( tiếp theo )

sau khi thắng được hai Bà Trưng và chiếm lại đất Giao Chỉ , Mã Viện Đưa Giao Chỉ trở về lệ thuộc nhà Đông Hán như cũ đồng thời đóng doanh trại tại Long Biên để đề phòng sự nổi dậy của dân Giao Chỉ... để dẹp yên lòng dân Mã Viện đã thu toàn bộ đồ đồng dùng để làm vũ khí của người dân rồi cho đúc thành một trụ đồng dựng ở trước phủ trị và khăc lên đó sáu chữ "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt"( Có nghĩa là nếu cây trụ đồng này đổ thì dân Giao Chỉ bị diệt vong) để dân ta ko dám phá trụ lấy đồng rèn vũ khí. Có thuyết cho rằng, do dân Giao Chỉ cứ mỗi lần đi ngang qua, đều bỏ vào chân cột một hòn đá, vì thế trụ đồng bị lấp dần đi. Về sau không còn biết vị trí của chiếc trụ đồng nữa là vì vậy ....
Rút kinh nghiệm từ trước Mã Viện tuy vẫn giữ nguyên các chức quan của người Hán ( Thái THú , Đô Úy , Thứ Sử ) nhưng lại bãi bỏ chức Lạc Tướng của dân Giao Chỉ , thay vào đó là các huyện lệnh người Hán. Chính sách cai trị của người Hán ngày một Hà Khắc đối với dân Giao Chỉ , chúng ko từ một thủ đoạn nào để vơ vét sản vật của nhân dân , người sống gần rừng thì phải vào rừng sâu nước độc để tìm thú quý , gỗ trầm , kẻ sống nơi biên cả thì phải lặn xuống biển sâu để mf ngọc trai... sưu cao , thuế nặng , đời sống nhân dân vô cùng cực khổ và điêu đứng...bên cạnh các chính sách kinh tế đó , để dân Giao Chỉ dần quên đi nguần gốc của mình người Hán còn thi hành một chính sách vô cùng thâm độc , đó là đồng hóa dân tộc. Nhà hán thi hành chính sách " sát phu hiếp phụ " một mặt chúng giết dần đàn ông Giao Chỉ , mặt khác chúng cho người Hán sang sống ở đất Giao Chỉ , cưới vợ Giao Chỉ ,
bắt nhân dân ta ăn mặc theo người Hán , hành sử theo người Hán.... nhưng mặc dù cố gắng đến mấy thì dân tộc ta vẫn giữ đc nết độc đáo riêng của bản sắc dân tộc mình , một mặt tiếp thu văn minh của người Hán , mặt khác biến cái của người thành của mình. Mặc dù bị đô hộ như vậy nhưng dân ta vẫn ko hề mất đi bản sắc riêng vốn có của mình... năm 203 Thái Thú Giao Chỉ lúc bấy giờ là SĨ Nhiếp vốn là người biết điều hơn lẽ phải , trung thành với thuyết nho giáo , đã ko ngừng giúp dân ta giữ gìn bản sắc dân tộc và trị an xã hội , ông đã dâng sớ lên vua Hán đổi tên Giao Chỉ thành Giao Châu và từ đó nước ta mang tên là Giao Châu

Thời thuộc nhà Ngô ( 229 -280 ) - cuộc khởi nghĩa của nữ tướng Triệu Thị Trinh ( 248 )

vào thời cuối đời nhà Đông Hán , vua Hán lúc ấy bạc nhược để cho loạn thần nhũng nhiễu , hoạn quan lộng hành. Trước là Đổng Trác sau là Tào Tháo làm loạn triều chính coi vua như bù nhìn , Trung Hoa lúc ấy loạn chiến triền miên , cuối cùng chia thành ba nhà là bắc Ngụy ( thuộc Tào Tháo ) , tây Thục ( thuộc Lưu Bị ) , đông Ngô ( thuộc Tôn Quyền ). Giao Chỉ lúc ấy rơi vào tay nhà Ngô , dưới chế độ hà khắc của quan cai trị đông Ngô đã nổ ra một cuộc khởi nghĩa do Triệu Trinh nương đứng đầu , làm cho quân Ngô phải xanh mật sợ hãi....
Hai thế kỷ sau cuộc khởi nghĩa của hai Bà Trưng là cuộc khởi nghĩa của Triệu Trinh Nương (còn gọi là Triệu Thị Trinh) cùng người anh là Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng lớn ở miền núi thuộc quận Cửu Chân.
Triệu Thị Trinh là người có sức khỏe, gan dạ và có chí khí, Bà vẫn thường nói: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh đạp đường sóng dữ, chém cá tràng kình ở biển Đông, quét sạch bờ cõi cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu cong lưng làm tì thiếp người ta". Bà theo anh khởi nghĩa lúc mới 19 tuổi, lập cứ tại vùng Thanh Hóa ngày nay.
Ngay cả tới sử Trung Hoa khi viết về Triệu Trinh Nương cũng phải hết lời ca ngợi " Triệu thị khi lâm trận cưỡi voi một ngà , tay cầm bảo kiếm , chân đi hài ngọc uy dũng vô cùng khiến quân sĩ khó lòng chống đỡ ".... và quân giặc do căm ghét mà gọi tên bà với giọng xách mé là " Triệu Ẩu " ( mụ Triệu ) ( đáng tiếc cái tên này có nhiều người Việt Nam hiểu lầm , khi đọc sử Trung Hoa thấy ghi vậy nên cũng gọi như vậy , trước kia còn có đường phố mang tên Triệu Ẩu trại miền Trung nhưng bây giờ thì chắc đã đổi lại )... Quân Ngô do ko thể đối chọi với bà đã tìm cách mua chuộc thuộc hạ của bà , Bà mất do bị ám sát ( có sách nói là nghĩa quân thất thế và bà đã tự vẫn ở núi Tùng ( Thanh Hóa ))...
Sau khi Triệu Trinh Nương mất phong trào cũng bị dập tắt nhanh chóng.Vào năm 264, nhà Ngô chia đất Giao Châu ra, lấy Nam Hải, Thương Ngô và Uất Lâm làm Quảng Châu, lấy đất Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam làm Giao Châu, đặt trị sở ở Long Biên. Đất Giao Châu này là lãnh thổ của Việt Nam về sau

Thời thuộc nhà Lương - cuộc khởi nghĩa của Lý Nam Đế - Nước Vạn Xuân (544-602)

vào nửa đầu thế kỉ thứ 6 , Trung Hoa phân làm Nam Triều và Bắc Triều , Nam Triều gồm ba nhà là Tống , Tề và Lương , đất Giao Châu nằm dưới sự thống trị của nhà Lương. Thứ sử Giao Châu là Tiêu Tư, nổi tiếng tham lam, tàn ác. Có được một cây dâu cao một thước, người dân cũng phải đóng thuế. Thậm chí có người nghèo khổ, phải bán vợ, đợ con, nhưng cũng phải đóng thuế.
Trước tình cảnh khốn cùng đó ,Lý Bí, một người quê ở huyện Thái Bình (không phải thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay) đứng lên chiêu tập dân chúng mở ra cuộc khởi ngãi dành lại độc lập cho dân tộc . Ông đã từng giữ một chức quan nhỏ với nhà Lương, cố gắng giúp đỡ những ai bị hà hiếp, nhưng không làm được việc gì đáng kể, bèn bỏ quan trở về quê nhà và cùng người anh là Lý Thiên Bảo mưu khởi nghĩa. Ông được nhiều người theo. Trong đó có Thủ lĩnh đất Chu Diên (vùng Đan Phượng-Từ Liêm, thuộc Hà Tây và ngoại thành Hà Nội) là Triệu Túc và con là Triệu Quang Phục (?-571) đem lực lượng của mình theo về. Ngoài ra còn có những nhân vật nổi tiếng khác cũng kéo đến giúp sức như Tinh Thiều, Phạm Tu, Lý Phục Man..

Mùa xuân năm 542, Lý Bí tiến quân vây thành Long Biên. Quân Lương đầu hàng còn Tiêu Tư thì trốn thoát về được Trung Hoa. Cuộc khởi nghĩa thành công. Vua nhà Lương vội đưa quân sang nhưng bị đánh bại.

Năm 544, Lý Bí lên ngôi hoàng đế, xưng là Lý Nam Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, lấy niên hiệu là Thiên Đức, Lý Nam Đế đặt kinh đô ở miền cửa sông Tô Lịch, dựng điện Vạn Xuân để vua quan có nơi hội họp. Nhà vua còn cho dựng chùa Khai Quốc (sau này là chùa Trấn Quốc ở Hồ Tây, Hà Nội).

( còn nữa )

welcome1020002000
31-01-2005, 17:03
Chào huynh ! vì bài viết cua huynh khá dài nên tui đây xin phép được bàn luận với huynh từng mảng nhỏ một trong bài viết này nhé. Trước hết tui xin bàn với huynh về họ HỒng Bàng-Hùng Vương_An Dương Vương. TRước hết tui xin nói với huynh một điều là lịch sử nước ta không hề có tới 4000 năm như người ta vẫn thường nhắc tới trong sách vở . Hiện nay , chúng ta đàn có một chương trình lớn do GS. Phan HUy Lê đứng đầu vơi mục đích là xem xét lại lịch sử Việt Nam thời cổ và trung đại.Huynh khônh nên khẳng định một cach tự do như vậy về lịch sử VIệt Nam.Thử hỏi nếu nước ta có 18 đời vua Hùng thì mỗi ong vua ấy sẽ sống thọ bao nhiêu tuổi,nếu nói như huynh thi tui co thể tính được rằng thời đại của các vua Hùng kéo dài hơn 2 nghìn năm như vậy là huynh đã sai mà lịch sử thì luôn đòi hỏi tính chính xác.Theo tôi , thơu đại các Vua Hùng la khônh hề có thật, trong cuốn sách Đại Việt Sử KÍ Toàn Thư của NGô Sĩ Liên cũng đă từng nhắc tới thời HÙng Vương nhưng tới thời đại ngày nay nhờ có sự phát triển của khoa học lịch sử va đặc biệt là sự phát triển của khảo cổ học và nghành nhân học chúng ta hoàn toàn có đủ căn cứ để nói rằng thời đại của các vua HÙng la trùng hợp với thời đại của văn hoá Đông Sơn và một số nền văn hoá khác như SA Huỳnh, Đồng Đậu , Gò Mun... vả lại nếu có sự ra đời cảu nhà nước thì phải co chữ viết mà chúng ta thì chưa.NHư vậy la tui đă có đủ căn cứ để khẳng định với huynh điều mà huyng nói là không đúng.

Mập
31-01-2005, 19:43
Về nước Văn Lang ở thời Hùng Vương thì gồm ba tỉnh bây giờ là Thanh Hóa , Nghệ An và Hà Tĩnh đóng đô ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Vĩnh Yên , dưới Hùng Vương là các Lạc Tướng và Lạc Hầu

Lão chả biết lịch sử lắm nhưng mà thấy câu này có vẻ không ổn. Sao thủ đô lại nằm ra ngoài đất nước vậy?

Ngọc Sơn Phu Tử
22-02-2005, 16:48
Tại hạ xin chào các vị huynh đệ bằng hữu.

Tại hạ cũng xin được đưa một vài ngu kiến của mình để làm cho hội quán này thêm phong phú. Tuy nhiên tầm hiểu biết cũng có hạn, nếu có gì sơ suất hay huý phạm thì mong các vị bằng hữu bỏ quá.

Nguyên văn gởi bởi LSB_VươngAnh
"Về nước Văn Lang ở thời Hùng Vương thì gồm ba tỉnh bây giờ là Thanh Hóa , Nghệ An và Hà Tĩnh đóng đô ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Vĩnh Yên."

Theo thiển ý của tại hạ thì điều này có vẻ không đúng. Với tầm hiểu biết của mình tại hạ xin được đưa ra ngu ý như sau:

Nước Văn Lang thời Hùng Vương gồm 15 bộ là:
Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức, Văn Lang.

Trong Dư địa chí của Nguyễn Trãi thì viết 15 bộ đó như sau:
- Sơn Nam (bây giờ là Hà Nội, Nam Định, Hưng Yên) xưa là Giao Chỉ
- Sơn Tây xưa là bộ Chu Diên, bộ Phúc Lôc.
- Kinh Bắc (nay là Bắc Ninh) xưa là bộ Vũ Ninh.
- Thuận Hóa (bây giờ là từ Hải Lăng thuộc Quảng Trị đến Điện Bàn thuộc Quảng Nam) xưa là bộ Việt Thường.
- An Bang (bây giờ là Quảng Ninh) xưa là bộ Ninh Hải.
- Hải Dương xưa là bộ Dương Tuyền.
- Lạng Sơn xưa là bộ Lục Hải.
- Thái Nguyên, Cao Bằng xưa là bộ Vũ định nội ngoại.
- Nghệ An xưa là bộ Hoài Hoan.
- Thanh Hóa xưa là bộ Cửu Chân.
- Hưng Hóa và Tuyên Quang xưa là bộ Tân Hưng.
- Bình Văn (chỗ này thì tại hạ chưa biết, để về nhà tìm lại đã) :D
- Cửu Đức nay là đất Hà Tĩnh.
- Hồ tôn là nước Chiêm Thành, bây giờ là đất Bình Định.



Còn về việc diệt vong của họ Hùng thì theo "Khâm định Việt sử thông giám cương mục" nói rằng:

Trước kia, Hùng Vương có con gái gọi là Mị Nương. Thục vương nghe tin, sai sứ đến cầu hôn.
Hùng Vương muốn gả cho, nhưng Lạc Hầu can rằng: "Ý nó muốn toan tính ta đây, chẳng qua mượn tiếng cầu hôn đó thôi". Thành thử việc đó thôi hẳn. Thục vương căm giận lắm, dặn con cháu sau thế nào cũng phải diệt nước Văn Lang. Đến bấy giờ, cháu là Thục Phán có sức mạnh và mưu lược, nhiều lần đem quân đánh Hùng Vương. Hùng Vương quân giỏi, tướng mạnh, hễ ra đánh, quân Thục thua liền. Hùng Vương nói: "Ta đây có thần lực, Thục không sợ ư?". Rồi cứ lề mề chè chén để mua vui, không lo đến việc vũ bị. Quân Thục kéo đến, Hùng Vương hãy còn say mềm chưa tỉnh. Kịp khi giặc đến gần, bức bách gấp rồi, nhà vua thổ ra huyết, gieo mình xuống giếng; còn quân thì quay giáo đầu hàng. Nước Văn Lang mất.

Lại nói về gốc tích nhà Thục:
Nhà Thục chép trong sử cũ thì không phải là nước Thục (Tứ Xuyên) ở bên Tàu. Vì theo sử Tàu thì thời đó đất Ba Thục đã thuộc về nhà Tần cai trị rồi, làm gì còn ông vua nào nữa. Khi Thục Phán lấy được Văn Lang thì gộp cả đất Thục và đất Văn Lang thành nước Âu Lạc.
Tại hạ cho rằng có thể Thục vương có thể là tộc trưởng của bộ lạc Âu Việt(không biết cái tên này đọc ở tài liệu nào đó bây giờ không nhớ nữa) ở gần đâu đó xung quanh bộ lạc Lạc Việt do Hùng Vương cai quản. Có thể trung tâm của bộ lạc Âu Việt là vùng Cao Bằng ngày nay.

Lại nói về dân Bách Việt :
Thời Hùng Vương có rất nhiều bộ tộc Việt sinh sống ở vùng phía Nam và Tây nam Trung Quốc, và cả vùng phía Bắc Trung Bộ cho đến Bắc Bộ Việt Nam ngày nay. Gọi là Bách Việt
ví như: Việt ở Chiết Giang
Mân Việt ở vùng Phúc Kiến
Dương Việt ở vùng Giang Tây
Nam Việt ở vùng Quảng Đông
Lạc Việt của Văn Lang (Hùng)
Âu Việt -Tây Âu ở vùng Cao Bằng (Thục)
.......

Nói về vết tích của vương triều nhà Triệu(Nam Hán) còn trên đất Việt Nam.
Theo sự chứng kiến tận mắt của tại hạ thì hiện nay tai khu du lịch chùa Thầy (Hà Tây) có một cái hang gì đó (hình như là Cắc cớ :D - Không biết có chính xác không) khá sâu. Trong đó có một bàn thờ nhỏ thờ tể tướng Lữ Gia nhà Nam Hán. Không tin thì các huynh đệ cứ lên chùa Thầy vào hang đó mà xem.

Tại hạ chỉ biết có thế thôi - mong được chỉ giáo thêm.

LSB_VươngAnh
24-02-2005, 12:35
Vương mỗ cũng chỉ là người đọc sử nên sách viết thế nào thì mỗ viết vậy ( tất cả từ sách mà ra phải ko :D ) và cũng do trí nhớ có phần hạn hẹp nên có đôi chỗ sai sót... mong huynh đệ đóng góp thêm... và nhân tiện ai đó viết tiếp phần còn lại hộ mỗ vì dạo này bận nghiện ngập MU nên ko có thời gian dùi mai kinh sử :D ... mong huynh đệ thông cảm.

LSB_thưsinhlưumanh
24-02-2005, 13:17
truyền đc 5 đời là :
- Triệu Vũ Vương
- Triệu văn Vương
- Triệu Minh Vương
- triệu Ai Vương
- Triệu... ko nhớ



đời thứ năm lấy hiệu là Triệu Dương Vương .... một ông vua khá có chí nhưng hơi bất tài

Ngọc Sơn Phu Tử
25-02-2005, 10:32
Vương mỗ cũng chỉ là người đọc sử nên sách viết thế nào thì mỗ viết vậy ( tất cả từ sách mà ra phải ko :D )


Chết chết!!!! Vương huynh à, nếu đọc sử thì phải nhớ chính xác chứ ;) . Không thể nhớ sai được, cứ như ý huynh thì sẽ ra cái gì đây? cứ "tam sao thất bản ", thì cuối cùng nó sẽ ra cái gì đây? :p



Viết về lịch sử cổ đại việt nam thì nhiều lắm, không có thời gian mà "pót" bài lên thôi. Tại hạ đây cũng chẳng qua chỉ là khách giang hồ, viếng thăm sơn trại. Thấy anh em đàm đạo về sử sách thì ghé vào góp thêm vài ngu ý.

Dân ta thì phải biết sử ta. Huynh đệ nào có thời gian và biết về Việt sử thì tranh thủ "pót" bài lên cùng đọc và ngẫm nghĩ. Ai có bình luận gì thì cứ đem lên. Thế mới hay chứ.
Đây là sơn trại nên huynh đệ cứ thoải mái trình bày ý kiến. :p

Ngọc Sơn Phu Tử
09-03-2005, 11:36
chào các hạ
các hạ cố gắng sưu tầm và đăng bài cho ngu mỗ này được rửa mắt
đa tạ các hạ


Tại hạ đây đâu dám múa rìu qua mắt thợ.
Tuy nhiên nếu các huynh đệ thích thì ngu mỗ này cũng xin phép "pót" bài cho mọi xem .

Tại hạ chỉ nhớ sơ sơ thôi, vì thế có thể nhớ không chính xác được các sự kiện.
Nếu có đoạn nào sai thì xin khảo đính dùm.

Đây là một số cuốn sử hoặc chuyện dã sử mà tại hạ có biết qua:

1- Sử
- An Nam Chí Lược
- Đại Việt Sử Kí Toàn Thư
- Đại Việt Thông Sử
- Quốc Triều Chánh Biên
- Việt Sử Tiêu Án
- Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục
- Thiền Uyển Tập Anh
- Đại Việt Sử Lược
- Lam Sơn Thực Lục
- Việt Nam Sử Lược

2 - Dã Sử cổ
- Hoàng Lê Nhất Thống Chí
- Hoan Châu Kí
- Nam Triều Công Nghiệp Diễn Chí
- Nam Ông Mộng Lục
- Trùng Quang Tâm Sử
- Việt Lam Xuân Thu

Các hạ thích thể loại nào thì để tôi " pót" lên. Tuy nhiên cũng xin nói trước là thỉnh thoảng ngu mỗ mới vào diễn đàn. Mà mất thời gian lắm.

Một số tác phẩm ở trên các hạ cũng có thể tìm được trên internet. Cứ dùng cái anh chàng "gút - gồ" là có thể tìm được.

Nếu huynh đệ nào có nhiều "xiền" thì có thể mua quyển này mà đọc:
"Tổng Tập Tiểu Thuyết Chữ Hán Việt Nam"

Hầu như các tiểu thuyết cổ của việt nam có hết ở trong quyển đó. Tại hạ cũng nói trước, đó chỉ là tổng tập về văn học , xen lẫn tiểu thuyết lịch sử chương hồi.

:p

Mask
09-03-2005, 20:33
...Các hạ thích thể loại nào thì để tôi " pót" lên. Tuy nhiên cũng xin nói trước là thỉnh thoảng ngu mỗ mới vào diễn đàn. Mà mất thời gian lắm...
Huynh đài có thể giới thiệu một chút về "Hoan Châu Ký" và "Trùng Quang Tâm Sử" được không?
Tôi có một công việc nhỏ, có liên quan đến lịch sử, nên cần tư liệu. Nhưng hiện tại lại không thể tự mình đi tìm hay mua được, mà phải nhờ một bằng hữu. Vì thế muốn biết rõ hơn chút về hai bộ sách đó, để mô tả cho người bằng hữu.
Huynh đài chịu bớt chút thời gian mà giới thiệu thì cảm ơn huynh đài lắm!

Ngọc Sơn Phu Tử
10-03-2005, 13:59
Huynh đài có thể giới thiệu một chút về "Hoan Châu Ký" và "Trùng Quang Tâm Sử" được không?
Tôi có một công việc nhỏ, có liên quan đến lịch sử, nên cần tư liệu. Nhưng hiện tại lại không thể tự mình đi tìm hay mua được, mà phải nhờ một bằng hữu. Vì thế muốn biết rõ hơn chút về hai bộ sách đó, để mô tả cho người bằng hữu.
Huynh đài chịu bớt chút thời gian mà giới thiệu thì cảm ơn huynh đài lắm!


Trời đất ơi ! Té ra vẫn còn nhiều người đàm đạo về lịch sử "Con rồng cháu tiên " đấy chứ !

Nghe các hạ nói thế làm tôi sướng quá :p

Để ngu mỗ giới thiệu qua về hai tác phẩm đó.

Nói về Hoan Châu ký.

Hoan Châu ký là một tiểu thuyết chương hồi vào loại cổ nhất nước ta do một người không rõ tên thuộc họ Nguyễn Cảnh ở Nghệ An viết ra, viết vào khoảng cỡ những năm 1696. Thế nên không có tên tác giả chính thức mà nó là của chung của dòng họ Nguyễn Cảnh, vì vậy có tên là Nguyễn Cảnh thị.

Đó là một cuốn sách viết về lịch sử một dòng họ (họ Nguyễn Cảnh ở Nghệ An) đã cung cấp nhiều nguont tài liệu cụ thể, phong phú, có giá trị bổ sung cho nội dung các bộ sử chính thức viết về thời kỳ Lê Trung Hưng. Giá trị của Hoan Châu ký là ở chỗ tuy là một "gia phổ", "tộc phổ", chép về tám thế hệ đầu của dòng họ Nguyễn Cảnh ở Nghệ An, nhưng vì đây là một dòng họ "bốn lớp trung cần", "tám đời nhân nghĩa" nên đã gắn chặt lịch sử riêng của một dòng họ vào lịch sử chung của cả một dân tộc.
Hình như vừa đựoc Unesco hỗ trợ tái bản lại.

Dịch giả là Nguyễn Thị Thảo.

Huynh đài có thể vào đây đọc thêm

http://www.unet.org.vn/news/news_detail.asp?ID=118



Nói về Trùng Quang Tâm Sử

Đây là tác phẩm của của Phan Bội Châu viết về cuộc kháng chiến chống quân Minh đời Hậu Trần. Thời Trần Quý Khoáng, Trần Ngỗi, Nguyễn Cảnh Chân, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung, Đặng Tất.......
Tác phẩm này được Phan Bội Châu viết ra và xuất bản ở Trung Quốc vào những năm 1921 đến 1925.


Hai tác phẩm trên nằm trong bộ "Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam". Hình là tập 3 hay tập IV gì đó. Nói chung là nằm trong khoảng tập I đến tập V.
Ngu mỗ đọc lâu quá rồi không nhớ nó nằm ở tập nào nữa.

P/S: Huynh đài cần những quyển sách đó để nghiên cứu về ai vậy?

Mask
10-03-2005, 21:14
Cám ơn huynh đài nhiều! Thật không chiếm quá nhiều thời gian của huynh đài đấy chứ?:p

Bài giới thiệu sơ qua thế là quá tốt rồi. Đủ để nhanh chóng tìm ra mà không phải cực khổ mò giữa tầng tầng lớp lớp đống sách cũ :D


P/S: Huynh đài cần những quyển sách đó để nghiên cứu về ai vậy?
Không hẳn là nghiên cứu về ai, chỉ là tôi và một người bạn đang có ý định viết một câu chuyện (đúng hơn là một kịch bản), có liên quan đến lịch sử, nên muốn đọc, tham khảo nhiều sách lịch sử chút, hy vọng tìm hay nảy ra được vài ý tưởng hay ho nào đó!
Cám ơn huynh đài lần nữa ha!

Ngọc Sơn Phu Tử
14-04-2005, 14:00
Hôm nay rảnh rỗi thời gian, tranh thủ post it tài liệu cho anh em đọc!
Đầu tiên tại hạ xin chọn An Nam Chí Lược của Lê Tắc để "pót"

Nếu có gì sai thì khảo đính dùm tại hạ

Tựa sách: An Nam Chí Lược
Soạn giả: Lê Tắc - 1335
Dịch giả: Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam 1960
Nhà xuất bản: Viện Đại Học Huế 1961


Lời Giới Thiệu
Song song với công việc biên mục Châu bản triều Nguyễn, Ủy ban Phiên Dịch Sử Liệu Việt-Nam đã lập một kế hoạch riêng để hiệu đính và phiên dịch các bộ sử Việt Nam. Theo kế hoạch dự định ấy, các phiên dịch viên trong Ủy ban đã tham khảo các truyền bản tàng trử tại các thư viện Nhật Bản, Trung Hoa và Anh Quốc, làm xong một hiệu bản của bộ An Nam Chí Lược và hoàn thành một bản phiên dịch Việt văn.

Nói về cuốn An Nam Chí Lược, ai ai cũng biết rõ soạn giả Lê Tắc là một tên phản bội với Tổ quốc. Trong lúc nước nhà đang gặp ngoại xâm, xã tắc nguy cấp, nhân dân đau khổ, Lê Tắc cùng bọn Trần Kiện và Trần Ích Tắc, không những không chịu gắn sức phấn đấu để cứu nước cứu dân, trái lại nhẩn tâm và làm tôi địch. Hơn nữa, trong bộ An Nam Chí Lược, Lê Tắc quên mình là người Việt, dựa vào lập trường và quan điểm người Nguyên để soạn tập. Chẳng hạn, như những lời nịnh nọt a dua của soạn giả, những đoạn văn kiêu ngạo tự tôn tự đại trình bày trong các chiếu chỉ nhà Nguyên và trong các bài
tựa các danh nhân hồi ấy, đều khiến cho chúng ta vô cùng uất ức và đau đớn.
Sở dĩ Ủy ban lấy bộ An Nam Chí Lược làm công việc phiên dịch đầu tiên, là vì bộ ấy có lẽ là bộ sử xưa nhất do một cá nhân người Việt soạn ra, và gồm có nhiều sử liệu đáng quý có liên quan đến cổ sử và trung sử Việt Nam, chứ không phải Ủy ban có chút định nào dung thứ những hành động và quan niệm sai lầm của soạn giả đối với tổ quốc. Nói khác, chúng tôi coi cuốn sách này là một sử liệu, là một đối tượng cho cuộc nghiên cứu sử học thuần túy, bởi vậy, thành thực muốn cung cấp một bộ hiệu bản và
bản dịch đáng tin cậy cho học giới mà thôi.
Trong hai nghìn năm quốc sử, chúng ta không thể không công nhận rằng còn nhiều chỗ thiếu sót, mơ hồ, đang chờ đợi sự cố gắng của sử gia Việt Nam, để bổ túc hoặc xác định lại. Vậy, điều cần thiết cho nền sử học Việt Nam ngày nay là gây phong trào nghiên cứu theo phương pháp khoa học, nhất là về phương diện sưu tầm và khảo đính sử liệu, chúng ta nên tìm cách nâng đỡ và xúc tiến. Căn cứ vào quan điểm ấy, bộ hiệu bản và bản dịch này là một thực hiện mới của nền sử học tại Việt Nam, và sẽ đem lại rất nhiều bổ ích cho công việc tìm tòi sự thực trong quốc sử.


Quyển Đệ Nhất

Cổ-Ái Đông-Sơn Lê-Tắc Biên Tống Tự
Từ xưa nước An-Nam thông giao với Trung-Quốc, thời vua Chuyên-Húc, phía bắc đi tới U-Lăng, phía nam đi tới Giao-Chỉ. Vua Đế-Nghiêu sai Hy Hoà qua ở đất Nam-Giao, vua Thuấn sai Vũ qua Nam yên-vỗ Giao-Chỉ. Qua đời Chu-Thành-Vương (1115-1079 trước công nguyên), họ Việt-Thường qua chín
lần thông-ngôn, tới cống-hiến mà nói rằng: "Trời không có gió bảo, không mưa dầm, ngoài biển không nổi sóng dữ đã ba năm nay, có lẽ ở Trung-Quốc có đấng thánh-nhân trị-vì, sao chẳng tới chầu?". Lúc bấy giờ, Chu-Công đặt bài ca, đánh đàn thuật chuyện họ Việt-Thường tới chầu: "Ô hi ta ta! Phi Đán chi lực, Văn-Vương chi đức", nghĩa là: ôi ôi! vui thay, cảnh-tượng thái-bình không phải nhờ sức của Đán (tên của Chu-Công) mà là nhờ đức của vua Văn-Vương. Nước Việt-Thường, tức đất Cửa-Châu, ở phía nam Giao- Chỉ.
Quyển Hán-Quan-Nghi của Ứng-Thiện chép rằng: "trước tiên Trung-Quốc mở mang từ "sóc" (phương bắc), rồi sau tiến sang phương nam lấy làm "cơ chỉ". Hiện nay, các sách viết chữ "chỉ" _____(cái nền) là viết sai.

Nhà Tần (246-207 trước công nguyên) lấy Giao Chỉ làm Tượng-Quận; đến khi nhà Tần loạn thì Đô-uý quận Nam-hải là Triệu-Đà nổi binh đánh lấy hết các quận quốc, rồi tự lập làm vua. Khi ấy, Hán- Cao-Tổ sai Lục-Giả qua lập Đà làm Việt-Vương. Sau khi Cao-Tổ băng, Cao-Hậu cấm Nam-Việt mua đồ sắt
của Trung-Quốc, Đà tiếm hiệu xưng đế, rồi phát quân đi đánh Trường-Sa. Văn-đế lại sai người đưa thư qua trách Đà. Đà có ý sợ, bèn bỏ hiệu đế, nguyện làm tôi và cống hiến phẩm vật.

Năm Kiến-Nguyên thứ 3, (vua Võ-đế, 142 trước công nguyên) Đà mất, con cháu họ Triệu truyền xuống bốn đời, kể được hơn chín mươi năm.
Võ-đế sai Chung-Quân đi sứ qua Nam-Việt để dụ vua Việt tên là Hưng vào chầu, Hưng muốn đi, nhưng bị tướng Lữ-Gia can ngăn, vua không nghe, Gia làm phản, nổi binh đánh giết vua và cả sứ-gả nhà Hán, lập Kiến-Đức là anh khác mẹ lên làm vua Nam-Việt.

Năm Nguyên-Đinh thứ 5 (112 trước công nguyên), Vệ-Uý là Lộ-Bác-Đức xuất mười vạn quân qua đánh Nam-Việt, năm thứ sáu, mới đánh bại người Việt, lấy đất đó chia làm các quận: Nam-Hải, Thương- Ngô, Uất-Lâm, Hợp-Phố, Giao-Chỉ, Cửu-Chân, Nhật-Nam, Châu-Nhai và Đam-Nhỉ, mỗi quận đặt Thái-thú
để cai trị.
Qua nguyên-niên Sơ-nguyên của Nguyễn-Đế (48-33 trước công nguyên), bãi bỏ hai quận Châu- Nhai và Đam-Nhỉ, còn lại bảy quận, kể cả Giao-Chỉ. Khi đầu, Giả-Quyên-Chi tâu rằng: Châu-Nhai, ĐamNhỉ, đều ở hải ngoại; xứ ấy thường cậy thế hiểm trở mà làm phản, đến lúc dụng binh tới dẹp, thì chỉ có
miếng đất vô dụng mà thôi, nếu bỏ đi cũng không đáng tiếc. Vua Hán bèn hạ lời chiếu bãi bỏ.

Nhan-Sư-Cổ nói: bảy quận đều thuộc về Giao-Châu, theo chế độ nhà Hán, các quận thuộc châu, nên đặt Thứ-sử Giao-Châu để cai-trị chung.
Năm Kiến-Võ thứ 16 (40 sau công nguyên), đời vua Hán Quang-Võ, có người đàn bà Giao-Chỉ tên là Trưng-Trắc làm phản, năm thứ 19 (43), sai Mã-Viện qua đánh dẹp yên, rồi dựng trụ đồng để làm giới hạn nhà Hán.

Năm Kiến-An thứ 15 (210), Hiến-Đế dời chỗ cai trị qua quận Nam-Hải.
Vương-Phạm nói: chỗ quận trị của quan Thứ-sử ở đất Giao-Châu, cuối đời Hán, đổi qua Nam- Hải, khi Tôn-Quyền mới được ấn mạng của nước Nguỵ, cũng cầm cờ mao tiết làm tổng-đốc Giao-Châu và kiêm lĩnh Kinh-Châu. Tôn-Tư làm Giao-Chỉ Thái-thú quá tham bạo, bị quận lại Lữ-Hưng giết, các quận
Cửu-Chân và Nhật-Nam đều phản, và hàng nhà Tấn.
Tôn-Quyền thấy Giao-Chỉ ở xa, bèn chia Giao-Châu đặt Quảng-Châu và dời quận trị của Giao- Châu qua Long-Biên.
Nguyên niên Kiến-Hoành (269), vua nước Ngô là Tôn-Hạo sai các tướng là Tiết-Hủ, Đào-Hoàng qua thu phục Giao-Chỉ, giết các tướng do nhà Tấn đặt ra, như vậy đất Cửu-Chân lại thuộc về Ngô. Đến lúc nước Ngô mất, Giao-Châu trở về nhà Tấn, trải qua các triều: Tống, Tề, Lương, Trần, Tuỳ, Đường đều để y như cũ, chỉ cải tên Cửu-Chân làm Ái-Châu, Nhật-Nam làm Hoan-Châu, đều thiết Thứ-Sử, hoặc đặt Giao-Châu tổng-quản hoặc An-Nam đô-đốc để thống trị. Qua đời Đờng mới chia Lĩnh-Nam làm đông tây đạo, đều đặt Tiết Độ-Sứ, lại đặt ra năm quận: Quế, Quản, Ung, Dung và An-nam, đều thống thuộc Đông-đạo, về phận Tây-đạo, thì đặt An-nam đô-hộ kiêm cả ngũ quản. Kinh-Lược-Chiêu-Thảo-Sứ là Trương-Bá-Nghi đắp La-Thành tại An-nam, công trình chưa xong, đến năm Nguyên-Hoà thứ 3 (808), đô hộ là Trương-Chu đắp tiếp thêm mới hoàn công. Lâm-Tư nói rằng: La-Thành chu-vi 2000 bước, tốn hết 25 vạn công.

Đến đời vua Tuyên-Tông, niên hiệu Đại-Trung (847-859) có viên đô-hộ cai trị không được đứng đắn, đãi dân bằng lối bạo ngược, họ bèn liên-kết với rợ Nam-Chiếu, trở lại đánh phủ An-nam, cuộc rối loạn chém giết kéo dài luôn mấy năm không thôi. Năm Hàm-Thông thứ 3 của vua Y-Tông, (682), nước
Nam-Chiếu đánh hãm La-Thành; viên Kính-Lược-Sử Thái-Tập bị chết, vua sai Cao-Biền làm chức đô-hộ, đem quân đánh khôi phục phủ thành, chém tướng mọi là Đoàn-Tù-Thiên và bọn quân mọi hơn 30.000 cái đầu; rồi tu bổ La-Thành lại, cải xưng đô-hộ-phủ Tịnh-Hải-Quân. Biền được trao cho làm chức Tiết-Độ- Sứ.

Kịp dời Ngũ-Đại, các người thố hào ở các Châu Giao, Ái là Khúc-Hạo, Dương-Diên-Nghệ, Kiều- Công-Tiện, v.v... thay nhau dùng võ lực cướp quyền.
Tướng cũ của Nghệ là Ngô-Quyền bèn giết Công-Tiện mà tự lập làm vua, truyền được vài đời, đến khi Ngô-Xương-Văn chết, thì có bộ thuộc là Ngô-Bình (tức Lữ-Xữ-Bình), dành làm vua; Đinh-Bộ-Lĩnh giết Ngô-Bình, lãnh nước Giao-Chỉ, tự xưng là Vạn-Thắng-Vương, lại tự ý cho con Liễn làm Tiết-Độ-Sứ.
Đầu nhà Tống, Liễn khiến Sứ nhập cống, Thái-tổ phong Bộ-Lĩnh làm Giao-chỉ Quận-Vương và hạ chiếu cho Liễn làm Tiết-Độ-Sứ An-nam đô-hộ. Sau Liễn và cha đều mất, em là Triền kế lập thì bị Thái- Hiệu Lê-Hoàn phế bỏ và cướp ngôi. Lê-Hoàn giả làm tờ biểu dâng vua nhà Tống, nói rằng:
Triền khiến Hoàn thay làm vua. Thái-Tông nhà Tống bèn phong Hoàn làm vua. Nhà Lê truyền được ba đời, cộng ba mươi năm, bị Lý-Công-Uẩn cướp ngôi. Vua Chân-Tông lại phong Công-Uẩn làm Giao-Chỉ Quận-Vương.

Năm Long-Hưng thứ 2 của Hiếu-Tông (1164), Lý-Thiên-Tộ sai sứ nhập cống, được vua Tống phong làm An-nam quốc-vương, tên nớc An-nam bắt đầu từ đó.
Họ Lý truyền ngôi được tám đời, không có con trai, do con gái là Chiêu-Thánh nối ngôi.
Trong năm Canh-Dần niên hiệu Thiệu-Định nhà Tống (1230), Chiêu-Thánh nhường ngôi cho chồng là Trần-Nhật-Cự (tức Trần-Cảnh), vua Tống lại phong Nhật-Cự làm An-nam Quốc-Vương.

Năm Quý-Sửu (1253), Đại-Nguyên đã dẹp yên Vân-Nam, đến mùa đông năm Đinh-Tỵ (1257), sai Đại-Soái là Ngột-Lương Hợp-Đãi đem quân qua biên-giới An-nam, do đường Quảng-Tây để hội binh đánh nhà Tống; quân-đội nhà Trần chống cự, không được thắng, bèn nạp khoản xưng thần, rồi khiến bồi-thần
dâng lời biểu và thường năm qua cống hiến phẩm vật.

Đến năm Tân-Dậu niên-hiệu Trung-Thống (1261), vua Thế-Tổ Hoàng-Đế lại phong họ Trần làm vua An-nam; qua năm Đinh-Sửu, hiệu Chí-Nguyên (1277), vua Trần mất, Thế-Tử (tức Nhật-Hoảng), không xin sắc-mạng, mà tự lập làm vua, nên vua sai Thượng-Thư bộ Lễ là Sài-Thung sang mời nhập triều; vua Trần mượn cớ có tật không đi. Qua năm sau, lại lấy cớ có tật không đi, sai quốc-thúc là Trần-Di-Ái sang triều-kiến. Thế-Tổ viện cớ vua có bịnh, bèn lập Di-Ái làm vua.

Năm Tây-Tỵ (1281), sai Sài-Thung nhận chức An-nam-Hành Tuyên-Uý-Sứ Đô-Nguyên-Soái, xuất binh 1000 người, đưa Di-Ái về nước, đi đến địa-giới Vĩnh-Bình, An-nam không chịu nhìn nhận, Dị-Ái sợ, ban đêm trốn về, chỉ sai bồi-thần thay mặt tiếp rước Sài-Công vào nước, tuyên lời dụ chỉ của vua rồi trở về.
Năm Nhâm-Ngọ, hiệu Chí-Nguyên (1282), quan Hữu-Thừa là Toa-Đô cầm quân qua đánh thâu Chiêm-Thành, triều-đình sai sứ yêu-cầu vua An-nam cho mượn đường tiến binh, và giúp quân lương, Thế-Tử (tức vua Trần) không chịu. Đến mùa đông năm Giáp-Thân, hiệu Chí-Nguyên (1284), vua sai
Trấn-Nam-Vương Thoát-Hoan và quan Bình-Chương là A-Lý-Hải-Nha tiến tới biên giới, Thế-Tử kháng cự, thua chạy, em là Ích-Tắc, quy thuận vào chầu, vua thương tình, phong Ích-Tắc làm An-nam quốc-vương, lại phong cận-thần là Trần-Tú-Viên làm Phụ-Nghĩa-Công, các quan lại đi theo cũng đều cho tước-vị.
Năm Đinh-Hợi, hiệu Chí-Nguyên (1287), Thế-Tổ sai Trấn-Nam-Vương và quan Bình-Chương là Áo-Lỗ-Xích cầm quân qua bình-định An-nam, khi quân kéo đến, Thế-Tử đánh thua, chạy trốn ngoài hòn đảo ở giữa biển. Qua mùa xuân, tháng ba, năm sau, Trấn-Nam-Vương thấy khí-hậu nước An-nam quá
nóng-nực độc-địa, bèn kéo quân về.

Trong năm Quý-Tỵ hiệu Chí-Nguyên (1293), vua lại sai Đại-Vương Ích-Cát-Liệt-Đải và quan Bình- Chương là Lưu-Nhị-Bạt-Đô, v.v... qua đóng đồn tại đất Việt, để chờ qua năm là năm Giáp-Ngọ (1294), trong khoảng mùa thu thì tiến binh. Nhưng tháng giêng năm ấy vua Thế-Tổ băng; qua tháng tư mùa hạ,
Thành-Tông Hoàng-Đế lên ngôi, hạ chiếu bãi binh, lại khiến quan Thị-Lang bộ Lễ là Lý-Hản, quan Lang- Trung là Tiêu-Thái-Đăng đi sứ qua An-nam tha tội cho Thái-Tử An-nam và dẫn sứ-thần An-nam là Đào-Tử-Kỳ về nước để tuyên lời dụ-chỉ. Lúc đó, Thế-Tử đã mất từ mấy năm, nên con vua suất các quan liêu ra đón, đặt bàn xông trầm, trông về cửa khuyết (nước Nguyên) mà lạy tạ ơn. Lại khiến bồi-thần qua dâng lời biểu chúc mừng, xin làm phiên-thần vĩnh-viễn, chiếu-lệ thường triều-cống, đến nay vẫn còn.

Nam-Giao đời xưa, nhà Chu gọi là Việt-Thường, nhà Tần gọi là Tượng-Quận, nhà Hán đặt làm ba quận: Giao-Châu, Cửu-Chân và Nhật-Nam. Nhà Đường lại cải Giao-Châu làm An-nam phủ, quận Cửu-Chân làm Ái-Châu, quận Nhật-Nam làm Hoan-Châu, tức là La-Thành, Thanh-Hoá và Nghệ-An ngày nay
vậy.

Kì sau: Quận ấp

Ngọc Sơn Phu Tử
28-04-2005, 17:11
Quận ấp

Đất Nam-Giao xưa, nhà Chu gọi là Việt-Thường, nhà Tần đặt tên là Tượng-Quận. Đến cuối nhà Tấn, Nam-Hải-Uý là Triệu-Đà đánh tóm thâm đất, tự lập làm một nước riêng và tiếm xưng vương-hiệu.
Sơ niên Tây-Hán, Cao-Tổ phong Đà làm Nam-Việt-Vương, trải được mấy đời, thì tướng Nam-Việt là Lữ- Gia làm phản, giết vua Triệu và các sứ-thần của nhà Hán. Vũ-Đế sai Phục-Ba tướng-quân Lộ-Bác-Đức sang đánh diệt Nam-Việt, rồi đặt ra chín quận, bổ quan cai trị. Nước An-nam ngày nay tức là 3 quận Giao-Chỉ, Cửu-Chân và Nhật-Nam ở trong chín quận ấy.
Về sau các triều đại kế tiếp, chế-độ quận huyện không nhứt định.
Qua đời Ngũ-Đại (907-959), người đất Ái-Châu là Ngô-Quyền, chiếm giữ quận Giao-Chỉ; đời sau các nhà Đinh, Lê, Lý, Trần, nối nhau tranh quyền, đều được nhà Tống phong vương tước. Quan-chế, hình-pháp và hành-chính, ít nhiều học của Trung Hoa, còn về quận-ấp hoặc theo cũ, hoặc đổi mới, nay lấy đại-khái mà chép lại.
Đại-La Thành-Lộ1: xưa là nước Giao-Chỉ, đời nhà Hán để như cũ, nhà Đường đặt làm An-nam đô-hộ-phủ, thành phủ ở tại phía tây bờ sông Lư-Giang; Trương-Bá-Nghi đời Đường bắt đầu xây thành ấy, Trương-Chu, Cao-Biền tiếp-tục sửa sang đắp thêm. Trong thời Chân-Tông nhà Tống, Lý-Công-Uẩn
người quận ấy, kiến-quốc tại đây. Đến nhà Trần nối theo nhà Lý lấy đất ấy đạt thêm ba phủ nữa: Long-Hưng, Thiên-Trường và Trường-An.

Long-Hưng-Phủ: tên cũ là Đa-Cương-Hương. Tổ-tiên họ Trần lúc còn hàn-vi, ban đêm đi qua một cái cầu khe, khi qua rồi, ngoảnh lại, không thấy cầu nữa. Chẳng bao lâu, họ Trần được nước, người ta gọi khe ấy là Long-Khê, nên đổi tên Đa-Cương làm Long-Hưng.

Thiên-Trường-Phủ: tên cũ là Tức-Mặc-Hương, nơi phát-đích họ Trần. Đến khi họ Trần được nước, xây một hành-cung tại đó, mỗi năm đến một lần, để tỏ ra là không bỏ quân chỗ phát-tích của ông bà, rồi đổi tên làm Thiên-Trường-Phủ, chỗ ấy có nước thuỷ-triều chảy quanh thành, hai bên bờ mọc nhiều cây hoa, khí thơm ngát người, hoạ-thuyền qua lại, giống như cảnh tiên vậy.
Trường-An-Phủ: vốn là động Hoa-Lư; chỗ sinh ra Đinh-Bộ-Lĩnh, cuối đời Ngũ-Quý, họ Đinh lập quốc tại đó.

Qui-Hoá-Giang-Lộ: tiếp với biên-giới Vân-Nam.
Tuyên-Hoá-Giang-Lộ: tiếp giáp đạo Đăc-Ma.
Đà-Giang-Lộ: tiếp với địa-giới Kim-Xỉ.
Lạng-Châu-Giang-Lộ: tiếp với tả-giang và hữu-giang.
Bắc-Giang-Lộ: ở trên đông-ngạn của La-Thành, nước sông Lư-Giang thông với biển, trên sông có bắc 10 cái cầu đồ sộ và đẹp đẽ.
Như-Nguyệt-Giang-Lộ.
Nam-Sách-Giang-Lộ.
Đại-Hoàng Giang-Lộ.
Hồng-Lộ.
Khoái-Lộ.


Châu


Các châu đều tiếp địa-giới Quảng-Tây và Vân-Nam, tuy gọi là châu huyện, nhưng sự thật là động Quốc-Oai-Châu: ở phía nam thành Đại-La.
Cổ-Châu: ở Bắc-Giang.
Tiên-Châu: xưa gọi là Long-Biên.
Phú-Lương-Châu.
Tư-Nông-Châu: một tên khác gọi là Dương-Xá.
Định-Biên-Châu: một tên khác gọi là Minh-Mỵ.
Vạn-Nhai-Châu: một tên khác gọi là Minh-Hoàng.
Văn-Châu: một tên khác gọi là Môn-Châu.
Thất-Nguyên-Châu.
Tư-Lang-Châu.
Thái-Nguyên-Châu: một tên khác gọi là Hoàng-Nguyên.
Thông-Nông-Châu.
Vị-Long-Châu: một tên khác gọi là Ất-xá.
Quang-Châu.
La-Thuận-Châu: một tên khác gọi là Lai-thần.
Hoàng-Đạo-Châu: tức Bình-Lâm-Trường.
Dư nữa, loại như thế, không chép.

Tên Châu Thời Xưa

(Nhiều tên đã thay đổi, chỉ còn lại số ít)
Phong-Châu: nhà Ngô gọi Tân-Châu.
Tô-Mậu-Châu.
Tô-Vật-Châu.
Trường-Châu.
Nga-Châu.
Đường-Châu: một tên khác gọi là Phương-Lâm.


Các Huyện

Võ-Ninh Huyện, Vạn-Tải Huyện, Khâu-Ôn Huyện, Tân-Lập Huyện, Hoảng Huyện, Chỉ Huyện, Lịch
Huyện, Lan-Kiều Huyện, Truy-Diên Huyện, Cổ-Dũng Huyện, Cung Huyện, Quẫn Huyện (Nguyên-sử chép
là Quật), Thượng-Pha Huyện, Môn Huyện.
Dư nữa không chép


Tên Huyện Thời Xưa

Long-Biên: Cuối đời Tây-Hán, trị-sở của Thứ-sử quận Giao-Châu tên là Long-Uyên, sau vì có Giao-Long hay lên nằm khoanh trên mặt nước, mới cải tên là Long-Biên1.
Chu-Diên: Huyện của đời Hán; đời Đường cải làm Diên-Châu, đặt ra hai huyện Cao-Lăng và An Định.
Liên-Lâu: Âm chữ trên là "liên", âm chữ dưới là "lâu". Thời Hán là tri sở của thứ-sử Giao-Châu.
My-Linh: Trị-sở của quan Đô-Uý quận Giao-Chỉ đời Hán.
Khúc-Dương: Âm là "Dương".
Câu-Lậu: Hồi trước Cát-Hồng làm huyện lệnh ở đây.
An-Thuận: Đời nhà Đường gọi là Thuận-Châu.
Sùng-Bình: Đời Đường là An-Bình.
Hải-Bình: Đời Đường là Ninh-Hải.

K.Đ.V.S.T.G.C.M. cho rằng: Long-Biên là tên huyện đời nhà Hán, theo Thuỷ-Kinh-Chú thì năm 13 hiệu Kiến-An (208), lúc bắt đầu xây thành, có loài giao-long đến khoanh mình trên mặt nước, ở hai bên bến phía nam và phía bắc, nhân đây mới cải tên lại là Long-Uyên. Như vậy thì, tên Long-Biên có trước và Long-Uyên có sau.


Phủ-Lộ Thanh Hoá

Đời Tây-Hán là quận Cửu-Chân, đời Tuỳ, Đường là Ái-Châu, những thuộc ấp của châu ấy hiện nay, gọi là giang1, trường, giáp và xã, kê như sau:
Lương-giang, Ba-lung-giang, Trà-giang, Cống-giang, Thái-xa-giang, An-tiêm-trường, Văn-trường, Cổ-đằng-giáp, Chi-minh-giáp, Cổ-hoằng-giáp, Cổ-chiến-giáp, Duyên-giáp, Điền-sử-giáp, Kiết-thuế-giáp.

Tên Huyện Thời Xưa

Đồ-Bàng: Chữ "bàng" theo Nhan-Sư-cổ-âm là "lung".
Cư-Phong: Là nơi Mã-Viện bắt được dư-đảng của Trưng-Trắc.
Vô-Công: Trị sở của Đô-Uý quận Cửu-Chân đời Hán.
Việt-Thường: Một tên khác là Cửu-Đức.


Nghệ An Phủ Lộ

Trong thời Tây-Hán là Quận Nhật-Nam, đời Tuỳ, Đường gọi là Hoan-Châu.
Ấu-Tân-Giang. Minh-Đạo-Giang.Kệ-Giang. Thương-Lộ-Giang. Đường-Gia-Giang. Trương-Xá-Giang.

Diễn-Châu lộ

Vốn là thuộc huyện của quận Nhật-Nam, gọi là Phù-Diễn và An-Nhân, nhà Đường đổi tên là Diễn-Châu.
Cự-Lại-Giang. Tha-Viên-Giang.
Hiếu-Giang. Đa-Bích-Trường.
Cự-Lam-Xã. Cao-Gia-Xã.
Ban-Bát-Xã.

Bố-Chánh phủ lộ
Nguyên là huyện Tượng-Lâm, quận Nhật-Nam đời Tây-Hán.
Cuối đời nhà Hán, có người trong ấp giết huyện lệnh, tự lập thành nước, gọi là Lâm-ấp. Đầu niên hiệu Nguyên-Hoà (806-820) nhà Đường, lại thuộc về An-nam phủ, nay tên là Bố-Chính. Trong xứ ấy, núi trùng-điệp, cho nên Liễu-Tử-Hậu có câu thơ rằng: "Lâm-ấp đông hồi sơn tợ kính", nghĩa là "từ phía đông quanh lại xứ Lâm-ấp, núi dựng như cây giáo".
Đồ-Lê-Giang: (Tiếp giới Chiêm-Thành).

Núi

Núi Phật-Tích: vì trên đá có dấu chân, nên đặt tên là Phật-Tích.
Núi Tản-Viên: hình núi như cái tán.
Núi Tiên-Du: có hòn đá bàn-thạch, dợn có đường gạch như bàn cờ, tương truyền rằng: xưa có tiên đánh cờ vây ở đó. Bọn con gái đi hái củi thường đến giao-hợp ở trên đá bàn cờ, nên hòn đá ấy đổ xuống và nứt vỡ.
Núi Võ-Ninh: Tục truyền rằng ở dưới núi có mộ của Triệu-Việt-Vương.
Núi Phổ-Lại: Năm Đinh-Vị, Chí-Nguyên, (có lẽ chép nhầm năm Đinh-Hợi Chí-Nguyên tức năm 1287 A.D.), quan binh có tới làm hang rào cây, để chứa lương thực ở đó.
Núi Vạn-Kiếp: Trở mặt ra một con sông lớn, sau lưng có núi muôn trùng, rừng rậm tre cao, dưới nước trên cầu, phong cảnh rất đẹp. Hưng-Đạo-Vương đã từng ẩn ở trong ấy.
Núi Kiệt-Đặc: Đi đường tắt vào núi thì thấy hoa và cây rậm rạp tốt đẹp, có suối ngọc chảy mòn đá, lửa đóm rước người (vào chơi), mát mẽ lạ lùng, cõi đời không có.
Núi Yên-Tử: Gọi là Yên-Sơn hoặc là Tượng Sơn, bề cao lên quá từng mây. Đầu niên hiệu Hoàng-Hựu, nhà Tống (1049-1053), gọi là Xứ-Châu, hồi giữa niên-hiệu Đại-Trung Trường-Phù (1008-1016), triều đình lại ban tên là Tử-Y-Đông-Uyên. Đại-Sư là Lý-Tư-Thông có dâng lên vua hải-nhạc danhsơn-đồ và vịnh thơ tán: Phúc-Địa thứ tư tại Giao-Châu là Yên-Tử-Sơn.

Tân kỳ chóp núi nêu vài nụ,
Yểu-điệu hình khe trổ một ngành.
Tiên cỡi loan qua ngồi cảnh tịnh,
Người xem rồng xuống giỡn đầm xanh.

Tắc Sơn: Có động Yên-La, đỉnh núi Tý-ngọ, đều xinh đẹp lạ kỳ. Thiện-Lạc-Vương thường dắt đệ-tử vào đó.
Núi Địa-Cận: Núi ấy rất cao và hiểm trở, có cây tùng đã lâu đời, tục truyền có rồng khoanh ở trên cây ấy. Trần-Thái-Vương có làm hành-cung tại đó.
Núi Thiên-Dưỡng: Tốt đẹp mà hiểm, khi thủy-triều lên xuống mới chèo ghe đi tới được. Họ nhà vua xây dựng nhà cửa ở trong, để tránh quốc-nạn.
Động Võ-Lâm: Xưa nước An-nam, đời vua thứ tư của nhà Trần là Trần-Nhân-Vương, bỏ ngôi vào ẩn ở đó để thành đạo, hiệu là Trúc-Lâm đạo-sĩ, có làm Hương-hải-ấn-thi tập, truyền lại đời sau.
Núi Thần-Đầu: Núi ấy làm ranh giới cho hai quận La-Thành và Thanh-Hoá. Thế núi liền nhau có hai bờ, nước thuỷ-triều ngoài biển chạy vào ở giữa.
Thời xưa người ta tới đục mở ba hòn núi ở bờ phía nam để tiện sự qua lại. Hồi trước Thánh- Vương nhà Lý, đánh nước Chiêm-Thành, ý muốn vượt qua biển, nhưng gặp mù và sóng lớn, đi không được, mới cầu thần ở núi ấy, rồi đi được, khi về lập đền thờ ở đó, từ đó về sau, các hòn núi đều thuộc về Thanh-Hoá cả.

Long Đại-Nham: Gọi là Bửu-Đài, sầm uất mà tốt đẹp đặc biệt, trong vách đá có khoảng trống làm chỗ thờ phật, ở ngoài như treo những hoành đối, trổ dáng nhà cửa, giàn trước có con sông trong, bọc sau lưng có hồ sen đỏ, cây thông bóng mát vài dặm, núi non liên tiếp muôn trùng. Xưa có truyền lại
rằng có con chuột rất lớn ở trong hang núi, nên tục gọi là hòn lèn "Con dơi".
Núi Văn-Trường: Đá núi ấy rất tinh khiết mà trắng, làm hạt châu-thuỷ-tinh được.
Biện-Sơn: Ở ngoài bể khơi, xưa có những thú-vật thình-lình hoá kiếp những võ và xương tấp vào, xuyên qua hang đá, nay vẫn còn.

Núi An-Hoạch: Sản-xuất đá làm bia, làm đỉa nghiên. Sách cũ có chép: Dự-Chương Thái-Thú Phạm-Nịnh sai sứ tới quận Cửu-Chân lấy đá làm khánh để dùng ở trong trường học.
Núi Đông-Sơn: Chạy tới sông Chi-Minh, đã cao lại tốt, trên núi có hang, trèo lên mà trông, sắc nước in trời thật là một cảnh rất đẹp. Phụ-thân tôi, (Lê-Tắc) thời trung-niên, thôi làm quan, tự hiệu là Tư-Duy cư-sĩ, thường ẩn-cư trong hang núi ấy.
Núi Khu-Na: Cao, rộng, nhiều ma, những con ma nầy mỗi khi ra khỏi núi lại đốt nhà của người ta. Nhân có nhà sư tên là Phụng-Phù, cứ ngày đêm đọc bài chú đại-bi, ma sợ tránh đi xa, người ta mới khỏi bị hại. Núi ấy có nhiều trái cây ăn được, ai đến tha hồ mà ăn, nhưng hễ đem về thì lạc mất đường.
Núi Lập-Thạch: Là một hòn đá đứng sững vậy. Tương truyền rằng thuở xưa có ông thần dựng một hòn đá to lớn để vạch địa hạt Ái-Châu và Diễn-Châu.
Núi Đà-Kỹ: Có một khoảng đất vườn, ở sát bờ biển, sinh ra thứ đá đen như hình con cờ, hình sắc thật đẹp, đáng yêu. Ta thường ra chơi, gặp ông già nói rằng: "cách đây hơn một trăm dặm, lại có sản-xuất con cờ đá trắng". Tục truyền rằng: người tiên thường đánh cờ vây ở đó.
Núi Hương-Tượng: Rất cao rộng, sản-xuất gỗ thơm, tê-ngu và voi.
Sùng-Sơn: Thẩm-thuyên-Kỳ, đời nhà Đường bị đày qua đất Hoan-Châu, có làm bài Sùng-Sơn hướng Việt-Thường thi:
Buổi mai leo đến núi Sùng,
Việt-Thường xế đến, ngồi trông bóng chiều.
Hang Sam-Cốc theo chiều bóng lặn,
Từ Trúc-Khê ra thẳng Bắc-Phương.
Trúc-Khê, Minh-Thuỷ thông-thương,
Rày Hang Sam-Cốc, xưa đường Sùng-Sơn.
Núi so le, cây ngàn thưa nhặt,
Quấn quít nhau ràng mắc thành chùm.
Đầy gò lá quế xanh um,
Hoa đằng nẩy nở trong lùm đá ngăn.
Trời lồng lộng còn dăng cửa sổ,
Cảnh âm thầm đá trổ hang mây.
Thợ trời dường lắm công xây,
Bao nhiêu thẳng-tích người rày tới nơi.
Không phải muốn tìm nơi quái dị,
Khoan thai chưa quyết chí lui về.

Phân Sơn: Lại còn gọi là Liệt-Sơn, hai nước An-nam và Chiêm-Thành, lấy núi này làm ranh-giới, tục truyền rằng cây cỏ ở trên núi ấy cũng chia hai: bên ngã về Nam, bên ngã về Bắc.
Núi Kim-Ngưu: Sách xưa chép đá núi ấy đều sắc đỏ, trong đá có chất vàng, đêm lại thì sáng như con đom-đóm.
Núi Đô-Long: Nơi Lưu-Phương đánh bại Lâm-ấp.


Sông

Sách xưa chép các con sông như Yêm-Thuỷ, Lô-Du-Thuỷ, Lậu-Thuỷ, Tây-Tuỳ-Thuỷ đều từ Đôngnam đất Tuấn-Việt chảy đến Long-Môn đất Giao-Chỉ.
Dương-Hùng (đời nhà Hán) nói rằng: "các xứ hoang nhàn ở giải đất Giao-Chỉ, nước tiếp giáp với trời.

Lô-Giang:Sông Tam-Đái (ba giải) chảy tới La-Thành, lại từ sông Lô thông ra biển.
Tô-Lịch-Giang: Chảy quanh La-Thành, trên sông có năm cái cầu, đều làm rất đẹp. Hiệu Chí- Nguyên năm Bính Tý (1276), nhà Tống mất, Tăng-Uyển-Tử trốn sang An-nam, đi chơi qua cầu Lịch- Giang có ngâm bài thơ rằng:

Đầu bạc chàng Tô, trời một góc,
Theo tiên vua Võ, nhạn về Nam.
Trên cầu sông Lịch trông về Bắc,
Trải mấy lằn thu thấy chẳng nhàm.

Tam-Đái-Giang: Nước sông Qui-Hóa từ Vân-Nam chảy về, nước sông Tuyên-Quang từ Đặc-Ma Đạo chảy tới, nước sông Đà từ nguồn Chàng-Long chảy về, nhân có ngã ba, nên đặt tên như vậy.
Phú-Lương-Giang: Là nơi Quách-Quỳ đời Tống đánh bại Giao-Chỉ.
Đại-Hoàng-Giang: Trong năm Giáp-Thân hiệu Chí-Nguyên (1284), là nơi quan quân đánh phá An-nam.
Đại-Ác-Giang: Một tên khác gọi là Đại-An.
Bà-Lữ-Uyên: (vực) nước sâu có nhiều thuỷ quái.
Từ-Liêm-Thuỷ: Theo sách Cửu-Vực-Chí chép rằng: Từ-Liêm-Thuỷ ở tại Giao-Chỉ. Xưa ở bên sông ấy, Lý-Nhân-Tổ có mười anh em đều từ hiếu cả, nhân đó, mới đặt tên như vậy.
Long-Môn-Thuỷ: Sách xưa chép: "huyện Phong-Khê, quận Giao-Chỉ có Long-Môn-Thuỷ, nước sâu trăm tầm, cá con nào lớn vượt lên suối ấy được, thì hóa rồng, nếu lên không được, thì bị thương nơi trán và bày mang ra".
Việt-Thường-Uyển: Cứ sách Phò-Nam-Ký, khoảng đất giữa khe núi, gọi là uyển. Vườn CửuĐắc, có tên là Bổ-Uyển.

Ngọc Sơn Phu Tử
28-04-2005, 17:22
Quận ấp

Đất Nam-Giao xưa, nhà Chu gọi là Việt-Thường, nhà Tần đặt tên là Tượng-Quận. Đến cuối nhà Tấn, Nam-Hải-Uý là Triệu-Đà đánh tóm thâm đất, tự lập làm một nước riêng và tiếm xưng vương-hiệu.
Sơ niên Tây-Hán, Cao-Tổ phong Đà làm Nam-Việt-Vương, trải được mấy đời, thì tướng Nam-Việt là Lữ- Gia làm phản, giết vua Triệu và các sứ-thần của nhà Hán. Vũ-Đế sai Phục-Ba tướng-quân Lộ-Bác-Đức sang đánh diệt Nam-Việt, rồi đặt ra chín quận, bổ quan cai trị. Nước An-nam ngày nay tức là 3 quận Giao-Chỉ, Cửu-Chân và Nhật-Nam ở trong chín quận ấy.
Về sau các triều đại kế tiếp, chế-độ quận huyện không nhứt định.
Qua đời Ngũ-Đại (907-959), người đất Ái-Châu là Ngô-Quyền, chiếm giữ quận Giao-Chỉ; đời sau các nhà Đinh, Lê, Lý, Trần, nối nhau tranh quyền, đều được nhà Tống phong vương tước. Quan-chế, hình-pháp và hành-chính, ít nhiều học của Trung Hoa, còn về quận-ấp hoặc theo cũ, hoặc đổi mới, nay lấy đại-khái mà chép lại.
Đại-La Thành-Lộ1: xưa là nước Giao-Chỉ, đời nhà Hán để như cũ, nhà Đường đặt làm An-nam đô-hộ-phủ, thành phủ ở tại phía tây bờ sông Lư-Giang; Trương-Bá-Nghi đời Đường bắt đầu xây thành ấy, Trương-Chu, Cao-Biền tiếp-tục sửa sang đắp thêm. Trong thời Chân-Tông nhà Tống, Lý-Công-Uẩn
người quận ấy, kiến-quốc tại đây. Đến nhà Trần nối theo nhà Lý lấy đất ấy đạt thêm ba phủ nữa: Long-Hưng, Thiên-Trường và Trường-An.

Long-Hưng-Phủ: tên cũ là Đa-Cương-Hương. Tổ-tiên họ Trần lúc còn hàn-vi, ban đêm đi qua một cái cầu khe, khi qua rồi, ngoảnh lại, không thấy cầu nữa. Chẳng bao lâu, họ Trần được nước, người ta gọi khe ấy là Long-Khê, nên đổi tên Đa-Cương làm Long-Hưng.

Thiên-Trường-Phủ: tên cũ là Tức-Mặc-Hương, nơi phát-đích họ Trần. Đến khi họ Trần được nước, xây một hành-cung tại đó, mỗi năm đến một lần, để tỏ ra là không bỏ quân chỗ phát-tích của ông bà, rồi đổi tên làm Thiên-Trường-Phủ, chỗ ấy có nước thuỷ-triều chảy quanh thành, hai bên bờ mọc nhiều cây hoa, khí thơm ngát người, hoạ-thuyền qua lại, giống như cảnh tiên vậy.
Trường-An-Phủ: vốn là động Hoa-Lư; chỗ sinh ra Đinh-Bộ-Lĩnh, cuối đời Ngũ-Quý, họ Đinh lập quốc tại đó.

Qui-Hoá-Giang-Lộ: tiếp với biên-giới Vân-Nam.
Tuyên-Hoá-Giang-Lộ: tiếp giáp đạo Đăc-Ma.
Đà-Giang-Lộ: tiếp với địa-giới Kim-Xỉ.
Lạng-Châu-Giang-Lộ: tiếp với tả-giang và hữu-giang.
Bắc-Giang-Lộ: ở trên đông-ngạn của La-Thành, nước sông Lư-Giang thông với biển, trên sông có bắc 10 cái cầu đồ sộ và đẹp đẽ.
Như-Nguyệt-Giang-Lộ.
Nam-Sách-Giang-Lộ.
Đại-Hoàng Giang-Lộ.
Hồng-Lộ.
Khoái-Lộ.


Châu


Các châu đều tiếp địa-giới Quảng-Tây và Vân-Nam, tuy gọi là châu huyện, nhưng sự thật là động Quốc-Oai-Châu: ở phía nam thành Đại-La.
Cổ-Châu: ở Bắc-Giang.
Tiên-Châu: xưa gọi là Long-Biên.
Phú-Lương-Châu.
Tư-Nông-Châu: một tên khác gọi là Dương-Xá.
Định-Biên-Châu: một tên khác gọi là Minh-Mỵ.
Vạn-Nhai-Châu: một tên khác gọi là Minh-Hoàng.
Văn-Châu: một tên khác gọi là Môn-Châu.
Thất-Nguyên-Châu.
Tư-Lang-Châu.
Thái-Nguyên-Châu: một tên khác gọi là Hoàng-Nguyên.
Thông-Nông-Châu.
Vị-Long-Châu: một tên khác gọi là Ất-xá.
Quang-Châu.
La-Thuận-Châu: một tên khác gọi là Lai-thần.
Hoàng-Đạo-Châu: tức Bình-Lâm-Trường.
Dư nữa, loại như thế, không chép.

Tên Châu Thời Xưa

(Nhiều tên đã thay đổi, chỉ còn lại số ít)
Phong-Châu: nhà Ngô gọi Tân-Châu.
Tô-Mậu-Châu.
Tô-Vật-Châu.
Trường-Châu.
Nga-Châu.
Đường-Châu: một tên khác gọi là Phương-Lâm.


Các Huyện

Võ-Ninh Huyện, Vạn-Tải Huyện, Khâu-Ôn Huyện, Tân-Lập Huyện, Hoảng Huyện, Chỉ Huyện, Lịch
Huyện, Lan-Kiều Huyện, Truy-Diên Huyện, Cổ-Dũng Huyện, Cung Huyện, Quẫn Huyện (Nguyên-sử chép
là Quật), Thượng-Pha Huyện, Môn Huyện.
Dư nữa không chép


Tên Huyện Thời Xưa

Long-Biên: Cuối đời Tây-Hán, trị-sở của Thứ-sử quận Giao-Châu tên là Long-Uyên, sau vì có Giao-Long hay lên nằm khoanh trên mặt nước, mới cải tên là Long-Biên1.
Chu-Diên: Huyện của đời Hán; đời Đường cải làm Diên-Châu, đặt ra hai huyện Cao-Lăng và An Định.
Liên-Lâu: Âm chữ trên là "liên", âm chữ dưới là "lâu". Thời Hán là tri sở của thứ-sử Giao-Châu.
My-Linh: Trị-sở của quan Đô-Uý quận Giao-Chỉ đời Hán.
Khúc-Dương: Âm là "Dương".
Câu-Lậu: Hồi trước Cát-Hồng làm huyện lệnh ở đây.
An-Thuận: Đời nhà Đường gọi là Thuận-Châu.
Sùng-Bình: Đời Đường là An-Bình.
Hải-Bình: Đời Đường là Ninh-Hải.

K.Đ.V.S.T.G.C.M. cho rằng: Long-Biên là tên huyện đời nhà Hán, theo Thuỷ-Kinh-Chú thì năm 13 hiệu Kiến-An (208), lúc bắt đầu xây thành, có loài giao-long đến khoanh mình trên mặt nước, ở hai bên bến phía nam và phía bắc, nhân đây mới cải tên lại là Long-Uyên. Như vậy thì, tên Long-Biên có trước và Long-Uyên có sau.


Phủ-Lộ Thanh Hoá

Đời Tây-Hán là quận Cửu-Chân, đời Tuỳ, Đường là Ái-Châu, những thuộc ấp của châu ấy hiện nay, gọi là giang1, trường, giáp và xã, kê như sau:
Lương-giang, Ba-lung-giang, Trà-giang, Cống-giang, Thái-xa-giang, An-tiêm-trường, Văn-trường, Cổ-đằng-giáp, Chi-minh-giáp, Cổ-hoằng-giáp, Cổ-chiến-giáp, Duyên-giáp, Điền-sử-giáp, Kiết-thuế-giáp.

Tên Huyện Thời Xưa

Đồ-Bàng: Chữ "bàng" theo Nhan-Sư-cổ-âm là "lung".
Cư-Phong: Là nơi Mã-Viện bắt được dư-đảng của Trưng-Trắc.
Vô-Công: Trị sở của Đô-Uý quận Cửu-Chân đời Hán.
Việt-Thường: Một tên khác là Cửu-Đức.


Nghệ An Phủ Lộ

Trong thời Tây-Hán là Quận Nhật-Nam, đời Tuỳ, Đường gọi là Hoan-Châu.
Ấu-Tân-Giang. Minh-Đạo-Giang.Kệ-Giang. Thương-Lộ-Giang. Đường-Gia-Giang. Trương-Xá-Giang.

Diễn-Châu lộ

Vốn là thuộc huyện của quận Nhật-Nam, gọi là Phù-Diễn và An-Nhân, nhà Đường đổi tên là Diễn-Châu.
Cự-Lại-Giang. Tha-Viên-Giang.
Hiếu-Giang. Đa-Bích-Trường.
Cự-Lam-Xã. Cao-Gia-Xã.
Ban-Bát-Xã.

Bố-Chánh phủ lộ
Nguyên là huyện Tượng-Lâm, quận Nhật-Nam đời Tây-Hán.
Cuối đời nhà Hán, có người trong ấp giết huyện lệnh, tự lập thành nước, gọi là Lâm-ấp. Đầu niên hiệu Nguyên-Hoà (806-820) nhà Đường, lại thuộc về An-nam phủ, nay tên là Bố-Chính. Trong xứ ấy, núi trùng-điệp, cho nên Liễu-Tử-Hậu có câu thơ rằng: "Lâm-ấp đông hồi sơn tợ kính", nghĩa là "từ phía đông quanh lại xứ Lâm-ấp, núi dựng như cây giáo".
Đồ-Lê-Giang: (Tiếp giới Chiêm-Thành).

Núi

Núi Phật-Tích: vì trên đá có dấu chân, nên đặt tên là Phật-Tích.
Núi Tản-Viên: hình núi như cái tán.
Núi Tiên-Du: có hòn đá bàn-thạch, dợn có đường gạch như bàn cờ, tương truyền rằng: xưa có tiên đánh cờ vây ở đó. Bọn con gái đi hái củi thường đến giao-hợp ở trên đá bàn cờ, nên hòn đá ấy đổ xuống và nứt vỡ.
Núi Võ-Ninh: Tục truyền rằng ở dưới núi có mộ của Triệu-Việt-Vương.
Núi Phổ-Lại: Năm Đinh-Vị, Chí-Nguyên, (có lẽ chép nhầm năm Đinh-Hợi Chí-Nguyên tức năm 1287 A.D.), quan binh có tới làm hang rào cây, để chứa lương thực ở đó.
Núi Vạn-Kiếp: Trở mặt ra một con sông lớn, sau lưng có núi muôn trùng, rừng rậm tre cao, dưới nước trên cầu, phong cảnh rất đẹp. Hưng-Đạo-Vương đã từng ẩn ở trong ấy.
Núi Kiệt-Đặc: Đi đường tắt vào núi thì thấy hoa và cây rậm rạp tốt đẹp, có suối ngọc chảy mòn đá, lửa đóm rước người (vào chơi), mát mẽ lạ lùng, cõi đời không có.
Núi Yên-Tử: Gọi là Yên-Sơn hoặc là Tượng Sơn, bề cao lên quá từng mây. Đầu niên hiệu Hoàng-Hựu, nhà Tống (1049-1053), gọi là Xứ-Châu, hồi giữa niên-hiệu Đại-Trung Trường-Phù (1008-1016), triều đình lại ban tên là Tử-Y-Đông-Uyên. Đại-Sư là Lý-Tư-Thông có dâng lên vua hải-nhạc danhsơn-đồ và vịnh thơ tán: Phúc-Địa thứ tư tại Giao-Châu là Yên-Tử-Sơn.

Tân kỳ chóp núi nêu vài nụ,
Yểu-điệu hình khe trổ một ngành.
Tiên cỡi loan qua ngồi cảnh tịnh,
Người xem rồng xuống giỡn đầm xanh.

Tắc Sơn: Có động Yên-La, đỉnh núi Tý-ngọ, đều xinh đẹp lạ kỳ. Thiện-Lạc-Vương thường dắt đệ-tử vào đó.
Núi Địa-Cận: Núi ấy rất cao và hiểm trở, có cây tùng đã lâu đời, tục truyền có rồng khoanh ở trên cây ấy. Trần-Thái-Vương có làm hành-cung tại đó.
Núi Thiên-Dưỡng: Tốt đẹp mà hiểm, khi thủy-triều lên xuống mới chèo ghe đi tới được. Họ nhà vua xây dựng nhà cửa ở trong, để tránh quốc-nạn.
Động Võ-Lâm: Xưa nước An-nam, đời vua thứ tư của nhà Trần là Trần-Nhân-Vương, bỏ ngôi vào ẩn ở đó để thành đạo, hiệu là Trúc-Lâm đạo-sĩ, có làm Hương-hải-ấn-thi tập, truyền lại đời sau.
Núi Thần-Đầu: Núi ấy làm ranh giới cho hai quận La-Thành và Thanh-Hoá. Thế núi liền nhau có hai bờ, nước thuỷ-triều ngoài biển chạy vào ở giữa.
Thời xưa người ta tới đục mở ba hòn núi ở bờ phía nam để tiện sự qua lại. Hồi trước Thánh- Vương nhà Lý, đánh nước Chiêm-Thành, ý muốn vượt qua biển, nhưng gặp mù và sóng lớn, đi không được, mới cầu thần ở núi ấy, rồi đi được, khi về lập đền thờ ở đó, từ đó về sau, các hòn núi đều thuộc về Thanh-Hoá cả.

Long Đại-Nham: Gọi là Bửu-Đài, sầm uất mà tốt đẹp đặc biệt, trong vách đá có khoảng trống làm chỗ thờ phật, ở ngoài như treo những hoành đối, trổ dáng nhà cửa, giàn trước có con sông trong, bọc sau lưng có hồ sen đỏ, cây thông bóng mát vài dặm, núi non liên tiếp muôn trùng. Xưa có truyền lại
rằng có con chuột rất lớn ở trong hang núi, nên tục gọi là hòn lèn "Con dơi".
Núi Văn-Trường: Đá núi ấy rất tinh khiết mà trắng, làm hạt châu-thuỷ-tinh được.
Biện-Sơn: Ở ngoài bể khơi, xưa có những thú-vật thình-lình hoá kiếp những võ và xương tấp vào, xuyên qua hang đá, nay vẫn còn.

Núi An-Hoạch: Sản-xuất đá làm bia, làm đỉa nghiên. Sách cũ có chép: Dự-Chương Thái-Thú Phạm-Nịnh sai sứ tới quận Cửu-Chân lấy đá làm khánh để dùng ở trong trường học.
Núi Đông-Sơn: Chạy tới sông Chi-Minh, đã cao lại tốt, trên núi có hang, trèo lên mà trông, sắc nước in trời thật là một cảnh rất đẹp. Phụ-thân tôi, (Lê-Tắc) thời trung-niên, thôi làm quan, tự hiệu là Tư-Duy cư-sĩ, thường ẩn-cư trong hang núi ấy.
Núi Khu-Na: Cao, rộng, nhiều ma, những con ma nầy mỗi khi ra khỏi núi lại đốt nhà của người ta. Nhân có nhà sư tên là Phụng-Phù, cứ ngày đêm đọc bài chú đại-bi, ma sợ tránh đi xa, người ta mới khỏi bị hại. Núi ấy có nhiều trái cây ăn được, ai đến tha hồ mà ăn, nhưng hễ đem về thì lạc mất đường.
Núi Lập-Thạch: Là một hòn đá đứng sững vậy. Tương truyền rằng thuở xưa có ông thần dựng một hòn đá to lớn để vạch địa hạt Ái-Châu và Diễn-Châu.
Núi Đà-Kỹ: Có một khoảng đất vườn, ở sát bờ biển, sinh ra thứ đá đen như hình con cờ, hình sắc thật đẹp, đáng yêu. Ta thường ra chơi, gặp ông già nói rằng: "cách đây hơn một trăm dặm, lại có sản-xuất con cờ đá trắng". Tục truyền rằng: người tiên thường đánh cờ vây ở đó.
Núi Hương-Tượng: Rất cao rộng, sản-xuất gỗ thơm, tê-ngu và voi.
Sùng-Sơn: Thẩm-thuyên-Kỳ, đời nhà Đường bị đày qua đất Hoan-Châu, có làm bài Sùng-Sơn hướng Việt-Thường thi:
Buổi mai leo đến núi Sùng,
Việt-Thường xế đến, ngồi trông bóng chiều.
Hang Sam-Cốc theo chiều bóng lặn,
Từ Trúc-Khê ra thẳng Bắc-Phương.
Trúc-Khê, Minh-Thuỷ thông-thương,
Rày Hang Sam-Cốc, xưa đường Sùng-Sơn.
Núi so le, cây ngàn thưa nhặt,
Quấn quít nhau ràng mắc thành chùm.
Đầy gò lá quế xanh um,
Hoa đằng nẩy nở trong lùm đá ngăn.
Trời lồng lộng còn dăng cửa sổ,
Cảnh âm thầm đá trổ hang mây.
Thợ trời dường lắm công xây,
Bao nhiêu thẳng-tích người rày tới nơi.
Không phải muốn tìm nơi quái dị,
Khoan thai chưa quyết chí lui về.

Phân Sơn: Lại còn gọi là Liệt-Sơn, hai nước An-nam và Chiêm-Thành, lấy núi này làm ranh-giới, tục truyền rằng cây cỏ ở trên núi ấy cũng chia hai: bên ngã về Nam, bên ngã về Bắc.
Núi Kim-Ngưu: Sách xưa chép đá núi ấy đều sắc đỏ, trong đá có chất vàng, đêm lại thì sáng như con đom-đóm.
Núi Đô-Long: Nơi Lưu-Phương đánh bại Lâm-ấp.


Sông

Sách xưa chép các con sông như Yêm-Thuỷ, Lô-Du-Thuỷ, Lậu-Thuỷ, Tây-Tuỳ-Thuỷ đều từ Đôngnam đất Tuấn-Việt chảy đến Long-Môn đất Giao-Chỉ.
Dương-Hùng (đời nhà Hán) nói rằng: "các xứ hoang nhàn ở giải đất Giao-Chỉ, nước tiếp giáp với trời.

Lô-Giang:Sông Tam-Đái (ba giải) chảy tới La-Thành, lại từ sông Lô thông ra biển.
Tô-Lịch-Giang: Chảy quanh La-Thành, trên sông có năm cái cầu, đều làm rất đẹp. Hiệu Chí- Nguyên năm Bính Tý (1276), nhà Tống mất, Tăng-Uyển-Tử trốn sang An-nam, đi chơi qua cầu Lịch- Giang có ngâm bài thơ rằng:

Đầu bạc chàng Tô, trời một góc,
Theo tiên vua Võ, nhạn về Nam.
Trên cầu sông Lịch trông về Bắc,
Trải mấy lằn thu thấy chẳng nhàm.

Tam-Đái-Giang: Nước sông Qui-Hóa từ Vân-Nam chảy về, nước sông Tuyên-Quang từ Đặc-Ma Đạo chảy tới, nước sông Đà từ nguồn Chàng-Long chảy về, nhân có ngã ba, nên đặt tên như vậy.
Phú-Lương-Giang: Là nơi Quách-Quỳ đời Tống đánh bại Giao-Chỉ.
Đại-Hoàng-Giang: Trong năm Giáp-Thân hiệu Chí-Nguyên (1284), là nơi quan quân đánh phá An-nam.
Đại-Ác-Giang: Một tên khác gọi là Đại-An.
Bà-Lữ-Uyên: (vực) nước sâu có nhiều thuỷ quái.
Từ-Liêm-Thuỷ: Theo sách Cửu-Vực-Chí chép rằng: Từ-Liêm-Thuỷ ở tại Giao-Chỉ. Xưa ở bên sông ấy, Lý-Nhân-Tổ có mười anh em đều từ hiếu cả, nhân đó, mới đặt tên như vậy.
Long-Môn-Thuỷ: Sách xưa chép: "huyện Phong-Khê, quận Giao-Chỉ có Long-Môn-Thuỷ, nước sâu trăm tầm, cá con nào lớn vượt lên suối ấy được, thì hóa rồng, nếu lên không được, thì bị thương nơi trán và bày mang ra".
Việt-Thường-Uyển: Cứ sách Phò-Nam-Ký, khoảng đất giữa khe núi, gọi là uyển. Vườn CửuĐắc, có tên là Bổ-Uyển.

Ngọc Sơn Phu Tử
06-05-2005, 13:34
Cổ Tích



Việt-Vương-Thành, tục gọi là thành Khả-Lũ, có một cái ao cổ, Quốc-vơng mỗi năm lấy ngọc châu, dùng nước ao ấy rửa thì sắc ngọc tươi đẹp. Giao-Châu Ngoại-Vực-Ký chép: hồi xưa, chưa có quận huyện, thì Lạc-điền tuỳ theo thuỷ-triều lên xuống mà cày cấy. Người cày ruộng ấy gọi là Lạc-Dân, người cai-quản dân gọi là Lạc-Vương, người phó là Lạc-Tướng, đều có ấn bằng đồng và dải sắc xanh làm huy hiệu.
Vua nước Thục, thường sai con đem ba vạn binh, đi chinh phục các Lạc-Tướng, nhân đó cử giữ đất Lạc mà tự xưng là An-Dương-Vương. Triệu-Đà cử binh sang đánh. Lúc ấy có một vị thần tên là Cao-Thông xuống giúp An-Dương-Vương, làm ra cái nỏ thần, bắn một phát giết được muôn người.
Triệu Đà biết địch không lại với An-Dương-Vương, nhân đó trú lại huyện Võ-Ninh, khiến Thái-Tử Thuỷ làm chước tá hàng để tính kế về sau.
Lúc Cao-Thông đi, nói với vua An-Dương-Vương rằng: "Hễ giữ được cái nỏ của ta, thì còn nước, không giữ được thì mất nước".
An-Dương-Vương có con gái tên là Mỵ-Châu, thấy Thái-Tử Thuỷ lấy làm đẹp lòng, rồi hai người lấy nhau. Mỵ-Châu lấy cái nỏ thần cho Thái-Tử Thuỷ xem, Thuỷ xem rồi lấy trộm cái lẩy nỏ mà đổi đi. Về sau Triệu-Đà kéo quân tới đánh thì An-Dương-Vương bại trận, cầm cái sừng tê vẹt được nước vào biển đi trốn, nên Triệu-Đà chiếm cả đất của An-Dương-Vương. Nay ở huyện Bình-Địa , dấu tích cung điện và thành trì của An-Dương-Vương hãy còn.


Lưu-Chiêu nói: Giao-Chỉ tức là nước An-Dương. Mã-Phục-Ba đời Hán dẹp yên giặc ở Giao-Chỉ, rồi dựng trụ đồng để làm giới hạn cho nhà Hán. Đời nhà Đường, Mã-Tống làm chức An-nam đô-hộ, lại dựng hai cái trụ đồng, vì Tống là con cháu của Phục-Ba. Xưa có truyền lại rằng: ở nơi động Cổ-Sum, tại Khâm- Châu có cái cột đồng của Mã-Viện và lời thề rằng: "Hễ cái trụ đồng nầy gãy, thì nước Giao-Chỉ tiêu-diệt", vì thế, người Giao-Châu, mỗi khi đi ngang qua đều lấy đá, ngói, ném vào dưới chân cột đồng, nên chẳng bao lâu, nơi ấy hóa thành gò.
Đổ-Phủ có câu thơ rằng: "Vũ lai đồng trụ bắc, ý tẩy Phục-Ba quân" nghĩa là: "mưa phía Bắc đồng trụ, muốn rửa quân Phục-Ba".
Ở cương-giới nước Chiêm-Thành cũng có cột đồng. Mạnh-Hạo-Nhiên có câu thi: "Đồng trụ Nhật- Nam đoan", nghĩa là cột đồng đứng đầu đất Nhật-Nam.
Sách Cửu-Vực-Chí nói: "cái giếng tại Giao-Châu không phải người đào".
Mã-Viện khi đã dẹp yên Giao-Chỉ, có làm trâu bò, lọc rượu để đãi quân-sĩ, trong lúc yến tiệc, Viện thong thả nói với liêu thuộc rằng: "Người em họ của ta tên là Thiếu-Du thường hay thương tôi khẳng khái có chí lớn và nói: "kẻ sĩ sinh ở đời, miễn sao vừa đủ ăn mặc, đi cái xe tầm thường, cỡi con ngựa xấu
xí, làm chức lại thuộc trong quận, giữ phần mộ của tổ-tiên, làng xóm cho là người hiền-lành, như vậy thì đủ rồi. Còn như ham muốn cho dư dũ, thì chỉ là tự mình làm khổ cho mình đó thôi". Hồi ta ở giữa Lãng-Bạc và Tây-Lý, chưa diệt được giặc, dưới thì nước lụt, trên thì khói mù, khí độc hừng hực, xem lên thấy diều bay là là xuống nước, nhớ lại lời nói bình thời của Thiếu-Du, ta tiếc không làm sao được như vậy".


Uy-Vũ-Miếu: Tô-Đông-Pha chép rằng: "nhà Hán có hai ông Phục-Ba đối với dân Lĩnh-Nam đều có công-đức. Ông Phục-Ba trước là Bì-Ly Lộ-Hầu, ông Phục-Ba sau là Tân-Tức Mã-Hầu. Nước Nam-Việt từ đời Tam-Đại trở xuống, không đời nào dẹp yên cả. Đời Tần (246-207 trước công nguyên), tuy có đặt
quan-chức cai-trị, song rồi trở lại tình trạng man-di. Bì-ly mới diệt được nước ấy và chia làm chín quận. Nhưng đến đời Đông-Hán, lại có người con gái là Trưng-Trắc, khởi binh rung động hơn sáu mươi thành.
Đương thời vua Thế-Tổ mới dẹp yên thiên hạ, thấy dân đã mõi mệt và chán việc dụng binh, bèn đóng cửa Ngọc-Quan từ tạ Tây-Vực. Phương chi Nam-Việt là chỗ hoang viễn, không đáng phiền-lụy đến quân đội nhà vua, nếu không phải Tân-Tức (hầu) chịu khó đánh dẹp thì dân chín quận vẫn khoác áo bên trái đến bây giờ. Do đấy hai Phục-Ba đáng được miếu thờ tại Lĩnh-Nam.
"Ở trên bể có nhà thờ Phục-Ba, trong niên-hiệu Nguyên-Phong (1078-1085), có lời chiếu chỉ của vua (Thần-Tông nhà Tống), phong làm Trung-Hiển-Vương. Hễ có ghe thuyền qua biển đều tới chỗ ấy mà bói, khi nào quẻ bói tốt, nói đi được, mới đi, hễ quẻ xấu thì thôi, sự linh ứng khiến người ta phải tin,
đúng đắn như đo-lường, cân chỉ thăng bằng, không hề sai chậy.
"Than-ôi! không phải là người có đức cao dày, thì đâu được như thế? Tôi nhân có tội bị đày qua Đàm-Nhĩ ba năm, nay lại trở về bể Bắc, qua lại đều gặp gió xuôi, không lấy gì đền đáp ơn thần, bèn lập bia và làm bài minh như sau:
"Sóng gió khôn lường nỗi hiểm nguy,
Cá rồng lặng lẽ dữ hơn chi,
Tin cậy hai ông đã phù trì,
Nước sâu muôn sải thuyền tỉ-ti.
Từ đây qua Nam cởi lòng nghi,
Vỗ về lương tâm song suốt đi,
Từ đây về Bắc thẳng mình mi.
Lúc đạt lúc cùng cứ giữ nghi;
Sống là anh-kiệt, thác hùng uy,
Thần tuy không nói, ý mình suy".

Xung-Thiên-Miếu: Tại làng Phù-Đổng, hồi xưa trong nước rối loạn, chợt thấy một người có uy có đức, dân đều về theo, người ấy bèn cầm quân dẹp loạn, rồi bay lên trời đi mất, hiệu là Xung-Thiên- Vương, dân lập đền miếu để thờ.

Cổ-Châu-Phật: trong mùa xuân, mưa như xối, lụt to ở núi chảy xuống Trung-Châu, chảy quanh tại một chỗ, dân thấy lạ ra coi, trong nước có hòn đá giống như ông Phật; dân tới cầu đảo có thần nghiệm, bèn đem gỗ khắc ra tượng Phật để thờ, gặp khi đại hạn, đến cầu thì mưa liền, cho nên người ta
nói là "pháp vấn pháp võ", (nghĩa là mây mưa của phép Phật).

Báo-Thiên-Tự-Tháp: Xưa Lý-Thánh-Vương đánh Chiêm-Thành, được người thợ giỏi, bảo xây một ngôi tháp cao mười ba tầng, đặt là "Thiên-Tư-Vạn-Thọ-Thấp", lại lấy đồng đúc cái biển-ngạch gọi là "Đao-Lợi-Thiên", bị sét đánh mất, không biết rơi nơi nào. Sau có người làm ruộng thấy được, đem dựng
lại, sét đánh mất một lần nữa.

Cửu-Trùng-Đài: Xưa Lý-Nhân-Vương làm một cái đài ở trên bờ ao Thuỷ-Tinh. Khi gần xong, bị sét đánh hư, làm lại cũng bị sét đánh nữa. Sau nghe tiếng giông pháp ra, Nhân-Vương lấy vuông lụa điều trùm lên đầu, mang gươm lên đài, đốt hương mà khấn vái rằng: "Nếu trời không cho tôi là ngay thật thì nên trách bảo tôi, còn cái đài này chẳng có tội gì". Khấn xong một lát thì trời tạnh, đài ấy bèn làm xong. Người cháu ba đời là Lý-Cao-Vương, khi nào nghe sấm sét thì sợ gần như chết. Các quan hầu hiến một chước rằng: "Khi nào có sấm sét thì lấy tay ôm cánh tay ông Phật, sẽ khỏi lo sợ".

Phấn-Dịch-Đình: Theo tục người ta vì nắng nực, làm nhiều nhà trạm ở dọc đường để cho người đi đường ghé nghỉ mát. Ông tổ họ Trần lúc còn hàn-vi, hay ghé nghỉ tại đình trạm ấy, có nhà sư nói rằng: "Anh (họ Trần), đến ngày sau nên bậc đại-quý", nói xong nhà sư biến đi đâu mất. Kịp đến lúc họ Trần dựng được nước nhà, liền khiến trong nước chỗ nào có đình tạm thì làm một pho tượng Phật để thờ mà báo ơn.

Kim-Bài-Châu: Có một ông già ở bên sông, người con đi ra bắt được một cái trứng đem về.Ông già nuôi cái trứng ấy nở ra một con rắn, lại càng yêu chuộng nuôi nấng, sau con rắn lớn lên, rồi xuống sông, thường đêm đem cá bỏ trong sân. Khi ông già chết, ngày cúng tế, con rắn ấy tới dưới sân bò quanh rồi đi; sau bên ông đất cát bồi đắp mãi thành một cái bãi, con cháu ông ấy được lợi đời đời.
Người ta nói: "Đó là con rắn báo ơn".

Trong niên-hiệu Khai-Hy (1205-1207) vua Ninh-Tông nhà Tống, có Trương-Hiệp, được vua ban tên Thuỵ là Văn-Hiến, nguyên làm chức Triều-Thỉnh-Lang, trực Bữu-Chương-Các, có soạn bộ sách Lịch Đại- quận-huyện-địa-lý-thư 30 quyển, có chép các châu quận nguyên thuộc An-nam đô-hộ phủ đời
Đường. Về sau có thay đổi không giống nhau, nay chép lại tạm để tiện việc tham-khảo:

An-nam lộ gồm có: Tống-Bình, Thái-Bình, Giao-Chỉ, Châu-Diên, Long-Biên, Bình-Đạo, Võ-Bình.
Phong-Châu gồm có: Gia-Ninh, Tân-Xương, Thừa-Hóa, Cao-Sơn, Chu-Duyên (Đường thư chép là Thù-Lục (?)).
Tương-Châu gồm có: Tương-Giang, Ba-Linh, Hộc-Sơn, Hoằng-Viễn.
Nham-Châu gồm có: Thường-Lạc, Tư-Phong, Cao-Thành, Thạch-Nham.
Điền-Châu gồm có: Đô-Cứu, Huệ-Giai, Võ-Long, Hoành-Sơn, Như-Lại.
Ái-Châu gồm có: Cửu-Chân, An-Thuận, Sùng-Bình, Nhật-Nam, Quân-Ninh, Trường-Lâm.
Hoan-Châu gồm có: Cửu-Đức, Phổ-Dương, Việt-Thường, Hoài-Hoan.
Lục-Châu gồm có: Ô-Lôi, Hoa-Thanh, Ninh-Hải.
Lộc-Phúc-Châu (Đường thư chép là Phúc-Lộc) gồm có: Nhu-Viễn, Đường-Lâm, Phúc-Lộc.
Trường-Châu gồm có: Văn-Dương, Đồng-Thái, Trường-Sơn, Kỳ-Thường.
Thang-Châu gồm có: Thang-Tuyền, Lục-Thuỷ, La-Thiều.
Diễn-Châu gồm có: Trung-Nghĩa, Long-Trì.
Lâm-Châu gồm có: Kim-Long, Hải-Giới.

Cảnh-Châu gồm có: Bắc-Cảnh, Châu-Ngô, Do-Văn.
Sơn-Châu gồm có: Long-Trì, Bồn-Sơn.
Cổ-Châu gồm có: Lạc-Sơn, Lạc-Hưng, Cổ-Thư.
Lung-Châu gồm có: Võ-Lặc, Võ-Lễ, La-Long, Phù-Nam, Long-Ngạch, Võ-Quan, Võ-Giang.
Hoàn-Giang gồm có: Chính-Bình, Phước-Linh, Long-Nguyên, Nhiêu-Miễn, Tư-Ân, Võ-Thạch, Ca-Lương, Đô-Mông.
Võ-Nga-Châu gồm có: Võ-Nga, Võ-Lao, Võ-Duyên, Lương-Sơn.
Việt-Châu gồm có: Long-Thuỷ, Nhai-Sơn, Đông-Tỷ, Thiên-Hà.
Bình-Cầm-Châu gồm có: Dung-Sơn, Hoài-Nghĩa, Phúc-Dương, Cổ-Phù.
Đức-Hoá-Châu gồm có: Đức-Hoá, Quy-Nghĩa.
Võ-An-Châu gồm có: Võ-An.
Lang-Mang-Châu gồm có: Lang-Mang, Cổ-Dõng.
La-Võ-Châu gồm có: Long-Khâu, Phúc-Võ.