PDA

View Full Version : Cổ tích, điển tích - phần III


LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 17:14
[center:3432d79736]Cổ tích, điển tích - phần III[/center:3432d79736]
Mục Lục

1. Sự Tích Táo Quân
2. Sự Tích Lạc Long Quân và Âu Cơ
3. Người Lấy Cóc
4. Người Nuôi Cọp
5. Ông Dài Ông Cụt
6. Sóng Thần
7. Quỷ Nhập Tràng
8. Người Ðánh Cá và Công Chúa Thủy Tề
9. Lọ Thuốc Trường Sanh
10. Mỵ Châu Trọng Thủy
11. Ngọc Quạ
12. Nàng Tiên Thứ Chín
13. Hòn Vọng Phu
14. Cường Bạo Ðánh Thiên Lôi
15. Chuyện Chàng Mồ Côi
16. Chuyện Chàng Lút
17. Chôn Của
18. Ai mua hành tôi (hay là Lọ nước thần)
19. Ở Hiền Gặp Lành
20. Nùng Trí Cao

[center:3432d79736]Mời xem tiếp phần IV[/center:3432d79736]

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 17:15
[center:10bfe1722d]Sự Tích Táo Quân [/center:10bfe1722d][center:10bfe1722d]Tác giả: Hoang Ðường[/center:10bfe1722d]
Thủa xưa có một gia đình được ba người con trai. Họ rất mực thương yêu nhau và tuy ba người con đều đã xây dựng gia đình riêng nhưng vẫn cùng nhau phụng dưỡng cha già. Trước lúc lâm chung người cha gọi ba con đến trước mặt dặn rằng:

- Trước khi nhắm mắt cha rất yên lòng thấy các con biết thương nhau. Các con đã hết lòng lo cho ta từng miếng ăn đến giấc ngủ, nay cha đã quá yếu, đó là lẽ trời. Nếu cha có nhắm mắt, các con hãy nhớ làm đúng như lời cha dặn, các con hãy khiêng cha đi, khi nào sợi dây quàng quan tài đứt, thì các con đặt cha tại đó, dù ở trên đá hay ở dưới khe suối. Các con hãy nhớ kỹ mà làm đúng như vậy.

Ba người con trai cúi đầu vâng dạ. Người cha trăn trối vừa dứt lời thì cũng tắt thở.

Ba người con làm đúng như lời cha dặn . Sau khi liệm kỹ, họ dùng dây quàng quan tài cẩn thận rồi nhằm hướng tây mà khiêng đi. Ba anh em khiêng quan tài đã mấy hôm nhưng sợi dây vẫn chưa đứt. Một hôm, khi đi trên một tảng đá lớn thì bỗng nhiên sợi dây đứt. Lúc bấy giờ trời đã xế chiều. Ba anh em bèn hạ quan tài người cha xuống ngay trên tảng đá nọ. Người anh nói với hai em rằng :

- Chúng ta không thể nào đào huyệt trên tảng đá này được các em ạ. Bây giờ hai em hãy trở về nhà xem xét nhà cửa, vì ta đã đi lâu rồi. Ta sẽ lần lượt túc trực, khi nào thi thể cha tiêu tan mới thôi.

Tối hôm ấy người anh cả chất củi, nổi lửa ngồi túc trực bên quan tài. Khoảng gà gáy canh đầu, chàng thấy mỏi, dựa lưng vào gốc cây thiu thiu ngủ. Bỗng chàng giật mình vì có tiếng rên to ngay dưới chỗ để quan tài, nơi chàng nằm cũng chuyển động mạnh. Chàng choàng dậy nhìn chiếc quan tài bị lún xuống đến nửa vào đường nứt ấy. Rồi chàng lại nghe tiếng rên than cầu cứu từ kẽ nứt dưới quan tài vọng lên.

- Ôi, ngột ngạt khó thở quá, ai làm ơn lôi dùm chiếc quan tài này lên, ta sẽ biếu một hũ vàng. Chàng cả nghe vậy bèn hỏi lại rằng :

- Chẳng hay quái vật tên là gì? Hũ vàng đó hiện ở đâu? Nếu điều người vừa nói là đúng là sự thật thì ta sẽ cứu cho.

Tiếng kêu cứu ấy liền trả lời:

- Ta chính là Khổng Long nằm tại chân núi này. Chiếc quan tài ai vừa đặt lên đây đã lọt vào miệng ta khi ta vặn mình ngáp mạnh. Vậy xin chàng hãy làm ơn kéo lên giúp, ta sẽ trả công hậu. Hũ vàng vừa rồi ta chôn dưới gốc cây bồ đề ngay chân núi này về phía mặt trời mọc.

Nghe quái vật nói vậy chàng nửa tin nửa ngờ bèn lần đến chân núi, nơi con quái vật chỉ, để xem hư thật ra làm sao. Bỗng mắt chàng hoa lên, một hũ vàng khối đầy ắp lộ quá nứa. Chàng vần hũ vàng lên. Lúc ấy trời cũng vừa rạng sáng.

Hôm sau đến lượt người em thứ hai. Anh cả dặn dò em kỹ rồi mang hũ vàng về. Tối hôm ấy người em thứ cũng làm đúng như lời người anh cả dặn. Chàng chất củi đốt lửa rồi ngồi canh quan tài cha. Và chàng cũng nghe có tiếng rên than cầu cứu của Khổng Long. Rồi chàng được một hũ bạc mà Khổng Long mách là chôn ở phía tây gốc cây bồ đề.

Ðến phiên người em út, chàng cũng đốt lửa, rồi ngồi dựa vào gốc cây đại thọ cạnh quan tài. Khoảng đầu canh tư, chàng đang thiu thiu ngủ thì nghe tiếng kêu rên từ dưới quan tài vọng lên:

- Xin chàng trai hãy làm ơn kéo chiếc quan tài này lên khỏi miệng ta, ta sẽ biếu một bầu linh dược cải tử hoàn sinh.

Nghe vậy chàng út lấy làm thắc mắc, tại sao quái vật lại không cho ta hũ vàng, hũ bạc như hai anh , mà lại cho một bầu nước thuốc. Nghĩ vậy chàng lên tiếng hỏi quái vật:

- Tại sao lại chỉ cho ta một bầu nước? Nước ấy dùng để làm gì? Cho ta biết ta sẽ cứu.

Con quái vật nói:

- Bầu linh dược ấy linh nghiệm, dùng để cải tử hoàn sinh, người hay vật, dù mới chết hay chết lâu chỉ cần đem nước thuốc vẩy qua thì sẽ sống lại.

Nghe thần Khổng Long nói vậy, chàng út liền đến ngay cây bồ đề trèo lên xem thử. Chàng thấy nơi ngọn cây có một chiếc bầu nhỏ trong đựng đầy nước. Chàng vừa đem được bầu nước ấy xuống thì trời cũng vừa rạng sáng. Chàng định trở lại chỗ quan tài để vẩy nước thuốc cứu người cha, đồng thời cũng là xem thử sự linh nghiệm của thuốc. Nhưng khi trở lại thì không thấy chiếc quan tài nữa, và nơi kẽ đá núi cũng liền lại. Chàng út bèn xách bầu linh dược ra về.

Trên đường về chàng chú ý nhìn xem có con vật nào nằm chết ngang đường để thử xem nước có linh nghiệm không. Bỗng trước mặt một con chó chết trương đã lâu ngày. Chàng bèn cho thử ngay, vẩy linh dược lần thứ nhất thì thấy da thịt con chó liền lại. Vẩy lần thứ hai thì chó thở đều rồi mở mắt sống lại. Chàng út vô cùng mừng rỡ ôm bầu thuốc đi về nhà và kể chuyện xẩy ra với hai người anh.

Từ khi có bầu linh được, mỗi khi nghe tin có ai chết ở đâu là chàng tìm tới. Vì chàng có tài cải tử hoàn sinh chẳng bao lâu đồn khắp xa gần.

Một hôm, trong lúc chàng đi vắng, một bọn côn đồ xông vào nhà lục soát. Bọn cướp tra khảo người vợ chàng, bắt nộp vàng bạc, khi không có gì chúng bèn mổ bụng vợ chàng, moi hết ruột gan vứt đi rồi chuồn thẳng.

Chàng út trở về thấy người vợ hiền đã nằm chết trên vũng máu. Trong lúc đang nghĩ cách cứu sống người vợ, thì con chó trước kia từ ngoài chạy vào. Chàng gọi con chó lại và nói với nó:

- Này chó, trước kia mi đã chết, nhưng ta lại cứu sống cho mi. Nay vợ ta gặp nạn, bị bọn cướp lấy mất ruột gan, mi hãy vui lòng cho ta mượn tạm bộ lòng cho vợ ta rồi ta sẽ lại hoàn sinh cho mi, được không ?

Con chó ngoe nguẩy đuôi bằng lòng. Chàng út mổ lấy bộ lòng của con chó đặt vào thi hài người vợ rồi lấy linh dược vẩy lên khắp thân hình vợ. Bỗng chốc nàng cựa mình rồi mở mắt nhìn chàng vẻ ngơ ngác như vừa qua một giấc ngủ mê. Chàng ôm lấy vợ kể hết cho nàng nghe những việc đã qua. Sau đó chàng bảo vợ lấy miếng giẻ rách để bện làm ruột gan cho chó. Chàng đem đoạn giẻ nhúng bùn non rồi đặt vào bụng chó, dùng linh dược vẩy lên. Con chó sống lại .

Thấy chồng có thứ thuốc lạ, người vợ vô cùng ngạc nhiên và đâm ra tò mò.

Một hôm nhân lúc vắng chồng, nàng bèn lấy bầu linh dược ra, thò hai ngón tay vào bầu lấy nước bôi lên mặt. Nàng soi gương thấy mặt mình trở lên quái dị như mặt quỷ thì hoảng lên, bèn xách cả bầu linh dược trút hết khắp từ đầu đến chân.

Thật kỳ lạ, khi soi lại mình, nàng như không nhận ra mình nữa. Tóc dài chấm gót, nước da trắng như ngọc, mịn màng hồng hào. Nàng xinh đẹp tựa như tiên nữ giáng trần. Sự hoá thân cực kỳ xinh đẹp của nàng làm cho người chồng khi trở về cũng hết sức ngạc nhiên, ngơ ngác.

Thấy chồng nhìn mình không chớp mắt, nàng mỉm cười, rồi nhỏ nhẹ kể lại cho chàng nghe về sự lỡ lầm của mình, và mong chàng tha thứ.

Chàng út hết sức vui mừng khi thấy người vợ trở nên xinh đẹp tuyệt vời như vậy. Nhưng nghĩ lại tiếc linh dược nên chàng đem trồng vào nơi có nước thuốc một khóm hành và một cây quế.

Chưa đầy tuần trăng cây quế đã cao một thước rưỡi, bụi hành cao hơn hai thước.

Tin người vợ chàng út có sắc đẹp tuyệt trần đến tai vua. Nhà vua liền cho quân đến bắt nàng về cung làm vợ. Hai vợ chồng rất mực thương nhau nhưng không giám cãi lệnh vua. Hai người ngậm ngùi chia ly, hẹn ngày đoàn tụ.

Thế rồi, một hôm đang lúc thẫn thờ nhớ vợ, chàng út nghĩ lại được một kế hay. Chàng nhổ hết bụi hành và cây quế bỏ vào hai cái thúng, rồi gánh đi. Ðến ngoài cổng thành nhà vua, chàng rao to:

- Ai mua hành hai thước, quế một thước rưỡi không?

Cứ thế chàng rao đi rao lại ngày một to hơn.

Riêng về người vợ chàng út từ khi bị bắt về kinh thì tự nhiên cấm khẩu, nhà vua đã cho mời các lương y giỏi đến chữa chạy nhưng đều không khỏi. Nhà vua cho bầy mọi trò tiêu khiển, nhưng cũng đều vô hiệu. Vua đã ra lệnh ban thưởng rất hậu cho ai có tài chữa khỏi bệnh cho nàng. Nhưng mọi người đều bó tay.

Bỗng nghe có tiếng rao hàng lạ vào cung thất, nàng định tâm nghe kỹ. Rồi nàng vui sướng gọi một nàng hầu đứng gần đó đến, bảo nó xuống lầu, mời người giao hàng nọ đem hàng vào cho nàng mua. Nhưng vừa nghe tiếng nàng thốt ra, nhà vua đã cho dẫn chàng đến. Nhà vua cho đuổi hết những quân hầu ra ngoài rồi bắt chàng đổi quần rách rưới cho mình. Nhà vua muốn chính mình từ nay sẽ làm cho nàng được khuây khỏa để chịu làm vợ chồng với mình.

Sau khi mặc xong bộ cẩm bào, đội xong hia mão của nhà vua vừa đổi, chưa kịp để cho tên vua ham dâm sắc làm trò mua vui cho nàng, thì chàng út đã ra lệnh cho quân lính bắt trói hắn lại, và truyền lệnh nổi lửa hoả thiêu ngay.

Thấy có lửa hỏa thiêu dưới lầu, người vợ chàng út tưởng nhà vua đã truyền lệnh thiêu sống chồng mình nên từ trên lầu nhảy xuống để cùng được chết chung với chồng trên giàn hoả. Chàng út thấy vợ mình quyên sinh theo vua thì cho rằng nàng đã bội nghĩa, nên cũng đành hủy thân cho xong, bèn nhẩy luôn vào đống lửa tự thiêu.

Khi lửa tàn, bá quan trong triều bàn nhau định lập đền thờ vua và hoàng hậu nhưng không làm cách nào để phân biệt được đâu là sọ vua, nên đành cho lập đền thờ chung và ban lệnh cho bàn dân từ nay muốn đốt lửa bắt kiềng phải dùng ba hòn đá chụm lại, tựa như ba cái đầu của ba người đã chết thiêu chung vậy. Ðó chính là sự tích táo quân.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 17:15
[center:c79bd7e4d3]Sự Tích Lạc Long Quân và Âu Cơ[/center:c79bd7e4d3][center:c79bd7e4d3]Tác giả: Hoang Ðường[/center:c79bd7e4d3]
Cách đây lâu đời lắm, ở Lĩnh Nam có một thủ lĩnh tên là Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương Vương, sức khoẻ tuyệt trần, lại có tài đi lại dưới nước như đi trên cạn. Một hôm, Kinh Dương Vương đi chơi hồ Ðộng Ðình, gặp Long Nữ là con gái Long Vương, hai người kết thành vợ chồng và ít lâu sau sinh được một trai, đặt tên là Sùng Lâm. Lớn lên Sùng làm rất khoẻ, một tay có thể nhấc bổng lên cao tảng đá hai người ôm. Cũng như cha, Sùng Lâm có tài đi lại dưới nước như đi trên cạn. Khi nối nghiệp cha, chàng lấy hiệu là Lạc Long Quân.

Lúc bấy giờ ở đất Lĩnh Nam còn hoang vu, không một nơi nào yên ổn, Lạc Long Quân quyết chí đi du ngoạn khắp nơi.

Ðến vùng bờ biển Ðông Nam, Lạc Long Quân gặp một con cá rất lớn. Con cá này đã sống từ lâu đời, mình dài hơn năm mươi trượng, đuôi như cánh buồm, miệng có thể nuốt chửng mười người một lúc. Khi nó bơi thì sóng nổi ngất trời, thuyền bè qua lại đề bị nó nhận chìm, người trên thuyền đều bị nó nuốt sống. Dân chài rất sợ con quái vật ấy. Họ gọi nó là Ngư tinh. Chỗ ở của Ngư tinh là một cái hang lớn ăn sâu xuống đáy biển, trên hang có một dãy núi đá cao ngăn miền duyên hải ra làm hai vùng.

Lạc Long Quân quyết tâm giết loài yêu quái, trừ hại cho dân, Lạc Long Quân đóng một chiếc thuyền thật chắc và thật lớn, rèn một khối sắt có nhiều cạnh sắc, nung cho thật đỏ, rồi đem khối sắt xuống thuyền chèo thẳng đến Ngư Tinh, Lạc Long Quân giơ khối sắt lên giả cách như cầm một người ném vào miệng cho nó ăn. Ngư Tinh há miệng đón mồi. Lạc Long Quân lao thẳng khối sắt nóng bỏng vào miệng nó. Ngư Tinh bị cháy họng vùng lên chống cự, quật đuôi vào thuyền của Lạc Long Quân. Lạc Long Quân liền rút gươm chém Ngư Tinh làm ba khúc. Khúc đầu hoá thành con chó biển. Lạc Long Quân lấy đá ngăn biển chặn đường giết chết con chó biển, vứt đầu lên một hòn núi, nay gọi hòn núi ấy là Cẩu Ðầu Sơn, khúc mình của Ngư Tinh trôi ra xứ Mạn Cẩu, nay còn gọi là Cẩu Ðầu Thủy, còn khúc đuôi của Ngư Tinh thì Lạc Long Quân lột lấy da đem phủ lên hòn đảo giữa biển, đảo ấy nay còn mang tên là Bạch Long Vĩ.
Trừ xong nạn Ngư Tinh, Lạc Long Quân đến Long Biên. ở đây có con cáo chín đuôi sống đến hơn nghìn năm, đã thành tinh. Nó trú trong một hang sâu, dưới chân một hòn núi đá ở phía Tây Long Biên. Con yêu này thường hoá thành người trà trộn trong nhân dân dụ bắt con gái đem về hang hãm hại. Một vùng từ Long Biên đến núi Tản Viên, đâu đâu cũng bị Hồ Tinh hãm hại. Nhân dân hai miền rất lo sợ, nhiều người phải bỏ cả ruộng đồng, nương rẫy, kéo nhau đi nơi khác làm ăn.

Lạc long quân thương dân, một mình một gươm đến sào huyệt Hồ tinh, tìm cách diệt trừ nó.

Khi Lạc Long Quân về đến tới cửa hang, con yêu tinh thấy bóng người, liền xông ra, Lạc Long Quân liền hoá phép làm mưa gió, sấm sét vây chặt lấy con yêu. Giao chiến luôn ba ngày ba đêm, con yêu dần dần yếu sức, tìm đường tháo chạy, Lạc Long Quân đuổi theo chém đứt đầu nó. Nó hiện nguyên hình là một con cáo khổng lồ chín đuôi. Lạc Long Quân vào hang cứu những người còn sống sót, rồi sai các loài thuỷ tộc dâng nước sông Cái, xoáy hang cáo thành một vực sâu, người đương thời gọi là đầm Xác Cáo, đời sau mới gọi là Tây Hồ.

Dẹp yên nạn Hồ Tinh nhân dân quanh vùng lại trở về cày cấy trên cánh đồng ven hồ, và dựng nhà lập xóm trên khu đất cao nhất gọi là làng Hồ, đến nay vẫn còn.

Thấy dân vùng Long Biên đã được yên ổn làm ăn Lạc Long Quân đi ngược lên vùng rừng núi đến đất Phong Châu. ở vùng này có một cây cổ thụ gọi là cây chiên đàn, cao hàng nghìn trượng, trước kia cành lá sum suê tươi tốt che kín cả một khoảng đất rộng, nhưng sau nhiều năm, cây khô héo, biến thành yêu tinh, người ta gọi là Mộc Tinh. Con yêu này hung ác và quỷ quyệt lạ thường. Chỗ ở của nó không nhất định, khi thì ở khu rừng này, khi thì ở khu rừng khác. Nó còn luôn luôn thay hình đổi hạng ẩn nấp khắp nơi, dồn bắt người để ăn thịt. Ði đến đâu cũng nghe thấy tiếng khóc than thảm thiết, Lạc Long Quân quyết ra tay cứu dân diệt trừ loài yêu quái. Lạc Long quân phải luồn hết rừng này đến rừng kia và qua nhiều ngày gian khổ mới tìm thấy chỗ ở của con yêu. Lạc Long Quân giao chiến với nó trăm ngày đêm, làm cho cây long đá lở, trời đất mịt mù mà không thắng được nó. Cuối cùng Lạc Long Quân phải dùng đến những nhạc cụ như chiêng, trống…nó khiếp sợ và chạy về phía Tây Nam, sống quanh quất ở vùng đó, người ta gọi là Quỷ Xương Cuồng.

Diệt xong được nạn yêu quái, Lạc Long Quân thấy dân vùng này vẫn còn đói khổ thiếu thốn, phải lấy vỏ cây che thân, tết cỏ gianh làm ổ nằm bèn dậy cho dân biết cách trồng lúa nếp, lấy ống tre thổi cơm, đốn gỗ làm nhà sàn để ở, phòng thú dữ. Lạc Long Quân còn dậy dân ở cho ra cha con, vợ chồng. Dân cảm ơn đức ấy, xây cho Lạc Long Quân một toà cung điện nguy nga trên một ngọn núi cao. Nhưng Lạc Long Quân không ở, thường về quê mẹ dưới thủy phủ và dặn dân chúng rằng: "Hễ có tai biến gì thì gọi ta, ta sẽ về ngay! "
Lúc bấy giờ có Ðế Lai từ phương Bắc đem quân tràn xuống phương Nam. Ðế Lai đem theo cả người con gái yêu rất xinh đẹp của mình là Âu Cơ và nhiều thị nữ. Thấy Lĩnh Nam phong cảnh tươi đẹp, lại nhiều chim muông, nhiều gỗ quý. Ðế Lai sai quân dựng thành đắp lũy định ở lâu dài. Phải phục dịch rất cực khổ, nhân dân chịu không nổi, hướng về biển Ðông gọi to: "Bố ơi! Sao không về cứu dân chúng con!". Chỉ trong chớp mắt, Lạc Long Quân đã về.

Nhân dân kể chuyện, Lạc Long Quân hóa làm một chàng trai rất đẹp, có hàng trăm đầy tớ theo hầu, vừa đi vừa hát đến thẳng chỗ Ðế Lai ở. Lạc Long Quân không thấy Ðế Lai đâu cả, mà chỉ thấy một cô gái nhan sắc tuyệt trần cùng vô số thị tỳ và binh lính. Cô gái xinh đẹp đó là Âu Cơ. Thấy Lạc Long Quân uy nghi tuấn tú nàng đem lòng say mê, xin đi theo Lạc Long Quân. Lạc Long Quân đưa Âu Cơ về ở trong cung điện của mình, trên núi cao. Ðế Lai về, không thấy con gái đâu, liền sai quân lính đi tìm khắp nơi. Hết ngày này qua ngày khác. Lạc Long Quân sai hàng vạn các ác thú ra chặn các nẻo đường, xé xác bọn chúng làm cho chúng khiếp sợ bỏ chạy. Ðế Lai đành thu quân về phương bắc.

Lạc Long Quân ở với Âu Cơ được ít lâu thì Âu Cơ có mang, sinh ra một cái bọc. Sau bảy ngày cái bọc nở ra một trăm quả trứng. Mỗi trứng nở ra một người con trai. Trăm người con trai đó lớn lên như thổi, tất cả đều xinh đẹp khoẻ mạnh và thông minh tuyệt vời.

Hàng chục năm trôi qua, Lạc Long Quân sống đầm ấm bên cạnh đàn con, nhưng lòng vẫn nhớ thuỷ phủ. Một hôm Lạc Long Quân từ giã Âu Cơ và đàn con, hóa làm một con rồng vụt bay lên mây, bay về biển cả. Âu Cơ và đàn con muốn theo Lạc Long Quân, nhưng không đi được, buồn bã ở lại trên núi. Hết ngày này qua ngày khác, họ mỏi mắt trông chờ mà vẫn biền biệt tăm hơi. Không thấy Lạc Long Quân trở về. Nhớ chồng quá, Âu Cơ đứng trên ngọn núi cao hướng về biển Ðông lên tiếng gọi: "Bố nó ơi! Sao không về để mẹ con chúng tôi sầu khổ thế này".

Lạc Long Quân trở về tức khắc. Âu Cơ trách chồng:

- Thiếp vốn sinh trưởng ở núi cao, động lớn, ăn ở với chàng sinh được trăm trai, thế mà chàng nỡ lòng bỏ đi, để mặc con thiếp sống bơ vơ khổ não.

Lạc Long Quân nói:

- Ta là loài rồng, nàng là giống tiên, khó ở với nhau lâu dài. Nay ta đem năm mươi con về miền biển, còn nàng đem năm mươi con về miền núi, chia nhau trị vì các nơi, kẻ lên núi, người xuống biển, nếu gặp sự nguy hiểm thì báo cho nhau biết, cứu giúp lẫn nhau, đừng có quên.

Hai người từ biệt nhau, trăm người con trai toả đi các nơi, trăm người đó trở thành tổ tiên của người Bách Việt. Người con trưởng ở lại đất Phong Châu, được tôn làm vua nước Văn Lang lấy hiệu là Hùng Vương. Vua Hùng chia ra làm mười năm bộ, đặt tướng văn, võ gọi là lạc hầu, lạc tướng. Con trai vua gọi là quan lang, con gái vua gọi là mỵ nương. Ngôi vua đời đời gọi chung một danh hiệu là Hùng Vương.

Lạc Long Quân là người mở mang cõi Lĩnh Nam, đem lại sự yên ổn cho dân. Vua Hùng là người dựng nước, truyền nối được mười tám đời. Do sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ, nên dân tộc Việt Nam vẫn kể mình là dòng giống Tiên Rồng.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 17:16
[center:0a944d4571]Người Lấy Cóc[/center:0a944d4571][center:0a944d4571]Tác giả: Hoang Ðường[/center:0a944d4571]
Ngày xưa, có hai vợ chồng nông dân hiếm hoi, cầu Trời khấn Phật mãi người vợ mới có thai, nhưng đến khi sinh ra, không phải là người mà lại là một con cóc.

Con cóc lớn lên, biết nói tiếng người, song hình thù sần sùi, xấu xí, khiến cha mẹ nó lấy làm buồn phiền, thường than thở với nhau: "Vợ chồng mình già cả, hiếm hoi, tưởng sinh được mụn con nối dòng, trông nom đỡ đần mình, ngờ đâu oan gia nghiệp báo lại sinh ra cóc, còn trông mong gì nữa"!

Cóc nghe thấy thế, khuyên cha mẹ đừng lo. Rồi ngay hôm sau cóc nhảy đi coi ruộng cho cha mẹ, và từ khi nó trông nom đồng áng thì chẳng có ai lấy trộm lúa ruộng nhà nó như trước nữa.

Một hôm, có mấy thư sinh đi qua ruộng nó, dẫm lên lúa, bỗng nghe có tiếng lanh lảnh như giọng con gái bảo rằng: "Xin các cậu đi cho có ý tứ kẻo làm nát lúa nhà em". Lũ thư sinh nhìn vào ruộng lúa, chẳng thấy ai, chỉ thấy một con cóc đang ngồi đó. Tiếng nói dịu ngọt làm cho một anh trong bọn đâm ra có cảm tình. Chàng thư sinh này bấy lâu đọc sách đạo thần tiên, tin tưởng có sự mầu nhiệm ở đời, nên về nhà nói với cha mẹ xin hỏi cóc làm vợ.

Ban đầu cha mẹ thư sinh tưởng con mình hóa dại, song anh ta cứ một mực đòi lấy cóc làm vợ cho kỳ được, nếu không thì thề quyết chẳng lấy ai. Người cha bèn kiếm cớ từ khước, bảo chỉ có một mình anh ta là con trai, cưới cóc về có sinh ra được con cái để nối dòng không? Thư sinh tin là sẽ có sự nhiệm màu xảy đến trong ngày cưới cóc về, Tiên Phật sẽ giúp cho cóc thành người có đức hạnh, nhan sắc hơn đời. Thấy con đã nhất quyết như vậy, cha mẹ anh ta cũng đành phải chiều theo, đem trầu cau đi hỏi cóc.

Đến ngày cưới, bên nhà trai mang đủ lễ vật, đồ nữ trang, quần áo cho cô dâu như người thường, chàng rể hy vọng Tiên Phật hóa phép cho cóc thành một cô gái xinh tươi như chàng vẫn mộng tưởng. Cả hai họ cũng trông mong như vậy, nhưng đến khi rước dâu, mọi người phải tức cười và xấu hổ vì đưa đón một con cóc nhảy về nhà chồng.

Cha mẹ chồng vừa rầu, phiền cho con trai, vừa chua xót vì con dâu cóc, liền cấp ruộng cho đôi lứa đi ở riêng. Thư sinh cũng buồn lòng, cặm cụi học hành, nghiên cứu các khoa học thần bí, hy vọng gỡ rối cho gia đình, nhất là đối với cha mẹ già đang khát khao có cháu bế. Cóc thì siêng năng công việc ở nhà, thức khuya dậy sớm khuyên chồng chăm chỉ bút nghiên.

Ngày ngày anh ta đi học về thì đã thấy cơm nước sẵn sàng, nhà cửa sạch sẽ ngăn nắp, mới nghĩ bụng rằng trong lúc vắng mình, chắc vợ trút lốt cóc thành người, chứ một con cóc thì làm sao lo việc nội trợ khéo léo được thế kia? Mấy bận anh ta thử rình, ra đi rồi thình lình trở về bất ngờ, hy vọng bắt gặp vợ là một cô gái xinh đẹp, song chỉ thấy một con cóc sần sùi ở nhà. Anh van nài cóc hóa thành người đẹp cho mình được sung sướng, nhưng cóc vẫn thản nhiên không tỏ vẻ gì cả.

Một tối, anh cho cóc hay tin mình được bổ đi dạy ở trường tỉnh, ngỏ thật rằng mình không thể đưa vợ đi theo nếu vợ vẫn giữ lốt cóc. Từ ngày cưới về anh ta đã chịu biết bao lời chế diễu của hàng xóm, bè bạn. Hơn nữa, cha mẹ vẫn thúc dục anh lấy thêm vợ khác để có con nối nghiệp tông đường. Cóc lặng yên nghe chồng than thở, khuyên chồng chớ nên quá buồn phiền, và xin phép hôm sau về nhà thăm cha mẹ.

Sáng ngày, cóc đi theo chồng, được một quãng thì nhảy vào một cái bụi bên đường. Thư sinh dừng bước lại thì thấy ở bụi cây đi ra một cô gái xinh đẹp lạ lùng, quá sức ước mong của anh bấy lâu. Anh sung sướng ngẩn ngơ nhìn người vợ đẹp lại gần, say đắm ngắm nghía vợ từ đầu đến chân rồi thiết tha xin vợ từ đây cứ giữ hình người. Biết là vợ đã trút lốt cóc ra trong bụi, anh ta kiếm cớ đi lùi lại sau rồi chạy lẻn đến bụi tìm lốt cóc mà dấu vào mình.

Đến nhà, cha mẹ thư sinh mừng rỡ thấy con dâu cóc đã hóa ra người xinh đẹp, dịu dàng. Anh chồng hân hoan thừa lúc mọi người không để ý đến, đem lốt da cóc bỏ vào bếp lửa cho tiêu tan. Hai vợ chồng ở lại nhà cha mẹ cả đôi bên luôn mấy ngày, vui vẻ tiệc tùng liên tiếp rồi mới trở về nhà.

Trên đường về vợ kiếm cớ vào bụi cây để tìm lại lốt cũ, không thấy, chồng mới cho hay là mình đã lấy đốt đi rồi. Vợ đành phải giữ nguyên hình người để về với chồng.

Hai vợ chồng ăn ở với nhau đằm thắm vui vẻ, vợ sinh được nhiều con cái, chồng học thi đỗ cao làm nên chức lớn, sống một đời sung sướng.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 17:16
[center:a8f1936c21]Người Nuôi Cọp [/center:a8f1936c21]
[center:a8f1936c21]Tác giả: Hoang Ðường [/center:a8f1936c21]
Ngày xưa, ở huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa có một ông lão tiều phu tên Nguyễn Quốc Oai, tính khí ngông nghênh. Ông lão không có con, chỉ có hai vợ chồng trơ trọi. Nhà làm ở trong núi, hàng ngày kiếm củi bán để sống.

Một hôm, ông lão đi vào rừng trông thấy ở dưới đèo có một con cọp con lông vuốt chưa mọc mà mình mẩy thì đầm đìa máu. Đoán chừng là cọp mẹ cõng con đánh rơi xuống không lấy lên được, bèn trèo xuống bắt lên đem về nuôi, lấy thuốc bôi cho khỏi chỗ đau.

Bà vợ thấy thế, can chồng rằng: "Cọp là giống hung tợn, nuôi thế nào được, hãy thả nó ra, kẻo lại mắc họa về sau".

Ông lão không nghe, nói rằng: "Giống vật cũng có linh tính, biết đền ơn trả nghĩa. Như trước kia có người đàn ông kiếm củi ở làng Thuận Lộc chữa cho cọp khỏi hóc, người đàn bà bán rượu ở làng Trung Hà giúp cọp sinh đẻ, đến bây giờ những người ấy vào rừng không lo gì cọp nữa. Những người ấy làm ơn trong một lúc mà con cháu còn được đền ơn đến bây giờ. Huống chi là ta nuôi từ lúc yếu đến lúc mạnh, coi nó như là con".

Từ đó, ông nuôi cọp như con. Lúc ăn uống, cho ngồi ở bên, lấy thức mình ăn thừa cho cọp ăn. Dần dần, lông cọp mỗi ngày một dài, nanh vuốt đầy đủ, mà cọp lại hiểu ý người ta, lúc thì múa, lúc thì nhảy làm trò cho vui.

Thấy thế, ông lão càng yêu nó lắm. Đi đâu, ông cũng bảo nó đi theo hầu mang đồ nhắm và đeo bầu rượu. Lúc uống rượu xong thì ông lại cưỡi cọp mà đi lăng nhăng ở trong rừng núi, ai trông thấy cũng lấy làm lạ, sợ hãi.

Buổi tối ông thường đơm đó ở dưới khe suối lấy cá, thỉnh thoảng bị kẻ khác lấy đi mất. Vì thế đêm đêm ông dặn cọp cứ ra đấy mà giữ. Khi nào ông đến thì ho lên mấy tiếng cho nó biết. Hễ cọp nghe thấy tiếng thì ra đón rước. Ông xuống khe, đổ đó lấy cá đem đổi lấy thịt để nuôi cọp.

Cứ như thế được nửa năm. Một đêm, ông say rượu, ra chỗ đơm đó quên không lên tiếng, con cọp ngờ là người khác liền cắn ngay một miếng. Đến lúc trông mặt, biết là cha nuôi mình thì đã muộn. Cọp liền cõng xác cha nuôi lên bờ rồi về nhà, đến trước vợ ông lão, cọp phục xuống mà chảy nước mắt ra, như là kẻ đến thú tội.

Người vợ thấy thế lấy làm ngạc nhiên, đốt đuốc đi theo cọp.

Khi đến nơi, thấy chồng nằm trên bờ suối, áo quần đầm đìa những máu, bà liền kêu lên rồi trỏ vào mặt con cọp mà mắng: "Mày đã quên cái ơn nuôi nấng mà đã vội cắn trả lại chủ mày thế ư? Tao không muốn trông thấy mặt mày nữa, đi đâu thì đi".

Cọp cúi đầu xuống mà ra đi. Sáng hôm sau người vợ khiêng xác chồng đi chôn.

Đến ngày thành phục thì con cọp đem một con lợn về để ngoài sân, đến ngày cất đám, cọp lại đem về một con bò để cúng chủ. Lại đến ngày tiểu tường, các cọp rủ nhau đến quấy, bắt những súc vật trong làng. Dân chúng sợ hãi xem bói bảo rằng: "Ấy là cọp muốn báo ơn ông ấy đấy. Các ông nên làm đền mờ thờ Hổ ông. Hễ ông ấy được cúng tế thì yên".

Bấy giờ làng mới đem thờ ông Nguyễn Quốc Oai ở bên tả đình, tôn làm hậu thần, đèn hương ngày đêm cúng tế, gọi là đền Hổ ông.

Quả nhiên từ đấy trong làng được bình yên.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 17:17
[center:e2f051e743]Ông Dài Ông Cụt[/center:e2f051e743][center:e2f051e743]Tác giả: Hoang Ðường[/center:e2f051e743]

Ngày xưa, có hai vợ chồng già làm ruộng một hôm đi ra ngoài đồng, thấy hai quả trứng lạ, nhặt đem về nhà. Được ít lâu, hai quả trứng nở ra hai con rắn rất khôn, hai vợ chồng đi đâu chúng nó thường bò theo. Hai người không con nên cứ nuôi chúng nó, xem như là con, thường ngày cho ăn uống tử tế. Một hôm, người chồng cuốc vườn, vô ý cuốc đứt một khúc đuổi của một con. Sau đó, vợ chồng mới gọi hai con rắn đặt tên cho là con Dài, con Cụt. Hai con rắn lớn lên, ăn rất tợn, nhà nghèo không đủ nuôi, chúng nó thường đi bắt gà, chó của hàng xóm mà ăn. Hai vợ chồng không nuôi nổi, mới đem thả xuống sông Tranh, bây giờ thuộc Hải Dương.

Hai anh em rắn Dài và Cụt được Thủy Vương nhận làm bộ hạ và cho cai quản cả một vùng sông rộng. Rắn Cụt tính khí dữ tợn hơn rắn Dài, hoành hành khắp vùng, làm cho dân chúng phải kiêng sợ gọi tên là ông Dài và ông Cụt. Có khi chúng bắt cả người, còn cướp súc vật là chuyện thường xảy ra. Ghe thuyền qua lại trên khúc sông, thường bị ông Cụt nổi sóng dữ tợn làm cho đắm. Cha mẹ nuôi ông Dài, ông Cụt thỉnh thoảng lại phải ra bờ sông van lơn xin con nuôi đừng làm hại người ta. Chúng cũng nghe theo được ít lâu, rồi lại đâu vẫn hoàn đấy. Có lần hai vợ chồng họ Trịnh đi thuyền qua đó, ông Cụt thấy người vợ là Dương Thị nhan sắc xinh đẹp, muốn bắt về làm vợ, cho hai người con gái bưng lễ vật đến hỏi. Hai vợ chồng hoảng sợ bỏ thuyền lên bờ trốn tránh. Nhưng rồi ông Cụt cho bộ hạ theo dõi, thừa một đêm mưa gió, bắt Dương Thị đem về dưới Thủy Phủ. Sáng ngày, người chồng theo dấu ra đến bờ sông chỉ còn thấy quần áo của vợ trút bỏ lại đó.

Người chồng không biết làm thế nào, đành nuốt hận đi đây, đi đó tìm người phép tắc thần thôn để trừ ông Cụt. Một hôm, họ Trịnh gặp một ông già ngồi bói ở chợ, lân la hỏi mới biết là Bạch Long Hầu tức là Thần Mưa ở dưới Thủy Cung. Bạch Long Thần rẽ nước mời họ Trịnh về nhà mình ở dưới biển, giúp bàn việc kiện ông Cụt với Long Vương. Họ Trịnh đưa cái thoa của vợ nhờ người nhà Bạch Long hầu làm của tin để dò tìm Dương Thị ở dưới Thủy Phủ. Khi đã bắt liên lạc được với Dương Thị rồi, họ Trịnh bèn cậy Bạch Long Hầu đưa đến triều đình Long Vương để tố cáo tình địch đã cướp vợ mình. Long Vương cho đòi ông Cụt tới. Ban đầu ông Cụt còn chối cãi, toan làm dữ với họ Trịnh, nhưng đến khi Dương Thị ra kể lại sự tình bị ông Cụt bắt cóc, ép duyên, thì họ Trịnh liền được kiện. Long Vương xử cho Dương Thị trở về mặt đất với họ Trịnh, con của nàng sinh với ông Cụt thì giao lại cho ông Cụt.

Ông Cụt bị đày đến ở sông Kỳ Cùng, thuộc về Lạng Sơn ngày nay. Ngày ông Cụt bị giáng chức đi đày, các loài thủy tộc đi theo tiễn chân đầy cả một khúc sông.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 17:17
[center:1829d688d2]Sóng Thần[/center:1829d688d2][center:1829d688d2]Tác giả: Hoang Ðường [/center:1829d688d2]
Ngày xưa, vùng nước sâu rộng mênh mông, chỗ gặp gỡ giữa ba con sông đổ ra biển, nơi giáp giới nước ngọt của sông và nước mặn của đại dương, về phía đông bắc tỉnh Thuận Hóa tức là Thừa Thiên bây giờ, mà người ta gọi là phá Tam Giang, có ba ngọn sóng Thần, tục gọi là sóng Ông, sóng Bà và sóng Con. Ghe thuyền qua lại trên phá thường bị gia đình sóng thần nổi lên lật chìm, thiệt người hại của không biết bao nhiêu mà kể, khiến cho dân gian khiếp sợ mà truyền thành câu hát:
Thương anh em cũng muốn vô,
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang.
Sóng thần ở phá Tam Giang chẳng những làm hại ghe đò cùng giới thuyền chài mà lắm lúc còn ào ào kéo lên đất liền lôi cuốn nhà cửa, súc vật, người ta, phá phách mùa màng của dân chúng quanh vùng. Nhất là mỗi lần sóng Ông đi hoành hành, nổi cơn thịnh nộ bất thình lình, đi qua đâu là lôi cuốn đắm chìm tất cả mọi vật dưới sức mạnh khủng khiếp của thần. Người ta cho rằng sóng thần thèm khát thịt người nên chẳng có năm nào là không có bao nhiêu mạng bỏ mình vào miệng sóng. Người ta sợ hãi sóng thần, hàng năm bày lễ cúng trọng thể, hy vọng thần bớt cơn giận dữ cho dân chúng làm ăn, đi lại trên phá Tam Giang. Mỗi lần tế sóng thần, các phường thuyền họp nhau lại cúng heo, gà, có khi giết trâu, bò thả xuống phá cho thần ăn. Đồng thời các thuyền giấy trang hoàng lộng lẫy chở những người nộm, cùng voi ngựa giấy, vàng mã, đủ mọi thứ được thả trôi ra phá dâng cho thần.

Sóng thần không từ chối những lễ vật của người cúng, song vẫn chứng nào tật ấy, thỉnh thoảng lại nổi lên giết người, lấy của, dùng phá Tam Giang làm nơi sào huyệt.

Tai họa khủng khiếp của hung thần gây nen thấu đến tai vua. Bấy giờ vua Tự Đức đang trị vì, muốn trừ hại cho dân, bèn ngự giá thân chinh đến tận nơi. Vua sai đặt súng thần công ở trên một khuỷu sông nhắm về phía sóng thần thường nổi lên. Biết hung thần có phép tà khó trị, nhà vua đã cho đúc sẵn đạn vàng để nạp vào họng thần công. Đâu đó chỉnh tề rồi, vua mới ra lệnh tuyên đọc lời tuyên cáo ngỏ cùng thần sóng: "Trẫm vâng mệnh trời làm vua nước Nam, thấy ngươi cũng thuộc hàng thủy thần ở trong lãnh thổ của trẫm mà lại làm điều bạo ngược, thường vô cớ làm hại đến dân của trẫm, nghịch với đạo trời, bất tuân phép nước. Vậy trẫm ra lệnh cho nhà ngươi từ đây phải dẹp thói hung hăng, dứt điều tàn bạo, xa hẳn chốn này. Trẫm kỳ hạn cho ngươi một ngày để suy nghĩ, nếu biết phải quấy mà hối cải thì trẫm cũng rộng lòng mà tha cho các tội đã qua, bằng không, bấy giờ đừng có trách trẫm sao không ra ân trước".

Sóng thần không đáp, nhưng mặt phá Tam Giang sôi sục, nước bỗng xanh đen cuồn cuộn phản chiếu sự tức giận của thần sóng đang tìm cách chống trả. Suốt ngày hôm ấy không thấy gì, nhà vua đoán chừng hung thần không dám lộ mặt giữa ban ngày dưới mặt trời, đợi đêm tối mới giở trò quỷ quái. Quả nhiên mặt trời vừa lặn khuất ở chân trời, gió đêm từ biển thổi mạnh vào thì phá Tam Giang bắt đầu lao xao nổi sóng. Mảnh trăng thượng tuần bị mây đen kéo che khuất. Gió bỗng từ mặt phá ùn ùn nổi lên, rồi trong bóng tối tiếng sóng ầm ầm sôi réo tiến rất nhanh về phía nhà vua. Ánh trăng lọt qua mây chiếu sáng xuống, nhà vua thấy một ngọn sóng lớn như hòn núi cao dẫn theo đầu hai ngọn sóng đen gnòm to lớn khác đâm xô về phía mình, ào ào hung hãn. Sóng thần tràn đến chỉ chực đổ ập lên chỗ vua, quan đóng thì một tiếng nổ long trời, thần công khạc lửa bắn đạn vàng nhắm trúng ngay đầu ngọn sóng. Cả ngọn núi nước đang sôi bỗng tan sập suống, hai phát thần công nổ tiếp, hai ngọn theo sau hoảng sợ bỏ chạy mất.

Luôn ba ngày sau sóng nước phá Tam Giang đỏ thắm màu máu. Người ta không tìm ra dấu vết gì, song từ đó, ghe thuyền qua lại trên phá không còn bị sóng thần nổi lên đánh chìm nữa.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 17:18
[center:11cd6b2cfe]Quỷ Nhập Tràng [/center:11cd6b2cfe][center:11cd6b2cfe]Tác giả: Hoang Ðường[/center:11cd6b2cfe]
Ngày xưa, có bảy người lái buôn cùng lên mạn ngược, vì nhỡ độ đường, phải xin vào ngủ trọ trong một nhà người Kinh lập nghiệp ở thượng du đã lâu. Khi vào hỏi xin ngủ nhờ, người chủ ra tiếp rồi thú thực là nhà chỉ có hai vợ chồng, vợ sốt nặng nằm ở buồng trong, chồng sắp phải đi lấy thuốc có lẽ sáng hôm sau mới về, nhưng theo tục giản dị và trọng khách ở miền ngược, khách cứ việc ở nhà và tùy tiện lấy gà, gạo của chủ ra làm cơm ăn, còn chủ xin lỗi phải ra đi vì trời sắp tối.

Bảy ông khách cơm no rượu say rồi trải chiếu ra sàn nằm ngủ song song thành một dãy. Độ bốn năm giờ sáng, người nằm ngoài cùng chợt bị một luồng gió hơi lạnh làm cho tỉnh dậy, y lơ láo nhìn về phía buồng trong, thấy cửa buồng bà chủ mở, ngọn đèn dầu trong buồng đang như hột đậu xanh bỗng lóe lên cực sáng rồi nhỏ dần đi.

Trong phòng nổi lên một dịp tiếng điếu cay, dòn dã và đều, nhất là hơi rít cuối cùng nghe thực vui tai, tiếp theo có tiếng dép lẹp kẹp, rồi bà chủ trong buồng bước ra ngoài. Bà đến gần người lái buôn thứ nhất, luồn hai tay xuống dưới nhấc bổng y lên như nhấc một mảnh gỗ thường, đoạn người đàn bà ghé miệng vào mũi ông khách, hịt một hơi dài, hít xong đặt khách xuống một cách nhẹ nhàng rồi trở vào không nói năng gì.

Bên trong ngọn đèn lóe lên, lụi xuống, lại có tiếng điếu cày sòng sòng; độ năm phút sau, người đàn bà trở ra lần nữa, đi đến chỗ người khách thứ hai, nâng đầu y dậy, ghé miệng xuống hít vào mũi y như lần trước, rồi lại đứng lên quay trở vào buồng.

Người thứ bảy hết sức ngạc nhiên, nhưng cứ để vậy xem sao vì chưa hiểu chuyện gì, và lần lượt bà chủ cứ ra vào, mỗi lượt đèn lóe lên lụi xuống, tiếng điếu cày lại nổi dậy thực dòn, và dần dà bà chủ hít đến người thứ sáu. Người thứ bảy vẫn nằm yên không dám cựa, nhưng khi bà chủ vừa quay đi khỏi, anh chàng sẽ sờ vào mình bạn thì thấy bạn đã giá lạnh và chết cứng. Anh ta hết vía, vùng ngồi dậy, bà chủ thấy động quay trở lại, thế là anh ta ba chân bốn cẳng, nhảy ba bực một xuống khỏi thang gác rồi cắm cổ chạy ra đường. Bà chủ đuổi theo, tiếng dép lẹp kẹp nghe rất nhịp nhàng. Lúc ấy trời đã rạng đông, bác lái buôn ngoái cổ lại thấy bị đuổi theo, càng chạy miết.

Lạ quá! bác chạy nhanh thì người đàn bà đuổi nhanh, bác chạy chậm, người đàn bà đuổi chậm; bác chạy đã được ba bốn cây số, vừa phần mệt, vừa phần sợ, hai chân cuống lên mà mụ đàn bà thì gần nắm được bác, bác hoảng quá, nom thấy bên đường có cây gạo bèn chạy quanh cây ấy, thì chợt nghe đằng sau có tiếng "phập" thật lớn và thân cây rung chuyển, bác ta cũng vấp phải một cái rễ lồi, ngã vật xuống, chết ngất đi.

Mãi lúc mặt trời lên đã được ba bốn con sào, kẻ đi đường mới xúm lại xem một cảnh rùng rợn lạ thường: ở gốc cây có một người đàn ông nằm sóng sượt, còn bên cạnh có xác người đàn bà đứng ngả sang một bên, cánh tay phải xỉa ngập vào thân cây gần đến khuỷu.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 17:18
[center:47d932f9db]Người Ðánh Cá và Công Chúa Thủy Tề [/center:47d932f9db][center:47d932f9db]Tác giả: Hoang Ðường[/center:47d932f9db]
Ngày xưa, có nàng Công chúa con Thủy Vương một hôm hóa làm con cá bơi ngược giòng sông để du ngoạn, chẳng may mắc phải lưới của một người thuyền chài. Cá công chúa bị bắt thả vào gầm thuyền, phải nhịn đói hơn một hôm vì không có gì ăn. May có con trai người thuyền chài ngồi ăn bánh đổ cơm xuống, cá Công chúa mới khỏi chết đói. Trông thấy cá xinh đẹp, người con trai chủ thuyền bắt lên chơi rồi tuột tay thả rơi xuống sông. Công chúa nhờ thế mà được trở về thủy cung.

Nhưng từ ngày về đến cung điện, công chúa đâm ra tưởng nhớ đến người con trai ở trần gian đã cứu thoát mình, rồi sinh ốm tương tư. Vua Thủy Tề hỏi duyên cớ, công chúa cứ thật tình thưa lại đầu đuôi câu chuyện, rồi xin phép vua cha đội lốt làm người ở trên đất để kết duyên với chàng trai kia.

Bấy giờ người trai đang ở hang Non Nước, thuộc về Ninh Bình ngày nay, sau khi cha mẹ đã mất. Người trai ngày ngày đi câu cá để sống, một hôm gặp nàng công chúa Thủy Cung tìm đến, rồi đôi bên lấy nhau. Vợ chồng tuy sống trong cảnh nghèo túng, song hết sức thương yêu nhau.

Chàng và nàng sống giữa hòn đảo Non Nước cách biệt, kéo dài cuộc tình duyên đằm thắm cho đến một ngày kia, nàng đưa chàng cùng nhau về dưới Thủy Cung.

Trong dân gian ngày nay còn nhắc nhở câu:

Chung quanh những chị em người,
Giữa hòn Non Nước mình tôi với chàng

để nói lên mối tình của nàng công chúa con Thần Nước với anh chàng đánh cá miền Bắc Việt Nam.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 17:19
[center:ffcc5412b4]Lọ Thuốc Trường Sanh [/center:ffcc5412b4][center:ffcc5412b4]Tác giả: Hoang Ðường [/center:ffcc5412b4]
Ngày xưa, ở một làng kia, có một nông dân rất nghèo, cha già đau yếu lâu ngày không tiền thuốc men phải chết. Gặp hôm trời mưa gió lớn nước ngập lụt, anh không mượn ai khiêng giúp đi chôn được, lại không tiền mua áo quan, đành lấy chiếc chiếu độc nhất trong nhà bó thây cha lại rồi một mình vác ra nghĩa địa. Đến một chỗ nước xoáy mạnh, anh ta trượt chân ngã, nước lũ cuốn trôi xác cha đi mất. Anh lần mò tìm kiếm mãi không thấy, đành phải bỏ về nhà, trong lòng hết sức áy náy.

Đến khuya, anh nằm mơ thấy một con rồng hiện đến van xin anh hãy đưa thây cha đi chôn nơi khác chứ để vào hàm rồng vướng đau nó tội nghiệp. Anh hỏi xác cha ở đâu thì rồng bảo là hiện đang kẹt ở khe đá ngoài cửa sông, và nơi đó chính là hàm rồng.

Hôm sau, anh y theo lời rồng dặn, đến tìm xác cha thì thấy bị mắc ở khe đá thật, bèn đưa đi ra gò cao chôn cất.

Đêm đến, rồng lại hiện ra cám ơn và tặng anh một lọ thuốc trường sinh. Anh ta cất kỹ lọ thuốc ở trong buồng, xem là của quý không cho ai hay cả. Mấy năm sau anh lấy vợ, rồi một hôm đi làm vắng, chị vợ ở nhà lục trong buồng thấy lọ nước mở ra coi, nước sóng sánh đổ ra tay chỗ nào thì chỗ ấy đẹp ra. Chị ta liền lấy cả lọ đem ra sau nhà lau rửa cả mặt lẫn người thì thấy mình bỗng trở nên xinh đẹp vô cùng.

Người chồng về trông thấy lấy làm ngạc nhiên, hỏi thì vợ liền kể lại sự tình, anh ta xem đến lọ thuốc trường sinh thì thấy không còn một giọt nào nữa. Việc đã lỡ rồi, lại thấy vợ đẹp đẽ khác thường, anh đâm ra yêu thương vợ hơn trước.

Tiếng tăm người đẹp đến tai vua, vua cho đòi vào cung, trông thấy đâm ra mê mệt bèn giữ lại để vui vầy. Hai vợ chồng anh nông dân đang tình nghĩa đằm thắm bỗng phải chia lìa, đành nuốt nước mắt đau đớn, không biết làm sao để gần gũi nhau. Được mấy hôm, anh ra sau hè, chỗ vợ đã tắm rửa bằng nước trường sinh mới bữa nào, thì thấy luống hành trồng cạnh đó to lớn khác thường. Anh ta bèn nhổ đem lên kinh, vừa đi vừa rao:

Dọc bằng đòn gánh,
Củ bằng bình vôi,
Ai mua hành tôi,
Thì thương tôi với...

Chị vợ ở trong cung nghe tiếng chồng rao kỳ lạ mới bật lên tiếng cười. Nhà vua từ hôm bắt được người đẹp về cung, đã tìm đủ mọi cách dỗ dành để vùi vầy cùng mình, đều bị cự tuyệt, và nàng cứ ngày đêm khóc lóc. Nay thấy chỉ nghe lời rao mà nàng bật cười, vua liền sai gọi người bán hành vào cung rồi bí mật trao đổi quần áo để làm cho người đẹp cười thêm nữa.

Khi nhà vua gánh hành ra ngoài thành cất tiếng bắt chước rao thì anh nông dân đã thay đổi quần áo đóng vai vua liền hạ lệnh cho bắt ngay để chém đầu.

Ông vua thật nói lại thế nào cũng không ai tin, cho là thằng điên, còn anh nông dân thì nghiễm nhiên được làm vua và đoàn tụ cùng người vợ chung thủy.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 17:19
[center:2d0c256f4c]Mỵ Châu Trọng Thủy [/center:2d0c256f4c][center:2d0c256f4c]Tác giả: Hoang Ðường [/center:2d0c256f4c]
Thần Kim Quy giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa xong, nghĩ đến chuyện bảo vệ kẻ thù bên ngoài, thần cho An Dương Vương cái móng của mình để làm nỏ giữ thành. Theo lời thần dặn, nỏ có được cái lẫy làm bằng móng chân thần sẽ là chiếc nỏ bắn trăm phát trăm trúng cả trăm và chỉ một phát có thể giết hàng nghìn quân giặc.

An Dương Vương chọn trong nhóm gia thần được một người làm nỏ rất khéo tên là Cao Lỗ giao cho làm chiếc nỏ thần. Cao Lỗ gắng sức làm trong nhiều ngày mới xong. Chiếc nỏ rất lớn và rất cứng, khác hẳn những nỏ thường, phải tay lực sĩ mới gương nổi. An Dương Vương quý chiếc nỏ vô cùng, lúc nào cũng treo gần chỗ nằm.

Lúc bấy giờ Triệu Ðà làm chúa đất Nam Hải, mấy lần Triệu Ðà đem quân sang cướp đất Âu Lạc, nhưng vì An Dương Vương có nỏ thần, quân Nam Hải bị giết hại rất nhiều, nên Triệu Ðà đành cố thủ đợi cơ hội khác. Triệu Ðà thấy dùng binh không lợi, bèn xin giảng hoà với An Dương Vương, và sai con là Trọng Thủy sang cầu thân nhưng chủ ý tìm cách phá chiếc nỏ thần.

Trong những ngày đi lại để kết tình hoà hiếu. Trong Thủy được gặp Mỵ Châu, một thiếu nữ mày ngài mắt phượng, nhan sắc tuyệt trần, con gái yêu của An Dương Vương, Trọng thủy đem lòng yêu Mỵ Châu, Mỵ Châu dần dần cũng xiêu lòng. Hai người trở nên thân thiết, không còn chỗ nào trong Loa thành là Mỵ Châu không dẫn người yêu mình đến xem. An Dương Vương không nghi ngờ gì cả. Thấy đôi trẻ thương yêu nhau, vua liền gả Mỵ Châu cho Trọng Thủy.

Một đêm trăng sao vằng vặc, Mỵ Châu cùng Trọng Thủy ngồi trên phiến đá trắng giữa vườn, cùng nhau nhìn dẫy tường thành cao ngất, gió lạnh thổi, mây ngàn xa bay, đêm mỗi lúc một khuya. . . Trong câu truyện tỉ tê, Trọng Thủy hỏi vợ rằng:

- Nàng ơi! Bên Âu Lạc có bí quyết gì mà không đánh được?

Mỵ Châu đáp:

- Có bí quyết gì đâu chàng! Âu Lạc đã có thành cao, hào sâu, lại có nỏ thần, lại bắn một phát chết hàng ngàn quân địch như thế còn ai đánh nổi được.

Trọng Thủy làm bộ ngạc nhiên, vờ như mới nghe nói đến nỏ thần lần đầu, chàng ngỏ ý muốn xem chiếc nỏ. Mỵ Châu không ngần ngại, chạy ngay vào chỗ cha nằm, lấy nỏ đem ra cho chồng xem. Nàng lại chỉ cho chàng biết cái lẫy vốn là chiếc móng chân thần Kim Quy và giảng cho Trọng Thuỷ nghe biết cách bắn. Trọng Thủy chăm chú nghe, chăm chú nhìn cái lẫy, nhìn khuôn khổ cái nỏ hồi lâu rồi đưa cho vợ cất đi.

Hôm sau, Trọng Thủy xin phép vua về thăm cha và thuật lại cho Triệu Ðà biết về chiếc nỏ thần.Triệu Ðà sai một gia nhân chuyên làm nỏ chế một cái lẫy giống như hệt cái lẫy của An Dương Vương. Lẫy giả làm xong, Trọng Thủy giấu vào trong áo trở lại sang Âu Lạc.

An Dương Vương vốn chiều con gái, thấy con mỗi khi gặp chồng thì vui vẻ sung sướng, liền sai gia nhân bầy tiệc rượu, để ba cha con cùng vui. Trọng Thủy uống cầm chừng, còn An Dương Vương và Mỵ Châu say tuý luý. Trọng Thủy thừa lúc bố vợ và vợ say. Lẻn ngay vào phòng tháo lẫy bằng móng chân Thần Kim Quy và thay vào cài lẫy giả bằng móng rùa.

Hôm sau, thấy chồng có vẻ bồn chồn, hết đứng lại ngồi không yên, Mỵ Châu hỏi chồng rằng:

- Hình như chàng đang có điều lo nghĩ gì , phải không?

Trọng Thủy đáp:

- Tôi sắp phải xa nàng bây giờ. Phụ vương dặn phải về ngay để còn lên miền Bắc, miền Bắc xa mãi trên kia

Mỵ Châu buồn rầu, lặng thinh, Trọng Thủy nói tiếp:

- Bây giờ đôi ta sắp phải xa nhau, không biết đến bao giờ gặp lại! Nếu chẳng may giặc giã, có khi nàng sẽ không còn ở chốn này nữa, tôi biết đâu mà tìm ?

Mỵ Châu nói:

- Thiếp có áo lông ngỗng, hễ thiếp chạy về phương nào thiếp sẽ giắc lông ngỗng dọc đường, chàng cứ theo dấu lông ngỗng mà tìm.

Nói xong Mỵ Châu nức nở khóc.

Về đến đất Nam Hải, Trọng Thủy đưa cái móng rùa vàng cho cha. Triệu Ðà mừng rỡ vô cùng, reo lên rằng : "Phen này đất Âu Lạc sẽ về tay ta! " ít lâu sau Triệu Ðà ra lệnh cất quân sang đánh Âu Lạc..

Nghe tin báo, An Dương Vương cậy có nỏ thần, không phòng bị gì cả. Ðến khi quân giặc đã đến sát chân thành, An Dương Vương mới sai đem nỏ thần ra bắn thì thấy không hiệu nghiệm nữa.

Quân Nam Hải phá cửa thành, kéo ùa vào. An Dương Vương vội lên ngựa, để Mỵ Châu sau lưng, phi ngựa thoát ra cửa sau. Ngồi sau lưng cha, Mỹ Châu bứt lông ngỗng ở áo rắc khắp dọc đường.

Ðường núi gập ghềng hiểm trở, ngựa chạy luôn mấy ngày đêm, mới đến núi Dạ Sơn gần bờ biển. Hai cha con định xuống ngựa ngồi nghỉ thì quân giặc đã đuổi gần đến. Thấy đường núi quanh co dốc ngược, bóng chiều đã xuống, không còn nối nào chạy, An Dương Vương hướng ra biển khấn thần Kim Quy phù hộ cho mình. Vua vừa khấn xong thì một cơn gió lốc bốc cát bụi lên mịt mù làm rung chuyển cả núi rừng. Thần Kim Quy hiện lên, bảo An Dương Vương rằng "Giặc ở đằng sau lưng nhà vua đấy! "

An Dương Vương tỉnh ngộ, liền rút gươm chém Mỵ Châu, rồi nhẩy xuống biển. Rùa Thần rẽ nước đưa nhà vua đi. Quân của Triệu Ðà kéo vào chiếm đóng Loa thành. Còn Trọng Thuỷ một mình một ngựa theo dấu lông ngỗng đi tìm Mỵ Châu. Ðến gần bờ biển thấy xác vợ nằm trên đám cỏ, tuy chết mà nhan sắc không phai mờ. Trọng Thuỷ khóc oà lên,thu nhặt thi hài đem về chôn trong Loa thành, rồi đâm đầu xuống giếng trong thành mà chết.

Ngày nay ở làng Cổ Loa, trước đền thờ An Dương Vương còn cái giếng Trọng Thuỷ. Tục truyền khi Mỵ Châu đã bị cha giết rồi, máu nàng chảy xuống biển, trai ăn được nên mới có ngọc châu. Lấy được ngọc trai đó đem rửa nước giếng trong thành Cổ Loa thì ngọc trong sáng vô cùng.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 17:20
[center:2d85a50892]Ngọc Quạ[/center:2d85a50892][center:2d85a50892]Tác giả: Hoang Ðường [/center:2d85a50892]
Ngày xưa, có một người đi ở, thường hay cờ bạc thành ra nợ nần rất nhiều. Một hôm, nó dắt trâu đi cày, bị chủ nợ đến bắt mất trâu đi. Nó không dám về nhà sợ chủ đánh, buồn rầu nằm trên bờ ruộng giả chết. Có hai con quạ bay qua ngỡ là xác người chết, sà xuống định móc mắt ăn. Nó chụp bắt được một con, bảo rằng: "Mày định ăn thịt tao, tao bắt được mày, tao giết mày chết". Con quạ van lạy nó: "Anh tha cho tôi, tôi đền ơn anh một viên ngọc quý". Nó liền hỏi: "Ngọc quý mày đâu, đưa ra đây mau không tao bóp cổ cho chết". Con quả nhả ra cho nó một viên ngọc, dặn rằng: "Có viên ngọc này thì anh ước gì được nấy".

Nó cầm lấy viên ngọc liền thử ngay: "Ước gì ta có một con trâu để mang về trả chủ". Tự nhiên có một con trâu ở đâu đến ngay trước mặt nó. Nó bèn thả cho quạ bay đi rồi dắt con trâu về trả chủ và xin thôi việc.

Nó ra đi, đến một chỗ vắng, cầm viên ngọc mà ước có một tòa nhà to lớn. Vừa nói xong, nó thấy hiện ra một tòa nhà nguy nga, lại có đủ đồ đạc trang hoàng lộng lẫy. Có nhà đẹp rồi, nó ước được ruộng cò bay thẳng cánh, thì có ngay ruộng cò bay thẳng cánh, có đủ cả trâu bò, cày bừa.

Nó trở nên giàu có nhất vùng, lấy làm sung sướng. Một hôm nó lại ngồi ước có một người vợ đẹp như tiên, tự nhiên có một người con gái con nhà giàu trong làng đến kết làm vợ chồng.

Ăn ở với nhau được ít lâu, một hôm người con gái tò mò hỏi nó làm sao đang nghèo khó bỗng giàu có như thế. Nó thật tình kể lại chuyện quạ cho ngọc ước gì được nấy. Người con gái đem lòng tham, một hôm đợi nó đi vắng, ở nhà lấy trộm viên ngọc rồi trở về ở với cha mẹ.

Khi nó trở về, thấy mất vợ, lại mất cả ngọc, buồn rầu lên núi ngồi khóc. Bụt hiện ra hỏi nó: "Làm sao mà con khóc"? Nó kể lại vợ lấy mất ngọc bỏ đi. Bụt mới cho nó một cành hoa trắng và một cành hoa đỏ mà dặn rằng: "Con đem cành hoa trắng đến gài ở cửa nhà vợ, trong nhà sẽ sinh ra lắm chuyện tức cười. Sau đó con đem cành hoa đỏ đến chữa cho khỏi, vợ con sẽ trả lại ngọc cho". Nó liền theo lời Bụt dạy, đem cành hoa trắng cắm ở trước nhà vợ rồi bỏ ra về. Mùi hoa thơm ngát, hai ông bà cùng cô con gái chạy ra xem rồi tranh nhau ngửi. Ngửi xong, chốc lát mũi ba người cứ dài ra, dài lủng lẳng xuống tới ngực trông tựa như cái vòi voi. Ông nhìn bà, bà nhìn con, con gái nhìn bố mẹ, ba người nhìn nhau vừa muốn cười lại vừa muốn khóc, không hiểu ra sao tự dưng lại mắc phải cái bệnh quái ác này. Chữa bao nhiêu thuốc, chạy bao nhiêu thày, mũi cũng cứ dài lòng thòng rất khó chịu.

Được mấy hôm, anh chàng rể vừa đến thăm, trông thấy bố mẹ vợ và vợ ôm mũi dài lủng lẳng mới lăn ra cười nói rằng: "Tại vợ tôi nó trộm ngọc của tôi đem về nhà nên mũi mới dài ra thế kia. Đem trả lại ngọc cho tôi thì tôi chữa cho khỏi ngay".

Hai ông bà dục con gái lấy ngọc trả lại, nó mới đưa cành hoa đỏ đem theo cho ông ngửi thì mũi ông ngắn lại như cũ, đưa cho bà ngửi mũi bà co ngay lại, đưa cho vợ ngửi mũi rút lại như trước.

Từ đó người vợ không còn dám cầm đến viên ngọc nữa, sợ mũi lại dài ra. Hai vợ chồng ăn ở với nhau cho đến khi già. Khi nó sắp chết thấy có hai con quạ bay đến trước nhà kêu trả ngọc, rồi bỗng chốc hạt ngọc sáng rực lên mà biến mất đi.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 17:20
[center:92723b1034]Nàng Tiên Thứ Chín[/center:92723b1034][center:92723b1034]Tác giả: Hoang Ðường [/center:92723b1034]
Một bà cụ có một người con trai lớn, nhưng bà nghèo quá chẳng có tiền để hỏi vợ cho con. Ðêm nào thấy con trai nằm ngủ một mình bên bếp lửa, bà cũng ra đầu sàn ngồi nhìn trời mà khóc. Một đêm, sau khi khóc nhiều quá, bà ngã đầu vào cái vách ngủ mê đi lúc nào không biết. Một ánh chớp loé lên, bà cụ vội mở mắt thì thấy một ông già râu tóc bạc phơ, mặc áo xanh, đi giầy xanh, chống gậy xanh, đứng trên ngọn cây mít. Hoảng quá, bà cụ định chạy vào bếp, thì thấy ông cụ già khoát tay, cất giọng hiền từ bảo: "Ta là tiên, biết bà đang khổ vì cảnh nghèo khó, không có tiền đi hỏi vợ cho con, nên ta giúp. Ngày mai bà bảo con trai bà đi theo hướng ta chỉ, cứ đi mãi đến ngọn núi có phiến đá trắng to như cái nhà kia, sẽ thấy chín nàng tiên xuống tắm. Con trai bà yêu cô nào, thì cứ lấy đôi cánh của nàng tiên ấy đem về nhà là được ."

Nói xong Tiên ông biến mất. Mừng quá, bà cụ liền đẩy cửa, vào thổi bếp lửa cháy bùng lên, gọi con dậy, kể lại đầu đuôi câu chuyện vừ qua.

Tờ mờ sáng hôm sau, người con trai gói cơm, đeo ống nước, băng rừng, leo núi, leo hết núi này đến núi khác, đúng trưa mới đến chỗ tiên ông bảo. Một cảnh tuyệt đẹp hiện ra trước mắt. Hồ nước xanh biếc, trong vắt như gương, có đường xuống bến tắm, trên bờ hoa thơm, cỏ lạ đang đua nở khoe sắc cùng ong bướm, sỏi đá lấp lánh như kim cương.

Thấy nắng rung rinh, chàng đưa mắt ngó lên trời, bỗng từ trong đám mây hồng có chín nàng tiên mặc áo xiêm trắng, đang bay và hạ xuống dần. Chàng con trai nghèo liền nép vào bụi nhìn theo. Chín nàng tiên đã đứng trên các phiến đá ngọc, cởi cánh ra, lội xuống tắm. Nước trong, da các nàng tiên trắng ngần, nhìn cô nào cũng đẹp lộng lẫy như mặt trời mọc. Duy có nàng thứ chín là đẹp hiền hậu hơn cả. Tóc nàng đen mướt và dài như dòng suối, giọng cười trong và thanh như tiếng sáo ngân vang: miệng đẹp hơn hoa nở, mắt sáng như sao, khi nàng nhìn vào vật gì vật đó rực lên như có trăm ngàn ánh hào quang chói sáng. Chàng trai liền lẻn đến lấy trộm cặp cánh tiên của cô thứ chín, rồi trở về nhà.

Trống trên trời gióng bảy hồi khoan nhặt báo giờ các cô phải về tiên cung. Tám cô chị lên bờ, lắp cánh của mình và bay trước. Còn cô em mải đùa nghịch dưới làn nước mát, lên sau. Không thấy cánh tiên đâu nữa, nàng hoảng hốt cuống cuồng chạy quanh bờ. Trống trên trời vẫn giục giã, sắp đến giờ đóng cửa của thiên đình. Nàng tiên thứ chín lại chạy quanh bến nước chăm chú tìm lại, nhưng thông thấy. Nhìn dấu chân người còn in trên cát mịn, dấu chân trên đường xuống núi, biết có kẻ lấy đôi cánh của mình rồi, nàng vội vã cài lại áo xiêm, lần theo dấu chân đi mãi . Xế chiều nàng đến một ngôi nhà sàn nhỏ, dựng lẻ loi dưới chân núi. Nàng đang phân vân không biết đi ngả nào, thì một cụ đến bên nàng chào hỏi: "Cháu ơi! Ðường xa vắng vẻ, cháu đi một mình như thế này nguy hiểm lắm, cháu hãy vào nhà ta ăn cơm, uống nước rồi nghỉ lại đã." Nhìn nét mặt hiền hậu của bà cụ, nàng tiên gục đầu vào vai bà khóc, kể lại việc nàng bị mất đôi cánh tiên nên không về trời được. Bà cụ đưa nàng vào nhà. Chàng con trai sung sướng bước ra chào hỏi, rồi vào rừng bẻ măng, nhổ nấm đem về đưa mẹ nấu canh cho cô gái ăn. Tối chàng ngồi kéo đàn kơ ri - loại nhạc cụ réo rắt như đờn cò của người kinh - cho cô gái yên giấc.

ở đây một tháng, hai tháng, lúc đầu nàng tiên thứ chín hết sức nhớ mẹ, nhớ cha, nhưng được sự chăm sóc, trìu mến của bà cụ và chàng trai hiền hậu, siêng năng, nên nàng khuây khoả dần. Buổi sáng nàng cũng đi lên rẫy, vào rừng, buổi chiều nàng cũng ra giếng đội nước với chị em.

Nửa năm sau người con trai bà cụ lấy nàng tiên. Hai vợ chồng sống bên nhau rất hoà thuận, vui vẻ. Dân làng ví họ là cặp vợ chồng chim sáo - vì họ vừa xinh đẹp, vừa chịu khó làm ăn. Người chồng chưa bao giờ mắng vợ nửa lời. Chiều nào lên rừng về, chàng cũng cố tìm cho mẹ và vợ một ống mực thơm, một bó rau ngót, một bó măng, hay lưng gùi ngô non thơm sữa. Hai mùa, ba mùa, đến một đêm trăng tròn vành vạnh, nàng tiên thứ chín sinh được một đứa con trai kháu khỉnh. Từ đó, trong nhà càng thêm đầm ấm, vui vẻ hơn. Nhưng một hôm trời đang yên lành, bỗng có tiếng sấm ầm ầm, giận dữ. Mây đen, mây xám kéo đầy trời. Lửa đỏ rực, chớp nhằng nhịt dữ tợn Người vợ vừa cõng con ra đứng đầu sàn phía tây, đột nhiên thấy thiên lôi từ trên trời cầm búa nhảy xuống sân. Mặt giận dữ, Thiên lôi bảo rằng, hắn vâng lệnh Trời, xuống bắt nàng tiên phải về ngay, nếu không sẽ giết chết con nàng, giết cả chồng và người mẹ chồng của nàng nữa. Thương con, thương chồng quá, nàng tiên ngã gục xuống khóc nức nở rồi chạy vào nhà rút ba ống nứa dài vắt đầy sữa, nhẹ nhàng đặt con lên chiếu, cắt một nắm tóc để lại cho chồng, rồi theo Thiên lôi về thiên đình.

Chiều bà cụ và người chồng về nhà, không thấy nàng tiên, chỉ thấy đứa con nằm ngủ bên nắm tóc thơm của mẹ nó. Nhìn cây cối ngả nghiêng, cháy xém, biết có điều hung dữ xảy ra, chàng cõng con trên lưng, bước xuống cầu thang đi vào rừng, nhìn trời khóc suốt chín ngày đêm. Tiếng khóc ai oán, ấm ức nghe nghẹn cả cổ, đau cả lòng. Ðược tin, dân làng thương quá, rủ nhau giúp sức, góp của. Nhờ bác thợ rèn chuyên nghề chim sắt biết bay, đúc cho hai cha con người xấu số ấy một con chim công sắt.

Ðược chim sắt rồi, hai cha con ngồi trên lưng công bay vút lên trời. Qua mây hồng, mây bạc, mây xanh, đến sông Hằng sắp tới triều đình, thì công sắt không tài nào bay qua được. Gió to, sóng gầm dữ dội. Năm bảy lần con công cất cánh đều lao đao muốn rớt. Hai cha con đành ở bên này sông. Một hôm, người vợ ra sông giặt áo, đứa con nhỏ thấy mẹ, liền gọi lên. "Mẹ ơi!" Người vợ quay sang, hai vợ chồng nhìn thấy nhau, nhưng không gần nhau được. Ðau khổ quá, họ bưng mặt khóc.

Dân làng nhà trời thấy vậy vô cùng thương xót. Họ vào xin thiên đình cho hai vợ chồng được gặp nhau. Nhưng thiên đình không cho, viện cớ sắp gả nàng tiên thứ chín cho chàng trai thuộc dòng họ quyền quý. Không quản ngại, dân làng liên tiếp cử người đến gõ cửa, buộc thiên đình phải xử. Cuối cùng Ngọc Hoàng phải xuống lệnh nếu chồng cô thứ chín làm được mấy việc sau này mới lấy được con gái nhà trời. Thứ nhất là trong một ngày phải nhặt hết số vừng rơi trong khu rẫy dài bằng một khoảng chim bay mỏi cánh. Thứ hai là phải ăn hết những ớt gió đã chín trong một khu rừng ớt. Thứ ba là phải làm một cái nhà bằng kim cương thật đẹp giữa sông Hằng. Thương con, thương vợ người chồng phải nhận. Sáng hôm sau, hai cha con dậy thật sớm để nhặt vừng, nhưng mãi cho tới trưa, khi mặt trời đã ở giữa đỉnh đầu mà vẫn chưa nhặt được bao nhiêu. Thấy thế, Tiên ông liền đọc phù chú, gọi một bầy chim sẻ đông nghịt, bay xuống nhặt hộ, chẳng mấy chốc đã hết nhẵn.

Nhưng còn rừng ớt chín đỏ kia làm sao hái hết cho được. Người chồng cố hái ăn , bụng nóng như lửa đốt, mắt đỏ xè, thế mà mới ăn được mấy quả. Tiên ông thấy vậy , liền niệm thần chú hoá ra một đàn chim chào mào bay xuống ăn giúp. Trong giây lát cả rừng ớt chỉ còn trơ lại cành lá. (Ðến nay người Hê- rê giải thích chim chào mào đỏ đít là do ngày xưa nó ăn ớt cứu người).

Ðã đến lúc phải xây nhà kim cương giữa sông Hằng chảy xiết. Chàng trai và dân làng đổ rất nhiều công đẵn gỗ thả xuống sông, nhưng gỗ dù nặng dù to mấy đều bị nước cuốn phăng đi như cuốn một cái lá. Một ngày không được, một tháng không được, một mùa không được, một năm không xong, hết phương kế, chàng trai ôm con ngồi bên bờ sông than khóc thảm thiết.

Thần cá liền ra lệnh cho cá chình, cá sấp, cá chép, lươn chạch, cua, rùa, cá lóc, cá nghạnh... đều bơi lại giúp. Một con chình to lớn quẫy mạnh, nhô đầu lên bảo: "Anh đừng lo, ngày mai anh sẽ có nhà đẹp và sẽ được gặp vợ. Hãy vui lên, đừng khóc nữa!" Quả đúng như vậy, sáng hôm sau, khi mặt trời vừa thức giấc, bỗng có một ngôi nhà lấp lánh bằng kim cương hiện lên đồ sộ giữa sông. Chung quanh sóng vỗ rạt rào. Chiếc nhà do các loài cá xây nên, cá chình nhận làm cột, cá lóc làm sạp, cá sấp, cá chép làm mái nhà. Cá nghạnh làm xà, rùa làm bếp, cua làm móc chiêng, lươn, chình thì nối đuôi nhau thành một cái cầu tuyệt đẹp từ bờ ra đến giữa sông.

Ngọc Hoàng cùng thần hung ác thấy nhà đẹp mới chịu đem thuyền cho anh chàng nghèo sang sông gặp vợ. Còn bọn chúng thì hí hửng khiêng lúa, gạo, chiêng, ché ra nhà kim cương ở, chúng lao nhao tổ chức lễ ăn mừng. Nhưng khi vừa nhóm lửa nấu thịt thì rùa làm bếp bị nóng lưng quá lăn ngay xuống nước. Cùng lúc cá chình, cá lóc, cá sấp, cá trê... cũng lăn theo. Nhà đổ sập làm chìm cả lũ gian thần xuống dòng sông xẩy xiết đầy cá sấu, cá măng. Trời cao vòi vọi, sóng nước mênh mông trắng xoá.

Từ đó nàng tiên thứ chín và chồng được cai quản thiên đình, làm cho mưa rơi xuống, mát mẻ trần gian. Làm cho nắng chiếu xuống để cây cỏ xanh tươi, bốn mùa hoa nở. Lâu lâu họ chắp cánh bay xuống tắm ở suối ngọc rồi về thăm mẹ già và bà con quê cũ.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 17:21
[center:632a7a16d3]Hòn Vọng Phu [/center:632a7a16d3][center:632a7a16d3]Tác giả: Hoang Ðường[/center:632a7a16d3]
Ngày xưa, ở thị trấn Kinh Bắc có một người đàn bà goá chồng từ sớm, ngày ngày đi mò cua, bắt ốc để nuôi hai con, một trai, một gái. Trong khi mẹ chúng ra đồng, Tô Văn, đứa con trai độ mười tuổi và Tô Thị, con gái chừng tám tuổi, ở nhà tha hồ đùa nghịch với nhau, không ai kềm chế nổi.

Một hôm, Tô Văn chơi ném đá, rồi không biết thế nào ném trúng ngay vào giữa đầu em. Tô Thị ngã vật xuống đất chết ngất đi, máu ra lên láng. Tô Văn thấy thế sợ quá, chạy thẳng một mạch ra đường không còn dám ngoái cổ lại.

May sao, sau khi xảy ra tai nạn, một bà hàng xóm biết chuyện chạy sang cứu Tô Thị cầm được máu. Ðến khi người mẹ trở về thì con gái đã ngồi dậy được.

Nhưng còn Tô Văn thì biệt tăm, ngày một ngày hai cũng không thấy trở về, tìm khắp nơi mà không thấy. Người mẹ nhớ con trai, buồn phiền ngày một héo hon, chẳng bao lâu ốm nặng rồi qua đời, bỏ lại Tô Thị một mình. Ðứa con gái nhỏ được hai vợ chồng người láng giềng nhận đem về nuôi. Sau đó ít lâu, họ dời lên xứ Lạng để làm ăn nên đem Tô Thị đi theo.

Lớn lên, Tô Thị xinh đẹp lại nết na, siêng năng, nên rất được nhiều người để ý. Dành dụm được ít vốn, nàng xin phép bố mẹ cho nàng được ở một cửa hàng buôn bán, hai vợ chồng người hàng xóm thấy con mình đã trưởng thành nên đều ưng thuận. Học được nghề làm nem từ bố mẹ, Tô Thị liền mở cửa hàng nem ở hàng Cưa tại chợ Kỳ Lừa. Nàng làm nem rất khéo. Cửa hàng của nàng mỗi ngày một đông khách. Người ta đến thưởng thức nem ngon, nhưng cũng có người vừa thích nem lại vừa yêu bóng yêu gió nàng. Chiều khách thì thật là khéo chiều, nhưng nàng rất đứng đắn làm cho mọi người càng thêm vị nể.

Thấm thoát Tô Thị đã hai mươi tuổi. Tuy có nhiều mối manh, nhưng nàng chưa thuận nơi nào.

Một hôm, có một thanh niên tuổi ngoài hai mươi vẻ ngoài tuấn tú, đem thuốc Bắc từ Cao Bằng về Lạng Sơn bán. Nghe nói ở Hàng Cưa tại Kỳ lừa có hàng nem ngon lại có chỗ cho trọ rộng rãi, chàng thanh niên liền tìm đến. Chàng thấy nem quả thật là ngon và cô bán hàng cũng thật tươi giòn. Biết cửa hàng một hai lần rồi cứ mỗi lần mang thuốc về Lạng Sơn bán, chàng lại đến hàng nem. Chàng thanh niên và Tô Thị trở nên thân thiết, trước còn mến nhau sau yêu nhau. . . Hai người lấy nhau được hơn một năm thì Tô Thị có mang sinh được một gái. Hai người yêu nhau rất mực. Lại thêm mụn con mối tình càng khăng khít.

Một hôm người chồng về nhà, thấy vợ đang gội đầu ở ngoài hè. Anh bế con ngồi trên bậc cửa xem vợ gội đầu, kể đôi câu chuyện vặt cho vợ nghe. Chợt nhận thấy đầu vợ có cái sẹo to, anh nói:

- Ðầu em có cái sẹo to, thế mà bây giờ anh mới biết.

- Bây giờ anh mới biết à? Anh cho là xấu phải không? - Tô thị hỏi.

- Có xấu gì đâu! Tóc che, có ai mà biết ! Em đau nhọt hay sao mà lại có cái sẹo to thế ?

Thấy chồng hỏi một cách vui vẻ, nhân vui câu chuyện. Tô Thị mới kể tỉ mỉ cho chồng nghe những gì xảy ra hồi còn bé. Trấn Kinh Bắc, nơi quê cũ, người anh đi mất tích, mẹ chết, theo vợ chồng người chủ quán lên Xứ Lạng, rồi ở luôn ở đấy cho đến bây giờ. . . Câu chuyện càng đi sâu, người chồng càng lộ vẻ buồn.

Biết bao đau thương buồn thảm. Chàng tự nhủ thầm : " Sao mình không là một kẻ khác mà lại là Tô Văn. Thôi mình đã lấy lầm em ruột rồi… " Chàng hồi nhớ lại những ngày xa xăm, cái ngày chàng đã lỡ tay ném đá vào đầu em, tưởng em chết nên đã đi lang thang không dám trở về nhà, rồi được một người buôn thuốc bắc đem về nuôi ở Trùng Khánh, thuộc tỉnh Cao Bằng. Lớn lên, Văn theo họ bố nuôi là Lý. Chàng thường đem hàng xuống Lạng Sơn bán và chỉ ở đây một vài ngày là hết hàng. Ngoài con đường Lạng Sơn - Cao Bằng - Lạng Sơn chàng cũng không đi đến đâu cả. Hơn mười năm qua, chàng yên trí gia đình ở miền xuôi chắc không còn một ai nữa, quê cũ đối với chàng bây giờ như trong sương mù, không còn nghĩ về đó làm gì…

Văn nghĩ ngợi, rầu rĩ, nhưng Tô Thị mải chải đầu, quấn tóc, không để ý đến. Nàng vẫn vui vẻ, hồn nhiên, không biết chồng mình đang ở những phút buồn phiền ghê gớm. Thấy Tô Thị ngày thơ, vui vẻ như thế. Tô Văn càng không muốn cho nàng biết sự thực. Ai lại để cho một người em gái mình còn non trẻ như thế kia biết được một vụ loạn luân như thế bao giờ! Một việc loạn hôn không do ý hai người định, nhưng chàng quyết tâm giải quyết cho xong. Thôi hay lại đi biệt chuyến nữa, em gái mình trẻ trung, xinh đẹp dường ấy, làm gì chả lấy được một người chồng khác. Văn nghỉ thế, rồi anh tìm cách để đi.

Giữa lúc tâm trạng Văn như thế thì có việc bắt lính thú. Anh xin đăng lính, không bàn với vợ nửa lời. Mãi đến lúc sắp lên đường, anh mới nói vợ:

- Anh đã đăng lính rồi, em ạ! Sớm mai lên đường. Ði chuyến này ba năm, có khi sáu năm mới về và cũng có khi lâu hơn… Em ở nhà nuôi con, còn về phần em, em cứ định liệu…

Tô Thị nghe chồng nói như sét đánh ngang tai, không hiểu sao đang sống yên vui với nhau mà chồng mình lại bỏ đi một cách quái gở như thế. Nàng khóc ấm ức, khóc hoài, khóc mãi không nói nửa lời. Còn Văn chỉ những bứt rứt âm thầm cho việc mình đi như vậy là giải thoát.

Từ ngày chồng đi rồi. Tô thị chẳng thiết gì đến việc bán hàng, ngày ngày nàng bế con lên chùa Tam Thanh cầu cho chồng đi được bình yên, chóng đến ngày về lại cùng nhau sum họp. Nhưng ba năm qua, bốn năm qua, nàng cũng chẳng thấy chồng về. Có mấy kẻ cho là chồng nàng chết, muốn hỏi nàng về làm vợ, nhưng nàng nhất định chối từ. Có một tên kỳ hào có tiếng hống hách trong vùng muốn hỏi nàng làm vợ kế. Hắn có thế lực và rất tàn nhẫn. Nàng thương con còn thơ dại không dám chối từ ngay, sợ rước vạ vào thân chỉ tìm cách khất lần. Nhưng khất lần mãi cũng không được, nên cuối cùng nàng hẹn với lão một kỳ hạn, để sau này tìm mưu kế khác. " Biết đâu đến ngày ấy chồng mình lại chả Vũ !" Nàng nghĩ thế. Rồi kỳ hạn cũng hết, nàng trông đợi chồng đến đỏ con mắt mà vẫn không thấy về cho. Nàng ôm con lên Chùa Thiên Thanh kêu cầu. Hôm ấy, trời bỗng nổi cơn giông. Nàng nhớ chồng, thương thân, bế con ra ngoài chùa, trèo lên một mỏm đá cao chót vót nhìn về hướng chồng đi. Mây đen kéo đầy trời. Gió rít lên từng hồi qua khe đá. Mưa như trút nước. Chớp loé khắp núi. Nàng vẫn bế con đứng trơ trơ, đăm đăm nhìn về hướng chồng đi. Toàn thân quả núi rung chuyển dưới những luồng sét dọc ngang. Mưa mỗi lúc một lớn. Tô Thị vẫn bế con đứng trơ trơ trên mỏm đá cao chót vót.

Sáng hôm sau, mưa tạnh, gió yên, mặt trời toả ánh sáng xuống núi rừng. Rất nhiều người dân xung quanh khi nhìn lên đỉnh núi thì đã thấy nàng Tô Thị bế con đã hóa đá từ bao giờ. Ngày nay hòn đá ấy vẫn còn ở tỉnh Lạng Sơn, gây cho khách tham quan nhiều nỗi vấn vương khi nhớ lại câu chuyện truyền kỳ éo le của một thời . Vẫn còn đó câu ca dao xưa :

Ðồng Ðăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 17:21
[center:714f4cc806]Cường Bạo Ðánh Thiên Lôi [/center:714f4cc806][center:714f4cc806]Tác giả: Hoang Ðường[/center:714f4cc806]
Ngày xưa, ở làng Bối Xuyên, huyện Thiên Bổn thuộc Nam Định bây giờ, có một người đàn bà một hôm nằm mộng thấy một vị thần tên gọi là Cương Báo Đại Vương, hiện đến giao cảm với mình. Sau đêm đó, người đàn bà thấy bụng mình cứ mỗi ngày một lớn rồi đẻ ra một đứa con trai.

Đứa bé lớn lên, gan dạ, ngang tàng, bà mẹ đặt tên cho nó là Cường Bạo, phỏng theo tên của vị thần đã đi lại với bà. Cường Bạo được mười tuổi thì bà mẹ qua đời, nhà nghèo, mồ côi, phải sống bằng nghề mò tôm bắt cá. Quanh năm chỉ có một mảnh khố che thân, Cường Bạo đâm ra oán kẻ đã sinh ra mình, không cúng giỗ nhắc nhở gì đến, lại nghe nói cha mình là thần Cương Báo mà chẳng giúp đỡ gì con cái, nên thường tỏ ra bất kính với Cương Báo Đại Vương.

Cường Bạo thường chỉ chơi với Thần Bếp, tức là ông Táo, đôi bên thân thiết tử tế với nhau lắm. Mỗi lần bắt được nhiều tôm, Cường Bạo không bao giờ quên bạn, đem về nướng lên mời Táo quân cùng ăn.

Thần Cương Báo thấy con không đếm xỉa gì đến việc thờ cúng mình, lấy làm bất bình đã lỡ sinh ra một đứa con ngỗ nghịch, mới tâu với Ngọc Hoàng xin giết Cường Bạo đi. Ngọc Hoàng sai Thần Sét, tức là Thiên Lôi xuống đánh chết Cường Bạo. Ông Táo biết tin liền báo cho Cường Bạo hay để đề phòng, bày cho nó lấy rau mùng tơi đem giã trộn với dầu vừng bôi lên khắp mái lều, rồi lại quét lá chuối gác thêm lên nữa. Cường Bạo tính bụng phen này làm cho Thiên Lôi biết tay, không còn dám héo lánh đến làm hại mình nữa, cầm sẵn gậy nấp ở xó lều chờ Thiên Lôi xuống.

Trời đang yên tĩnh bỗng kéo mây đen, rồi chớp nhoáng sáng lòa, sấm dậy ầm ỹ, Thiên Lôi tay cầm búa lăm lăm từ trên cao, nhắm nóc lều Cường Bạo mà nhảy xuống. Nào ngờ Thiên Lôi vừa đặt chân xuống trên mái lều thì gặp phải nước trơn như mỡ, trượt lăn ngã oạch xuống sân, để văng cả lưỡi búa ra đất. Cường Bạo đã rình sẵn, lập tức nhảy xổ ra lấy gậy phang thẳng ngay vào đầu, vào thân hình đen trùng trục của Thiên Lôi. Bất ngờ bị đánh đau quá, Thiên Lôi tức giận tràn hông, song đã để rơi mất vũ khí, không làm gì được, lồm cồm dậy chạy, liền bị Cường Bạo đá thốc luôn vào mông chúi nhũi, đánh dông vụt về trời, bỏ quên cả búa. Cường Bạo nhặt được búa Thiên Lôi, kháo ầm lên với mọi người là đã cho Thiên Lôi một trận nên thân. Thiên Lôi về đến Thiên Đình, vừa đau rêm cả mình vừa xấu hổ, song không dám dấu diếm câu chuyện, phải tâu lại đầu đuôi với Ngọc Hoàng.

Ngọc Hoàng nghe tâu lấy làm nhục nhã tho thể thống Thiên Đình, nổi giận đùng đùng mắng cho Thiên Lôi một hồi, rồi giao hẹn cho Thiên Lôi nếu không giết được Cường Bạo thì sẽ bị cách mất chức Thần Sét. Đoạn Ngọc Hoàng cho gọi Thần Nước đến sai đi dâng nước lên ngập lều Cường Bạo rồi cho sóng cuốn dìm chết Cường Bạo.

Ông Táo lại ngầm báo tin cho Cường Bạo hay, rồi khuyên kết một chiếc bè lớn để tránh lụt, và coi chừng cả Thiên Lôi hùa sức với Thần Nước mà báo thù nữa.

Cường Bạo nghe theo, đẵn chuối kết một cái bè, dựng lên một túp lều lợp lá chuối quét nước mùng tơi trộn dầu vừng, chuẩn bị đối phó với các vị thần nhà trời.

Quả nhiên hôm sau mưa to gió lớn, nước sôn dâng lên ngập cả nóc lều Cường Bạo. Anh ta đã ngồi trên bè, ở trong lều lợp chuối, theo nước lụt dâng lên. Cường Bạo có mang theo một cái trống, tay đánh ầm ỹ, tay múa búa Thiên Lôi, miệng hò hét vang dậy: "Phen này ta quyết lên phá Trời một chuyến xem chơi"!

Ở Thiên Đình, Ngọc Hoàng đang họp triều chợt nghe tiếng của Cường Bạo lẫn với tiếng trống dục, liền sai một vị thần xuống xem chuyện gì. Một lát thiên thần về tâu là Cường Bạo đang thắng Thủy Thần, đòi theo nước dâng lên để phá cả Trời. Ngọc Hoàng nghe nói sợ Cường Bạo lên làm loạn cả Thiên Đình vội phán rằng: "Thôi, bảo Thủy Thần rút nước ngay đi kẻo nguy đến sinh linh mà khốn. Thằng Cường Bạo nghịch thiên nghịch địa, đòi chống báng cả ta nữa, Thiên Lôi, Thủy Thần đã phải chịu nó, thôi đành để dịp khác trị tội ngỗ nghịch của nó vậy".

Cường Bạo lại thoát nạn được mấy lần, nhưng rồi về sau không còn coi trời đất ra gì nữa, ít lui tới với Táo quân như trước, không được Thần Bếp báo cho biết trước tai họa mà đề phòng. Một hôm, Cường Bạo đi ngang một cánh đồng, Thiên Lôi vẫn căm thù rình mò ở trên trời nom thấy, nhè lúc Cường Bạo không phòng bị, thình lình nhảy bổ xuống bổ lưỡi búa vào đầu Cường Bạo chết tươi.

Dân chúng đem xác Cường Bạo chôn ở gò đất cao, rồi lập miếu thờ gọi là đền Bối Xuyên.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 17:22
[center:9b5ef82324]Chuyện Chàng Mồ Côi [/center:9b5ef82324][center:9b5ef82324]Tác giả: Hoang Ðường [/center:9b5ef82324]
Ngày xưa có một chàng thanh niên mồ côi cha mẹ từ tấm bé, được người làng nuôi cho lớn khôn. Người ta quen gọi chàng là Mồ Côi.

Mồ Côi càng lớn càng làm khoẻ. Không có ruộng vườn, ngày ngày chàng đem sức đổi lấy hai bữa ăn. Thấy chàng cần cù, và có lòng tốt, các bậc già cả, các cô con gái và các em bé đều quý mến. Những ngày mưa to gió lớn, chàng không đi làm được thì các cô gái rủ nhau đem gạo sang nhà giúp. Thấy vậy một vài chàng trai trẻ trong làng đem lòng ghen ghét. Họ tìm cách hãm hại Mồ Côi.

Một hôm, Mồ Côi bị ốm. Trai làng xúm lại đánh đến sứt mặt, mẻ trán giữa lúc chàng đang cùng một cô gái làng đi làm đồng về. Chàng bị đau nhừ cả người, nằm mấy ngày chưa lại sức.

Thấy bọn con trai ghét mình, chàng bèn chạy sang làng bên cạnh làm thuê, gánh mướn nuôi thân. Nhưng đến ở làng này chưa lâu, chàng lại bị bọn trai làng rủ nhau sang gây chuyện và đánh đập.

Mồ Côi lại phải bỏ làng này ra đi một lần nữa. Lần này chàng định đi kiếm ăn ở một nơi thật xa. Chàng đi ba ngày liền, đến một làng nhỏ ven rừng hẻo lánh. Chàng vào một nhà phú ông xin ở thuê. Phú ông thấy Mồ Côi khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, liền nhận lời giao cho chàng công việc hái trám.

Nhưng khi nhìn rừng trám rộng mênh mông, cây nào cũng to bằng hai ba người ôm và cao thẳng vút lên trời, Mồ Côi lắc đầu, lè lưỡi. Phú ông ngon ngọt dỗ dành và hứa trả công cao. Trèo xong rừng trám, lão sẽ trả cho 500 lạng bạc. Lão còn bày cách bắc thang tre để trèo. Công việc leo trèo thật vô cùng vất vả và nguy hiểm. Nhưng vì thấy phú ông đối đãi có vẻ tốt, nên Mồ Côi không tiếc sức.

Từ đó ngày nào chàng cũng trèo thang lên ngọn cây trám, cầm sào vụt rụng từng chùm trám chín xuống đất. Phú ông cùng vợ và con gái thả sức thu lượm đưa ra chợ bán. Một tháng rưỡi trôi qua, với cây sào và cái thang, Mồ Côi leo hết cây trám này đến cây trám khác. Phú ông cũng thu về hết món bạc này đến món bạc kia.

Hôm ấy, Mồ Côi trèo đến cây trám thứ hai trăm cũng là cây trám cuối cùng. Thấy sắp phải tính công trả cho Mố Côi số bạc hơn năm trăm lạng, phú ông gọi vợ đến bàn mưu tính kế.

Sáng hôm ấy, vợ chồng phú ông dậy từ lúc gà gáy, sai con nấu cơm làm bữa mời Mồ Côi.

Cơm nước xong, Mồ Côi lại theo gia đình phú ông vác sào ra rừng trám.

Sau khi Mồ Côi đã trèo đến ngọn cây, thì ở dưới gốc, phú ông sai con rút lấy thang tre về nhà, mặc cho Mồ Côi ở trên cao kêu la ầm ĩ. Chàng cố tìm cách tụt xuống, nhưng loay hoay nửa buổi cũng không tìm ra cách gì cả. Thân trám thẳng tắp, to bằng hai người ôm, không thể bấu víu vào đâu để tụt xuống được. Thế là từ đấy, chàng phải sống trên ngọn cây trám như loài khỉ vượn. Ðói bụng, chàng phải hái quả trám ăn sống. Khát nước, chàng liếm từng giọt sương đêm đọng trên từng chiếc lá. Ðêm cũng như ngày chàng không dám ngủ say, ăn hết trám, chàng phải ăn đến lá. Ăn hết lá, chàng phải ăn đến vỏ.

Một buổi sáng, trời hửng nắng, Mồ Côi cởi chiếc áo cánh phơi lên một cành trước mặt. Giữa lúc ấy có một con gấu ngựa đi qua dưới gốc cây. Trông thấy cái áo của Mồ Côi, nó tưởng là một tổ ong, liền trèo lên định ăn mật. Gấu đến bên cái áo, mắt lim dim để tránh ong đốt vào mắt như thói quen của nó, rồi nhoài người ra ngoạm lấy cái áo cánh nhai ngấu nhai nghiến.

Thấy thế, một ý nghĩ táo bạo mới nẩy ra trong óc Mồ Côi. Nhằm lúc con gấu nhắm tịt cả hai mắt và mải nhai cái áo, Mồ Côi liền nhè nhẹ tụt xuống, cưỡi ngay lên lưng con gấu, hai tay ghì chặt lấy cổ. Gấu bị ôm bất thình lình, hốt hoảng nhưng không dám buông tay, đành phải cõng cả Mồ Côi tụt xuống gốc. Khi gấu còn cách mặt đất hai ba sải, Mồ Côi vội nhảy xuống đất bỏ chạy. Gấu cũng chạy đuổi theo Mồ Côi. Mồ Côi cố sức chạy mãi vào rừng. Bỗng có một cái hang sâu chắn ngang trước mặt, chàng đành phải nhảy liều xuống hang; gấu không dám nhảy theo. Mồ Côi nhờ vậy được thoát.

Nhưng từ đây, chàng lại lâm vào một cảnh khổ cực nguy hiểm mới. Hang tối om. Chàng phải lần mò từng bước chân để một lối đi ra ngoài. Chàng đi mãi trong hang nhưng đi tới đâu cũng thấy tối như bưng. Xung quanh chàng chỉ có những con dơi bay đi bay lại. Chúng bay qua đầu chàng rứt từng sợi tóc, từng mảnh da. Bao nhiêu ngày ở trong hang phải chịu cực hình như thế. Mặc dầu vậy chàng cố len lỏi đi hết gốc hang này, lại dò đi sang gốc hang kia mong tìm một lối thoát.

Chợt một hôm chàng lần tới một chỗ nọ có một tia ánh sáng lọt vào. Chàng vui mừng khấp khởi. Nhưng về sau mới biết đó chỉ là một lỗ thông thiên chứ không phải là cửa hang. Tuy vậy chàng cũng cố vịn vào vách đá trèo lên để vượt ra ngoài. Nhưng sức chàng đã yếu lắm, đã năm bẩy lần leo lên được vài ba sải tay, rồi lại ngã xuống chỗ cũ.

Một hôm, trong khi nằm ngất trong hang, chàng thấy một ông cụ đầu tóc bạc phơ, tay cầm một cái rìu và một hòn đá thần đến gần. Ông cụ bảo:

- Ta là thần núi, thấy con khổ cực quá nên đến cứu con đây! Ta cho con một cái rìu. Nó sẽ cho con cơm ăn, áo mặc. Ta cho con hòn đá thần này. Con mang rìu mài vào hòn đá này thì lưỡi rìu sẽ sắc. Con kỳ hòn đá này vào da, da sẽ trở nên trắng trẻo và đẹp đẽ. Cuối cùng ta cho con viên thuốc nó sẽ cho con sức khoẻ vượt hang.

Nói xong, thần núi chống gậy đi mất. Mồ Côi tỉnh dậy, nhặt viên thuốc bỏ vào mồm. Tự nhiên thấy người nhẹ nhõm lạ thường. Chàng giắt cái rìu và hòn đá vào thắt lưng, rồi leo theo vách thẳng lên lỗ thông khác. Khác với những lần trước, lần này chàng trèo nhanh thoăn thoắt, chỉ một lát đã tới lỗ thông hơi và nhìn thấy ánh sáng ở bên ngoài. Chàng nhắm mắt lại một lúc rồi đu người ra khỏi hang.

Chàng lần xuyên qua rừng. Ðến quá trưa, tới bờ một con sông cái. Chàng men bờ, xuôi theo dòng. Ði được một quãng, chàng gặp một ông cụ tiều phu. Nhìn thấy Mồ Côi mặt mũi gớm ghiếc, đầu không còn sợi tóc, da dẻ sần sùi, hai vành tai sứt lở, áo quần rách nát, ông cụ bỏ chạy. Mồ Côi đuổi theo kể mọi lỗi gian lao của mình cho ông nghe. Ông cụ bảo giúp mình đốn củi và phát nương rồi sẽ đưa về nhà.

Mồ Côi liền lấy cái rìu ra mài vào hòn đá thần. Cái rìu trở nên rất sắc, chàng chỉ chặt một lúc đã được một đống củi chất đầy cả một gian nhà. Tối hôm ấy, chàng được ăn nghỉ ở nhà ông cụ.

Ông cụ có sáu cô con gái. Cả sáu cô gái đều đã đến tuổi lấy chồng. Thấy bố dắt về một chàng trai gớm ghiếc, các cô con gái, trừ cô út, đều tránh xa. Họ nói với bố đuổi ngay ra khỏi nhà. Ông cụ phải mắng mãi các cô mới chịu im. Cuối cùng các cô bảo bố cho Mồ Côi ra ở lều ngoài nương để chàng vừa phát thêm rẫy vừa coi lúa. Hàng ngày các cô sẽ luân phiên nhau đưa cơm, bắt đầu từ cô cả.

Ðể khỏi giáp mặt với Mồ Côi, cô cả đem một cái mõ treo lên một gốc cây ở đầu mương cách lều khoảng một trăm bước. Cô gõ mõ một hồi ba tiếng rồi đặt cơm ở gốc cây, gọi Mồ Côi đến lấy cơm ăn. Ðoạn ba chân bốn cẳng quay trở về nhà, không cần biết rằng Mồ Côi có nghe hay không. Lần lượt bốn cô em tiếp sau cũng bắt chước làm như cô chị. Duy chỉ có cô út đến lượt mình đưa cơm, cô không bỏ nắm cơm ở dưới gốc cây, cũng không gõ mõ như các chị, mà đi vào đến tận lều, trao tận tay Mồ Côi. Trong khi Mồ Côi ăn cơm, cô ngồi lại hỏi thăm sức khoẻ, quê quán, gia đình của chàng. Cô cố ý ngồi chờ cho Mồ Côi ăn xong rồi mới về nhà.

Từ ngày ra ở lều, Mồ Côi vẫn làm việc như ông cụ dặn. Sáng nào chàng cũng mài rìu thêm sắc để chặt được nhiều cây. Chiều nào chàng cũng ra suối tắm, lấy hòn đá thần kỳ vào người, quả nhiên da dẻ chàng dần dần trở lại hồng hào, xinh đẹp hơn trước.

Bẵng đi một thời gian, chàng không thấy cô út đến đưa cơm. Tự nhiên thấy buồn buồn nhơ nhớ, chàng cho là cô út cũng bắt chước các chị đặt cơm nắm ở gốc cây, rồi vội vã trở về nhà ngay, không biết cô út bận sang nhà bà cô ở làng bên.

Sau đó ba tháng cô út lại về nhà bố. Cô lại đem cơm vào lều cho Mồ Côi nhưng cô không thấy chàng Mồ Côi xấu xí mọi ngày mà chỉ một chàng trai mặt mày sáng sủa, da dẻ hồng hào, đầu tóc gọn gẽ thì thấy ngạc nhiên, vội hỏi :

- Chàng là ai ? Chàng ở đâu đến ? Chàng có biết cái anh Mồ Côi bị ăn mất hai bàn tay, rứt hết mái tóc trước đây coi nương ở lều này không ?

Biết là cô út không nhận ra mình nữa vì là mình đã nhờ đá thần thay đổi nhiều lắm. Nhưng Mồ Côi chỉ gật đầu chào cô út, không thưa, không rằng. Cô út hỏi tới hai ba lần mà chàng chỉ cười chứ không nói một lời. Thấy vậy cô út đặt nắm cơm xuống sàn, quay ra cửa nhìn về phía rừng gọi Mồ Côi. Cô gọi tới hai ba tiếng, vẫn không có tiếng trả lời.

Gọi xong cô út xuống thang đi vào rừng. Cô tìm khắp bốn góc nương lại hú gọi luôn mồm nhưng vẫn không thấy. Cô đành chạy một mạch về nhà.

Ngày hôm sau, đến lượt cô cả đi đưa cơm. Cô út xin đi thay. Cô định hôm nay phải tìm cho bằng được Mồ Côi mới thôi. Nhưng cô lại chỉ thấy anh chàng trắng trẻo hôm qua. Cô hỏi nhưng chàng trai chỉ cười đáp lại chứ không nói. Cô đặt nắm cơm xuống sàn rồi quay ra cửa định vào rừng tìm. Lần này Mồ Côi không thể làm thinh được nữa, chàng nói:

- Cô út ơi! Cô không phải đi tìm nữa. Xin cô thứ lỗi vì tôi đã làm cô mất công tìm kiếm. Bây giờ tôi đã biết hết lòng dạ của cô đối với tôi rồi. Tôi chính là cái anh Mồ Côi mất tai mất tóc ngày nọ đây.

Cô út quay lại, hết sức ngạc nhiên, cô nói:

- Chàng đấy à ? Sao chàng thay đổi thế này ?

Mồ Côi sung sướng trả lời :

- Cô út ạ ! Nhờ có hòn đá thần này mà tôi đã dần dần trở lại lành lặn như thế này đây.

Rồi chàng kể lại cho cô út nghe những việc làm trong thời gian qua . Từ hôm ấy, ngày nào cô út cũng thay các chị vào nương đưa cơm, các cô chị rất thích không cần hỏi duyên cớ vì sao. Duy chỉ có ông cụ thì hơi lấy làm lạ. Một hôm ông lẻn thi theo rình xem cho rõ sự tình.

Nấp ở trong bụi, ông cụ không thấy anh chàng Mồ Côi xấu xí hồi nọ, mà chỉ thấy một chàng trai trẻ đẹp, nói nói cười cười với con gái út của mình. Chờ cho con về, ông cụ vào lều hỏi xem chàng trai nọ là ai. Sau khi nghe kể, ông cụ mới rõ chàng trai chính là anh chàng Mồ Côi mất tai, mất tóc.

Tối hôm ấy, ông cụ gọi cả sáu cô con gái lại hỏi :

- Anh chàng Mồ Côi ở với ta đã lâu ngày. Chàng rất chăm làm và làm rất khoẻ. Bố vừa lên nương xem thì thấy một mình chàng không những đã trông nom rất chu đáo nương lúa, nương ngô, mà còn phát gốc, chặt cây, được rất nhiều nương rẫy. Vì vậy, bố rất mến, bố muốn kén chàng vào làm rể nhà ta. Có đứa nào bằng lòng lấy chàng không ?

Nghe bố nói, năm cô chị nhìn nhau nhổ nước bọt phì phì và đều trả lời:

- Bố mẹ đừng nghĩ quàng xiên như vậy. Chúng con không bao giờ bỏ phí cái tuổi thanh xuân, dấn thân làm vợ một chàng "người không ra người, quỷ không ra quỷ !"

Ông cụ hỏi cô út, cô đỏ mặt đáp :

- Cha mẹ muốn gả cho chàng, thì con cũng xin vâng. Ông cụ nhìn vợ, rồi nhìn cô út ân cần nói:

- Vậy ngày mai, chúng ta sẽ sửa soạn làm lễ cưới đón rể cho con gái út của chúng ta.

Sáng hôm sau, cả nhà ông cụ sửa soạn lễ cưới cho con út, tất cả họ hàng và xóm làng đều rất ngạc nhiên. Họ xì xào bảo nhau:

- "ông cụ khéo lẩn thẩn, sao lại gả cô út trẻ đẹp, hiền lành, cho cái anh chàng xấu xí ấy." Nhưng buổi đón rể đã làm cho tất cả người họ, người làng , cũng như năm cô chị đều hết sức ngạc nhiên và ghen tị. Ði bên cạnh cô út không phải là chàng Mồ Côi xấu xí, mà là một chàng trai trẻ đẹp, vóc người vạm vỡ, da dẻ hồng hào, mặt mày sáng sủa, đầu tóc gọn gàng và nổi tiếng đốn cây, làm rẫy rất khoẻ.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 17:23
[center:1b9bc142a5]Chuyện Chàng Lút [/center:1b9bc142a5][center:1b9bc142a5]Tác giả: Hoang Ðường[/center:1b9bc142a5]
Ở làng nọ có anh chàng Lút bị hủi ăn từ đầu đến chân. Trông người xấu xí, hom hem như sắp chết đến nơi rồi. Trong làng chẳng ai thèm lui tới chơi với Lút. Kẻ khinh anh nghèo đói, người sợ lây bệnh tật của anh. Tuy vậy, hàng ngày anh Lút vẫn cố lê ra suối đi câu cá. Anh đi câu xa, mãi tận chỗ thác nước chảy rì rào, trắng xoá dưới chân suối trúc.

Hôm ấy, câu hồi lâu, anh Lút bắt được hai con cá trắng tinh, trông như bạc đúc vậy. Anh để cá trên tảng đá anh đang ngồi câu. Lút đang chăm chú nhìn cần câu, thì có hai con quạ băng ngang qua quắp mất hai con cá đem đi tận chỗ xa, nơi đầu ngọn suối.

Có một đoàn cô gái đi xuống suối. Các cô đi rừng về. Vai cô nào cũng nặng trĩu những gùi củi đầy. Các cô đặt gùi xuống nghỉ, lội xuống suối tắm. Thân mình các cô mềm mại như tàn lá chuối, thon thon như cây lau, cây lách, đẹp rạng rỡ như ánh mặt trời .Tắm xong ai nấy lên bờ sửa soạn ra về. Chỉ còn lại hai chị em cô nọ đang nghịch nước suối reo ồ ồ, nước thác chảy trắng phau. Hai chị em lên bờ, sửa soạn ra về. Bỗng hai cô gái thấy hai con cá bạc bé như sợi lá thông, nhấp nháy như cọng cỏ chỉ. Hai cô bèn nhặt lên, giấu cá trong gùi mang về nhà, không cho cha mẹ biết. Hai cô lén mang cá ra nướng ăn.

Sáng hôm sau, thức dậy, cả hai cô ngạc nhiên thấy bụng to hẳn lên: hai cô đã có mang. Hai cô lo lắng quá, khóc lóc tỉ tê với mẹ:

- Mẹ ơi! không biết làm sao mà hai con khốn khổ ra thế này? Hai con có tội với cha mẹ, xấu hổ với bà con xóm làng lắm .

Chẳng kịp hỏi đầu đuôi ra thế nào, bà mẹ lớn tiếng nhiếc mắng hai cô thậm tệ:

- Bay là đồ gái hư, gái thối! Bay là quân sống nhuốc, sống nhơ! Ðừng có làm trò bêu danh, xấu tiếng cho nhà tao! Hai cô tìm lời giãi bầy nỗi oan với mẹ:

- Mẹ ơi! Ðêm nào hai con cũng ngủ ở nhà với mẹ: Các con có dám đi ngủ lang ngủ chạ với ai đâu

Bà mẹ lại lồng lên nhiếc móc ầm ĩ:

- Liệu bề khai thật ra, thì may ra tao còn tìm cách... Không thì hãy cút xéo đi!

Hai cô nghĩ ngợi một chốc, se sẽ nói tiếp:

- Mẹ ạ! Nghĩ đi nghĩ lại, chỉ có hai con cá trắng lọt được vào nhà ta thôi!

Mấy ngày sau hai chị em sinh được hai cô gái rất xinh đẹp. Bố mẹ hai cô bèn cho mời cả dân làng lại.

Trai tráng khắp nơi lục tục kéo đến. Ai nấy đều khoác chăn, mang gùi đến để cho hai đứa bé nhận mặt, xem thử ai là cha của chúng. Nhưng hai đứa trẻ không nhận ra ai cả. Bố mẹ hai cô lấy làm thất vọng. Bỗng họ sực nhớ ra còn anh chàng Lút nữa, anh chàng nghèo khổ bệnh tật mà chẳng có ai nhớ tới. Bà mẹ bèn gọi người nhà ra bảo:

-Phải đi gọi ngay thằng Lút đến đây! Mau lên!

Một chốc, chàng Lút què lò dò tới, Lút vừa bước tới chưa kịp ngồi, hai đứa bé đã chạy ùa ngay lại. Hai đứa reo ầm lên:

- Bố ơi, Bố! Ðúng là bố các con đây rồi. Bố gùi con trên lưng, bố cõng con trong chăn đây rồi!

Dân làng ai cũng trố mắt nhìn về phía hai cô gái. Dần dần người ta lặng lẽ bỏ ra về. Hai người tan lòng nát ruột thấy mình buộc phải làm vợ của anh chồng hủi. Hai cô khóc nức nở.

- Trời ơi là trời! Chân anh què, làm sao anh đi rừng cho được! tay anh cụt, làm sao anh phát dẫy cho nên! Miệng anh hủi, làm sao anh khấn vái cúng thần!

Bố mẹ bắt vợ chồng con cái anh Lút phải dọn ra ở riêng. Chẳng ai cho họ ở trong làng nữa. Nhà ở của họ chỉ là túp lều con lẻ loi, chỉ là một cái chòi bằng lá sơ sài! Họ chẳng có cơm ăn, chẳng có thuốc hút. Mẹ con đi phát một cái rẫy bé tí ti. Còn anh què phải ở lại nhà.

Ngày ấy, hai chị vợ đi làm rẫy vắng, Thừa cơ, có con khỉ xấu bụng đến tìm cách lừa gạt anh Lút. Khỉ mình ướt đẫm mồ hôi, vừa thở phều phào có vẻ mệt nhọc và nói:

- Anh Lút ơi! Chị dặn anh dán cho chị một đĩa trứng, nấu một nồi đầy cơm cho tôi ăn đấy. Tôi đi giúp hai chị đốt rẫy về đây, đói lắm rồi!

Tin lời khỉ, anh Lút nấu cơm cho nó ăn. Khỉ chén sạch nhẵn cả cơm lẫn trứng rồi bỏ đi. Chiều đến hai chị vợ đi làm về, bụng đói meo, nhưng nhà chẳng còn lấy một quả trứng, một hạt gạo! Anh Lút khổ sở bị hai chị vợ la cho một trận. Vợ con không tin anh nữa, cho anh chàng là người ăn gian nói dối...

Hôm sau, hai chị vợ lại lên rẫy đi làm. Nghĩ đến chuyện khỉ lừa, anh Lút căm tức anh ách trong bụng. Lần này, anh lo sắp sẵn những sợi dây thừng thật chắc để làm bẫy, giăng sẵn quanh nhà. Quen hơi ,khỉ lại mò đến. Anh Lút vừa ân cần ra mời khỉ vào, vừa nghĩ thầm trong bụng: "Mày lại muốn giở trò gì nữa chăng?" khỉ vừa bước đến gần nhà bị vướng phải bẫy ngay. Hắn ta nghĩ bụng phen này chắc chết quá nên rối rít van lạy anh Lút:

- Anh Lút ơi! Xin anh đừng giết em. Nếu anh muốn tạ tội chiêng đồng, chiêng thau gì em cũng xin nộp.

Anh Lút lắc đầu:

- Tao không thèm chiêng!

- Em xin tạ tội anh một con trâu mộng vậy.

Anh Lút lại lắc đầu:

- Tao cũng không cần trâu!

- Em xin nộp anh bao nhiêu lúa cũng được.

- Lúa tao cũng không cần!

Lưỡng lự một lát khỉ buột mồm:

-Thì em xin truyền lại cho anh phép bùa quý vậy.

Lút gật đầu:

- Thế thì được!

Anh Lút bèn gỡ bẫy, vòng dây thắt ngang bụng khỉ. Tuy vậy, anh vẫn đề phòng thói tráo trở của chú khỉ tinh ranh, anh vẫn nắm chắc một đầu dây, không bao giờ buông ra. Khỉ về nhà kì kèo xin vợ lá bùa phép cất kỹ trên sàn. Khi dùng bùa, anh Lút đọc câu thần chú: "Bùa hãy hoá phép cho ta đi! Hãy giúp ta trừ được bệnh hủi. Ta sẽ đánh chiêng mừng..."

Trong giây lát Lút khỏi hẳn bệnh hủi. Mình mẩy trơn tru, da dẻ hồng hào tốt tươi. Bấy giờ Lút đọc tiếp thần chú. Muốn chiêng, có chiêng. Muốn ché, có ché. Muốn trâu, có trâu.

Nhà chàng Lút bấy giờ xinh đẹp như bức gỗ chạm, trong làng vang lên lời ca ngợi nhà cửa xinh đẹp của anh. Lút có phép lạ:

Nhà anh đẹp như ché
Nhà anh khoẻ như chiêng
Nhà anh thẳng liền như tre
Nhà anh khoe màu huệ

Từ nay trở đi anh Lút trở nên một con người giầu có xinh đẹp. Trong nhà không thiếu thứ chi. Người ta lui tới thăm chơi chật trong chật ngoài như ngày hội.

Nhà Lút ở trên ngọn suối. Nhà bố mẹ vợ ở dưới đuôi suối. Bà ta đi múc nước, nhưng nước bị thối mùi tre ngâm!

Bà lội lần mé trên tìm xem thử có ai sục mà nước vẫn đục lên như thế. Bà thấy một bầy vịt đang hụp lặn tắm dưới suối.

Mụ hỏi mấy đứa bé ở đấy:

- Vịt nhà ai nhiều vậy các em?

- Vịt ấy là vịt của ông. Lợn ấy cũng là lợn của ông. Trâu ấy cũng là trâu của ông...

Mụ già nghe mấy đứa bé nói sốt ruột:

- Nhưng ông nào mới được?

- Ông Lút đấy mà, bà không biết à?

Nghe nói, bà mẹ đâm ra sửng sốt, suýt nữa đánh rơi vỡ mấy bầu đựng nước!

Bà mẹ bèn đi ngược dòng, để tìm xem cho được nhà của anh Lút. Bà đi đến nơi, nhưng anh chàng không ra mở cửa. "Xưa kia bà chẳng xua đuổi vợ chồng chàng như đuổi tà là gì?". Ngay lúc đó, trời đổ mưa to, giông bão đầy trời.

Một hồi sau, nghĩ thương bà già bị mưa gió sấm sét, sẽ rét mướt nguy hiểm. Lút ra mở cửa.

Thấy bà mẹ vợ đã biết lỗi, vợ chồng anh Lút cũng quyên chuyện cũ. Anh chị làm lễ mừng, mời ông bà lên nhà ăn uống, vui chơi với con cháu.

Từ đấy. Ai ai cũng trầm trồ khen vợ chồng anh Lút giầu có, ăn ở tốt bụng với bà con dân làng .

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 17:23
[center:93d22fb420]Chôn Của [/center:93d22fb420][center:93d22fb420]Tác giả: Hoang Ðường [/center:93d22fb420]
Ngày xưa, ở huyện Lập Thạch, tỉnh Sơn Tây (bây giờ thuộc Vĩnh Yên) có hai anh em một nhà rất nghèo, ngày ngày vào rừng kiếm củi, hái rau về bán để sinh sống. Trong nhà có một con chó cái, đẻ ra một con chó trắng chỉ có ba chân. Hàng xóm cho là quái vật, xui bảo mang vứt chó ấy đi, nhưng hai anh em không nghe.

Một hôm, có người gầy yếu đến xin ăn ở trước cửa. Hai anh em mang cơm ra cho. Ăn xong, người ấy nói rằng: "Tôi không phải là ăn mày, mà là hiện thân của thần giữ của đất này. Trước đã có một người Tàu tên là Mã Ký có chôn dấu ở trong vười nơi kia một ngàn cân vàng và ba vạn cân bạc giao cho tôi giữ, hẹn đúng một trăm năm thì lại lấy. Nay đã quá kỳ hạn không thấy đến lấy, tôi định xem người nào có đức thì tôi cho số vàng bạc ấy. Nay tôi nhận thấy anh em nhà này là người hiền lành, phúc hậu nên tôi cho hai anh em số vàng bạc ấy. Nhưng phải có con chó trắng ba chân thì mới lấy được của chôn nó". Hai anh em liền dắt con chó trắng ba chân trong nhà ra cho xem, thần giữ của bảo được, rồi dặn rằng: "Đêm mai hai anh em đem giết con chó trắng luộc lên và kiếm thêm một đĩa măng luộc va 'một đĩa đựng năm mươi hạt cau khô rồi mang ra miếu ở giữa vườn kia mà cúng. Cúng xong rồi đào cái bệ xây ở giữa miếu lên thì sẽ lấy được của". Nói xong thì thần giữ của ấy biến mất.

Theo lời dặn, đến đêm hôm sau hai anh em giết con chó ấy và kiếm đủ măng cùng hạt cau khô đem ra cúng ở miếu. Cúng xong lấy thuổng cuốc đào cái bệ gạch ở giữa miếu lên thì quả thấy một dãy chum, vại kê liền nhau ở dưới đất. Mở nắp chum vại ra thì thấy toàn vàng bạc đúng như lời thần giữ của đã nói. Hai anh em được của trở nên giàu có lớn.

Hai năm sau, khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, hai anh em nhờ người môi giới đem biếu Đăng Dung 100 cân vàng và 1000 cân bạc mượn tiếng là mừng lễ đăng quang. Đăng Dung thâu nhận rồi phong cho hai anh em tước Quận công.

Cách ba năm sau, có năm sáu người Tàu đến chỗ đất để của. Họ thấy có người đào lấy hết cả rồi, lăn ra khóc thảm thiết. Anh em Quận công sai người ra hỏi thì họ nói rằng: "Chúng tôi là con cháu Mã Ký ở bên Tàu, khi trước ông cha chúng tôi có để của ở đây, hiện có gia phả để lại hẳn hoi, không biết người nào đã lấy mất hết của rồi". Anh em Quận công bảo rằng: "Chúng tôi đã lấy được của ấy". Mấy người Tàu nói: "Muốn lấy được của ấy phải có con chó ba chân, vậy các ông đã làm thế nào mà có giống chó ấy"? Anh em Quận công đáp: "Nhà chúng tôi đã có sẵn". Họ nói: "Thế thì thật trời cho các ông rồi, chứ giống chó ba chân chỉ có sứ Sầm Châu tỉnh Quảng Đông bên Tàu mới có mà thôi, vậy mà con chó của các ông lại đẻ ra giống chó trắng ba chân như thế tất cũng là do trời cho. Bây giờ của ấy các ông đã lấy rồi thì con chó ba chân của chúng tôi mang từ bên Tàu sang đây cũng chẳng cần đến nó nữa, vậy xin tặng lại hai ông làm vật hiếm có". Hai anh em Quận công thương tình cho họ 30 cân vàng và 100 cân bạc để làm lộ phí trở về Tàu.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 17:24
[center:feec594c96]Ai mua hành tôi (hay là Lọ nước thần) [/center:feec594c96][center:feec594c96]Tác giả: Hoang Ðường [/center:feec594c96]
Ngày xưa có một anh chàng trẻ tuổi chưa có vợ, sống bằng nghề làm ruộng. Một ngày nọ anh xách búa lên rừng đốn củi. Trong khi đang lúi húi chặt cây, anh trông thấy một con quạ tha một con chim sẻ tới đậu trên một phiến đá ở gần chỗ mình đang làm việc. Nhìn thấy thế, anh bỗng động lòng thương con chim bé bỏng sắp sửa lọt vào miệng loài ác điểu. Anh bèn nhặt hòn đá ném con quạ. Quạ giật mình bỏ mồi vỗ cánh bay lên. Tức mình vì hỏng ăn, quạ chửi rủa om sòm. Anh nhặt đá ném thêm và mắng: - “Đồ chim dữ! Hãy cút ngay!”. Quạ hậm hực bay đi, miệng còn đe dọa sẽ báo thù. Anh chàng chạy lại nhặt con chim sẻ đang thoi thóp, cố tìm cách ấp ủ cho nó sống lại. Quả nhiên, chỉ chừng giập bã trầu, con chim sẻ đã hồi tỉnh và bay được. Nó cảm ơn anh và bảo anh ngồi chờ để nó đưa biếu một vật. Một lát sau, con chim đã bay trở lại miệng ngậm một cái lọ bé đặt xuống bên cạnh và nói - “Đây là lọ nước thần có phép làm cho người già thì trẻ lại, vật nhỏ thì lớn thêm, trần gian không ai có”. Nói rồi nó vỗ cánh bay đi. Anh ngồi tần ngần mở nút ra xem thì thấy đầy một lọ nước mùi thơm ngào ngạt. Anh nghĩ bụng: - Những thứ này chỉ để cho các bà quan làm đỏm, có đâu để hạng chúng ta dùng”. Rồi anh nút lọ lại cẩn thận, khi gánh củi về, treo lọ trên kèo nhà. Và rồi thời gian trôi qua, vì bận công việc làm ăn, anh cũng quên đi, không nghĩ tới cái lọ ấy nữa.

ít năm sau đó, chật vật mãi anh chàng mới cưới được vợ. Vợ anh cũng con nhà nông, quanh năm chân lấm tay bùn, nên đen đủi, xấu xí. Nhưng hai vợ chồng thì rất thương yêu nhau.

Một hôm chồng đi cày vắng, vợ ở nhà quét dọn khắp nơi. Thấy một cái lọ con treo trên kèo nhà, chị bèn bắc ghế lấy xuống mở nút ra xem. Khi ngửi thấy mùi thơm, chị ta đồ là dầu thơm gội đầu. Lát sau, chị nấu nước tắm gội rồi tiện tay đổ lọ nước ra bôi khắp tóc tai mình mẩy. Không ngờ sau khi bôi xong chị ta tự nhiên trở nên xinh đẹp trắng trẻo, nhan sắc mỹ miều ít ai sánh kịp. Nước thần trôi xuống mấy luống hành bên cạnh giếng, khiến cho những cây hành cũng tự nhiên lớn phổng lên một cách lạ thường: củ to như bình vôi, dọc dài bằng đòn gánh.

Khi người chồng đi cày về nhìn mặt vợ thì ngẩn cả người cứ tưởng là tiên sa xuống cõi trần, nếu không có tiếng nói thì cơ hồ anh không nhận ra là vợ mình. Nghe vợ nhắc đến lọ nước thơm, anh mới sực nhớ tới chuyện báo đền của con chim sẻ ba năm về trước. Nỗi mừng biết lấy chi cân, anh ngắm vợ mãi không chán mắt, rồi kể lại câu chuyện cũ cho vợ nghe.

Từ đấy anh cứ quấn quýt lấy vợ không rời. Công việc đồng áng vì thế cũng mười phần bê trễ. Nhưng cứ ở nhà mãi thì đói mất nên anh đành phải đi làm. Để khỏi nhớ vợ, anh thuê thợ vẽ hình vợ. Mỗi khi ra đồng làm việc, anh lại treo bức tranh ở bờ ruộng để nhìn cho thỏa.

Một hôm anh đang cày ruộng, bức tranh được treo lên một cái cọc cắm ở trên bờ. Vừa cày được mươi luống, tự nhiên con quạ năm xưa ở đâu sà xuống quắp lấy bức tranh mang đi. Anh chàng ở bên kia bờ thấy vậy, bèn hò hét đuổi theo nhưng không kịp nữa. Quạ đã cất cánh bay cao và bay đi rất xa, chỉ một loáng đã mất hút. Báo thù việc anh ném đá giành mồi của nó ngày xưa, quạ mang bức tranh vào đến tận kinh đô, thả xuống ở sân rồng. Bọn lính thị vệ thấy sự lạ lùng, bèn nhặt lên đem trình vua. Cầm lấy bức truyền thần vua ngắm nghía mãi không chán mắt, bụng bảo dạ: “Trong ba cung sáu viện của ta đã có nhiều người đẹp, nhưng chưa có người nào đẹp bằng người đàn bà trong tranh này. Hẳn là trời sai con quạ đến mách cho ta đây!”.

Lập tức vua ra lệnh cho một quan đại thần và một trăm thị vệ phải tìm cho được người đàn bà đã vẽ trong tranh mang về. Quan đại thần cho người về các địa phương sục sạo khắp hang cùng ngõ hẻm. Để việc tìm tòi có hiệu quả, chúng bày ra trò mở hội ở các vùng chúng đến để cho mọi người đổ về xem. Mỗi lần thấy dân tập hợp đông đúc, chúng đưa bức tranh ra giả tảng nói là tình cờ bắt được, người nào mất thì đến mà nhận.

Một hôm, chúng tới vùng quê hai vợ chồng anh chàng có lọ nước thần và cũng bày trò mở hội ba đêm ngày. Quả nhiên anh chàng sa vào mưu gian. Khi nhìn thấy bức tranh anh không đắn đo gì cả, lật đật bước tới để nhận. Nhưng anh không ngờ bọn lính chộp lấy anh như chộp con mồi. Chúng theo ngay anh về nhà và chúng tìm thấy ngay người đàn bà trong tranh. Mừng quá chúng vội đưa kiệu rước về kinh đô, mặc kệ cho người chồng vật mình than khóc.

Sau khi bị bắt vào cung, người đàn bà không cười không nói, áo đẹp không mặc, đầu không chải và không cho một ai đến gần. Đem được người đẹp về cung, nhà vua hết sức mừng rỡ, nhưng cũng hết sức buồn phiền vì mọi thứ dỗ dành, dọa nạt đều không thể làm cho người ngọc nở một nụ cười. Vua bèn hạ lệnh cho rao trong dân chúng hễ ai có cách gì làm cho nàng cười nói lên được, thì sẽ ban thưởng cho quan cao lộc hậu. Nghe tin này, có nhiều người, từ những vai hề nổi tiếng, những ông trạng cười cho đến các bậc lương y, các pháp sư phù thủy v.v... đua nhau trẩy kinh hy vọng dùng tài phép làm cho người đàn bà phải buột miệng nói cười để mong ân thưởng. Nhưng dù đã giở đủ mọi trò, đều vô hiệu.

Lại nói chuyện anh chồng từ khi vợ bị quan quân bắt đi thì không còn thiết làm ăn gì nữa. Khi nghe tin loan báo ai làm cho người đẹp trong cung nói cười được thì vua sẽ ban thưởng, anh biết là vợ mình đang ở cung vua, bèn quyết vào kinh tìm vợ. Trước khi đi, anh nhổ mấy củ hành ở cạnh giếng buộc làm một gánh, quảy theo. Đến kinh đô, anh quảy gánh của mình đi lại trước cửa hoàng cung rao to lên những câu:

Dọc bằng đòn gánh Củ bằng bình vôi Ai mua hành tôi Thì thương tôi với!

Tiếng rao của anh vọng vào cung mỗi lúc một lớn. Nét mặt của vợ anh tự nhiên cũng mỗi lúc mỗi tươi. Cuối cùng, nàng quay lại bảo thị nữ:

- Hãy gọi người hàng hành vào cho ta!

Khi nhìn thấy mặt chồng, vợ anh cười lên một tiếng. Thấy người đàn bà lần đầu tiên cười nói, vua sung sướng như mở cờ trong bụng; lại thấy những cây hành to lớn lạ thường thì lấylàm kinh ngạc. Vua ngỡ là nhờ những cây hành kỳ lạ này mà người đẹp nói cười. Vua liền nẩy ra ý nghĩ muốn tự mình cải trang gánh hành để làm vui lòng người đẹp. Vua bảo anh chồng:

- Hãy đặt gánh hành lại đó và cởi áo ra mau!

Vua cởi áo long bào vứt cho anh và mặc áo của anh vào. Vua còn bắt anh bày cho mình học thuộc câu rao, rổi quảy gánh qua lại trước mặt người đàn bà, cất tiếng rao mới học được. Thấy vậy, vợ anh hàng hành cười nghặt nghẽo. Vua thích thú lại càng làm già. Nhưng đột nhiên người đàn bà bảo thị nữ thả đàn chó ra. Chó thấy vua ngỡ là người lạ liền nhảy xổ tới cắn chết. Người đàn bà vội bảo chồng:

- Mình hãy mau mau trèo lên ngai vàng đi!

Anh chồng lật đật trèo lên ngai vàng giữa lúc trăm quan và cung nữ rập đầu bái mạng. Từ đó anh làm vua và ở với vợ trọn đời.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 17:24
[center:5cc562bf43]Ở Hiền Gặp Lành[/center:5cc562bf43][center:5cc562bf43]Tác giả: Dân Tộc Khác [/center:5cc562bf43]
Đã lâu lắm rồi, không còn ai nhớ năm tháng nào nữa, có một thanh niên dân tộc Mèo tên là A-páo. Cha mẹ mất sớm, A-páo phải dắt em đi xin ở đợ cho một gia đình giàu có. Nhưng gia chủ từ chối. Buồn quá, A-páo đành phải dẫn em lang thang khắp chốn để đào củ mài nướng ăn. Đêm về, hai anh em ôm nhau ngủ trong hang đá.

Một sớm nọ, mặt trời chưa mọc, cây cỏ, núi đồi đang chìm đắm trong biển sương mù thênh thang. A-páo đã phải thức dậy dẫn em đi đào củ mài. Bỗng trên đường đi, A-páo trông thấy một con chó sói đang cỡi trên bụng cụ già mặc quần áo đỏ, và sắp sửa rút ruột nạn nhân để ăn. Nhanh như cắt, vớ vội thanh gỗ lớn, A-páo liền chạy ngay đến định đánh chó sói thì nó đã chạy đi chỗ khác. A-páo nâng cụ già dậy và ái ngại, hỏi:

- Cụ có sao không?

Cụ già chỉ lắc đầu mà không đáp.

A-páo hỏi tiếp:

- Cụ đi đâu sớm thế?

- Cũng như các cháu! Ông cụ vừa trả lời vừa phủi áo đi thẳng.

A-páo chẳng thấy phiền hà gì, lại dẫn em đi. Cố công đào củ mài mà chẳng tìm thấy, đến khi mặt trời đứng bóng, A-páo mới đào được một củ nhỏ bé. Đói quá, A-páo nhóm lửa nướng ăn. Lúc này, cụ già mặc áo đỏ lại lững thững bước tới, tay xoa bụng, mồm lẩm bẩm:

- Đói quá! Trời ơi, đói quá!

Nhìn dáng thiểu não của cụ, A-páo động lòng thương hại, vội dập tắt lửa, lấy cụ mài mời cụ:

- Chúng cháu không có cơm gạo gì, có củ mài đây, mời cụ ăn tạm đỡ đói...

Cụ già đưa tay cầm lấy và ngấu nghiến ăn. Em của A-páo hỏi:

- Cụ có nhà ở không?

- Cũng như các cháu! Ông cụ trả lời rồi lại tiếp tục ăn.

- Vậy cụ theo cùng chúng cháu nhé! A-páo nói.

- Nhưng lão không đào được củ mài đâu. Lão vô tích sự lắm!

- Cụ đừng nói thế! Đã có cháu lo! A-páo vừa nói vừa đứng dậy, đi đào thêm củ mài.

Đến khi mặt trời sắp lặn, A-páo dào thêm khá nhiều củ mài. Trở lại chỗ cũ, chỉ thấy em ngồi một mình, A-páo bèn hỏi:

- Cụ già đâu?

Người em nói:

- Cụ ấy đi rồi. Sao anh đi lâu thế?

- Anh phải đào ở một nơi xa. Thế cụ đi đâu?

- Cụ không bảo gì cả, em làm sao biết... À, cụ gởi cho anh cái này.

Vừa nói, người em vừa trao cho A-páo một thanh đá trắng.

Cầm thanh đá trắng trên tay, A-páo nói một mình:

- Đá này dùng vào việc gì bây giờ? Ông cụ khó hiểu thật! Ước gì gặp ông cụ để hỏi cho tường tận...

A-páo vừa nói dứt câu thì bỗng đâu cụ già xuất hiện trước mặt hai anh em. Lần này, cụ có vẻ cốt cách của một ông tiên, cụ nói:

- Thanh đá này quý lắm. Ta cho hai cháu vì hai cháu hiền từ và giàu lòng thương người. Ở hiền gặp lành, ở dữ gặp ác: tình đời là vậy!

Nhìn A-páo một lúc lâu, cụ già thong thả nói tiếp:

- Thanh đá này giúp cháu thỏa mãn hai điều mơ ước. Nó đã thực hiện giùm cháu điều ước thứ nhất. Bây giờ còn lại một điều cuối cùng. Cháu hãy suy nghĩ kỹ đi rồi hãy nói...

Cụ già nói đến đây thì biến mất. Hai anh em A-páo cúi xạp mình xuống đất, lạy lấy lạy để khắp bốn phương trời.

Tay mân mê thanh đá quý, A-páo ngẫm nghĩ một hồi, rồi thong thả nói:

- Nếu đá thương anh em tôi thì làm ơn thực hiện giùm tôi được sức khỏe dồi dào. Sức khỏe cần lắm, quý lắm! Không có sức khỏe làm sao tôi nuôi được em tôi?

Quả nhiên điều ước cuối cùng của A-páo trở thành sự thật. Người chàng tự nhiên nghe rần rần: tay chân bỗng dưng nở lớn, lồng ngực căng phồng... A-páo vô tình bóp tay, viên đá tan thành từng mảnh vụn, nhỏ và nhẹ như bụi bay. A-páo biết là thanh đá quý lại trở về tay ôn cụ già hồi nãy bởi vì hai điều ước của chàng đã được thỏa mãn. Một lần nữa, A-páo cùng em lạy tạ ơn tiên.

Trước đây, A-páo làm quần quật suốt ngày mà chỉ phát được khoảng nương đủ cho ba dây bí bò. Từ khi có thêm sức khỏe, A-páo càng làm càng khỏe, không hề biết mệt. Mỗi sáng chàng có thể phát nương rộng ra tới 40, 50 cân bắp giống. Ngoài ra A-páo còn thừa sức trồng được đồi bí bát ngát.

Nhờ có sức khỏe, A-páo thu hoạch được khá nhiều lợi tức, không còn phải sống lang thang nghèo khó, xác xơ như trước nữa. Lúc này, chàng nghĩ tới chuyện dựng nhà để ở.

Nghĩ thì làm liền: ngày ngày A-páo vào rừng đốn gỗ một cách hăng say và thích thú. Một hôm đang cắm cúi đốn gỗ thì A-páo bỗng nghe tiếng khì khì ở đàng sau, tiếp đó là câu nói:

- Chú tiều phu tí hon ơi! sức chúc không đáng một nhúm, cớ sao dám phá nhà của ta?

A-páo quay lại thấy một con voi khổng lồ đang đứng sừng sững sau lưng. Không một chút sợ hãi, A-páo dõng dạc nói:

- Ta muốn làm nhà to, ắt phải chặt cây lớn. Ai biết đâu nhà của ngươi?

Chú voi khổng lồ cuộn vòi lên, thách thức:

- Này chú, chú muốn lấy gỗ cũng được, nhưng trước hết hãy đọ sức với ta chút đã. Nếu chú thắng cuộc, ta sẽ mang gỗ ấy về tận nhà chú. Ngược lại, nếu chú thua thì...

Nói chưa dứt lời, chú voi khổng lồ đã đến sát bên A-páo. A-páo bình tĩnh nhảy phắt lên cây. Voi lấy vòi cuộn cây, nhổ lên dễ dàng như nhổ một cây đậu mới đâm chồi xanh. A-páo nhanh nhẹn nhảy xuống ngồi chễm chệ trên lưng voi, quát:

- Voi! Ngươi thua trí ta rồi đó! Người hãy dắt cây gỗ lớn kia về nhà cho ta!

Voi ngần ngừ chưa chịu đi. A-páo nhanh nhẩu nói:

- Ta đồng ý là ngươi mạnh, nhưng mạnh chưa đủ, mà phải cần thêm trí khôn nữa. Không có trí khôn thì sức mạnh chỉ bằng thừa. Ngươi nên nhớ điều này: người chỉ huy không cần sức mạnh, mà cần có trí khôn...

Voi nghe A-páo nói một cách chăm chú. Một lúc sau, voi hỏi:

- Thế thì trí khôn dùng để làm gì? Có giết được ai đâu!

- Ngươi lầm rồi! - A-páo trả lời; có sức mạnh, ngươi chỉ có thể đánh bại đối thủ của ngươi, nhưng nếu có trí khôn, người có thể điều khiển đối thủ và biến đối thủ thành đồng minh, biến thù thành bạn...

Voi nghe mà không nói gì nữa, hậm hực giậm chân như ngụ ý bảo A-páo chỉ đường cho voi cùng về. Rõ ràng là voi vẫn chưa phục A-páo! Biết thế, A-páo vội nhảy xuống đất, đứng trước mặt voi, nói chuyện để gây cảm tình của voi:

- Voi à! Chú đừng hậm hực thế! Tôi đâu nói tôi mạnh hơn chú! Thâm tâm tôi vẫn phục chú cơ mà! Nhưng này! Voi không nên ỷ mạnh để hiếp tôi! Lấy mạnh hiếp yếu là hành động xấu lắm! Tại sao chúng ta không thể là đôi bạn chân tình?!

Lời nói ngọt ngào của A-páo làm thỏa mãn tự ái của voi\ Voi khoái lắm, nên chịu làm bạn với A-páo. Thế là voi dùng sức mạnh của nó để giúp chàng mang gỗ về nhà. Ngồi trên mình voi, A-páo không ngớt nói chuyện cùng con thú khổng lồ; nhờ thế đường dài hóa ngắn vì cả hai vui chuyện mà quên mệt, và quên ngoại cảnh xung quanh.

* * *

Từ khi có voi làm bạn, công việc xây cất nhà cửa được tiến hành tốt đẹp và nhanh chóng. Chẳng bao lâu, nhà cất xong. A-páo để cho voi ngủ dưới nhà sàn. Chỗ ở của voi cũng sạch sẽ, khang trang nên voi khoái lắm. Nhờ có voi trợ lực nên công việc ở rẫy bí càng thêm thu hoạch được hoa màu. Vì thế chẳng mấy lúc, A-páo sống sung túc, giàu có.

Nhưng ngờ đâu, chính vì cuộc sống sung túc hiện tại của anh em A-páo lại là nguyên nhân khiến cho tên giàu có trong làng tên là Y-Pút ghen tỵ ngấm ngầm. Lòng dạ nó nham hiểm hơn rắn rít; nó không ngớt đợi dịp để phá A-páo...

Và dịp đó đã đến. Số là bữa nọ, A-páo cùng chú voi khổng lồ ra nương sớm. Chỉ có một mình em A-páo ở nhà.

Đang đi được nửa đường thì tự nhiên A-páo thấy mặt trời giao động, rồi vun vút bay qua những làn mây đục, được một lúc thì biến mất. Sau đó, từ trên trời nước rơi xuống ào ào, và tiếng la vang động cả núi đồi. Khi nước ngừng rơi, tiếng la ngừng bặt thì tự dưng A-páo thấy đầu nhức nhối khó chịu, chân tay bải hoải mỏi mệt lạ thường. Biết là điềm gở, A-páo cùng voi hối hả quay về.

Chưa về đến nơi, A-páo đã thấy em đang ngồi trên một tảng đá khóc tức tưởi. A-páo và voi cùng hỏi một lượt:

- Sao lại bỏ nhà ra đây ngồi khóc?

Ngừng khóc, người em nhìn A-páo, nói:

- Anh ơi, nhà mất rồi!

A-páo và voi cùng ngạc nhiên, hỏi gấp:

- Sao? Nhà mất rồi? Sao nhà lại mất? Nói mau đi, em!

Người em vừa nức nở vừa kể: khi A-páo và voi đi nương được một lúc, tên nhà giàu Y-Pút đã đem theo bọn thuộc hạ của nó đến đánh em và cướp nhà rồi. A-páo nghe xong ru^.t gan sôi lên sùng sục. Căm giận Y-pút, A-páo nói với chú voi khổng lồ:

- Này bạn voi à! Chẳng lẽ chúng ta mất nhà vô lý như vậy sao? Ta phải cướp lại mới được!

Chú voi gật đầu đồng ý. Thế là cả hai anh em A-páo đều ngồi trên lưng voi, tiến về nhà. Voi cũng căm giận lắm, để hả giận, nó vừa đi vừa lấy vòi nhổ những thân cây bên đường, ném xuống đất kêu rầm rầm long trời lở đất.

Đi được một quãng đường, cả ba dừng lại: Trước mặt họ, một cụ già chống gậy bước tới. Nhận ra đúng là vị Tiên dạo nọ, hai anh em A-páo vội vàng nhảy xuống đất lạy Tiên lia lịa. Tiên ra dấu cho hai anh em ngừng lạy, rồi ôn tồn nói:

- Hai cháu và chú voi kia đi báo thù tên gian ác đấy à? Phải lắm! Nhưng để tăng thêm sức mạnh cho hai cháu, ta cho cái này...

Nói đến đó, Tiên đến bên A-páo trao cho chàng chiếc gậy. A-páo biết là gậy thần nên quý lắm, vội rủ em và voi lạy tạ ơn Tiên. Khi cả ba ngớt lạy, ngẩng nhìn lên thì Tiên không còn nữa.

A-páo đưa gậy thần cho em giữ, lòng hí hửng vì biết rằng, với chiếc gậy thần này, chàng có thể đánh bại Y-pút dễ dàng.

Hai anh em A-páo lại leo lên mình voi, tiếp tục đi. Lần này voi có vẻ bớt giận không còn phá cây cối nữa. Một lúc sau, họ về đến nhà. Y Pút đang đứng chỉ tay năm ngón ra lệnh cho tôi tớ sửa sang lại ngôi nhà mà nó vừa cướp được.

A-páo đã giận, nhìn thấy cung cách trơ trẽn của Y Pút, lại càng giận hơn. A-páo nhảy xuống đất, chạy nhanh đến Y Pút, nói:

- Sao ông đến cướp nhà tôi? Đã có nhà cửa rồi, sao còn tham thế? Nếu biết điều, xin ông đi chỗ khác...

Y Pút không nói không rằng, đánh mạnh vào mặt A-páo. Em A-páo và chú voi khổng lồ thấy thế vội nhảy vào định can thiệp, nhưng bọn người nhà tên Y Pút kịp thời ngăn chặn. A-páo vừa giơ cao chiếc gậy thần thì bỗng dưng, từ chiếc gậy, một luồng hào quang nhắm thẳng vào Y Pút rồi lại tạt ngang qua bọn lâu la của nó. Chỉ trong nháy mắt, cả bọn cướp nhà, kẻ sưng đầu, người sưng mặt, kêu la oai oái trên đường thoát chạy. Riêng Y Pút thì bị thương trầm trọng. Bọn lâu la vội tải thương nó, chạy qua mặt voi.

Chú voi khổng lồ chặn lại không cho đi. Voi dõng dạc nói với Y Pút:

- Không ai thương kẻ gian ác như mày đâu!

Chú voi vừa nói vừa thò vòi quấn lấy Y Pút ném ra xa chừng hơn trăm thước. Y Pút chết không kịp ngáp.

Từ đó hai anh em A-páo lại có nhà, có rẫy, nương. Hàng ngày A-páo lại cùng chú voi khổng lồ đi phát nương trồng bắp, gầy bí. Càng ra sức lao động, A-páo càng khỏe mạnh. Và chẳng mấy chốc, bắp tốt, bí tươi, A-páo cùng chú voi thân yêu lại có dịp thu hoạch thêm hoa màu tươi tốt.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 17:25
[center:3f929cb6e5]Nùng Trí Cao[/center:3f929cb6e5][center:3f929cb6e5]Tác giả: Dân Tộc Khác[/center:3f929cb6e5]
Ngày xưa, dưới triều Lý Thái Tông (1028-1057) trong bộ tộc Thái ở vùng biên giới thượng du miền Bắc, có Nùng Tôn Phúc, tù trưởng châu Đằng Gio ở giữa Cao Bằng và Lạng Sơn, nổi lên chiếm các hạt chung quanh, tự xưng là Hoàng Đế Trường Sanh (1039), không chịu thần phục nhà Lý. Vua Lý Thái Tông phái quân đi dẹp, bắt được Nùng Tôn Phúc và con trai là Nùng Trí Tông cùng năm tùy tướng giải về kinh đô Thăng Long trị tội.

Vợ Nùng Tôn Phúc cùng con trai là Nùng Trí Cao chạy thoát được, đến lẩn tránh ở một nhà người cậu của Trí Cao. Tục truyền rằng một hôm Trí Cao đang chăn ngựa trên núi, bỗng thấy một vầng mây đen chở một con rồng đến phủ lên một con ngựa cái trong bầy ngựa đang ăn cỏ. Đến khi ngựa con do rồng phủ sinh ra, Trí Cao bắt cỡi, thấy nó sức lực phi thường, vượt núi như bay. Được con thần mã, Trí Cao bèn nối chí cha, liên kết các châu thượng du lại, tự xưng là Hoàng Đế Đại Lịch. Bị quân triều đình đánh bại, không nỡ diệt tuyệt họ Nùng, tha cho Trí Cao về, và phủ dụ bổ cho làm tri châu cai quản ba châu Quảng Uyên, Thượng Lang và Hà Lang, cùng phong cho chức Thái Bảo.

Song mồi quyền quý, danh vọng của triều Lý ban không làm thỏa mãn hoài bão to tát của chàng tuổi trẻ họ Nùng, nên đến năm 1052, Trí Cao lại nổi lên hùng cứ, tự xưng là Hoàng Đế Đại Nam. Quan quân triều đình phái đi không dẹp nổi. Nùng Trí Cao nuôi chí lớn mở mang bờ cõi, muốn thực hiện mộng chiếm cứ các tỉnh lân cận của Trung Quốc. Để lôi cuốn binh sĩ theo mình, chàng đốt hết doanh trại, bảo là lương thực cháy sạch, muốn sống thì phải đi chiếm lấy tỉnh Quảng Tây. Nùng Trí Cao cầm đầu năm ngàn người xuôi theo sông Bằng Giang và Quảng Tây, lần lượt chiếm các châu Ung, châu Hoanh, thủ phủ của Nam Ninh ngày nay. Trên đường chiến đấu, đạo quân của Nùng Trí Cao được tăng cường lớn lao, quân số lên tới một trăm ngàn.

Người ta kể lại rằng Trí Cao có các tướng tá tinh thông pháp thuật và chiến lược, như một vị sư tăng có phép hóa rồng khạc lửa xuống bên địch, hai nữ tướng là Đoàn Hồng Ngọc, con gái của tướng Đoàn Hồng Y, và Hoàng Lan Anh, bạn của Hồng Ngọc, có tài phép phi thường. Hai nàng đều có nhan sắc rực rỡ, quyến rũ bao nhiêu tướng trẻ của đối phương phải say mê, đem mình đến nạp dưới chân. Cả hai lại có phép thần thông, gọi gió, kêu mưa, đổi sông, dời núi, vãi đậu thành binh.

Triều đình nhà Lý muốn liên minh với Nùng Trí Cao, gởi giúp một đạo quân to lớn do tướng Vũ Nhi cầm đầu, để phối hợp tiến đánh Trung Quốc, thế mạnh như vũ bão. Sau khi chiếm trọn tám châu Hoanh, Quí, Đang, Ngô, Khang, Đoàn, Cung và Tâm ở tỉnh Quảng Tây, liên quân Nùng-Việt sửa soạn tiến đánh luôn Quảng Đông. Các tướng Tàu là Du Tĩnh, Dương Điền và Tôn Hiến đều đại bại, Nùng Trí Cao gởi giấy đòi vua nhà Tống phong cho mình cai quản những châu đã chiếm được, bằng không thì sẽ cử quân tiến đánh Trung Quốc. Vua Tống đã toan nhượng bộ thì có tướng Địch Thanh đứng ra xin đi chinh phạt kẻ xâm lăng. Tống Địch Thanh được cử làm nguyên soái thống lãnh ba mươi vạn quân, gồm cả đại quân của các tướng Tôn Hiến và Du Tĩnh. Viên Tổng Đốc Quảng Tây mang tám ngàn quân nghênh chiến Nùng Trí Cao ở cửa ải Côn Lôn, bị đánh thua chạy về. Nguyên soái Tống Địch Thanh xuống lệnh chém đầu viên tướng bại trận để nêu gương cho quân sĩ.

Nùng Trí Cao vẫn áp dụng chiến thuận rồng phun lửa của vị sư tăng cùng tà thuật của hai nữ tướng để chống lại đại quân nhà Tống ở Côn Lôn. Thấy khó bề chiến thắng đối phương, nếu không có phép mầu đối phó lại, Tống Địch Thanh phải nhờ đến một người đàn bà Trung Hoa có tà thuật là Đà Long Nữ. Đà Long Nữ có một cặp gọng kềm lợi hại có phép hóa thành đông rồng lửa thiêu cháy đối phương.

Khi rồng của vị sư tăng phóng ra đối địch với cặp rồng lửa của quân Tống, thì khói lửa phun ra quày ngược trở lại đốt cháy cả quân Trí Cao. Thấy thế, Trí Cao liền cho hai nữ tướng hóa phép để dập tắt ngọn lửa đốt rồng bên mình. Đôi bên đánh nhau bất phân thắng bại.

Tống Địch Thanh bèn nghĩ ra diệu kế để phá phép thần thông của hai nữ tướng đối phương. Từ trước đến nay, hai nữ tướng đã dùng nhan sắc kiều mị của mình để chiến thắng các tướng tài trẻ tuổi, Địch Thanh mới áp dụng ngay chiến thuật chiếm tình cảm để chiến thắng, cho hai con là Địch Long và Địch Hổ cầm quân ra trận. Hai con vị nguyên súy nhà Tống diện mạo tuấn tú, trẻ đẹp, đem lời dịu ngọt ra tán tỉnh hai nữ tướng đối phương, ngỏ lời muốn hòa hiếu giữa đôi bên để kết duyên đôi lứa, và đề nghị chấm dứt ngay cuộc xung đột. Trong phút chốc, chiến trường biến thành nơi trao đổi tình ái. Thiên anh hùng ca rực rỡ của Nùng Trí Cao đành phải nghẹn lời từ đây.

Tống Địch Thanh thấy đối phương đã bị mắc mưu của mình, liền thừa cơ xua quân tiến đánh. Nùng Trí Cao đại bại, lui quân về đến Long Châu thì bị quân Tống đuổi theo vây bắt được. Thấy chủ tướng bị chém đầu ngay giữa trận tiền, cả quân sĩ vỡ tan mà chạy. Nùng Trí Cao hai tay ôm lấy đầu, cỡi con thần mã phóngn như bay về đến quê nhà là Sốc Giang để gặp mẹ già. Đến nơi, Trí Cao liền hỏi mẹ để hỏi: "Mé ơi, cây chuối bị chặt mất ngọn vẫn sống, người ta bị chặt đầu rồi có còn sống được không"? Bà mẹ là Hoàng A Nùng không nhìn con, đáp rằng: "Cây chuối bị chặt mất ngọn vẫn sống, nhưng người ta bị chặt mấy đầu rồi thì làm sao mà còn sống được"! Trí Cao quẳng đầu mình xuống dưới chân mẹ mà than: "Mé đã nói những lời làm chết con mất rồi"! Trí Cao quay lại bảo em là Nùng Trí Viễn, dặn chôn xác mình ở chân ngọn núi và trồng lau chung quanh mộ, rồi đốt hương luôn ngày đêm giữ cho đừng tắt, đợi cho đến khi lau mọc cao oằn cong tới đất, bấy giờ sẽ mở ngôi mộ ra, thì thấy một đạo quân với chủ tướng là Nùng Trí Cao sống lại, sẵn sàng gươm giáo, cung tên để tiến đánh quân nhà Tống mà chiếm lại đất nước.

Nùng Trí Viễn nóng lòng muốn thấy ngày giải phóng đến sớm, mới cố ý tự tay uốn cong những cây lau cho chóng cong oằn xuống đất. Khi đầu những ngọn lau chấm đến đất, Trí Viễn bèn họp những người trong gia đình lại, bảo là đã đến lúc cải táng, rồi làm lễ cúng để khai phần mộ lên. Người ta thấy dưới đáy huyệt có cả một đạo quân đang sửa soạn hàng ngũ, song giờ chưa đến, còn phải ba hôm nữa mới đúng kỳ hạn, binh sĩ này mới có thể vùng lên đi đánh được. Thế là dự định hồi sinh của Nùng Trí Cao thất bại.

Sau đó, dân trong vùng thường thấy Nùng Trí Cao hiện ra, cỡi con thần mã bay trên mây, bèn dựng một ngôi đền thờ ngày này hãy còn tại Sốc Giang, quê hương vị anh hùng xứ Thái. Dân hạt lân cận cũng thấy Trí Cao ứng hiện, nên cũng xây một đền thờ trên ngọn núi Kỳ Sâm, ở núi phía bắc tỉnh thành Cao Bằng. Hằng năm, đến ngày mồng mười tháng giêng, dân chúng ở quanh vùng lũ lượt trèo lên ngọn núi hai sừng Kỳ Sâm, mang lễ vật đến đền thờ họ Nùng. Người ta giết trâu, bò, heo, dê, cùng nhiều súc vật khác để cúng tế rất trọng thể. Dân chúng phải khó nhọc leo núi viếng đền, nên một hôm có người đại diện đứng ra khấn xin Nùng Trí Cao chỉ định cho một nơi khác để thờ phụng. Tức thì một trận gió lớn nổi lên bật tung mái tranh đền, thổi lên một gò cao gần làng Bản Ngôn. Người ta cho rằng đó là ý muốn của vị thần họ Nùng biểu hiện nên dân chúng họp nhau dựng lên một ngôi đền thờ mới ở giữa thắng cảnh này, đến ngày nay vẫn còn.

Đến đời Trần, thể theo nguyện vọng của dân chúng, triều đình phong cho Nùng Trí Cao chức Kỳ Sâm Đại Vương. Tượng chiến sĩ họ Nùng được dựng lên ở miền biên giới Việt-Hoa, quanh năm hương khói, tay cầm gươm tuốt trần, ngồi trên con thần mã, như sẵn sàng chống lại người phương bắc muốn dòm ngó phương nam.