PDA

View Full Version : Con ngựa và nền văn hóa Việt Nam


*tay_mon_khanh*
13-09-2004, 21:00
Con giáp mà Tây mỗ thích nhất là con ngựa chả phải sinh năm ngựa nhưng vẫn thích ,thích được cưỡi ngựa
Nhưng tại hạ muốn nối đến con ngựa trong nền văn hóa cũng như văn học ở nước ta
Có lẽ con ngựa là loài được con người thuần chủng muộn nhất ,bằng chứng cho thấy là trên mặt trống đồng của người Việt xưa không hề có mặt những chú ngựa. Mãi đến đời vua Hùng thứ 6 con ngựa mới được thần thánh hóa thành chú ngựa sắt chở thánh gióng về trời.Đến đời vua Hùng thứ 18 con ngựa cũng được nhắc đến trong lễ vật kén rể.
Đến đời nhà lý ,khi mà Lý Công Uẩn rời đô từ hoa lư về thăng long,trong lúc xây thành thì lần nào cũng bị đổ bỗng có con ngựa trắng đi từ đền long đô đi ra và đi một vòng vua thấy thế liền xây thành theo dấu chân ngựa và không bị đổ nữa từ đó đền thờ đổi tên thành đền bạch mã.Ai muốn đến thăm thì qua phố hàng buồm nhé!.
Thực ra thì đó là tín ngưỡng phật giáo vào thời lý vì theo đạo phật ngựa là con của mặt trời là 1 trong "thất bảo" của phật.
Còn trong văn học Việt Nam thì nói rất nhiều đến con ngựa. để nói đến thời gian trôi nhanh ông cha ta đã nói một câu tục ngữ là "bóng câu qua cửa"
Câu ở đây là con ngựa non.Trong cung oán ngâm khúc Của NGuyễn Gia thiều có viết : Bóng câu thóang bên mành mấy nỗi
Những hương sầu phấn tủi cho song
NGoài ra còn có câu : Hồ mã tê bắc phong
Việt điểu sào nam chi
NGhĩa là (ngựa hồ thấy gió bắc thì hí lên vì phương bặc là quê hương của nó còn chim việt đậu cành nam vì phương nam cũng là quê hương của nó )
trong các nhà thơ vào thời trung đại của việt nam thì tú xương là người hay nói về ngựa
trong câu thơ : Tiền bạc phó cho con mụ kiếm
Ngựa xe chẳng có lúc nào ngơi
Đây là câu thơ ông nói về hoàn cảnh của ông mặc dù gia cảnh lúc nào cũng khốn khó nhưng với ông thì vẫn phong lưu nhàn nhạ

(đã thưởng điểm cho bài này. LS-LyQuy)

LangTu_VoTinh_66
25-09-2004, 16:58
Trong rất nhiều tư liệu xưa có nhắc tới ngựa.
Loài ngựa là một loài vật rất thông minh,và rất mực trung thành.Khả năng của chúng rất phi thường.Có sức dẻo dai, và chịu đựng giỏi. Ngựa tốt có thể đi nhiều dặm đường mà không cần nghỉ.
Trong những cuộc chiến thời trung cổ,ngưa được nhắc tới như một người ban của những chiến binh.Chiến mã được ca ngợi rất nhiều,với tất cả sự yêu thích.
Những con ngựa tốt,được tán như những siêu sinh vật thực thụ.
ví dụ như.Đích Lư ,Xích Thố,Thiên Lý mã, là những con ngưa quý trong Tam Quốc ,chắc hẳn bạn đã từng đọc đúng không?
Có rất nhiều những tác phẩm bất hủ,nói về loài ngựa với tất cả sự mến yêu,dành cho loài vật này. Như một tác phẩm của một nhà văn nga mà tại hạ không nhớ tên,
kể về chú ngưa chiến nhớ đường,đã mang mật mã quan trọng,và xác chủ nhân là một chiến sĩ hồng quân Liên Xô về tới đơn vị.
...
Tại hạ thấy loài ngựa thực là tuyệt vời,còn huynh đệ thì nghĩ sao về chúng?

Shinichi
10-10-2004, 03:53
Ngựa đúng là loài vật rất đẹp, e hèm, nhưng đáng tiếc phải nói thêm rằng, trừ ngựa Việt Nam.

Ngựa Việt Nam bé, lùn và chân ngắn (các bác lên Đà Lạt sẽ thấy rất rõ). Hồi hè tui có đọc bài báo nói ở miền Trung VN đang xây một trường đua ngựa và sẽ nhập ngựa ngoại về đua. Ngựa VN sẽ không được thi đấu cùng ngựa ngoại vì đẳng cấp xa nhau quá. Ngựa ngoại có thể đứng cao đến 1m8-2m, ngựa VN thì :D. Những người cưỡi ngựa thường than phiền rằng giới hạn chiều cao của người cưỡi để đạt tốc độ cao nhất của ngựa VN là dưới 1m6, trong khi ngựa ngoại trở hai người cũng không sao.

LSB-Sách Siêu
20-10-2004, 05:36
Con ngựa Nê Thông của
Hoàng đế Trần Duệ Tông

Hồ Đắc Duy


Nê Thông là con ngựa của Hoàng đế Duệ Tông , một con tuấn mã cực kỳ hiếm hoi , con ngựa mà nhà vua đã cưỡi khi thân chinh tiểu phạt quân Chiêm Thành cách đây hơn sáu thế kỷ
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư quyễn VII trang 161 chép :

Tháng 12, năm Bính Thìn ( 1376 ) vua thân đi đánh Chiêm Thành, dẫn 12 vạn quân xuất phát từ kinh sư.... Sai Lê Quý Ly đốc thúc Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa chở lương cấp cho quân.
Trước đây, chúa Chiêm Thành là Chế Bồng Nga quấy rối biên giới, vua sai hành khiển Đỗ Tử Bình đem quân trấn giữ Hoá Châu. Chế Bồng Nga đem 10 mâm vàng dâng vua. Tử Bình im đi, cướp là của mình, nói dối là Bồng Nga ngạo mạn vô lễ, nên đem quân đánh. Vua giận lắm, quyết ý thân chinh. Bấy giờ, quan quân đến cửa biển Di Luân (thuộc Quảng Bình), các quân vượt biển mà tiến. Vua cưỡi ngựa dẫn quân bộ men theo bờ biển, đến cửa biển Nhật Lệ đóng quân lại, tập luyện một tháng.

Năm Đinh Tỵ (1377) mùa xuân tháng giêng, ngày 23 đại quân tiến cửa Thị Nại (cảng Quy Nhơn, Bình Định) rồi đóng quân ở động Ỷ Mang.

Chế Bồng Nga dựng trại bên ngoài thành Đồ Bàn

Ngày 24 vua mặc áo đen, cưỡi ngựa nê thông , sai Ngự Câu vương Húc mặc áo trắng, cưỡi ngựa trắng, kịp truyền lệnh tiến quân.

Đại tướng Đỗ Lễ can

Vua nói :
- "Ta mình mặc giáp cứng, tay mang gươm sắc, dãi gió dầm mưa, lội sông trèo núi vào sâu trong đất giặc, không ai dám đương đầu với ta. Thế là cái cơ trời giúp ta đó. Huống chi, nay chúa giặc nghe tin đã chạy trốn, không còn lòng dạ đánh nhau. Cổ nhân cũng có nói : "Dùng binh qúy ở thần tốc". Nay nếu dừng lại không tiến, thì thực là trời cho mà không lấy, để nó lại cơ mưu khác thì hối sao kịp....."


Ngựa trong đời sống và văn hóa Việt Nam
Trong lịch sử nước ta thì ngựa và voi là hai con vật đặt biệt yêu mến , nó góp phần trong các chiến thắng vẽ vang chống ngoại xâm
Trong quá khứ người ta đã đặt ra hai cơ quan để chăm sóc , nuôi dưỡng và huấn luyện hai con vật này đó là Viện Tượng chính và Mã chính

Năm 1509 Vua Lê Uy Mục cho đặt hai Giám ti Ngự Tượng và Ngự Mã

Trong Khâm định Đại Nam Hội Điễn Sự Lệ của Quốc Sử Quán triều Nguyễn đã dành riêng một quyễn 175 để quy định về vấn đề Mã chính bao gồm ngạch ngựa , chăn nuôi ngựa, kén chọn ngựa, khám nghiệm ngựa, diễn ngựa , trang sức cho ngựa.....

Ngựa nuôi ở kinh thành thì thuộc vào viện Thượng Tứ , ở nhà trạm men đường ngoài các tỉnh thuộc các thành , trấn , đạo sở tại...

Ngựa để dùng trong thông tin liên lạc khác với ngựa trong việc vận chuyễn kéo xe lại càng khác xa với ngựa chiến... , người xưa đã phân định rất rõ ràng vai trò trách nhiệm cho các viên quản mục , viên biền cai quản từng loại ngựa , đặt ra chức y sinh để coi sóc , điều trị bệnh cho ngựa , giúp ngựa lúc sinh nỡ như các thú y sĩ chuyên trách về ngựa bây giờ

Trên hết trong tất cả loại ngựa quí là ngựa dành cho Hòang đế ,cho các đại tướng khi ra trận , nếu như ở Trung Hoa có con Xích Thố của Lữ Bố, con Đích Lư của Lưu Bị, Hô Lôi Báu của Thượng Sĩ Đồ , con Marly của Guillaume tại Champs Elysés - Paris thì trong bộ sử Đại Việt sữ Ký Toàn Thư thì ngựa cũng đã dược ghi chép nhiều nơi như trang 133 ghi rằng : " Đời Hùng Vương thứ 6 ở hương Phù Đỗng bộ Vũ Ninh... có đứa trẽ lên ba mà chưa biết nói Gặp lúc trong nước có nguy cấp , vua sai đi tìm người có thể đánh lui được giặc Ngày hôm ấy đứa trẻ bổng nói được , bảo mẹ ra mời thiên sứ vào, nói : Xin cho một thanh gươm , một con ngựa , vua không phải lo gì " Vua ban cho gươm và ngựa , đứa trẻ liền phi ngựa vung gươm tiến lên trước , quan quân đánh tan quân giặc Ân ở chân núi Vũ Ninh ... hay ở trang 139 chép chuyện : Khi Vua Thục An Dương Vương bị Triệu Đà tấn công, vua thua chạy để Mỵ Châu ngồi trên ngựa cùng chạy vế phía nam. Trọng Thủy nhận dấu lông ngỗng đuổi theo vua đến bờ biễn hết đường mà không có thuyền, liền goi rùa vàng mấy tiếng " Mau đến cứu ta " Rùa vàng nỗi lên mặt nước mắng rằng " kẻ ngồi sau ngựa là giặc đấy ... " Ngựa đã là nhân , vật chứng cho nhiều huyền thoại trong lịch sử nước ta.


Ngựa Nê Thông là ngựa gì ?
Các hoàng đế nước ta đa số đều cưởi Bạch Mã , đó là một loại ngựa quý hiếm có sắc lông màu trắng như tuyết , cao lớn ôn hòa , Có nghĩa biết mến chủ , biết bảo vệ chủ , không sợ tiếng động , tiếng gào thét , tiếng rống của voi , tiếng hí của ngựa khác , tiếng va chạm binh khí , tiếng súng . Ngựa phải chạy nhanh , đạt các tiêu chuẫn 4 nước đại , 3 đợt nhảy cao và có 9 đức tính tốt
Những con ngựa được tiến cử cho vua là những con ngựa được tuyễn chọn trong các con ngựa cực kỳ quý hiếm
Kể từ khi quân Nguyên vào xâm chiếm nước ta lần đầu vào năm 1257 và về sau vào các năm 1285 , 1288 thì hàng ngàn hàng vạn con ngựa chiến từ thảo nguyên Mông cổ được đưa sang nước ta .
Khi đám tàn quân Mông Cổ thất trận tháo chạy thì số chiến mã này một số thì bị bắt, một số bị lạc trong rừng trở nên một loài ngựa hoang, loài ngựa nước ta được lai giống với các loài ngựa của vùng thảo nguyên Mong Cổ , Vân Nam , Kinh Bắc , Tân Cương ....mà quân thù phương bắc qua nhiều lần xâm lược mang theo trong các cuộc hành quân

Sách Đại Việt sữ ký Tiền Biên trang 180 chép : "Năm Đinh Mùi ( 1006 ) Châu Vị Long ( Chiêm Hóa Tỉnh Hà Tuyên ) dâng cho Khai Minh Vương một con Bạch Mã bốn vó đều có cựa
Con ngựa mà Hòang đế Trần Duệ Tông cưởi khi tiến công Thành Đồ Bàn của Chiêm Thành dưới thời Chế Bồng Nga là một con tuấn mã kỳ vĩ cực kỳ hiếm có kể cho đến bây giờ chưa chắc một nhà nghiên cứu mã học được nhìn thấy một con thứ hai .

Trong các chữ đặt thù dùng để chỉ màu sắc , hình dáng hay đặt tính của loài ngựa thời xưa của nước ta cũng như Trung Quốc thì có một số chử chính sau đây :

Mã , Thố , Câu , cũng có khi gọi là Long nói chung dể chỉ về ngựa .
Tuấn : là ngựa hay , chay nhanh , khỏe dẻo dai .
Kỳ Ký là ngựa lạ quý hiếm , ngựa thiên lý ( Vua Trần Nhân Tông đã từng ví Đỗ Khắc Chung là : Ngờ đâu trong đám ngựa kéo xe muối lại có ngựa kỳ , ngựa ký như thế ? ĐVSKTT trang 52 ) .
Đề là móng chân thú (Thiện Lương Đề của vua Thiệu Trị ) .
Xích là sắc lông màu đỏ ( con Xích Thố là một món quà tặng của Tào Tháo cho Quan Công ) .
Ô , Ly là ngựa có sắc sắc lông màu đen ( con Ô Trung cũa Hạng Võ ) .
Phiêu là ngựa có sắc lông xanh trắng ( Phiêu Kỵ tướng quân ) .
Lạc là ngự a vằn ( Lạc mã thiên lý vương ) .
Tinh là ngựa hồng ( Song vĩ Tinh còn gọi là Song vĩ hồng - Con ngựa hồng hai đuôi của Lý Thường Kiệt ) .
Nê là dùng để chỉ lông con ngựa có hai màu : Màu Trắng và màu đen .
Thông là dùng để mô tả sắc lông ngựa màu xanh ( như con Nhàn Lương Thông , trong truyện Ngũ Thông Thần trong Liêu Trai Chí Dị trang 380 cho rằng thịt của loại ngựa này ăn ngon gấp bội lần loại khác ).....

Như vậy con ngựa của Hoàng đế Duệ Tông quả là một con tuấn mã cực kỳ hiếm hoi , màu sắc lông của nó là một sự pha trộn màu sắc thật kỳ diệu của ba màu trắng , đen và xanh , một sự đột biến của gien tỗng hợp , một bản giao hưỡng của thiên nhiên

Nếu như một lần nào dó mà Từ Bi Hồng , Lư Bột Thư hoặc là Bé Ký đọc hay nhìn thấy con Nê Thông của Hoàng đế Duệ Tông thì chắc là chúng ta sẽ được thưởng ngoạn những bức tranh về ngựa tuyệt tác.

Ngoài con Nê Thông , vang bóng vàng son một thời trong tàu ngựa của vua chúa Việt Nam còn có con Phúc thông , Cát thông , An Tường Ký ,Thần lương , Phúc Lưu , Cát lưu , Thiên mã của Hoàng Đế Minh Mạng .

Thiên mã là con ngựa ỡ nước Tây Vực thuộc miền Trung Á được nhập vào trong tàu ngựa của Hoàng đế năm 1830

Vua Minh Mạng đã nhận xét con An Tường Ký như sau : Đô thống Pham văn Điễn có dâng con ngựa trắng , dù là không là giống ngựa tuyệt trần chạy bay như mây , nhưng trẫm cưởi thấy được yên ỗn nên goi nó là An Tường Ký "

Hiến tổ Chương Hoàng Đế một ông vua tài hoa và học thức uyên bác đã ban dụ về một con Thiên lý mã của mình như sau : " Ta đã sai giong yên ngồi cưỡi , chay nhanh như chớp gió , thật vượt mức trong các loài ngựa có 4 nước đại và 3 đợt nhãy cao , lại cao siêu hơn loài ngựa có 9 đức tính tốt và 8 thứ ngựa giỏi , nên ban cho tên đẹp để tỏ cái đức con ngựa ký .. nay gọi trên là Đại Uyển Long Tuấn "


Thao diễn trận ngựa ở Kinh Đô Huế năm 1851
Sách Khâm Định Đại Nam Hội Điễn Sự Lệ đã mô tả một buổi diễn ngựa ở Huế như sau :
Giáo trường thao diễn trận ngựa ngoại thành Đông Nam là một dãi đất chạy dài từ cửa Đông Ba cho đến chân cầu Gia Hội - Huế được vua Tự Đức chiếu dụ tổ chức năm 1851 với một chương trình bao gồm : Một suất đội 12 người , 200 biền binh , 100 con ngựa chiến , cờ ngủ hành một bộ , cờ vệ một cây , cờ hiệu một cây , cờ đội 20 cây , súng tiểu mã 80 khẫu , dao ngựa 80 cây , dao cờ 26 cây , loa thau một chiếc , kiểng đồng một cái , thanh la, tù và , trống trận chiêng đồng một thứ một chiếc , mũi giáo 240 cây , người bù nhìn và cây chuối cho đủ số diễn tập .......

Có lẽ linh hồn của Hòang đế Trần Duệ Tông và con chiến mã Nê thông vẫn còn phản phất ngậm ngùi trên giáo trường đó , vì sao vậy ?

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép tiếp :

" Quân lính người ngựa bèn nối gót nhau mà đi như xâu cá. Tiền quân và hậu quân hoàn toàn cách biệt. Giặc thừa thế xông ra đánh chặn. Giờ Tỵ quan quân tan vỡ, vua bị hãm trong trận mà chết. Bọn đại tướng như Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hoà, Phạm Huyền Linh đều chết cả. Giặc bắt sống đuợc Ngự Câu vương.....Đỗ Tử Bình chỉ huy hậu quân không đến cứu nên thoát chết. Lê Quý Ly dốc quân chở lương, nghe tin vua băng bỏ trốn về nước.

Quận Chúa Quỳnh Anh
07-11-2004, 10:51
QA cũng kể về ngựa _ Liên quan đến Hạng Vũ , Ngũ Cơ và Con Ngựa Chuy

Khi quân Hán tấn công Sở , Hạng Vũ đang đóng quân trong thành Cai Hạ , binh ít , lương hết . Quân Hán và quân chư hầu bổ vây mấy vòng . Đang đêm , Hạng Vũ nghe quân Hán ở bốn mặt đều hát giọng Sở , thất kinh nói :
_ Hán đã lấy được Sở rồi sao ?
Hạng Vũ vùng dậy , uống ruợu trong trướng , lòng đầy bi phẫn . Có mỹ nhân thường đi theo tên là Ngu Cơ , có con ngựa thường cưỡi khi chinh chiến tên là Chuy .
Hạng Vũ cảm khái xót xa , làm một mạch bài thơ trong đêm đầy không khí bi hùng ấy .
Sức nhổ núi , khí chùm đời ,
Ngựa Chuy chùn lại bởi thời không may !
Ngựa sao chùn lại thế này ?
Ngu Cơ hỡi , tính sao đây hỡi nàng ?
Hạng Vũ ca mấy lần , Ngu Cơ hát theo , hát xong nàng liền tự sát . Hạng Vũ khóc chảy nước mắt , tả hữu đều khóc , không ai có thể ngẩng đầu lên nhìn .
Hạng Vũ bèn lên mình ngựa , đang đêm cùng binh sĩ , tất cả đều cưỡi ngựa , phá vỡ vòng vây , xông ra phía Nam phi ngựa chạy . Cuộc chiến còn tiếp diễn đến tận bờ sông Ô Giang cắm thuyền đợi . Hạng vũ tỏ ý muốn đi về phía Đông , nhưng người đình trưởng khuyên Hạng nên vượt sông . Hạng Vũ cười mà rằng :
_ Trời hại ta , ta vượt qua sông làm gì . Vả chăng Tịch này còn tám ngàn con em Giang Đông vượt Trường Giang đi về hướng Tây , không còn lấy một người trở về . Dù cho các bậc cha anh ở Giang Đông thương ta , cho ta làm vương , ta cũng chẳng còn mặt mũi nào mà thấy họ nữa . Dù họ không nói , Tịch này há chẳng thẹn trong lòng sao ?
Bèn bảo đình trưởng :
_ Ta biết ông là bậc trưởng giả , ta cưỡi con ngựa Chuy này năm năm nay , đi đến đâu cũng vô địch , thường một ngày đi ngàn dặm , ta không nở giết xin biếu ông .
Hạng Vũ bèn sai kỵ binh đều xuống ngựa đi bộ , cầm khí giới ngắn để tiếp chiến . Một mình Hạng Vũ giết chết mấy trăm quân Hán , thân bị hơn mười vết thương , quay lại thấy kỵ binh Tư Mã của Hán là Lữ Mã Đồng , bèn nói :
_ Ông có phải là cố nhân của ta đó không ? Ta nghe Hán mua đầu ta ngàn vàng , phong ấp vạn bộ . Ta làm ơn cho nhà người đây .
Nói rồi Hạng Vũ tự đâm cổ chết .
Trận chiến đấu cuối cùng của Hạng Vũ lẫn bài thơ cảm khái đêm giao tranh , và cũng là đêm vĩnh biệt với nàng Ngu Cơ , bài thơ có đầy đủ tên người mỹ nhân và con ngựa trận lừng danh thiên hạ , mà người đời sau còn lưu truyền mãi đến tận bây giờ .