TieuHoaVinh
05-04-2004, 23:06
Trong tác phẩm Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam, đồng chí Trường Chinh đã xếp Lê Quý Đôn vào hàng những nhân tài của dân tộc, khẳng định rằng: Những thiên tài như thế mãi mãi là những ngôi sao sángtrên bầu trời Việt Nam làm vẻ vang cho giống nòi".
Nếu nhìn trên bình diện lịch sử văn hóa Việt Nam suốt thời kỳ phong kiến, chúng ta thấy Lê Quý Đôn quả là một thiên tài. Tác phẩm của ông là một khối lượng rất đồ sộ "kể tới mấy trăm thiên" bao gồm các loại triết học, sử học, văn thơ, chú giải kinh điển, tổng loại, tạp biên... Thật hiếm thấy ở một con người lại tập trung nhiều năm lực trí tuệ, thâu tóm được nhiều lĩnh vực tri thức khoa học như Lê Quý Đôn: chính trị, kinh tế, lịch sử, văn thơ, nho học, Phật học, Lão học, địa lý học, nông học, dân tộc học, thư tịch học, ngôn ngữ học, sưu tầm, khảo cứu... Lĩnh vực nào Lê Quý Đôn cũng tỏ ra uyên bác khiến cho người ta phải sửng sốt và khâm phục.
Trí thông minh kỳ diệu của Lê Quý Đôn đã được người đương thời hết lời ca tụng: hai tuổi đã biết đọc chữ "hữu", chữ "vô". Năm tuổi đã thuộc lòng nhiều bài Kinh Thi. Mười một tuổi ngày học được hàng trăm trang sử. Mười bốn tuổi học hết Ngũ kinh, một ngày làm mười bài phú không cần viết nháp...
Lê Quý Đôn là một viên quan đại thần dưới thời Lê- Trịnh. Cuộc đời làm quan của Lê Quý Đôn có ảnh hưởng lớn đối với sự nghiệp văn chương của ông. Đó là chuyến đi sứ Trung Quốc năm 1759-1762. Lúc này Lê Quý Đôn mới 33 tuổi. Theo lệ xưa thì phải trên dưới 50 tuổi mới được triều đình chọn cử đu sứ, song vì Lê Quý Đôn có tàu nên vẫn được sung vào đoàn sứ bộ với chức phó sứ.
Tạu Yên Kinh (kinh đô nhà Thanh) Lê Quý Đôn gặp gỡ các sứ thần Triều Tiên, tiếp xúc với nhiều trí thức nổi tiếng của nhà Thanh, luận bàn với họ những vấn đề sử học, triết học... và học vấn sâu rộng của ông được học giả Trung Quốc, Triều Tiên vô cùng khâm phục. ở đây, Lê Quý Đôn có dịp đọc nhiều sách mới lạ kể cả sácg của người phương Tây nói về địa lý thế giới, về ngôn ngữ học, thuỷ văn học...
Lê Quý Đôn sống ở thế kỷ XVIII là thời kỳ xã hội Việt Nam có nhiều biến động lớn. Trong lòng xã hội Việt Nam đầy mâu thuẫn khi ấy đang nảy sinh những mầm mống mới của thời kỳ kinh tế hành hóa, thị trường trong nước mở rộng, thủ công nghiệp và thương nghiệp có cơ hội phát triển... Tình hình đó đã tác động mạnh mẽ tới đời sống văn hóa, tư tưởng, khoa học. ở thế kỷXVIII, xuất hiện nhiều tên tuổi rực rỡ như: Ngô Thì Sĩ, Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, Lê Hữu Trác... Đồng thời các tri thức văn hóa, khoa học của dân tộc được tích luỹ hàng nghìn năm tới nay đã ở vào giai đoạn súc tích, tiến đến trình độ phải hệ thống, phân loại. Thực tế khách quan này đòi hỏi có những bộ óc bách khoa và Lê Quý Đôn với học vấn như biển cả của mình đã trở thành người "tập đại thành" mọi trí thức của thời đại. Có thể nói toàn bộ những tri thức cao nhất ở thế kỷ XVIII đều được bao quát vào trong tác phẩm của Lê Quý Đôn. Tác phẩm của ông như một cái mốc lớn đánh dấu thành tựu văn hóa cả một thời đại, với tất cả những ưu điểm cùng nhược điểm của nó. Nếu thống kê lại thì tác phẩm của Lê Quý Đôn có tới 10 bộ, bao gồm hàng trăm quyển, nhưng một số hiện giờ bị thất lạc chưa tìm thấy.
Có thể kể ra những tác phẩm tiêu biểu của ông tới nay còn giữ được:
Về triết học có Quần thư khảo biện (sách được làm trước năm ông 30 tuổi). Về tổng loại có Vân đài loại ngữ. Đây là "bộ sách tinh túy nhất" của Lê Quý Đôn được viết xong lúc ông 30 tuổi. Nội dung sách hết sức phong phú, trong đó tập hợp các tri thức về triết học, khoa học, văn học... Về sử học, ngoài Đại Việt thông sử (còn gọi là Lê Triều thông sử và Bắc sứ thông lục (viết trong lần đi sứ). Quốc sử tục biên (mất), Danh thần lục Lê Quý Đôn còn hai tác phẩm đặc sắc là Kiến văn tiểu lục và Phủ biên tạp lục. Kiến văn tiểu lục là tập bút ký của Lê Quý Đôn trong khi tham bác tài liệu sách vở có liên quan tới lịch sử và văn hóa nước ta từ đời Trần tới đời Lê. Phủ biên tạp lục viết trong thời gian Lê Quý Đôn làm hiệp trấn Thuận Hóa. Nội dung ghi chép lại những điều mắt thấy tai nghe về tình hình xã hội Đàng trong từ thế kỷ XVIII trở về trước.
Lê Quý Đôn là một nhà bác học lớn, vừa là một nhà văn học, một nhà thơ giàu tài năng. Trong sự nghiệp văn học của Lê Quý Đôn phần nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn là phần có giá trị đặc biệt. Công trình biên soạn lớn nhất của Lê Quý Đôn là bộ Toàn Việt thi lục 6 quyển, trong đó tuyển chọn tất cả 897 bài thơ của 73 tác giả từ thời Lý đến đời Lê Tương Dực (1509-1516). Lê Quý Đôn hoàn thành Toàn Việt thi lục năm 1768, dâng lên vua, được thưởng 20 lạng bạc. Với Toàn Việt thi tập, Lê Quý Đôn đã góp phần thu nhặt, gìn giữ khỏi mất mát bao nhiêu châu ngọc quý giá trong kho tàng văn hóa dân tộc.
Về sáng tác văn xuôi, Lê Quý Đôn có Quế Đường văn tập 4 quyển nhưng sách này không còn nữa. Thơ Lê Quý Đôn để lại có Quế đường thi tập, khoản vài trăm bài, làm ở trong nước và trong thời gian đi sứ Trung Quốc.
Nhận xét tổng quát về thơ Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú viết: "Ông là người học vấn rộng khắp, hạ bút thành văn. Cốt cách thơ đều trong sáng. Lời văn thì hồn nhiên như "thiên thành" không cần suy nghĩ mà trôi chảy dồi dào như sông dài biển rộng, không chỗ nào không đạt tới, thật là phong cách đại gia". Đọc thơ Lê Quý Đôn, chúng ta thấy thơ ông thật phong phú, đa dạng, sâu sắc về tư tưởng, nghệ thuật:
Thành hoang tường đổ đã bốn trăm năm
Dây dưa dây đậu leo quấn xanh tốt
Sóng biếc đã rửa sạch hận cho vua Trần
Cỏ xanh khó che lấp nỗi hổ thẹn của Mộc Thạnh
Sau trận mưa bò vàng cầy bật lưỡi gươm cổ
Dưới trăng chim lạnh kêu bên lầu tàn
Bờ cõi cần gì phảI mở rộng mãi
Đời Nghiêu Thuấn khi ấy chỉ có chín châu thôi.
Hơn 200 năm đã trôi qua nhưng trí tuệ và tâm hồn Lê Quý Đôn vẫn tỏa sáng tới ngày nay.
Nếu nhìn trên bình diện lịch sử văn hóa Việt Nam suốt thời kỳ phong kiến, chúng ta thấy Lê Quý Đôn quả là một thiên tài. Tác phẩm của ông là một khối lượng rất đồ sộ "kể tới mấy trăm thiên" bao gồm các loại triết học, sử học, văn thơ, chú giải kinh điển, tổng loại, tạp biên... Thật hiếm thấy ở một con người lại tập trung nhiều năm lực trí tuệ, thâu tóm được nhiều lĩnh vực tri thức khoa học như Lê Quý Đôn: chính trị, kinh tế, lịch sử, văn thơ, nho học, Phật học, Lão học, địa lý học, nông học, dân tộc học, thư tịch học, ngôn ngữ học, sưu tầm, khảo cứu... Lĩnh vực nào Lê Quý Đôn cũng tỏ ra uyên bác khiến cho người ta phải sửng sốt và khâm phục.
Trí thông minh kỳ diệu của Lê Quý Đôn đã được người đương thời hết lời ca tụng: hai tuổi đã biết đọc chữ "hữu", chữ "vô". Năm tuổi đã thuộc lòng nhiều bài Kinh Thi. Mười một tuổi ngày học được hàng trăm trang sử. Mười bốn tuổi học hết Ngũ kinh, một ngày làm mười bài phú không cần viết nháp...
Lê Quý Đôn là một viên quan đại thần dưới thời Lê- Trịnh. Cuộc đời làm quan của Lê Quý Đôn có ảnh hưởng lớn đối với sự nghiệp văn chương của ông. Đó là chuyến đi sứ Trung Quốc năm 1759-1762. Lúc này Lê Quý Đôn mới 33 tuổi. Theo lệ xưa thì phải trên dưới 50 tuổi mới được triều đình chọn cử đu sứ, song vì Lê Quý Đôn có tàu nên vẫn được sung vào đoàn sứ bộ với chức phó sứ.
Tạu Yên Kinh (kinh đô nhà Thanh) Lê Quý Đôn gặp gỡ các sứ thần Triều Tiên, tiếp xúc với nhiều trí thức nổi tiếng của nhà Thanh, luận bàn với họ những vấn đề sử học, triết học... và học vấn sâu rộng của ông được học giả Trung Quốc, Triều Tiên vô cùng khâm phục. ở đây, Lê Quý Đôn có dịp đọc nhiều sách mới lạ kể cả sácg của người phương Tây nói về địa lý thế giới, về ngôn ngữ học, thuỷ văn học...
Lê Quý Đôn sống ở thế kỷ XVIII là thời kỳ xã hội Việt Nam có nhiều biến động lớn. Trong lòng xã hội Việt Nam đầy mâu thuẫn khi ấy đang nảy sinh những mầm mống mới của thời kỳ kinh tế hành hóa, thị trường trong nước mở rộng, thủ công nghiệp và thương nghiệp có cơ hội phát triển... Tình hình đó đã tác động mạnh mẽ tới đời sống văn hóa, tư tưởng, khoa học. ở thế kỷXVIII, xuất hiện nhiều tên tuổi rực rỡ như: Ngô Thì Sĩ, Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, Lê Hữu Trác... Đồng thời các tri thức văn hóa, khoa học của dân tộc được tích luỹ hàng nghìn năm tới nay đã ở vào giai đoạn súc tích, tiến đến trình độ phải hệ thống, phân loại. Thực tế khách quan này đòi hỏi có những bộ óc bách khoa và Lê Quý Đôn với học vấn như biển cả của mình đã trở thành người "tập đại thành" mọi trí thức của thời đại. Có thể nói toàn bộ những tri thức cao nhất ở thế kỷ XVIII đều được bao quát vào trong tác phẩm của Lê Quý Đôn. Tác phẩm của ông như một cái mốc lớn đánh dấu thành tựu văn hóa cả một thời đại, với tất cả những ưu điểm cùng nhược điểm của nó. Nếu thống kê lại thì tác phẩm của Lê Quý Đôn có tới 10 bộ, bao gồm hàng trăm quyển, nhưng một số hiện giờ bị thất lạc chưa tìm thấy.
Có thể kể ra những tác phẩm tiêu biểu của ông tới nay còn giữ được:
Về triết học có Quần thư khảo biện (sách được làm trước năm ông 30 tuổi). Về tổng loại có Vân đài loại ngữ. Đây là "bộ sách tinh túy nhất" của Lê Quý Đôn được viết xong lúc ông 30 tuổi. Nội dung sách hết sức phong phú, trong đó tập hợp các tri thức về triết học, khoa học, văn học... Về sử học, ngoài Đại Việt thông sử (còn gọi là Lê Triều thông sử và Bắc sứ thông lục (viết trong lần đi sứ). Quốc sử tục biên (mất), Danh thần lục Lê Quý Đôn còn hai tác phẩm đặc sắc là Kiến văn tiểu lục và Phủ biên tạp lục. Kiến văn tiểu lục là tập bút ký của Lê Quý Đôn trong khi tham bác tài liệu sách vở có liên quan tới lịch sử và văn hóa nước ta từ đời Trần tới đời Lê. Phủ biên tạp lục viết trong thời gian Lê Quý Đôn làm hiệp trấn Thuận Hóa. Nội dung ghi chép lại những điều mắt thấy tai nghe về tình hình xã hội Đàng trong từ thế kỷ XVIII trở về trước.
Lê Quý Đôn là một nhà bác học lớn, vừa là một nhà văn học, một nhà thơ giàu tài năng. Trong sự nghiệp văn học của Lê Quý Đôn phần nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn là phần có giá trị đặc biệt. Công trình biên soạn lớn nhất của Lê Quý Đôn là bộ Toàn Việt thi lục 6 quyển, trong đó tuyển chọn tất cả 897 bài thơ của 73 tác giả từ thời Lý đến đời Lê Tương Dực (1509-1516). Lê Quý Đôn hoàn thành Toàn Việt thi lục năm 1768, dâng lên vua, được thưởng 20 lạng bạc. Với Toàn Việt thi tập, Lê Quý Đôn đã góp phần thu nhặt, gìn giữ khỏi mất mát bao nhiêu châu ngọc quý giá trong kho tàng văn hóa dân tộc.
Về sáng tác văn xuôi, Lê Quý Đôn có Quế Đường văn tập 4 quyển nhưng sách này không còn nữa. Thơ Lê Quý Đôn để lại có Quế đường thi tập, khoản vài trăm bài, làm ở trong nước và trong thời gian đi sứ Trung Quốc.
Nhận xét tổng quát về thơ Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú viết: "Ông là người học vấn rộng khắp, hạ bút thành văn. Cốt cách thơ đều trong sáng. Lời văn thì hồn nhiên như "thiên thành" không cần suy nghĩ mà trôi chảy dồi dào như sông dài biển rộng, không chỗ nào không đạt tới, thật là phong cách đại gia". Đọc thơ Lê Quý Đôn, chúng ta thấy thơ ông thật phong phú, đa dạng, sâu sắc về tư tưởng, nghệ thuật:
Thành hoang tường đổ đã bốn trăm năm
Dây dưa dây đậu leo quấn xanh tốt
Sóng biếc đã rửa sạch hận cho vua Trần
Cỏ xanh khó che lấp nỗi hổ thẹn của Mộc Thạnh
Sau trận mưa bò vàng cầy bật lưỡi gươm cổ
Dưới trăng chim lạnh kêu bên lầu tàn
Bờ cõi cần gì phảI mở rộng mãi
Đời Nghiêu Thuấn khi ấy chỉ có chín châu thôi.
Hơn 200 năm đã trôi qua nhưng trí tuệ và tâm hồn Lê Quý Đôn vẫn tỏa sáng tới ngày nay.