PDA

View Full Version : Người anh hùng Ngô Quyền


langtu_codoc
19-10-2004, 17:05
Năm 938, quân Nam Hán vượt biển xâm lược nước Việt và sa vào trận địa cọc ngầm mai phục tài tình của Ngô Quyền (897-944) trên sông Bạch Đằng, chịu thất bại thảm hại, phải từ bỏ ý đồ xâm lược. Chiến thắng Bạch Đằng đã mở đầu cho một kỷ nguyên độc lập lâu dài của nước Việt.
Ngô Quyền, người làng Đường Lâm (nay là xã Đường Lâm, huyện Ba Vì, Hà Tây) cùng quê với Phùng Hưng.
Ông sinh năm 897, con trai thứ sử Ngô Mân, một hào trưởng địa phương. Được truyền thống địa phương hun đúc, được cha dạy bảo, từ tấm bé Ngô Quyền đã tỏ ra có ý chí lớn. Thân thể cường tráng, trí tuệ sáng suốt, chăm rèn võ nghệ. Sử cũ miêu tả ông "vẻ người khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi như cọp, có chí dũng, sức có thể nhấc vạc dơ cao".
Năm 920, Ngô Quyền đi theo Dương Đình Nghệ, một tướng của họ Khúc ở đất Ái Châu (Thanh Hóa). Dương Đình Nghệ là anh hùng dân tộc từng có công đánh đuổi giặc Nam Hán, chiếm được thành Đại La năm 931, thúc đẩy bước tiến của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Dương Đình Nghệ lên cầm quyền, tự xưng Tiết độ sứ, giao cho Ngô Quyền cai quản Châu Ái. Yêu mến tài năng và nhiệt huyết cứu đời, giúp nước của Ngô Quyền, Dương Đình Nghệ đã gả con gái cho ông.
Trong 7 năm (931-938), quản lĩnh đất Ái Châu, Ngô Quyền trổ tài lực, đem lại yên vui cho dân trong hạt.
Năm 937, Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn, một thuộc tướng và là hào trưởng đất Phong Châu giết hại để đoạt chức Tiết độ sứ. Hành động phản trắc của Kiều Công Tiễn đã gây nên một làn sóng bất bình, căm giận sâu sắc trong mọi tầng lớp nhân dân. Ngô Quyền trở thành ngọn cờ qui tụ mọi lực lượng yêu nước.
Sau một thời gian tập hợp lực lượng, Ngô Quyền đem quân từ Châu Ái ra bắc, tiến công thành Đại La, diệt trừ Kiều Công Tiễn.
Năm 938, trời đang tiết mưa dầm gió bấc. Đoàn quân Ngô Quyền, người người lớp lớp vượt đèo Ba Dội tiến ra bắc. Quân xâm lược còn đang ngấp nghé ngoài bờ cõi thì đầu tên phản bội Kiều Công Tiễn đã bị bêu ở ngoài cửa thành Đại La (Hà Nội). Mối họa bên trong đã được trừ khử. Kế sách trước trừ nội phản sau diệt ngoại xâm đã được thực hiện.
Ngô Quyền vào thành, hợp các tướng tá, bàn rằng: "Hoằng Tháo là một đứa trẻ dại, đem quân từ xa đến, quân lính mỏi mệt, lại nghe được tin Công Tiễn đã bị giết chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta sức còn mạnh, địch với quân mỏi mệt, tất phá được!"
"Song chúng có lợi ở thuyền, nếu ta không phòng trước thì chuyện được thua cũng chưa thể biết được!"
"Nếu ta sai người đem cọc lớn đóng ngầm ở cửa biển trước, vạt nhọn đầu mà bịt sắt, thuyền của chúng nhân khi nước triều lên, tiến vào bên trong hàng cọc, bấy giờ ta sẽ dễ bề chế ngự. Không kế gì hay hơn kế ấy cả."
Chư tướng đều phục kế sách ấy là tuyệt vời.
Phán đoán đúng con đường tiến quân của địch: Ngô Quyền - người được nhà sử học Lê Văn Hưu ngợi ca là "mưu giỏi mà đánh cũng giỏi" - đã chủ trương bố trí một trận địa cọc ở cửa sông Bạch Đằng, rồi nhân khi nước triều lên, nhử thuyền địch tiến vào bên trong hàng cọc và tập trung lực lượng tiêu diệt địch bằng một trận quyết chiến nhanh, gọn, triệt để.
Sau khi diệt trừ xong bọn Kiều Công Tiễn, Ngô Quyền và bộ chỉ huy kéo quân về vùng ven biển Đông Bắc chuẩn bị đón đánh quân Nam Hán. Thần tích và truyền thuyết dân gian các làng thuộc xã Nam Hải, Đằng Hải đều nói rõ từ Bình Kiều. Hạ Đoạn tới Lương Khê (thuộc An Hải, Hải Phòng) là khu vực đóng quân của Ngô Quyền. Hơn 30 đền miếu thờ Ngô Quyền và các tướng phá giặc Nam Hán đã được phát hiện, đều phân bố tập trung ở vùng hạ lưu sông Bạch Đằng. Đồn trại của Ngô Quyền đóng tại các thôn Lương Xâm (An Hải, Hải Phòng), Gia Viên (nội thành Hải Phòng)
Trước mưu đồ xâm lược trở lại của phong kiến Trung Quốc, ngọn cờ cứu nước của Ngô Quyền trở thành ngọn cờ đoàn kết của cả dân tộc. Đội quân Ngô Quyền, từ một đội binh Ái Châu đã nhanh chóng trở thành một đội quân dân tộc. Truyền thuyết dân gian còn ghi nhớ chuyện 38 chàng trai làng Gia Viễn (Hải Phòng) do Nguyễn Tất Tố và Đào Nhuận dẫn đầu, đã tự vũ trang, xin theo Ngô Quyền phá giặc. Trai tráng các làng Lâm Động (Thủy Nguyên, Hải Phòng), Đằng Châu (Kim Động, Hải Hưng), người mang vũ khí, kẻ mang chiến thuyền, tìm đến cửa quân xin diệt giặc. Ba anh em Lý Minh, Lý Bảo, Lý Khả ở Hoàng Pha (Hoàng Động, Thủy Nguyên), ông tổ họ Phạm ở Đằng Giang (An Hải, Hải Phòng) cũng chiêu mộ dân binh, hăng hái tham gia kháng chiến.
Vùng cửa sông và vùng hạ lưu sông Bạch Đằng được Ngô Quyền chọn làm chiến trường quyết chiến.
Bạch Đằng ngày ấy cũng như ngày sau vẫn mang "tên nôm" giản dị: Sông Rừng!
Sông Rừng thường có sóng bạc đầu, vì vậy mới có thêm một "tên chữ" Bạch Đằng giang.
Bộ sử Cương mục mô ta.

"Sông rộng hơn hai dặm, ở đó có núi cao ngất, nhiều nhánh sông đổ lại, sóng cồn man mác giáp tận chân trời, cây cối um tùm che lấp bờ bến".

Bạch Đằng là cửa ngõ phía đông bắc và là đường giao thông quan trọng từ Biển Đông vào nội địa Việt Nam. Cửa biển Bạch Đằng to rộng, rút nước từ vùng đồng bằng Bắc Bộ đổ ra Vịnh Hạ Long. Từ cửa biển ngược lên gần 20 km là đến cửa sông Chanh. Phía hữu ngạn có dãy núi vôi Tràng Kênh với nhiều hang động, sông lạch và thung lũng hiểm trở.
Hạ lưu sông Bạch Đằng thấp, độ dốc không cao nên chịu ảnh hưởng của thủy triều khá mạnh. Lúc triều dâng, nước trải đôi bờ đến vài cây số. Lòng sông đã rộng, lại sâu, từ 8 m - 18 m. Triều lên xuống vào độ nước cường, nước rút đến hơn 30 cm trong một giờ, ào ào xuôi ra biển, mực nước chênh lệch khi cao nhất và thấp nhất khoảng 2,5 - 3,2 m.
Lịch sử thành tạo vùng Bạch Đằng trên đây và một số tài liệu địa lý học lịch sử cho phép khẳng định, cửa sông Bạch Đằng thế kỷ 10 không phải là cửa Nam Triệu với địa hình như hiện nay.
Lúc bấy giờ cửa sông Nam Triệu là cửa biển chung của sông Cấm (hay sông Nam Triệu) và sông Bạch Đằng. Cửa biển Bạch Đằng ngày xưa ở vào khoảng đó, nằm sâu vào phía trong so với cửa Nam Triệu hiện nay khoảng hơn chục cây số. Giữa vùng thiên nhiên sông biển đó, trên cơ sở sức mạnh đoàn kết và ý chí độc lập của cả dân tộc, Ngô Quyền khẩn trương giàn bày một thế trận hết sức mưu trí, lợi hại để chủ động phá giặc.
Ông huy động quân dân vào rừng đẵn gỗ, vót nhọn, bịt sắt (hẳn số thợ rèn được huy động đến cũng khá đông) rồi cho đóng xuống lòng sông thành hàng dài tạo thành một bãi cọc, một bãi chướng ngại dày đặc ở hai bên sông. Khi triều lên mênh mông, thì cả bãi cọc ngập chìm, khi triều xuống thì hàng cọc nhô lên cản trở thuyền qua lại. Bãi cọc tăng thêm phần hiểu trở ho địa hình thiên nhiên.
Trận địa cọc là một nét độc đáo của trận Bạch Đằng phá quân Nam hán và cũng là một sáng tạo rất sớm trong nghệ thuật quân sự Việt Nam mà người khởi xướng là Ngô Quyền. Nhưng cho đến nay, vẫn chưa phát hiện được thêm nhiều di tích của bãi cọc này.
Trong khi chuẩn bị trận địa, Ngô Quyền không những lợi dụng địa hình thiên nhiên, mà còn biết lợi dụng cả chế độ thủy triều. Đây cũng là một trận đánh biết lợi dụng thủy triều sớm nhất trong lịch sử quân sự nước ta, mở đầu cho truyền thống lợi dụng thủy triều trong nhiều trận thủy chiến sau này. Rất tiếc là cho đến nay, chưa xác định được ngày tháng xảy ra trận Bạch Đằng, nên chỉ có thể đưa ra một số giả định nào đó, chưa thể có những kết luận cụ thể về điều này.
Quân thủy bộ, mai phục sẵn ở phía trong bãi cọc, có lẽ trong khoảng hạ lưu và trung lưu sông Bạch Đằng; trong các nhánh sông và trên hai bờ sông.
Theo truyền thuyết và thần tích, Dương Tam Kha chỉ huy đạo quân bên tả ngạn, Ngô Xương Ngập và Đỗ Cảnh Thạc chỉ huy đạo quân bên hữu ngạn, mai phục ở hai bên bờ sông để cùng phối hợp với thủy binh đánh tạt ngang vào đội hình quân địch và sẵn sàng tiêu diệt số quân địch trốn chạy lên bờ. Có thể suy đoán rằng, ngược lên phía thượng lưu là một đạo thủy quân mạnh phục sẵn làm nhiệm vụ chẹn đầu, chờ khi nước xuống sẽ xuôi dòng đánh vỗ mặt đội binh thuyền của địch.
Cũng theo truyền thuyết, thần tích người thanh niên Nguyễn Tất Tố, vốn giỏi bơi lặn và quen thuộc sông nước, được giao nhiệm vụ khiêu chiến, nhân lúc nước triều lên, nhử địch vượt qua bãi cọc vào cạm bẫy bên trong.
Trong thế trận của Ngô Quyền, rõ ràng trận địa mai phục giữ vai trò quyết định. Trận địa cọc ở cửa sông là nhằm chặn đường tháo chạy của tàn quân giặc. Sự phối hợp giữa hai trận địa chứng tỏ quyết tâm chiến lược của Ngô Quyền là phen nàykhông phải chỉ đánh bại quân giặc mà còn phải tiêu diệt toàn bộ quân giặc, đập tan mộng tưởng xâm lăng của triều đình Nam Hán.
Cuối năm 938, cuộc kháng chiến chống xâm lược Nam Hán lần thứ hai của quân dân Việt đã giành được thắng lợi hết sức oanh liệt.
Cả một đoàn binh thuyền lớn của giặc vừa vượt biển tiến vào mạn sông Bạch Đằng đã được nhử ào thế trận đã bày sẵn và bị tiêu diệt gọn trong một thời gian rất ngắn. Toàn bộ chiến thuyền của giặc bị đánh đắm, hầu hết quân giặc bị tiêu diệt. Chủ soái của giặc là Lưu Hoằng Tháo cũng bị giết tại trận.
Chiến thắng Bạch Đằng có những nét rất độc đáo và giữ một vị trí trọng đại trong lịch sử dân tộc.
Chiến thắng Bạch Đằng diễn ra nhanh, gọn, triệt để đến mức độ vua Nam Hán đang đóng quân ở sát biên giới mà không sao kịp tiếp ứng. Nghe tin quá bất ngờ và kinh hoàng, chúa Nam Hán đành thương khóc thu nhặt tàn quân quay về nước. Y bèn hạ đổ tội cho Trước tác Tá Lang hầu Dung "làm cho khí thế quân binh không phấn chấn lên được". Lúc này Dung đã chết, chúa Nam Hán tàn bạo sai quật mả, phơi thây Dung để trả thù!
Sau chiến thắng chấm dứt hơn 1000 năm Bắc thuộc Ngô Quyền bắt tay xây dựng quốc gia. Ngô Quyền xưng vương, bãi bỏ chức Tiết độ sứ, định đô ở Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội). Ông đặt ra chức quan văn, võ, nghi lễ trong triều. Nhưng đáng tiếc thời gian tại ngôi của ông thật ngắn ngủi, chỉ được 6 năm (939-944).
Ông mất ngày 18 tháng Giêng năm Giáp Thìn, thọ 47 tuổi.
Ngợi ca Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng, nhà sử học Lê Văn Hưu viết trong "Đại Việt sử ký toàn thư":
"Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là một cơn giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy".

Tiểu Siêu
21-10-2004, 17:51
Nguồn (http://www.nhandan.org.vn/vietnamese/vanhoa/danhnhan/dnhan_ngoquyenvachienthang.htm)
Lần sau mong bạn ghi rõ bài sưu tầm và nguồn lấy , để chánh những hiểu lầm ko hay. Điều này trong Nội quy của ĐTKC đã ghi rất rõ ràng , lưu ý lần sau !
Tiểu Siêu

Yến Thanh
23-10-2004, 11:34
Ngô Quyền định đô ở Cổ Loa thì đã rõ rồi, nhưng thế còn tên nước ta (quốc hiệu) dưới thời Ngô Quyền là gì? Lẽ nào Ngô Quyền không có quốc hiệu, hay là ông vẫn sử dụng cái tên "Tĩnh Hải" của nhà Đường? Hay là Giao Chỉ? Mong mọi người bàn rõ cho.

Lý Thám Hoa
23-10-2004, 13:49
Sau khi Ngô Quyền mất, Dương Tam Kha làm loạn cướp ngôi cháu là Ngô Xương Ngập, một người con khác của Ngô Quyền là Ngô Xương Văn lại tự nguyện hàng Nam Hán để xin chức Tĩnh Hải Tiết Độ Sứ. Giai đoạn này cực kỳ nhiễu nhương, lộn xộn vô cùng với những cuộc đấu đá - thanh trừng giữa chi lưu Dương Đình Nghệ với đám con của Ngô Quyền. Hệ quả là "Loạn 12 sứ quân" đã xảy ra !

"Tĩnh Hải Quận" là tên gọi của An Nam(**) do nhà Đường đặt khi phong cho Cao Biền làm Tiết Độ Sứ. Sau đó đến Khúc Thừa Dụ tuy khởi nghĩa có phần thành công nhưng vẫn do nhà Đường phong làm Tĩnh Hải Tiết Độ Sứ (Thời điểm này, nhà Đường đã suy yếu nặng. Hậu Lương, Hậu Tấn, Hậu Chu... nổi lên đánh nhau tùm lum tranh ngôi vua, gọi là Ngũ Quý hay Ngũ Đại). Thậm chí khi nhà Đường đã diệt vong, Khúc Thừa Dụ vẫn sử dụng tên gọi "Tĩnh Hải Tiết Độ Sứ" để truyền vị cho con là Khúc Hạo.

Có khá hơn so với những người trước, sau chiến thắng Bạch Đằng Giang, Ngô Quyền xưng vương (Ngô Vương Quyền), bỏ chức Tiết Độ Sứ nhưng lại không dám đặt quốc hiệu (có lẽ là sau 1000 năm bị thống trị, tâm tưởng nô lệ vẫn còn in đậm). Như vậy, khi đó nước ta vẫn là Tĩnh Hải mãi cho đến khi Đinh Tiên Hoàng xưng Đế và lập tên nước là Đại Cồ Việt.

(**) : Thời kỳ Hán thuộc, nhà Hán gọi nước ta là Giao Chỉ Bộ. Sau Thái Thú Sĩ Nhiếp đổi lại thành Giao Châu. Nhà Đường gọi là An Nam Đô Hộ Phủ, đến khi Cao Biền sang dẹp loạn Nam Chiếu mới đổi thành Tĩnh Hải.

Lý Thám Hoa
23-10-2004, 18:04
Ngô Quyền là anh hùng thì đúng rồi, nhưng có phải là hảo-hán hay không thì cần xem lại.

- Khi Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn giết chết, lẽ ra con của Dương Đình Nghệ là Dưong Tam Kha phải được thay cha để làm Tĩnh Hải Tiết Độ Sứ. Nhưng Ngô Quyền là bộ tướng và cũng là con rể của Dương Đình Nghệ diệt Kiều Công Tiễn rồi xưng vương, bỏ rơi vai trò kế vị của Dương Tam Kha là dòng chính thống.

- Xưng Vương chứ không dám xưng Đế, bãi bỏ chức Tiết Độ Sứ nhưng không dám lập quốc hiệu. Những điều này làm giảm giá trị của trận Bạch Đằng Giang, khiến cho cuộc khởi nghĩa chống Nam Hán vẫn còn mang hơi hướm nổi loạn, "giận lẫy Thiên triều mà đánh để chứng tỏ" hơn là một công cuộc giành tự do. Trước đó Khúc Thừa Dụ đã là một minh chứng, đánh để đòi chức Tiết Độ Sứ chứ không phải vì một lãnh thổ độc lập. Việc Ngô Vương bỏ tước hiệu Tiết Độ Sứ có thể xem như một cách soán ngôi của họ Dương, danh chánh ngôn thuận, chứ chưa chắc đã vì quốc thể.

Yến Thanh
27-10-2004, 09:39
Đa tạ Lý Thám Hoa đã giải thích cho. Nhưng hình như nước ta ko phải là Tĩnh Hải Quận muh là Tĩnh Hải Quân (Quân là một đơn vị hành chính cuối thời nhà Đường - về sau một số nước ví dụ như Tây Hạ cũng chi nước thành các Quân). Đến thời Đinh, tuy mặt trong thì Đinh Tiên Hoàng xưng đế, nhưng mặt ngoài thì Đinh Liễn vẫn nhận chức Tĩnh Hải Quân Tiết Độ Sứ của nhà Tống.

Tại hạ cho rằng Ngô Quyền xưng vương muh không xưng đế cũng có lý do của nó. Xét về toàn cảnh Trung Quốc thời đó (mà nước ta là một phần trong đó) thì ông Tiết độ sứ của Tĩnh Hải Quân cũng chẳng khác gì các vị tiết độ sứ khác đã cát cứ khắp nơi lập ra các vương quốc ở miền nam Trung Hoa. Cái tên "Ngũ đại thập quốc" tất nhiên là do thời sau đặt cho, chứ thời đó làm gì đã có, do đó tại hạ cho rằng có lẽ theo cục diện thời đó thì các vị Tiết độ sứ họ Khúc, họ Dương cũng là một thế lực cát cứ không khác gì họ Lưu ở Lưỡng Quảng, họ Tiền ở Nam Việt, vân vân và vân vân... Những vị tiết độ sứ này cũng vốn là quan nhà Đường, về sau cát cứ tự chủ rồi dần dần đến mức xưng vương lập quốc. Nhưng có một điều cần lưu ý là không có vị nào xưng đế cả! Có lẽ trong quá trình phát triển của Tĩnh Hải Quân thì các họ Khúc - Dương - Ngô cũng đi theo quá trình đó: cát cứ tự chủ - xưng vương...

Nếu theo cách nhìn đó thì cuộc thảo phạt của nhà Tống về sau đối với nhà Đinh - Lê dưới thời Tống Thái Tông, nếu thành công, sẽ cũng chỉ là một trong các cuộc chiến nhằm thống nhất nước Trung Hoa. Nhưng lịch sử đã đi theo một chiều khác...

Lý Thám Hoa
29-10-2004, 04:27
Nhưng lịch sử đã đi theo một chiều khác...

Người tạo ra bước ngoặt này là Sư Vạn Hạnh, bậc thầy về nghệ thuật dân vận. Ông định hình và khai sinh ra nhà Lý, đặt nền tảng cho sự hưng thịnh của 3 triều đại tiếp nối Lý - Trần - Lê kéo dài liên tục hơn 500 năm !

Tiếc rằng sách Sử chính quy hiện giờ vẫn còn chép đầy những chuyện mộng mị và huyền hoặc về Thiền Sư Vạn Hạnh. Theo GS Vũ Minh Giang (ĐHQG Hà Nội) thì năm 2005 sẽ phát hành bộ sách Sử mới thay thế toàn bộ sách giáo khoa cấp Đại học. Theo 1 số thông tin thì bộ sách này sẽ có nhiều điểm khách quan hơn các sách hiện đang được giảng dạy (Trong đó nhà Tây Sơn bị mổ xẻ rất kỹ). Hy vọng vậy!

Tiểu Siêu
29-10-2004, 15:12
Tới tận năm 2005 sao? Chậc ! Nếu vậy thì kết thúc ngày cuối của Đại học , Tiểu Siêu vẫn phải ôm những truyền thuyết mộng mị ấy ra khỏi trường. Những kiến thức về văn hóa có dính dáng tới lịch sử học từ kỳ II cho tới kỳ V học kiến trúc mỹ thuật đình chùa , miếu mạo... có nhắc về Sư Vạn Hạnh, tất thảy đều huyễn hoặc mơ hồ. Hmm ! Đành đợi khi nào sách xuất bản thì tự bổ túc lấy vậy...
Tiểu Siêu
***P.S :
>>>To Yến Thanh : Đã sắp xong chương trình học chưa? :)

langtu_codoc
02-11-2004, 12:39
Huynh vọng nó sẽ là 1 bộ sách nói chi tiết không bỏ xót 1 số thứ, vì nhiều sách sử vẫn có nhiều thứ thiếu sót rất nhiều