PDA

View Full Version : Cổ tích, điển tích - phần II


LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 01:23
[center:d14978a626]Cổ tích, điển tích - phần II[/center:d14978a626]
Mục Lục

1. Đồng Tước Đài
2. Để Thiếp Theo Chồng Mấy Dặm Khơi
3. Khúc Đàn Thủy Tiên
4. Đằng Vương Các Tự
5. Cưỡi Rồng, Bói Phượng
6. Hằng Nga và Hậu Nghệ
7. Khế Ngọt Ðổi Vàng
8. Cô Ðào Giết Giặc
9. Chàng Lía
10. Vợ Thuợng Giới
11. Truyện Thạch Sanh
12. Thần Cuống
13. Sự Tích Trầu Cau
14. Tấm Cám
15. Thánh Mẫu Cao Tiên
16. Tiên Ðánh Cờ
17. Thuồng Luồng
18. Sự Tích Con Cóc
19. Sự Tích Thành Cổ Loa
20. Sự Tích Thần Núi Tản Viên

[center:d14978a626]Mời xem tiếp phần III[/center:d14978a626]

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 01:25
[center:660d41b815]Đồng Tước Đài [/center:660d41b815][center:660d41b815]Tác giả: Nguyễn Tử Quang[/center:660d41b815]
Tào Tháo đời Tam Quốc (220-264) có xây một cái đài bên sông Chương Hà (tỉnh Hà Nam), đặt tên là "Đồng Tước". Đài nầy cực kỳ tráng lệ, Tháo sai người trang hoàng tô điểm lộng lẫy, rồi tuyển gái đẹp khắp vùng đem chứa vào trong.
Tào Tháo có đứa con nhỏ tên là Tào Thực, tự Tử Kiến có tài hạ bút thành văn. Khi xây xong đài Đồng Tước, Tháo sai con làm bài phú "Đồng Tước Đài" để ca tụng công nghiệp của Tháo. Bài phú rất đặc sắc:

"Noi đức sáng thánh quân rực rỡ,
Lên lầu đài hớn hở lòng xuân.
Xem công Thái thú chăn dân,
Đức cao vời đã thấm nhuần nơi nơi.
Dựng lên giữa lừng trời xanh ngắt,
Đài nguy nga bát ngát không trung.
Mỹ quan nào kém non Bồng,
Gác cao, tây vực nhìn thông nẻo đoàn.
Dòng Chương Thủy chảy dài trong suốt,
Tưới nhuần vườn cây tốt quả tươi...
Hai bên tả hữu hai đài:
Ngọc Long, Kim Phượng sáng ngời ánh dương.
Bắc hai cầu tây đống nối lại
Như cầu vồng sáng chói không gian.
Đế đô mây ráng xoay vần nổi trôi...
Mừng rỡ thấy anh tài qui tụ,
Ứng mộng hùng chuyện cũ Văn Vương.
Gió Xuân đầm ấm đưa hương,
Muôn chim đua hót du dương hòa hài.
Cao đẹp tựa trời mây muôn thuở,
Phúc nhà may chất chứa dài lâu.
Khắp cùng vũ trụ nhiệm mầu,
Đề cao nhàn hóa, kính chầu thượng kinh.
Noi Tề, Tấn nghĩ mình hưng thịnh,
Phò thánh minh cùng sánh công lao.
Xinh tươi bền vững biết bao!
Ơn sâu nước ngấm, đức cao xa đồn.
Phò tá đấng Chí Tôn gìn giữ
Xây thái bình thịnh trị bốn phương.
Phép trời khuôn đất đo lường.
Ánh trăng cùng với ánh dương điều hòa.
Tôn quỳ ấy truyền xa mãi mãi,
Thọ vô cùng, thọ với chúa Xuân!
Ngự long kỳ buổi an nhàn,
Hoặc khi vội vã, xe loan trở về.
Ơn giáo hóa tràn trề bốn biển
Vui mừng thay vật kiện dân khang!
Đài nầy đứng mãi hiên ngang,
Điểm tô kim cổ, son vàng thắm tươi."

Nguyên Văn:

Tòng minh hậu dĩ hì du hề,
Đăng tầng đài dĩ ngu tình.
Kiến Thái thú chi quảng khi hề.
Quan thánh đức chi tha nga hề,
Phù song Khuyết hồ Thái thanh.
Lập trung thiên chi hoa quan hề,
Liên phi các hồ Tây vực.
Lâm Chương Thủy chi trường lưu hề,
Vọng niên quả chi tư vinh.
Lập song đài ư tả hữu hề,
Hữu Ngọc Long dữ Kim Phượng.
Liên nhị kiều vu đông tây hề,
Nhược trường không chi đế đống.
Phủ hoàng đô chi hoành lệ hề,
Khám vân hà chi phù động.
Hân quần tài chi lai tụy hề.
Hiệp phi hùng chi cát mộng.
Ngưỡng xuân phong chi hòa mục hề.
Thính bách điểu chi bi minh.
Vân thiên tuyên kỳ ký lập hề,
Gia nguyện đắc hồ song sinh.
Dương nhân hóa vu vũ trụ hề,
Tận túc cung vu thượng kinh.
Duy hoàn, văn chi duy thịnh hề,
Khởi túc phương hồ thánh minh.
Hưu hỷ! Mỹ hỷ!
Huệ trạch viễn dương.
Dực tá ngã hoàng gia hề.
Ninh bỉ tứ phương.
Đồng thiên địa chi qui lượng hề.
Tề nhật nguyệt chi huy quan.
Vĩnh quý tôn nhi vô cực hề,
Đẳng quân thọ ư đông hoàng.
Ngự long kỳ dĩ ngao du hề,
Đẳng quân thọ ư đông hoàng.
Ngự long kỳ dĩ ngao du hề,
Gia vật phụ nhi dân khang.
Nguyện tư đài chi vĩnh cố hề,
Lạc chung cổ nhi vị ương!"

Bài phú "Đồng Tước Đài" được truyền tụng. Tào Thực đáng là đệ nhất thi nhân trong hai đời Tần, Hán và đã mở đường cho lối thơ diễm lệ đời Lục Triều.
Trong một dịp du thuyền trên sông Trường Giang, rượu ngà say. Tháo cao hứng nói:
- Ta năm nay đã 54 tuổi. Nếu chiếm xong Giang Nam, ta cũng có chút vui mừng riêng. Số là trước kia ta có quen thân cụ Kiều công, được biết cụ có 2 cô con gái đều là trang quốc sắc thiên hương. Không ngờ về sau Tôn Sách và Chu Du cưới mất. Nay ta đã xây đài Đồng Tước trên sông Chương, nếu hạ được Giang Nam, ta sẽ đem hai nàng họ Kiều về đấy ở, để vui thú năm tháng về già. Thế là ta mãn nguyện!

Để khích Chu Du là đô đốc Đông Ngô đánh Tào Tháo, Khổng Minh sửa đổi câu thứ 7 của bài phú "Đồng Tước Đài" của Tào Thực. Nguyên Văn là:

"Liên nhị kiều vu đông tây hề,
Nhược trường không chi đế đống."

Nghĩa là:

"Bắc hai cầu tây đông nối lại,
Như cầu vồng sáng chói không gian"...

Đó là nói: hai bên đài Đồng Tước còn có hai đài phụ là Ngọc Long, Kim Phượng, và có hai cái cầu bắc nối vào đài giữa như hai cầu vồng trên lưng trời. Tào Thực dùng hai chữ "đế đống" (hay "chuế đống") là có ý so sánh đài Đồng Tước với cung A phòng nhà Tần. Trong bài "A phòng cung phú" của Đỗ Mục đời nhà Đường, có câu: "Trường kiều ngọa ba, vị vân hà long? Phức đạo hành không: bất lễ hà hồng?" (Cầu dài vắt ngang sông: chưa có mây sao có rồng? Hai đường bắc trên không: không phải mưa tạnh, sao có cầu vồng?)
Nhưng Khổng Minh lại đổi ra:

"Lãm nhị Kiều ư đông nam hề,
Lạc triêu tịch chi dữ cng".

Nghĩa là:

"Tìm hai Kiều Nam phương về sống,
Vui cùng nhau giấc mộng hồi xuân..."
Khổng Minh đem chữ "Kiều" (cầu) đổi ra chữ "Kiều" (nàng họ Kiều), đổi chữ "Tây" ra chữ "Nam", đổi chữ "liên" ra chữ "lãm"; còn câu sau thì đổi hoàn toàn khác hẳn, để cố ý trỏ vào hai nàng Kiều.
Đem chữ "kiều" đổi ra chữ "Kiều", Khổng Minh chủ ý lừa và chọc tức Chu Du.
Sau, Đông Ngô liên minh cùng Tây Thục, nhờ Khổng Minh cầu đông phong, nên Chu Du dùng hỏa công đốt phá binh Tào tại trận Xích Bích. Tháo thua to, mộng chiếm đất Giang Nam để đoạt lấy hai nàng Kiều xinh đẹp hoàn toàn tan vỡ.
Thi Sĩ Đỗ Mục cũng có bài "Xích Bích hoài cổ" rằng:

"Kích gãy, cát chìm, sắt chửa tiêu,
Rửa mài, nhận thấy dấu tiền triều.
Gió đông chẳng giúp chàng Chu thắng,
Đồng Tước đài xuân nhốt hai Kiều".
Nguyên Văn:

"Chiết kích trầm sa, thiết vị tiêu
Tự tương ma tẩy nhận tiền triều.
Đông phong bất dữ Chu lang tiện,
Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều".

Trong "Đoạn trường tân thanh" của Nguyễn Du có câu:
"Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều" là do điển tích đó.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 01:26
[center:a0785107e1]Để Thiếp Theo Chồng Mấy Dặm Khơi [/center:a0785107e1][center:a0785107e1]Tác giả: Nguyễn Tử Quang[/center:a0785107e1]
Nàng tên là Mỵ Ê, người Chiêm Thành, không biết họ gì, vốn là vương phi của vua Chiêm Xạ Đẩu.
Triều Vua Lý Thái Tông (1028-1054) nước Đại Việt, Xạ Đẩu không theo lệ cống, thất lễ phiên thần, vua tự đem binh Nam chinh.
Xạ Đẩu bày trận ở sông Bồ Chính nhưng bị quân nhà Lý đánh bại. Xạ Đẩu chết tại trận (sử chép: Xạ Đẩu bị tướng là Quách Gia Gi phản, chém lấy thủ cấp sang hàng nhà Lý. Câu chuyện nầy chép theo "Thiên Nam ngữ lục"). Vua nhà Lý tiến binh vào thành Phật Thệ là quốc đô của Chiêm Thành, bắt được vương phi Mỵ Ê cùng một số cung nhân nhạc nữ, đem về nước.
Khi thuyền đến sông Lý Nhân, giữa đêm vua nghe Mỵ Ê có sắc đẹp, bèn sai quan Trung sứ đưa đến chầu thuyền ngự. Mỵ Ê không giấu nỗi phẫn uất, từ chối rằng:
- Vợ phường man rợ quê mùa, y phục xấu xí, ngôn ngữ thô lỗ, không giống các phi tần Trung Hoa. Nay nước tan, chồng mất, chỉ mong một chết là thỏa lòng; nếu cưỡng bách hợp hoan, ngại nỗi dơ mình rồng vậy.
Đoạn nàng lén lấy chăn lông chiên quấn kín lấy thân mình định phó tính mạng cho dòng nước chảy. Thế là, đánh ầm một tiếng, mất tăm hình bóng người xinh.
Nhà vua kinh hoảng tự hối, muốn cứu nhưng không sao kịp nữa.
Tương truyền từ đó, nơi nầy, mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, người ta thường nghe văng vẳng có tiếng phụ nữ khóc kể bi ai. Dân trong vùng cho việc linh dị, xin lập đền thờ, bấy giờ mới dứt tiếng khóc.
Một hôm có dịp, vua Lý Thái Tông đến sông Lý Nhân. Thuyền thả giữa dòng, đến đấy, nhà vua thấy trên bờ có ngôi đền thờ, lấy làm lạ hỏi. Hầu thần đem chuyện Mỵ Ê kể lại. Vua lặng yên hồi lâu, phán rằng:
- Không ngờ gái rợ lại có kẻ u trinh đến thế, quả là một gái phi thường. Thế nào cũng có sự báo thù.
Đêm ấy đã canh ba, chợt nghe một trận gió thơm thổi đến, khí lạnh tê người. Nhà vua thấy một người đàn bà dáng cách yểu điệu, dung nhan đẹp đẽ, uy nghi bước đến, cúi lạy và khóc rằng:
- Thiếp nghe đạo của kẻ phụ nhân là tòng nhất nhi chung. Quốc Vương trước của thiếp tuy chẳng dám so sánh cùng bệ hạ nhưng cũng là bực nam tử kỳ tài riêng cõi. Thiếp từng được lạm dự phần khăn lược, chẳng may gặp phải cảnh nước tan chồng mất, thiếp đêm ngày sầu thương, rầu rĩ, chỉ lo báo bổ. Nhưng quần thoa yếu ớt chẳng biết tính sao. May nhờ hồng ân của bệ hạ sai Trung sứ tiễn thiếp xuống tuyền đài hội ngộ cùng chồng. Sở nguyện của thiếp thỏa rồi, thế còn có linh gì mà dám đến đây đường đột.
Nói xong, không thấy đâu nữa.
Vua kinh hãi tỉnh giấc, mới hay là chiêm bao. Đoạn truyền đem lễ vật đến miếu cúng tạ, sắc phong làm Hiệp Chính Nương. Từ đó về sau, dân chúng xa gần cầu đảo đều thấy linh ứng.
Cảm nỗi chua xót của nàng Mỵ Ê phải tuẫn tiết trong cảnh nước mất nhà tan, thi sĩ Tản Đà có làm bài thơ từ khúc để tả nỗi long của người vương phi bạc mạng:

"Châu giang một giải sông dài,
Thuyền ai than thở, một người cung phi!
Đồ Bàn thành phá hủy,
Ngọa Phật tháp thiên di.
Thành tan, tháp đổ
Chàng tử biệt,
Thiếp sinh ly.
Sinh ký đau lòng kẻ tử quy!
Sóng bạc ngàn trùng
Âm dương cách trở
Chiên hồng một tấm,
Phu thê xướng tùy.

Ơi mây! Ơi nước! Ơi trời!
Đũa ngọc, mâm vàng, giọt lụy rơi.
Nước sông trong đục,
Lệ thiếp đầy vơi
Bể bể, dâu dâu, khóc nỗi đời!
Trời ơi! nước hỡi! mây hời!
Nước chảy, mây bay, trời ở lại,
Để thiếp theo chồng mấy dặm khơi!..."

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 01:27
[center:963c3d1061]Khúc Đàn Thủy Tiên[/center:963c3d1061][center:963c3d1061]Tác giả: Nguyễn Tử Quang[/center:963c3d1061]
Đất Kim Lăng bên Trung Quốc là nơi phồn hoa đô hi, thường dùng làm kinh đô cho các triều đại lâu đời. Ở đây có nhiều nơi danh thắng, khiến cho mặc khách tao nhân không ai là không muốn lưu liên thưởng ngoạn. Nhất là trên sông Tần Hoài, bên hồ Mặc Sầu, vào khoảng mùa xuân mát mẻ, những cành cây xanh, nước biếc, núi lam cũng đủ cung ngoạn cho các mặt tài tử giai nhân.
Có một chàng tên Giang Thu San, quê ở An Huy, vốn người phong nhã, tính ưa ngao du sơn thủy. Gặp buổi ngày xuân, chàng liền rủ bạn sang Kim Lăng thưởng xuân. Đến nơi nghe đồn trong vùng có một trang tuyệt thế giai nhân tên Thủy Tiên Tử, nổi tiếng danh cầm, gần xa ai cũng bái phục. Động lòng hâm mộ, họ Giang cùng bạn cố tình tìm hỏi cho được đến nơi.
Buổi đầu gặp gỡ, để xin nghe tiếng đàn, Thu San hết sức van nài, mới được nàng chấp thuận. Đoạn, nàng ung dung vặn trục dạo phiếm cho nghe.

Thoạt khi tay tiên đặt lên tơ đồng, chỉ nghe khoan khoan nhè nhẹ, vẳng xa như có như không. Dần dần thì thấy vẻ người trầm lặng, hai tay thoăn thoắt nhanh nhanh. Rồi tiếng đàn chuyển sang giọng dồn dập sôi nổi như sóng gào gió thét, như chen với tiếng muôn quân nghìn ngựa xình xịch đổ tới. Kế đó, lại nổi giọng nỉ non réo rắt như oán, như than, khiến người ngồi nghe phải mê mẩn tâm thần như phiêu diêu chốn non Bồng, nước Nhược.
Thật là:

"Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời.
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa".

Một lúc, đàn im. Thu San từ từ định tỉnh và hỏi khúc đàn gì? Thủy Tiên Tử đáp:
- Đây là khúc "Thủy Tiên", tiện thiếp phỏng theo khúc "Thủy Tiên Tháo" của tay danh cầm ngày xưa là Bá Nha mà sáng tạo nên.
Thu San hỏi nguồn gốc, nàng ung dung kể lại rằng:
"Ngày xưa, Bá Nha học đàn của ông Thành Liên. Được 3 năm thì đã hay nhưng chưa nhập điệu. Thành Liên bảo:
"-Thầy ta là Tử Xuân ở ngoài biển cả, có thể dùng đàn làm thay đổi lòng người. Vậy ta cho ngươi ra đó để học thêm.
"Đoạn dẫn Bá Nha xuống thuyền ra một hòn đảo giữa biển khơi, bảo Bá Nha ở đợi, ông sẽ đón thầy đến. Rồi dong thuyền đi thẳng, không thấy trở lại. Bá Nha một mình ở giữa đảo, chỉ thấy núi rừng mờ mịt, tiếng nước biển vỗ dồn dập, réo rắt chung quanh, chim chóc kêu rên bi thiết. Bá Nha cảm thấy buồn lạnh cả người, bấc giác thở dài than: "Thầy ta muốn làm thay đổi tính tình ta đây..."
"Đoạn cầm đàn trổi lên một khúc. Vừa dứt khúc, đã thấy Thành Liên quày thuyền trở lại đón. Từ đấy, Bá Nha nổi tiếng là bậc danh cầm; và khúc đàn ấy đặt tên là "Thủy Tiên Thảo". Tiện thiếp rất say mê khúc đàn đó nên mới mượn để đặt làm tên".
Thu San nghe xong, rất thán phục. Đoạn thở dài, nói với nàng:
- Trong "Tỳ Bà Hành" của Bạch Cư Dị có câu:

"Đại huyền tao tao như cấp vũ,
Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ.
Tao tao thiết thiết thác tạp đàn,
Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn"...

Tạm Dịch:

"Dây to nhường đổ mưa gào,
Tỉ tê dây nhỏ như chiều chuyện riêng.
Tiếng cao thấp lựa chen lần gảy,
Mâm ngọc đâu lần nẩy hạt châu."

Xưa nay, tôi vẫn cho lời thơ ấy diễn tả quá đáng. Nhưng hôm nay, có diễm phúc nghe được điệu đàn của quý nương mới nhận thấy lời của cổ nhân thật bức thiết chân tình.
Thủy Tiên Tử khiêm tốn từ tạ, đoạn sai thị nữ pha trà thủy tiên ra thết khách.
Bọn Thu San nâng chén nước uống, nghe thoang thoảng mùi thơm thanh nhã, khác hẳn trà quý thường dùng hằng ngày. Bất giác, ai cũng cãm thấy khoan khoái tinh thần như hiện thân nơi tiên cảnh.
Từ tạ ra về nhưng lòng khách vẫn quyến luyến, nao nao tưởng nhớ. Nơi quê hương, không lúc nào không nhắc nhở đến Thủy Tiên.
Mùa xuân năm sau, Thu San chạnh lòng nhớ người năm cũ, lần mò đến Kim Lăng, mong lại được nghe tiếng đàn tuyệt diệu của người ngọc. Nhưng đến nơi thì khách giai nhân ngày xưa vắng bặt, chỉ thấy cây xanh nước biếc một mầu.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 01:28
[center:87537aca86]Đằng Vương Các Tự [/center:87537aca86][center:87537aca86]Tác giả: Nguyễn Tử Quang[/center:87537aca86]
Vương Bột tự Tử An, người đất Long Môn. Sáu tuổi đã biết làm văn. Mười sáu, mười bảy tuổi nổi danh hạ bút nên vần.
Vương có thói quen, mỗi khi làm văn, mài mực sửa soạn nghiên bút rồi nằm đắp chăn ngủ. Khi tỉnh dậy, cầm ngay bút viết. Vương nổi tiếng là một thi sĩ cao danh đời Sơ Đường (618-713).
Con của vua Cao Tông nhà Đường bấy giờ làm Thái Sử ở Hồng Châu, được phong là Đằng Vương, có dựng một cái gác bên sông Tầm Dương gọi là "Đằng Vương Các". Lúc Diêm Bá Dư ra giữ chức Đô Đốc Hàng Châu, đặt tiệc tại gác Đằng Vương để thiết tân khách. Muốn khoe tài chàng rể, bảo làm trước một bài tự, rồi mời tất cả các nhà quyền quý, các mặc khách tao nhân xa gần đến dự; và yêu cầu mỗi người làm cho một bài tự ngay giữa tiệc.
Vương Bột lúc bấy giờ, tuổi vừa 15, 16. Hay tin ấy, nhưng vì đường xá xa xôi có mấy trăm dặm, không đến hợp được, lấy làm tiếc. Một ông già khuyên chàng cứ sửa soạn thuyền buồm, tự nhiên sẽ có gió thổi. Quả nhiên đêm đó có gió lớn. Vương cho thuyền khởi hành, và hôm sau tới Đằng Vương Các vừa kịp lúc vào tiệc. (chú - có điển chép: Vương Bột đi thăm cha làm Thứ Sử ở Giao Châu, nửa đường bị một trận gió thổi lạc đến Đằng Vương Các và được mời dự tiệc làm thơ)
Thấy Vương Bột, viên đô đốc họ Diêm khinh là con nít, miễn cưỡng cấp giấy bút. Nhưng cho người đứng bên cạnh Vương, hễ Vương viết được câu nào thì chép lại cho ông xem.
Mới đọc hàng đầu, họ Diêm đã ngạc nhiên vì lời già giặn. Đến câu:

"Lạc hà dữ cô vụ tề phi,
Thu thủy cng tràng thiên nhất sắc"
Nghĩa:

"Ráng chiều với cò lẻ cùng bay,
Nước thu cùng trời dài mt sắc."

thì ông vô cùng khâm phục.
Bài của họ Vương đặc sắc hơn tất cả. Từ đó, danh càng vang dậy khắp nơi.
Bài phú "Đằng Vương Các" viết theo thể biền ngẫu, dùng nhiều chữ cầu kỳ, nhiều điển khó hiểu nhưng lời thì cực đẹp nên rất khó dịch. Trong bài, Vương Bột nhắc qua địa lý và nhân vật ở quận, nơi xây gác Đằng Vương, rồi tả chủ khách trong tiệc, phong cảnh chung quanh khi ngồi trong gác trông ra, sau cùng kể cảm tưởng của chính mình.
Cuối bài thơ có 8 câu thơ tuyệt diệu, nhất là 4 câu cuối:

"...........................
"Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,
Vật hoán tinh di, không đ thu?
Các trung đế tử kim hà tại?
Hạm ngoại trường giang không tự lưu."

Nghĩa:

"...........................
"Đầm chiếu mây bay, trời lửng lơ,
Sao dời vật đổi, mấy thu rồi.
Con vua trong gác nào đâu nhỉ?
Dòng nước ngoài hiên vẫn tự trôi."

Nhưng người có tài như thế mà mạng yểu. Nhân khi đi thăm cha làm quan ở Giao Chỉ, Vương bị đắm thuyền, chết ở giữa biển giữa 29 xuân xanh.
Tương truyền rằng hai câu thơ:

"Lạc hà dữ cô vụ tề phi
Thu thủy cộng tràng thiên nhất sắc"

tuyệt diệu như thế mà có người cho Vương Bột còn dốt, nhưng không chỉ dốt chỗ nào. Vì thế khi chết, hồn còn uất ức nên trong đêm khuya thanh vắng thường hiện hình trên bãi bể, níu áo những văn nhân sĩ tử qua đường, miệng ngâm nga 2 câu thơ trên và hỏi dốt chỗ nào, xin chỉ giúp. Nhưng ai nấy đều khen hay. Hồn Vương không bằng lòng, cho rằng sĩ tử kia còn dốt, thi khoa nầy không thể đậu. Quả thật như vậy.
Rồi cũng từ đó, giọng ngâm 2 câu thơ kia vẫn còn văng vẳng bi ai theo hình bóng họ Vương thơ than, dật dờ trên bãi biển.
Nhưng một hôm có một văn nhân đi ngang qua đấy, hồn Vương hiện hình níu lại hỏi, thì chàng văn nhân ấy cười bảo:
- Hai câu thơ ấy không phải sai nhưng nhà ngươi còn dốt thật. Đã bao năm có tiếng là tứ kiệt Sơ Đường mà không nhận biết được cái dốt của mình trong 2 câu thơ ấy ư?
Nói xong dứt áo ra đi. Vương tha thiết yêu cầu giải thích. Khách không nỡ phụ lòng nên bảo:
- Hai câu thừa chữ "dữ" và chữ "cộng". Nếu bỏ hai chữ ấy thì thật tuyệt, vừa gọn vừa thanh thoát, lại nhất khí:

"Lạc hà cô vụ tề phi,
Thu thủy tràng thiên nhất sắc".

Vương Bột nhận ra, quả còn dốt thật, mới bái tạ lãnh lời chỉ giáo.
Từ đó, trong đêm khuya thanh vắng, trên bãi biển không còn hình bóng của nhà thơ tài danh trẻ tuổi hiện ra nữa. Và giọng ngâm 2 câu thơ bất hủ bi ai, não nùng kia cũng chìm mất trong không gian cao rộng, mịt mờ. Đây là một câu chuyện hoang đường.
Do câu chuyện gió đưa thuyền Vương Bột đến Đằng Vương Các làm cho Vương nổi tiếng tài danh, nên cổ thi có câu: "Thời lai, phong tống Đằng Vương Các" (thời tới thì gió đưa đến gác Đằng Vương) để chỉ sự may mắn của kẻ gặp thời. Những từ ngữ: "duyên Đằng", "gió đưa Đằng Các" đều có ý nghĩa như thế.
Trong "Đoạn trường tân thanh" của Nguyễn Du có câu:

"Duyên Đằng thuận nẻo giáo đưa" là do điển tích trên.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 01:29
[center:57503a6647]Cưỡi Rồng, Bói Phượng[/center:57503a6647][center:57503a6647]Tác giả: Nguyễn Tử Quang[/center:57503a6647]
Đời Chu Tương Vương (651-617 trước D.L.), Tần Mục Công làm bá chủ các nước ở tây phương. Nhà vua có một người con gái. Lúc mới sinh, gặp kẻ dâng viên ngọc phác (viên ngọc còn ở trong hòn đá), Tần Mục Công sai thợ giũa, thành một viên ngọc sắc biếc và đẹp lắm.
Đến khi cô gái đầy tuổi thôi nôi, trong cung bày đồ toái bàn (tức là bày đủ các thứ vật như bút, mực, kim, chỉ, v.v...để thử xem đứa bé ấy lấy cái gì, mà đoán hậu vận của nó), nàng nhặt ngay viên ngọc, rồi ngắm nghía mãi, mới đặt tên nàng là Lộng Ngọc.
Lớn lên, Lộng Ngọc nhan sắc đẹp tuyệt trần. Tính trời thông minh, nàng có tài thổi sinh hay lắm, không học ai mà thành âm điệu. Tần Mục Công sai thợ khéo làm ống sinh bằng ngọc để cho nàng thổi. Nàng thổi ống sinh ấy, tiếng trong như tiếng Phượng.
Tần Mục Công cưng lắm, lập cái lầu để cho nàng ở, tên là Phượng lâu. Trước lầu có xây một đài gọi là Phượng đài. Năm Lộng Ngọc lên 15, Tần Mục Công muốn tìm một người giai tế, Lộng Ngọc thề: nếu người nào có tài thổi ống sinh họa được với nàng thì mới chịu nhận làm chồng.
Tần Mục Công sai sứ đi tìm, nhưng không có ai cả.
Một hôm, Lộng Ngọc ngồi trên lầu, vén rèm ngắm cảnh. Bấy giờ trời quang mây tạnh, vừng trăng sáng tỏ như gương, nàng truyền cho thị nữ đốt một lò hương rồi đem ống sinh ra thổi. Bỗng nghe tiếng tiêu từ đâu họa lại, lúc gần lúc xa. Lộng Ngọc lấy làm lạ, dừng ống sinh lại không thổi nữa, lắng tai nghe giọng tiêu ấy chỉ còn dư âm văng vẳng. Lộng Ngọc ngẩn ngơ, lưỡng lự thao thức canh chầy, đoạn đặt ống sinh ở đầu giường rồi đi nghỉ.
Giữa lúc ấy, nàng bỗng thấy trên trời về phía tây nam, cửa mở rộng, hào quang ngũ sắc rực rỡ như ban ngày, có một chàng thiếu niên, mũ lông áo hạc, cưỡi con chim phượng từ trên trời sa xuống, đứng trước Phượng đài. Chàng bảo nàng:
- Ta đây là chủ núi Họa Sơn, Ngọc Hoàng Thượng Đế cho ta kết duyên với nàng. Đến ngày Trung Thu nầy thì đôi ta gặp nhau. Ấy là duyên số đã định sẵn như vậy.
Nói xong, chàng đưa tay rút ống ngọc tiêu bên mình, rồi đứng tựa lan can mà thổi. Con chim phượng đứng bên cũng giương cánh ra vừa hót vừa múa. Tiếng phượng hót cùng với tiếng ngọc tiêu xướng họa hòa nhau như một theo điệu cung thương (2 âm đầu đứng trong ngũ âm: cung, thương, giốc, trủy, vũ. Cung là tiếng to, nặng, rất thấp, rất đục. Thương là tiếng hơi đục, hơi thấp, mau, lẹ. Giốc là tiếng lơ lửng, không cao, thấp, không trong, đục. Trủy là tiếng hơi cao, hơi trong. Vũ là tiếng rất cao, rất trong), nghe rất thâm trầm. Lộng Ngọc mê mẩn tâm thần hỏi: khúc tiêu này là khúc tiêu gì? Chàng thiếu niên đáp: đây là khúc "Họa Sơn Ngâm". Nàng lại hỏi: khúc này có học được không? Chàng đáp: khi đôi ta kết duyên rồi thì có gì không học được. Đoạn chàng bước đến gần đưa tay cầm lấy tay nàng.....
Lộng Ngọc giật mình tỉnh dậy. Sáng lại, nàng thuật lại điềm chiêm bao cho cha nghe. Tần Mục Công liền sai người cứ theo hình dáng người trong mộng mà dò tìm đến núi Họa Sơn. Có người nông phu chỉ rằng: từ rằm tháng bảy vừa qua, có một chàng trai trẻ tuổi lạ mặt đến làm nhà ở đỉnh núi, hằng ngày thường xuống chợ mua rượu uống, chiều lại thổi chơi khúc ngọc tiêu, ai nghe cũng rất lấy làm thích.
Người của Tần Mục Công mừng rỡ tìm đến, trông thấy chàng thiếu niên mũ lông áo hạc, cốt cách thần tiên, vái chào hỏi họ tên. Chàng xưng là Tiêu Sử. Người của nhà vua thuật lại sự tình và yêu cầu Tiêu Sử về triều. Sau mấy lần từ chối không được, Tiêu Sử cùng theo về triều ra mắt Tần Mục Công. Tần Mục Công thấy Tiêu Sử dung mạo thanh nhã, có vẻ bằng lòng, cho ngồi bên cạnh hỏi:
- Ta nghe nhà ngươi có tài thổi ống tiêu tất có tài thổi ống sinh nữa.
Tiêu Sử đáp:
- Tôi chỉ biết thổi ống tiêu, chứ không biết thổi ống sinh.
Vua bảo:
- Ta định tìm một người có tài thổi ống sinh, nay nhà ngươi chỉ biết thổi ống tiêu, vậy không thể làm rể ta được.
Đoạn bảo người đưa Tiêu Sử ra.
Lộng Ngọc sai nội thị tâu với với Tần Mục Công: tiêu với sinh cũng là một loại, người ta có tài thổi ống tiêu thì sao không bảo dạo chơi một khúc để cho người ta được phô tài.
Tần Mục Công lấy làm phải, truyền Tiêu Sử thổi nghe.
Tiêu Sử mới thổi qua một khúc thì thấy có gió mát hây hẩy. Đến khúc thứ nhì thì mây che bốn mặt. Đến khúc thứ ba thì có đôi bạch hạc múa lượn trên không, đồng thời có đôi khổng tước bay đến rồi các giống chim đua nhau kêu hót.....mãi một lúc mới tan. Tần Mục Công rất lấy làm bằng lòng. Lộng Ngọc đứng bên rèm trông thấy vui tươi nói: "người ấy thật đáng làm chồng ta!"
Tần Mục Công lại hỏi Tiêu Sử:
- Nhà ngươi có biết ống sinh và ống tiêu có từ đời nào không?
Tiêu Sử thưa:
- Ống sinh làm ra từ đời Nữ Oa; ống tiêu làm ra từ đời Phục Hi.
Tần Mục Công bảo kể rõ nguyên ủy. Tiêu Sử nói:
- Nghề tôi vốn ở ống tiêu, vậy tôi xin kể nguồn gốc ống tiêu. Ngày xưa vua Phục Hi ghép ống trúc làm ống tiêu, chế theo hình chim phượng. Tiếng thổi cũng giống tiếng chim phượng. Thứ lớn ghép liền 23 ống, dài 1 thước 4 tấc (1 thước tàu = 0m33) gọi là Nhã tiêu; thứ nhỏ ghép liền 16 ống, dài 2 thước 1 tấc gọi là Tụng tiêu. Cả hai thứ gọi chung là Tiêu quản. Còn một thứ không dây gọi là Đổng tiêu. Về sau, vua Huỳnh đế sai Linh Luân lấy trúc ở Côn Khê, chế thành ống Địch, ống nầy có 7 lỗ, cầm ngang mà thổi, tiếng cũng giống chim phượng, trông rất giản tiện. Người đời sau thấy ống Tiêu quản phiền phức quá nên chỉ dùng ống địch. Thứ dài gọi là tiêu, thứ ngắn gọi là địch. Bởi vậy, ống tiêu ngày nay không giống ống tiêu ngày xưa.
Tần Mục Công lại hỏi:
- Sao nhà ngươi thổi ống tiêu mà lại có các giống chim bay đến?
Tiêu Sử thưa:
- Ống tiêu dẫu mỗi đời mỗi khác nhưng tiếng thổi bao giờ cũng giống tiếng chim phượng. Chim phượng là chúa các giống chim, vậy khi nghe tiếng chim phượng tất nhiên các giống chim đều kéo nhau đến cả. Ngày xưa vua Thuấn chế ra khúc nhạc tiêu thiều mà chim phượng còn bay đến, huống chi là các giống chim khác.

Tiêu Sử ứng đối lưu loát. Tần Mục Công rất lấy làm bằng lòng, sai quan Thái Sử chọn ngày lành để làm lễ thành hôn.

Tiêu Sử kết duyên cùng Lộng Ngọc, được phong làm Trung đại phu. Tuy làm quan nhưng Tiêu Sử không dự gì đến triều chính, ngày ngày vui chơi ở Phượng Lâu. Lại không ăn cơm, chỉ thỉnh thoảng uống mấy chén rượu. Lộng Ngọc học được phép tiên của chồng cũng không ăn cơm. Tiêu Sử lại dạy vợ thổi tiêu.

Ở với nhau được non nửa năm, nhân một đêm trăng sáng vằng vặc, vợ chồng đem tiêu ra thổi. Bỗng thấy một con phượng xuống đậu bên tả, và một con rồng xuống phủ phục bên hữu. Tiêu Sử bảo Lộng Ngọc:
- Ta vốn là tiên ở thượng giới, Ngọc Hoàng Thượng Đế thấy sử sách ở trần gian nhiều chỗ tán loan, vậy nên giáng sinh ta xuống họ Tiêu ở nhà Chu để sau định lại. Người nhà Chu thấy ta có công về việc sử sách mới gọi ta là Tiêu Sử, đến nay đã hơn trăm năm rồi. Ngọc Hoàng cho ta làm chủ núi Họa Sơn, vì ta cùng nàng có tiền duyên với nhau, nhờ khúc ngọc tiêu mà được cùng nhau tác hợp, nhưng cũng không nên ở mãi chốn trần gian này. Nay rồng và phượng đã đến đón, vậy chúng ta cùng nhau đi.
Lộng Ngọc định vào từ biệt cha. Tiêu Sử ngăn:
- Không nên! Đã là thần tiên thì chớ nên vì chút tình riêng mà quyến luyến.
Đoạn Tiêu Sử cưỡi rồng, Lộng Ngọc cưỡi phượng cùng bay lên trời.

Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, lúc Từ Hải cùng Kiều gặp gỡ, có câu:

"Trai anh hung, gái thuyền quyên,
Phỉ nguyền bói phượng, đẹp duyên cưỡi rồng"

"Đẹp duyên cưỡi rồng" là do điển tích trên.
"Bói phượng" có nghĩa là kén được chồng tốt.

Sách Tả truyện có chép: Trần Trọng Kính sang nước Tề (một nước chư hầu lớn thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông ngày nay), được vua nước này cho coi việc công chính. Quan Đại Phu nước Tề có ý muốn gả con gái cho Trọng Kính. Người vợ liền bói một quẻ, bảo rất nên. Vì quẻ bói nói:
"Phượng hoàng vu phi, hòa minh tương tương" nghĩa là phượng hoàng cùng bay, cùng hót vang vang.
Phượng là tên một giống chim. Theo sách cổ, đó là một trong 4 con thú linh thiêng: Long, Lân, Qui, Phượng, đem lại điều lành, và chỉ khi nào có đời thái bình hay thánh nhân ra đời thì mới xuất hiện.
Phượng là chúa loài chim. Con trống gọi là phượng; con mái gọi là hoàng. Loan là một giống chim cùng loại với phượng hoàng. Vì là đồng loại nên người ta hay dùng để ví với vợ chồng. Ca dao có câu:
"Ước gì anh được vô phòng,
Loan ôm lấy phượng, phượng bồng lấy loan".

"Bói phượng", "Cưỡi rồng" đều cũng có nghĩa là kén được chồng xứng đáng.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 01:30
[center:a4447e42bd]Hằng Nga và Hậu Nghệ [/center:a4447e42bd][center:a4447e42bd]Tác giả: Nguyễn Tử Quang[/center:a4447e42bd]
Trong "Bích câu kỳ ngộ" của Vô Danh có câu:

"Hay là lỗi sổ Hằng Nga,
Đêm đông vò võ, bóng tà sao thưa.
Nghĩ tình nên những ngẩn ngơ..."

Trong "Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều, đoạn ca tụng sắc đẹp của nàng cung nữ, có câu:

"Hương trời đắm nguyệt say hoa,
Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình".

Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đời nhà Trần (1225-1400) kêu gọi tướng sĩ, trong một bài hịch có đoạn "Nay ta bảo thật các ngươi nên cẩn thận như củi lửa, nên giữ gìn như kẻ húp canh, dạy bảo quân sĩ, luyện tập cung tên, khiến cho người nào cũng có sức khỏe như Bàng Mông và Hậu Nghệ, thì mới có thể dẹp tan được quân giặc, mà lập nên được công danh."

Hằng Nga và Hậu Nghệ là hai nhân vật thần thoại được dùng trong Cổ Văn Trung Hoa và Việt Nam.

Hằng Nga trong cung trăng - Theo sách của Hoài Nam Tử, Hậu Nghệ xin thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ uống trộm, chạy lên cung trăng.

Người chặt cây quế trong cung trăng - Theo sách "Dậu dương tạp trở", trong mặt trăng có cây quế cao 500 trượng (1 trượng = 0m32), dưới gốc cây có một người ngồi chặt mãi, nhưng chặt xong, dấu chặt lại liền như cũ. Người ấy tên Ngô Cương, quê ở Tây Hà, tu tiên có lỗi bị phạt chặt cây.

Con thỏ trong mặt trăng - Theo sách "Ngũ thông kinh nghĩa", trong mặt trăng có con thỏ hay con cóc.

Ông già dưới trăng - Sách "Tục U quái lục" có chép: đời nhà Đường, Vi Cố đến Nam điện ở Tống thành, thấy ông già xem sách dưới trăng. Vi Cố hỏi sách gì? Ông già đáp: Sổ hôn nhân thiên hạ. Vi Cố hỏi hôn nhân của mình thì ông lão bảo: ở chợ có bà già chột mắt bồng đứa bé 3 tuổi; đứa bé ấy sau là vợ ông. Vi Cố ra chợ bắt gặp người đàn bà như lời ông lão nên tức giận mướn người giết con bé ấy. May mắn, người đàn bà bồng đứa bé chạy thoát, và đứa bé chỉ bị thương xoàng. Mười bốn năm sau, Thứ Sử đất Dương Châu là Vương Thái gả con cho Vi Cố. Thiếu nữ ấy rất đẹp, nhưng cuối mày có một vết thẹo nhỏ. Cố hỏi duyên cớ. Nàng trả lời: hồi lên 3 tuổi, người vú họ Trần bồng đi chợ bị một tên côn đồ dâm trúng. Cố hỏi người vú họ Trần có chột mắt không? Nàng nói có rồi kể lại chuyện cũ.

Tích Hậu Nghệ - Theo "Sơn hải kinh", trên hang Dương phía bắc nước Răng Đen có cây Phù Tang to lớn sống dưới nước, 9 mặt trời ở cành dưới; 1 mặt trời ở cành trên. Theo sách của Hoài Nam Tử, đời vua Nghiêu, 10 mặt trời cùng mọc một lần làm cây cỏ khô héo, vua Nghiêu sai Hậu Nghệ bắn 10 mặt trời, có 9 con quạ rớt lông cánh xuống.

Theo kinh Thư, vua nước Hữu Cùng (một nước nhỏ đời nhà Hạ, 2205-1766 trước D.L, ở phía bắc huyện Đức, tỉnh Sơn Đông ngày nay) là Hậu Nghệ vì dân không phục, nổi lên kháng cự tại sông Hà. Sách "Tả truyện" có chép: khi nhà Hạ suy, Hậu Nghệ nhờ sức ủng h của dân chúng được lên làm vua thay thế nhà Hạ. Về sau, Nghệ ỷ mình bắn giỏi, không lo chính sự, dâm bạo hơn thú dữ, dân oán ghét nổi lên giết chết, lại lóc thịt bắt con của Nghệ ăn. Không nỡ ăn thịt cha, con của Nghệ cũng bị giết luôn.

Trong bản kịch thần thoại "Lên cung trăng" của nhà văn Trung Hoa là Ngô Tổ Quang có chép:

Một thời đại rất xa xưa...

Lúc bấy giờ, con người được tự do, không bị áp bức chiến tranh, người hiếp bức người. Ai làm nấy ăn. Mặt trời mọc, đi làm; mặt trời lặn, về nghỉ. Đói có hoa quả; khát có nước suối.

Con người bấy giờ không có họa người, chỉ có họa trời. Để tránh gió mưa, rét mướt, loài người đốn cây làm nhà, dệt vải may áo.........Ngày tháng trôi qua, con người dùng kinh nghiệm và lao lực để cải thiện đời sống, mưu lấy sự hạnh phúc thanh bình.

Nhưng, một hôm thình lình xảy ra một thiên tai dữ di. Khắp dưới gầm trời đâu đâu cũng bị đại hạn. Nắng như lửa thiêu, đốt cháy tất cả làm cho sinh linh dậm dất kêu trời. Trên đường, thây người, thây thú chồng chat dẫy đầy.

Nguyên ở gò Đất cuối biển Đông có hang Dương. Nơi đây 10 con quạ vàng vâng lệnh Thượng Đế thay nhau ban ánh sang cho vạn vật. Trên hang có cây Phù Tang cao vút tận trời. Chín con quạ ở cành dưới, một con quạ ở cành trên. Từ ngàn xưa chỉ có một con ra khỏi biển hóa thành mặt trời, ngày ngày tháng tháng chiếu ánh sáng xuống mặt đất làm cho mưa hòa gió thuận, vạn vật sinh hóa. Nhưng bất ngờ, một hôm bốn biển chuyển động, đất lở núi rung, cây Phù Tang quay cuồng, vì 10 con quạ vàng tranh nhau xuất hiện một lượt.

Thế là nắng như lửa thiêu, đốt cháy cả vạn vật. Ban đầu, người ta còn ngâm mình dưới nước, núp trong hang núi....nhưng rồi, đầm nước, dòng suối đều hóa thành những vạc nước sôi. Đất bằng bỗng chốc lửa dậy làm cho nhân dân điêu đứng, đời người biến thành địa ngục.

Đương lúc tiếng khóc, tiếng kêu gào kinh khủng của nhân dân, bỗng có một anh hùng xuất hiện.

Vị anh hùng đó tên Hậu Nghệ, sinh ở biển Đông, nước Hữu Cùng. Người võ nghệ phi thường, sức người có thể bạt núi lấp sông, giỏi nghề kỵ xạ. Hậu Nghệ lại có hai người học trò tên Phùng Mông và Ngô Cương đều có tài xuất chúng.

Trông thấy 10 con quạ vàng hoành hành dữ tợn làm cho nhà cửa tiêu tan, đồng rung khô cháy, Nghệ vừa hoảng kinh vừa tức giận, đem lòng thương xót sinh linh, và nghĩ đến mối liên hệ với thân mạng mình nên mang 10 mũi tên thần, giương cung 10 tạ lên quyết bắn 10 con quạ vàng cho tiêu ra tro bụi.

Nhưng ánh sáng rạng chói làm cho mắt đổ hào quang, không thể nhìn lên được. Nghệ bực tức, đứng tựa góc biển chân trời không do dự bắn luôn mấy phát. Những nơi có tên của Nghệ bắn tới thì nóng cháy ngui dần, ánh sáng êm dịu. Những lông cánh sắc màu của lũ quạ đua nhau rớt xuống. Một làn không khí mát mẻ bắt đầu.

Trông thấy chín con quạ chết, Nghệ lại muốn giương cung bắn nữa, nhưng Phùng Mông ngăn lại:
- Thưa thầy! Nếu thầy bắn chết cả thì vũ trụ sẽ trở nên đen tối mất.
Nghệ "à" một tiếng, hạ cung xuống.

Bấy giờ núi sông trở lại như xưa, cây cỏ tươi tốt. Đâu đâu cũng vang dậy tiếng hò reo hoan lạc. Nhân dân ca tụng công đức công ơn vĩ đại của Hậu Nghệ, tôn thờ Nghệ là một vị cứu tinh, trọng quí Nghệ hơn mẹ cha. Sơn hào hải vị, họ đem dâng cho Nghệ dùng.

Hậu Nghệ lên làm Hoàng Đế.

Mười năm sau.
Nhân dân trước kia bị tai ách của 10 con quạ vàng thì nay lại mang phải tai ách do Hậu Nghệ gieo rắc.

Nghệ ỷ mình có tài, tự kiêu là cứu dân, vậy dân phải làm tôi mọi mới xứng đáng đền đáp công ơn ấy. Nghệ chiếm hết thịt rừng, tài sản của nhân dân. Cả đến một con gà, một miếng bánh....cũng không thoát qua tay cướp đoạt của Nghệ.

Nghệ lại tự hào là mình sẽ sống mãi vì có linh chi thảo do tiên ông ban cho.

Nhân dân bấy giờ sống trong tình trạng cực kỳ thảm khốc. Từng đám dân nghèo đói, quần áo rách nát, thân trụi mình trần, mặt mũi hốc hác vàng hoe, gục đầu vào đất kiếm rễ cây ăn. Vài xác người thắt cổ lơ lửng trên cành cây làm mồi cho đàn quạ đương đảo qua lượn lại.

Bấy giờ núi rừng hoang vu xơ xác, cành khô lá úa, năm ba gốc cây còn lại nhưng trơ trọi, cỗi cằn.

Ngày trước, Nghệ được bá tánh hoan hô vang dậy. Ai ai cũng trìu mến vâng theo. Nghệ đi ra, cả ngàn người chạy theo quỳ lạy chúc tụng. Ngày nay, nhân dân oán ghét căm thù. Nghệ đi đến đâu, bá tánh bỏ chạy đến đó. Nghệ nhục nhã, tức giận ra lệnh cho học trò là Ngô Cương tàn sát hàng triệu sinh linh. Bị đói rách, bị giết chóc, muôn dân đau khổ, nỗi uất hận căm hờn ngùn ngụt cao mấy tầng mây.

Phùng Mông can gián không được, bỏ Nghệ theo đám dân nghèo võ trang đánh lại thầy.

Vợ của Nghệ là Hằng Nga.

Nàng là con nhà nghèo ở một cánh đồng hoang phương Bắc. Nhưng nàng là con chim phượng hoàng, là đóa hoa khôi sắc đẹp tuyệt vời.

Ngô Cương vâng lệnh thầy đi tìm người làm Hoàng Hậu. Đến phương Bắc, Ngô Cương bắt Hằng Nga về dâng cho Nghệ. Hằng Nga được Nghệ sủng ái, giao giữ cỏ linh chi.

Hằng Nga vì bị bắt, bỏ ha xa mẹ, quyết liệt đòi về. Nghệ sợ Hằng Nga trốn trong khi Nghệ đi săn tìm thịt nên truyền cho Ngô Cương canh gác, không cho Hằng Nga rời khỏi cung. Hằng Nga buồn tủi, ngày ngày chỉ làm bạn cùng con Ngọc thỏ trong cung lạnh.

Trước sự tàn bạo của chồng, Hằng Nga không khuyên ngăn được; và biết rằng nếu chồng sống mãi thì càng làm nhiều ti ác, nhân dân đau khổ càng nhiều nên nàng nuốt cỏ linh chi, để Nghệ không còn dùng cỏ tiên mà trường sinh nữa.

Nuốt xong, Hằng Nga mặt mày xây xẩm mt lúc, rồi thấy mình nhẹ bổng như không. Một đám mây ngũ sắc dưới chân Hằng Nga từ từ đưa nàng bay lên, Ngọc thỏ chồm nhảy theo. Hằng Nga đưa tay ôm lấy rồi từ từ bay qua cửa sổ thẳng lên cung trăng.

Hậu Nghệ đi săn thịt trở về, thấy mất Hằng Nga, tức giận Ngô Cương vì để Hằng Nga trốn thoát, nên bóp cổ Ngô Cương cho đến chết.

Nghệ chạy lại cửa sổ trông lên mặt trăng.

Ánh sáng vằng vặc chiếu vào mặt. Hình bóng của vợ thấy thấp thoáng trong trăng. Nghệ giương đôi mắt tròn xoe nhìn. Thốt nhiên, Nghệ thét bọn vệ sĩ mang cung lớn trên tường xuống. Nghệ đứng thẳng người như mt trụ đá to, râu tóc dựng ngược, đôi mắt sáng quắc, không khác cảnh xưa Nghệ bắn mặt trời. Nghệ lắp tên căng thẳng dây cung bắn lên.

Hai phát tên bay ra, mặt trăng lung lay.

Nhưng mũi tên thứ ba bật khỏi dây cung, mặt trăng vẫn sáng chói như trước, không hề hấn gì. Nghệ hạ cung xuống, mặt mày buồn nghiến, im lặng đau khổ.

Bỗng một cụ già hiện xuống.

Hậu Nghệ giật mình, nhìn ra là ông lão đã cho mình Linh Chi Thảo cách mười năm về trước.

Cụ già liệng 3 mũi tên xuống đất, điềm đạm nói:
- Già xin hỏi cố nhân. Ngày trước hạnh ngộ, già có nhắn nhủ cố nhân việc trị đời không khó. Phải thực hành nhân chính, quên mình để lo cho người. Mình phải lo trước người lo và chỉ vui sau khi người vui. Dân quí nhất, nước thứ nhì, vua sau hết. Cố nhân sẵn sàng vâng nghe, nên già thể theo lời yêu cầu tha thiết của cố nhân là muốn sống mãi để hoàn hành sự nghiệp, vì đời sống con người thì hữu hạn mà sự nghiệp thì vô cùng, mới cho linh chi thảo. Vậy mà khi cầm lấy quyền, cố nhân lại quên mất lời. Dân không sợ chết, sao lấy sự giết chóc trị thiên hạ. Bao nhiêu năm trời loạn lạc đau thương, giờ đây lòng người ly tán, sự nghiệp tan hoang, cố nhân còn chưa tỉnh hay sao? Kìa, nghĩa quân đã reo hò tứ phía, cố nhân đã nghe chưa?
Hậu Nghệ hai tay ôm đầu, giọng nói thiểu não:
- Nghệ ăn năn, xin cụ chỉ giáo.
- Việc đã qua rồi, ăn năn không kịp. Chỉ có cách cố nhân bỏ sắc phục hoàng đế, ăn năn hối hỗi thì mới có cơ cứu vãn.
Hậu Nghệ cả giận, quắc mắt, quát:
- Lão già khốn! Thừa lúc hiểm nguy của ta mà sỉ nhục ta sao?
Vừa nói vừa rút gươm chém ông lão.
Cụ già bình thản đưa tay hất gươm ra. Hậu Nghệ rùng mình lui lại ngồi xuống. Cụ già mỉm cười:
- Cố nhân đến nước cùng mà còn hiếu sát. Kìa, cố nhân hãy nhìn xem.....

Giữa lúc ấy...

Bên ngoài có tiếng chém giết lẫn tiếng hò reo vang dậy. Nghĩa quân bao vây tứ phía dưới sự chỉ huy của Phùng Mông.

Bóng trăng khuất dần. Cụ già biến mất.

Lửa cháy khắp nơi.
Tiếng la vang:
- Tiến! Tiến!

Nghệ rút gươm xông tới, Phùng Mông đưa gươm ngăn lại. Cả hai đánh nhau. Nghĩa quân ào đến. Hậu Nghệ kiệt sức bỏ chạy. Đám dân đói rách cầm hèo gậy chận lại. Nhìn qua tứ phía, nơi nào cũng có nghĩa quân. Phùng Mông kêu lên:
- Hậu Nghệ! Hậu Nghệ! Thầy làm việc bất nghĩa, ngày nay tự xửa lấy, đừng để bọn ta ra tay.
Hậu Nghệ đứng lại, dậm chân, cất tiếng cười đau đớn rồi đưa gươm đâm mạnh vào cổ. Xác Nghệ ngã xuống giữa tiếng reo hò của nghĩa quân.

Trong cung trăng, bên cây quế cao trăm trượng, sắc vàng, mùi thơm bát ngát, Ngô Cương cầm búa chặt mãi cây quế nhưng cây quế không sứt mẻ mà vẫn càng cao càng lớn, càng tươi. Hắn bị đọa vì tính hiếu sát theo thầy. Cây quế bị chặt nhưng không hề hấn, nhân dân bị tàn sát nhưng nhân dân làm sao hết được.

Bên cạnh, Hằng Nga ngồi xem Ngọc thỏ tán thuốc. Thỉnh thoảng, nàng lại thở dài, sa nước mắt. Nàng còn luyến tiếc cảnh trần gian. Vì trần gian đã chịu bao tai nạn: lụt lội, hạn hán, nắng lửa mưa dầu, binh đao chém giết, máu chảy thành sông, xương người thành núi; ngày nay nhân dân đã khắc phục được mọi tai ách rồi. Kìa từng đám người nô nức đương cày cấy, ca hát vui mừng; và xa xa làn khói lam chiều vẩn vơ quyện trên những mái nhà nhỏ ấm cúng. Hằng Nga tưởng nơi đây có lẽ là phương Bắc, quê hương yêu dấu của nàng.

Ở đây, quanh năm vắng lạnh, chẳng có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Muôn vật không sinh, không hóa. Trăm hoa đua nở không tàn. Chán chường cảnh lẻ loi, hiu quạnh quá, Hằng Nga muốn trở về trần thế. Nhưng vì đã ăn cỏ linh chi, nàng không bao giờ chết, lại trẻ đẹp mãi và muôn năm vẫn sống hoang liêu trong cung Quảng Hàn nầy.

Nhìn ra ngoài không thấy thế gian đâu nữa, tứ bề lạnh lẽo âm u, Hằng Nga bất giác xót xa đau đớn, nước mắt chảy ròng.

"Sau tấm bình phong bóng đuốc xa,
Sao mai lặn hết, vắng Ngân hà.
Hằng Nga hối cấp linh chi thảo,
Sống mãi nhìn trời dạ xót xa".

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 01:30
[center:33c9ef28d8]Khế Ngọt Ðổi Vàng [/center:33c9ef28d8][center:33c9ef28d8]Tác giả: Lịch Sử [/center:33c9ef28d8]
Ngày xưa, có hai anh em cha mẹ mất sớm. Người anh tham lam chiếm cả phần gia tài chỉ để cho vợ chồng người em một túp lều tranh, với một cây khế ngọt. Hai vợ chồng người em hiền hậu, đành vui phận nghèo, đi làm thuê gánh mướn, chăm nom cây khế để bán quả sống lần hồi.

Nhưng đến mùa khế chín thì sáng nào cũng có con chim quạ rất lớn đến ăn hại quả; chị vợ đuổi thế nào cũng không được, buồn bã ngồi xuống gốc cây phàn nàn: "Rõ khổ! Cả nhà chỉ trông sống vào có cây khế, nay ông chim cứ đến tàn phá thế kia thì đến chết đói!" Bỗng từ ngọn cây chim quạ trả lời xuống: "Ăn quả trả vàng, may túi ba gang mà đựng".

Người vợ sợ hãi, biết là chim thần không dám ta thán gì nữa, chạy về thuật lại cho chồng nghe. Hai người bàn định thử may mỗi người một túi ba gang xem sao. Nhưng ngày nào chim quạ cũng chỉ đến ăn no rồi trước khi bay đi lại hót vớt xuống một câu như trước: "Ăn quả trả vàng, may túi ba gang mà đựng"!

Rồi một buổi sớm, khi đã ăn hết nhẵn mọi quả khế, chim quạ sà xuống trước sân kêu to như giục: "Ăn quả trả vàng, may túi ba gang mà đựng". Hót thế rồi chim quạ bảo anh chồng ngồi lên lưng và đem theo hai cái túi ba gang. Chim cất cánh bay muôn ngàn dậm, đến một hòn đảo mọc giữa biển, hạ cánh rồi bảo anh chồng muốn lấy gì cứ việc lấy đầy hai túi. Anh ta vội mở choàng mắt thì thấy chung quanh mình toàn châu ngọc, vàng bạc nhiều như cát, sỏi. Trông thấy đủ hoa mắt, nhưng anh vốn chất phác, chỉ vội vã nhặt một ít dồn đầy hai túi con rồi lại lên lưng chim cho chim bay về.

Từ đấy hai vợ chồng anh ta trở nên giàu có, xây nhà tậu ruộng. Năm sau nhằm ngày kỵ, vợ chồng người em mời anh chị sang ăn giỗ. Hai anh chị từ xưa vẫn khinh miệt đứa em nghèo không thèm đi lại, nay thấy mời bĩu môi đáp: "Chừng nào chú có chiếu trải đàng, vàng phết ngõ tao mới đến chơi". Người em sai thợ mua chiếu cạp điều trải khắp các lối đi, lại mua vàng phết lên tất cả các cổng ngõ. Vợ chồng người anh thấy thế kinh ngạc vô cùng, vội vàng sang thăm, mới biết là em nay đã giàu gấp ngàn vạn lần mình. Hỏi duyên cớ thì người em cứ chân thật nói hết sự tình. Tham lam, người anh đòi đổi cả cơ nghiệp mình lấy túp lều tranh và cây khế ngọt. Người em ưng thuận. Vợ chồng người anh đến ở túp lều. Chim quạ đến ăn khế, anh ta phàn nàn, chim quạ cũng dặn: "Ăn quả trả vàng, may túi ba gang mà đựng".

Chị vợ liền may hai cái bao thật lớn. Hôm sau chim quạ cũng chở anh chồng đến hòn đảo vàng hôm nọ. Anh ta mừng rỡ tin chắc chuyến này ắt giàu gấp mấy chú em, ra sức dồn vàng đầy hai cái bao lớn rồi, còn nhét cả vào trong áo, ống quần, lỗ mũi, mang tai. Ra đến giữa biển, nặng quá không bay nổi, chim quạ rũ cánh làm anh ta sa xuống biển mà chết.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 01:31
[center:399330bf82]Cô Ðào Giết Giặc [/center:399330bf82][center:399330bf82]Tác giả: Lịch Sử [/center:399330bf82]
Ngày xưa, vào cuối thế kỷ XIV (1390), ở làng Chế Cầu, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, có hai vợ chồng người dân quê tên Lương, sinh được một đứa con gái xinh đẹp, đặt tên là Huệ. Khi lớn lên, vì không muốn phải xa cha mẹ nên Huệ nhất định không lấy chồng. Đến lúc song thân đều mất, nàng lên Thăng Long làm nghề đào hát. Biết bao vương tôn công tử ở kinh đô say theo sắc đẹp và giọng hát mê hồn của nàng.

Thuở ấy, quân nhà Minh đang chiếm đóng nước Nam. Trước cảnh lầm than của đồng bào sống dưới ách đô hộ tàn ác của giặc, tiếng đàn câu hát qua trận cười thâu đêm không làm cho cô đào Huệ quên được mối thù đất nước. Gương chị em hai bà Trưng, bà Triệu ngày xưa nhắc nhở, thúc dục nàng đem mình ra cứu nước.

Nghe tiếng Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, được toàn dân hưởng ứng, nàng bèn tìm cách liên lạc. Sau đó, nàng mở một quán rượu nổi tiếng tại đất Thăng Long, tướng sĩ quân Minh thường ngày lui tới. Nhờ sắc đẹp và tài ăn nói, chiều chuộng khách hàng, nàng dò la được biết tình hình của quân giặc.

Một hôm, nàng báo tin cho Lê Lợi hẹn ngày khởi sự "nội ứng ngoại công" để đánh chiếm kinh thành. Lê Lợi phái các tướng Lê Khôi, Đinh Liệt, Nguyễn Xí và Bùi Hưng Nhân mang quân ra Bắc.

Tối hôm ấy, đào Huệ bày tiệc lớn mời khắp các tướng tá quân Minh đến. Trong bữa tiệc, nàng dùng các cô gái đẹp để mời rượu, ép khách uống. Quân giặc không ngờ, bị phục rượu say mèm, không về được dinh trại. Đến nửa đêm, quân ta đã mai phục sẵn, vào quán bắt trói hết tướng tá quân Minh bỏ vào bao tải thả xuống sông Nhị. Đồng thời theo hỏa lệnh, quân sĩ Lê Lợi tiến đánh Thăng Long.

Đào Huệ bỏ mình trong trận mạc. Sau khi chiếm được kinh thành, nhớ công ơn cô đào đã hy sinh cứu quốc, Lê Lợi phong cho nàng làm Phúc Thần Kiến Quốc Trinh Liệt Phu Nhân, lập đền thờ ở huyện Thọ Xương (đường Hàng Trống bây giờ) gọi là đền Đông Hương.

Tương truyền rằng vào đầu nhà Lê, thôn Tự Tháp thuốc huyện Thọ Xương bị một trận hỏa hoạn lớn. Đang lúc lửa cháy lan dữ dội, người ta thấy ở trên một ngọn cây có một người đàn bà cầm cây quạt thần quạt tắt ngọn lửa. Nhờ đó mà cả vùng thoát khỏi làm mồi cho bà hỏa.

Dân chúng nhớ ơn gọi là Tháp Bà, quanh năm đèn hương nghi ngút ở đền. Người ta còn gọi đào Huệ là Ngọc Kiều Phu Nhân. Vì kiêng tên và nghề nghiệp của đào Huệ nên người ta tránh không dùng đến hoa huệ và mời ả đào hát trong dịp cúng lễ ngày húy kỵ của nàng.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 01:31
[center:7444b98386]Chàng Lía[/center:7444b98386][center:7444b98386]Tác giả: Lịch Sử[/center:7444b98386]
Chiều chiều én liệng truông Mây,
Cảm thương chú Lía bị vây trong thành.

Ngày xưa, ở miền Bình Định, có một người đàn bà nhà quê góa chồng, sống với đứa con trai còn nhỏ tên là Lía. Mới lớn lên, Lía đã tỏ ra sức mạnh hơn chúng bạn, tánh tình ngang ngược, khảng khái. Nhà nghèo, thấy mẹ thường phải ăn uống cực khổ, Lía đi bắt trộm gà, chim về nấu cho mẹ ăn. Biết được con làm bậy, bà mẹ rầy la. Lía mới chịu thôi. Thương mẹ vất vả, Lía đi ở giữ trâu cho mỘt nhà phú hộ trong làng để lấy tiền đỡ cho mẹ già.

Thường ngày Lía học tập võ nghệ, bắt trẻ cùng lứa làm kiệu rước mình, tự xưng làm vua. Một hôm Lía bắt trâu của chủ làm thịt để khao đãi chúng bạn, bị chủ đuổi đi. Lía trở về nhà rồi nhờ mẹ già xin cho đi học ở nhà thày đồ trong vùng. Nghe Lía là đứa trẻ ngỗ nghịch, cứng đầu, thày dạy từ chối, song thấy bà mẹ già hết lời van nài và Lía tự nguyện sửa đổi tính nết nên rốt cục cũng nhận cho vào hàng môn đệ. Học tập được ít lâu, Lía chia học trò ra làm hai phe, làm náo động cả trường. Lía lại cầm đầu một nhóm bạn học trường đêm đi bắt súc vật, lấy của cải các nhà giàu đem về giúp mẹ già và phân phát cho những người nghèo khó ở xóm làng. Hành động quấy rối của Lía khiến thày đồ sợ vạ lây, phải mời bà mẹ đến để trả Lía về nhà.

Lía đã khôn lớn, thêm tin ở tài sức mình, thường ngày gặp việc bất bình là ra tay can thiệp, đương đầu với các kẻ thế lực dùng oai quyền, tiền bạc hiếp đáp dân lành. Một hôm Lía lên tỉnh, khôn khéo vận động vào làm thuộc hạ một viên đội tâm phúc của quan tỉnh. Từ đó, Lía chuyên lo tập luyện võ nghệ, học hành kinh sử, hy vọng một ngày kia đỗ đạt làm quan, để làm vui lòng mẹ già.

Đến kỳ thi, mặc dầu văn võ tinh thông, Lía làm bài đều đúng cả, song vì không chịu mang tiền đút lót như mọi người, Lía bị viên chánh chủ khảo đánh hỏng. Tức giận, Lía kéo đồ đảng đến nhà viên chánh chủ khảo kể tội rồi chặt đầu viên quan hối lộ, đoạn bắt luôn người vợ lẽ đem đi. Bị quan quân truy nã, Lía chiếm lấy một vùng hiểm trở tựa vào rừng núi làm căn cứ.

Từ khi ra mặt chống lại triều đình, Lía ngang dọc vùng vẫy một phương trừ gian diệt ác, lấy của nhà giàu giúp người nghèo, tiếng tăm lan rộng. Nhiều kẻ bất mãn với chế độ hà khắc, bất công của vua quan thời bấy giờ theo về cùng Lía khá đông. Triều đình rao trọng thưởng tiền bạc cho ai bắt nộp được đầu Lía.

Mấy lần bị bao vây ráo riết, Lía nhờ võ nghệ cao cường, nên đều thoát được dễ dàng. Người vợ viên chủ khảo đã bị Lía giết, bấy lâu theo Lía, cố chiều chuộng hầu hạ để lấy lòng tin tưởng của chàng, đợi dịp để trả thù cho chồng cũ và lãnh thưởng lớn. Lía không dè mà lo đề phòng sẵn nên một hôm, trong lúc cùng các đồng đảng đang chè chén say sưa tại sào huyệt ở rừng sâu, thì bọn quan quân kéo đến vây bắt. Người vợ lẽ đã thừa lúc chung quanh không ai để ý, lẻn đi báo quan hay chỗ đóng trại của Lía. Phần lớn bộ hạ của Lía bất ngờ không kịp đối phó đều bị hãm hại, còn Lía nhờ tài nhảy cao, phóng giỏi nên phi thân thoát khỏi vòng vây.

Lía bị thoát nạn, son phẫn uất vì người làm bà làm nhục, đồ đảng tan rã, lại bị quan quân truy nã gắt gao. Trong lúc lẩn tránh, Lía ẩn tại nhà một ông lão nhà quê, nghĩ tức giận vì bị kế mỹ nhân, lòng tự ái bị xúc phạm, bèn lấy gươm tự cắt đầu mình trao cho ông già mang lên quan để lãnh thưởng.

Thương cho người dũng khí sa cơ, không muốn để chàng lọt vào quan quân, ông già lặng lẽ đem đầu chàng Lía bí mật đi chôn, không màng đến số tiền thưởng lớn lao của triều đình.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 01:32
[center:d507ae014b]Vợ Thuợng Giới[/center:d507ae014b][center:d507ae014b]Tác giả: Hoang Ðường [/center:d507ae014b]
Ngày xưa, ở thượng giới, trong một bữa yến tiệc của Ngọc Hoàng khoản đãi các vị thần tiên, một cô con gái Ngọc Hoàng vô ý làm rơi chén ngọc của thiên đình vỡ tan. Ngọc Hoàng tức giận mới đày nàng xuống trần gian hóa kiếp làm người.

Thuở bấy giờ, nhà Lê đang trị vì nước Nam. Cô gái Ngọc Hoàng đầu thai sinh ra làm Công chúa. Sáng hôm nàng ra đời, tất cả hoa trong vườn thượng uyển nở đều một lượt. Công chúa lớn lên, nhan sắc diễm lệ, không có một người trần gian nào sánh kịp. Vua gả công chúa cho một viên quan trẻ tuổi, tài giỏi. Ba năm sau, bỗng nhiên công chúa lăn đùng ra chết.

Người chồng thương nhớ vợ quá, thề trọn đời không lấy người nào khác. Đến khi bốc mả cho công chúa, mở hòm ra thấy trống không, người chồng lại càng thêm đau xót, thương tiếc vợ, xin treo ấn từ quan, trở về quê ở Nghệ An.

Một hôm, người chồng đi dạo trong rừng, một mình đến giòng suối, nhìn mặt nước trong vắt mà nhớ đến đôi mắt của vợ xưa kia. Bỗng nghe có tiếng lá sột soạt, người chồng quay lại thì thấy một thiếu phụ xoay lưng đi về phía sau cây cổ thụ rồi biến mất.

Qua ngày sau, người chồng trở lại bên bờ suối, ngóng chờ một lúc thì nghe gió thoảng đưa mùi hương quen thuộc, rồi thấy công chúa vợ mình đi lại. Nàng tiết lộ cho hay tiền kiếp của mình cùng việc bị đày xuống trần, rồi bảo chồng rằng: "Khi thiếp từ trần là lúc hết hạn phải đày sống ở thế gian. Nhưng vì thương nhớ chàng, nghĩ đến chàng đau thương vò võ nên thiếp xin phép được trở lại cõ i trần. Thời gian xum họp giữa hai ta cũng chỉ có hạn định.

Người chồng quá sung sướng được gặp vợ bất ngờ, gạt qua ý nghĩ chia lìa về sau. Đến khi người vợ thượng giới sinh hạ cho chàng một đứa con trai, hạnh phúc gia đình tưởng chừng kéo dài vô hạn định.

Một tối, hai vợ chồng đang ngồi ở sân, uống trà thưởng trăng, bỗng một ngọn gió thoảng qua, nghe văng vẳng có tiếng nhạc. Người vợ rùng mình đứng lên, bảo chồng: "Thiên đình gọi thiếp về trên ấy. Xin vĩnh biệt chàng"!

Người chồng lặng yên nhìn vợ không thốt lên lời. Theo lời vợ, chàng nhắm mắt lại, đến khi mở ra thì không thấy vợ đâu nữa. Vẳng nghe điệu nhạc trên không xa dần.

Từ đó người chồng sống một mình chắm chú lo dạy con học tập, về sau hiển đạt làm quan cao.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 01:32
[center:8002007570]Truyện Thạch Sanh [/center:8002007570][center:8002007570]Tác giả: Hoang Ðường [/center:8002007570]
Ngày xưa ở Quận Cao Bình có vợ chồng Bác tiền phu Thạch Nghĩa tuổi đã cao mà không có con. Vợ chồng ngày đêm lo buồn, càng ra sức làm việc nghĩa, như khơi cống, đào mương, đắp đường, vét giếng, cùng lo nấu nước giúp cho người qua đường uống, để mong trời trông lại mà cho một mụn con. Quả nhiên, về sau Thạch Bà thụ thai, nhưng ba năm chưa đẻ. Giữa lúc đó, Thạch Ông mất, Thạch Bà sinh hạ một đứa con trai khôi ngô tuấn tú, đặt tên là Thạch Sanh. Sau đó mấy năm, Thạch Bà cũng mất, Thạch Sanh từ đó sống côi cút trong một túp lều dưới gốc đa, chỉ có một cái khố che thân và một cái búa đốn củi. Năm Thạch Sanh mười ba tuổi, Ngọc Hoàng sai tiên xuống dạy chàng đủ các môn võ nghệ, mọi phép thần thông.

Một hôm, có anh hàng rượu tên là Lý Thông đi ngang qua đó ghé lại nghỉ chân. Thấy Thạch Sanh khỏe mạnh, lại mồ côi, có thể lợi dụng được, bèn kết nghĩa làm anh em, rồi đưa Thạch Sanh về nhà.

Bấy giờ có một con trăn tinh thường bắt người ăn thịt, quan quân mấy lần vây đánh nhưng nó nhiều phép thần thông, nên không ai làm gì được; nhà vua đành truyền lập miếu thờ, và cứ hàng năm phải nộp cho nó một mạng người. Năm ấy đến lượt Lý Thông phải đi nộp mình. Mẹ con nghe tin, hoảng hốt, bàn định mưu kế đưa Thạch Sanh đi chết thay. Chiều hôm đó Thạch Sanh đi đốn củi về thì Lý Thông đãi rượu, rồi bảo:

-"Hôm nay có việc quan trọng, triều đình cắt phiên cho anh đi canh miếu thờ, ngặt vì anh trót cất mẻ rượu, sợ hỏng việc ở nhà; mong em chịu khó đi thay anh một đêm." Thạch Sanh không nghi ngờ gì cả, thuận đi ngay.

Nửa đêm, giữa khu rừng, bỗng gió thổi cây rung, không khí lạnh buốt, Trăn tinh hiện ra, giơ vuốt nhe nanh, hà hơi tóe lửa, sấn đến định ăn thịt Thạch Sanh. Thạch Sanh bình tĩnh, hoá phép đánh nhau với Trăn tinh, hồi lâu thì yêu quái bị giết chết, hoá ra một con trăn lớn. Thạch Sanh chặt lấy đầu mang về. Ðến nhà thì hết canh ba. Thạch Sanh gọi cửa, mẹ con Lý Thông ngỡ là hồn Thạch Sanh hiện về báo oán, ở trong nhà mẹ con cứ lạy lục, khấn vái mãi. Thạch Sanh mới rõ dã tâm của hai người cố tình đưa mình đến chỗ chết, nhưng Sanh tánh hiền lành, không giận, vui vẻ kể chuyện giết trăn cho mẹ con Lý Thông nghe. Lý Thông nghe xong, nảy ra một mưu thâm độc. Nó dọa Thạch Sanh rằng Trăn tinh là của nhà vua nuôi xưa nay, bây giờ giết đi, tất thế nào cũng bị tội chết. Rồi khuyên Thạch Sanh trốn đi, để hắn ở nhà kiếm cách thu xếp trở về thôn cũ ở gốc đa. Còn Lý Thông thì đêm ngày trẩy kinh, tâu vua đã trừ được Trăn tinh và hắn được Vua phong chức đô đốc.
Bấy giờ công chúa con vua muốn kén phò mã, bảng yết khắp dân gian, điệp gửi cùng các nước, nhưng không chọn được ai vừa ý. Một hôm công chúa đi dạo vườn hoa, bỗng con yêu tinh Ðại bàng sà xuống cắp đi mất. Tình cờ đại bàng bay ngang trên cây đa có Thạch Sanh đang ngồi thẫn thờ dưới gốc cây. Thạch Sanh thấy vậy, liền gương cung bắn một phát trúng ngay vào cánh. Nhưng đại bàng rút tên ra rồi tiếp tục bay đi, Thạch Sanh lần theo vết máu đỏ, thấy đại bàng chui vào một cái hang rất kiên cố. Chàng đánh dấu lối vào hang và trở về.

Khi nghe tin công chúa bị yêu quái cắp đi mất tích nhà vua đau lòng xót ruột, truyền cho lý Thông đi tìm, hứa tìm được sẽ gả công chúa và truyền ngôi cho. Lý Thông vừa mừng vừa lo, bèn lập mưu mở hội hát xướng trong mười ngày, sức cho nhân dân đến xem mục đích để dò hỏi nghe ngóng tin tức. Tám chín ngày đã qua, mà không nghe ai nói một lời gì về chuyện đại bàng bắt người cả. Tin Lý Thông mở hội hát xướng đồn đến tai Thạch Sanh, chàng lần về thăm, gặp Thạch Sanh, Lý Thông tỏ mối lo không tìm được công chúa. Thạch Sanh thật thà mà kể lại về việc bắn trúng cánh chim. Lý Thông mừng lắm, lập tức nhờ Thạch Sanh dẫn đường, mang lính đến nơi sào huyệt của yêu quái. Thạch Sanh tình nguyện xuống hang tìm công chúa hộ bạn. Quả nhiên gặp công chúa ở đó, Thạch Sanh bèn lấy thuốc mê, bảo công chúa đưa cho đại bàng uống. Ðoạn Thạch Sanh buộc công chúa vào dây, ra hiệu cho Lý Thông ở ngoài hang kéo lên. Xong chàng sửa soạn lên theo, nhưng Lý Thông đã ra lệnh cho quân lính lấp kín hang lại mất rồi. Giữa lúc đó thì đại bàng tỉnh lại. Thấy mất công chúa, hắn nổi giận lôi đình gầm lên, vách đá ầm ầm rung chuyển. Nhưng Thạch Sanh hoá phép đánh nhau với nó, cuối cùng đại bàng bị giết chết, Thạch Sanh mò tìm lối ra, đi đến một nơi, chàng thấy có một cũi sắt trong giam một người con trai. Thì ra đó là thái tử con vua Thủy Tề, bị đại bàng giam đã ngót một năm. Thạch Sanh lấy cung vàng bắn tan cũi sắt, cứu thái tử ra. Thái tử mời Thạch Sanh về thủy cung để vua cha được đền ơn. Vua Thủy Tề mừng lắm, tặng Thạch Sanh vô số vàng bạc châu báu, nhưng chàng đều từ chối không nhận, chỉ nhận lấy một cây đàn. Xong rồi từ giã vua và thái tử, lên trần gian, về chốn cũ ở gốc đa.

Bấy giờ hồn Trăn tinh và Ðại bàng, khổ sở đói khát, đi thang lang, thất thểu, tình cờ gặp nhau, bèn bàn định mưu kế trả thù Thạch Sanh. Chúng lẻn vào kho vua ăn trộm ngọc ngà châu báu, rồi mang về để ở gốc đa, chỗ của Thạch Sanh. Thạch Sanh bị bắt hạ ngục.
Nói về công chúa, từ khi lên khỏi hang, chờ Thạch Sanh lên. Thấy Lý Thông đã lấp mất cửa hang, uất ức lên mà hóa câm. Khi trở về cung, ai hỏi gì nàng cũng không nói. Vua buồn rầu sai Lý Thông lập đàn cầu nguyện, nhưng đàn lập đã một tháng mà công chúa vẫn không nói được. Kịp đến cho Thạch Sanh bị bắt giao cho Lý Thông xét sử, thì Lý Thông bèn định tâm giết đi cho khỏi lo ngại về sau. Ngồi trong ngục. Thạch Sanh buồn tình lấy đàn ra gẩy, Không ngờ cây đàn ấy lại là đàn thần . Gẩy đến đâu đàn kể lể đến đó, nó kể rõ đầu đuôi câu chuyện, nó tố cáo tội ác của Lý Thông, nó oán trách sự hờ hững của công chúa. Nó kêu lên, nó rền rĩ, ngân nga trong cung này đến cung nọ. Công chúa ngồi trên lầu, nghe tiếng đàn bỗng reo mừng, cười nói, xin vua cha cho gọi người gẩy đàn. Vua đòi Thạch Sanh kể lại sự tình cho vua nghe, từ khi mồ côi cha mẹ, học phép tiên, kết bạn với Lý Thông, khi chém Ttrăn tinh, khi bắn đạ bàng, cứu công chúa và bị lấp cửa hang. Khi cứu con vua thuỷ tề, khi bị hồn yêu tinh vu oan giáo hoạ.

Vua liền truyền lệnh hạ ngục mẹ con Lý Thông, và giao cho Thạch Sanh được toàn quyền xử định. Thạch Sanh thương tình cho hai mẹ con Lý Thông trở về làng, nhưng dọc đường hai mẹ con gặp trận mưa giông và cả hai đều bị sét đánh chết.

Kế đó, vua cho Thạch Sanh kết hôn cùng công chúa, tin ấy truyền đi, thái tử mười tám nước chư hầu trước đã ôm hận vì bị công chúa ruồng rẫy, nay vua gả cho một thằng khố rách áo ôm, liền cất binh mã đến hỏi tội .Vua sai Thạch Sanh ra dẹp giặc. Khi giáp trận, Thạch Sanh lại đem cây đàn của mình ra gẩy. Tiếng đàn khi khoan khi nhặt, êm ấm lạ thường, khiến cho quân địch phải xúc động, người thì bồi hồi thương con, thương vợ, kẻ thì bâng khuâng nhớ tới quê hương ,không một ai còn nghĩ tới chiến đấu nữa. Thái tử mười tám nước chư hầu thấy thế khiếp sợ vội vàng xin hàng, Thạch Sanh dọn một liêu cơm nhỏ cho chúng ăn, nhưng chúng ăn mãi không hết. Chúng càng phục Thạch Sanh rập đầu lậy tạ kéo nhau về nước.

Vua liền làm lễ nhường ngôi cho Thạch Sanh. Khi lên ngôi công việc đầu tiên của Thạch Sanh là xóa thuế, phóng thích tù nhân, và khuyến khích muôn dân trăm họ theo nghề nông trang.Từ đó, nhân dân mới được yên ổn làm ăn nhà nhà được no ấm đông vui.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 01:33
[center:5f6769111a]Thần Cuống [/center:5f6769111a][center:5f6769111a]Tác giả: Hoang Ðường[/center:5f6769111a]
Ngày xưa, tại xã Khúc Phụ, tổng Thổ Bình, châu Chiêm Hóa, thuộc tỉnh Tuyên Quang, có một bà lão góa không con, ở thôn Mô Cuống, mỗi ngày thường đến thác Cuống bắt tôm cá về ăn.

Một hôm bà lão trông thấy một quả trứng màu trắng, to gần bằng trứng gà, lấy làm sợ bèn lượm vứt đi xa. Song luôn hai ba lần, bà lão lại gặp quả trứng đó ở mấy nơi khác, bèn đem về cho gà ấp.

Lối một tháng sau, quả trứng nở ra một con vật giống hình con lươn, bà lão đem bỏ vào một chĩnh nước. Con vật chóng lớn, bà lão đưa qua một cái vại, rồi nó lớn lên chật vại, bà đem thả nó xuống suối Mô Cuống, mới hay nó là con giao long. Con vật sắc trắng này thuộc loài thủy tộc, song thỉnh thoảng lại hóa thành người nói được. Nó gọi bà lão là mẹ nuôi và bắt tôm cá về nuôi bà. Vì thế mỗi lần có cúng giỗ, bà lão đến bên giòng thác gọi: "Cuống, Cuống!", rồi thấy nó trồi đầu lên mặt nước mới bảo: "Ngày mai ở nhà có giỗ, con bắt cho mẹ một ít cá". Giao long lập tức vâng lời, bắt nhiều cá để lên bờ cho mẹ nuôi đến lấy về. Có bao nhiêu người ăn, số cá giao long cho vẫn đủ, và luôn luôn như vậy.

Về sau, có một con giao long khác, sắc đen, ở giòng thác lớn Sa Hương thuộc xã Miên Hương, cách đó mấy dặm, ngược giòng thác Cuống đến đánh nhau với giao long trắng để rồi chiếm lấy nơi này. Cuộc giao chiến kéo dài đã ba ngày, chưa rõ con nào thắng, bỗng thấy con giao long trắng chạy về nhà cầu cứu bà lão đến giòng thác để giúp nó một tay, làm theo lời nó dặn: "Lúc nào thấy thân hình đen (tức là giao long đen) trồi lên mặt nước thì mẹ lấy dao mà chém". Bà lão nghe lời con nuôi mang theo một con dao dài mài sắc, đến hôm sau, vào giờ ngọ, ra bờ thác, trông thấy hai con giao long đang đánh nhau, quấy đục cả mặt nước. bà cầm con dao chờ sẵn khi thấy thân hình đen nổi lên mặt nước, liền chém xuống thật mạnh, chẳng may lại trúng nhằm con giao long trắng. Con vật hiện lên rên xiết với bà lão, nói: "Mẹ ơi, mẹ đã chém lầm vào bụng con rồi. Số mệnh con phải chịu như vậy, xin mẹ đừng tiếc thương con". Nói xong rồi nó biến mất. Ba ngày sau xác nó nổi lên ngay chỗ ấy, dân trong vùng trông thấy vớt đem về chôn ở cánh đồng trước nhà bà lão.

Ngày nay mộ con giao long vẫn còn, người ta gọi là mộ Thần Cuống, được sùng bái coi như một vị thần, mỗi năm vào dịp tháng hai, dân ở bốn xã vùng này đều kéo nhau đến cúng lễ.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 01:33
[center:42e34a2804]Sự Tích Trầu Cau [/center:42e34a2804][center:42e34a2804]Tác giả: Hoang Ðường[/center:42e34a2804]
Thời xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến lỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh ai là em. Năm hai anh em mười bảy mười tám tuổi thì cha mẹ đều chết cả. Hai anh em vốn đã thương yêu ngau, nay gặp cảnh hiu quạnh, lại càng yêu thương nhau hơn trước.

Không còn được cha dậy dỗ cho nữa, hai anh em đến xin học ông đạo sĩ họ Lưu. Hai anh em học hành chăm chỉ lại đứng đắn nên được thầy yêu như con. Ông Lưu có một cô con gái tuổi chừng mười sáu mười bảy, nhan sắc tươi tắn, con gái trong vùng không người nào sánh kịp.

Trông thấy hai anh em họ Cao vừa đẹp vừa hiền, người con gái đem lòng yêu mến, muốn kén người anh làm chồng, nhưng không biết người nào là anh, người nào là em.

Một hôm, nhân nhà nấu cháo, người con gái lấy một bát cháo và một đôi đũa mời hai người ăn. Thấy người em nhường người anh ăn, người con gái mới nhận được ai là anh, ai là em. Sau đó, người con gái nói với cha mẹ cho phép mình lấy người anh làm chồng.

Từ khi người anh có vợ thì thương yêu giữa hai anh em không được thắm thiết nữa. Người em rất là buồn, nhưng người vô tình không để ý đến

Một hôm hai anh em cùng lên nương, tối mịt mới về, người em vào nhà trước; chàng vừa bước chân qua ngưỡng cửa thì người chị dâu ở trong buồng chạy ra lầm chàng là chồng mình, vội ôm chầm lấy. Người em liền kêu lên, cả hai đều xấu hổ. Giữa lúc ấy, người anh cũng bước vào nhà. Từ đấy người anh nghi em có tình ý với vợ mình, càng hững hờ với em hơn trước.

Một buổi chiều, anh chị đều đi vắng cả, người em ngồi một mình nhìn ra khu rừng xa xa, cảm thấy cô quạnh, lại càng buồn tủi, vùng đứng dậy ra đi.

Chàng đi, đi mãi cho đến khu rừng phía trước mặt, rồi theo đường mòn đi thẳng vào rừng âm u. Trời bắt đầu tối, trăng đã lên, mà chàng vẫn cứ đi. Ði đến một con suối rộng nước sâu và xanh biếc, chàng không lội qua được, đành ngồi nghỉ bên bờ. Chàng khóc thổn thức, tiếng suối reo và cứ reo, át cả tiếng khóc của chàng. Ðêm mỗi lúc một khuya, sương xuống mỗi lúc một nhiều, sương lạnh thấm dần vào da thịt chàng, chàng chết mà vẫn ngồi trơ trơ, biến thành một tảng đá.

Người anh cùng vợ về nhà, không thấy em đâu, lẳng lặng đi tìm, không nói cho vợ biết. Theo con đường mòn vào rừng, chàng đi mãi, đi mãi, và sau cùng đến con suối xanh biếc đang chảy cuồn cuộn dưới ánh trăng và không thể lội qua được, đành ngồi bên bờ suối, tựa mình vào một tản đá. Chàng có ngờ đâu chính tảng đá là em mình! Sương vẫn xuống đều, sương lạnh rơi lã chã từ cành lá xuống. Chàng rầu rĩ khóc than hồi lâu, ngất đi và chết cứng, biến thành một cây không cành, mọc thẳng bên tảng đá.

ở nhà, vợ không thấy chồng đâu, vội đi tìm và cũng theo con đường mòn đi vào rừng thẳm. Nàng đi mãi, bước thấp bước cao, rồi cuối cùng gặp con suối nước sâu và xanh biếc. Nàng không còn đi được nữa. Nàng ngồi tựa vào gốc cây không cành mọc bên tảng đá, vật mình than khóc. Nàng có ngờ đâu nàng đã ngồi tựa vào chồng mình và sát đó là em chồng. Nàng than khóc, nhưng tiếng suối to hơn cả tiếng than khóc của nàng. Ðêm đã ngả dần về sáng, sương xuống càng nhiều, mù mịt cả núi rừng, nàng vật vã khóc than. Chưa đầy nửa đêm mà nàng đã mình gầy xác ve, thân mình dài lêu nghêu, biến thành một cây leo quấn chặt lấy cây không cành mọc bên tảng đá.

Về sau chuyện ấy đến tai mọi người, ai nấy đều thương xót. Một hôm, vua Hùng đi qua chỗ ấy, nhân dân đem chuyện ba người kể lại cho vua nghe và đến xem. Vua bảo thử lấy lá cây leo và lấy quả ở cái cây không cành nghiền với nhau xem sao, thì thấy mùi vị cay cay? Nhai thử, thấy thơm ngon và nhổ nước vào tảng đá thì thấy bãi nước biến dần ra sắc đỏ. Nhân dân gọi cái cây mọc thẳng kia là cây cau, cây dây leo kia là cây trầu, lại lấy tảng đá ở bên đem về nung cho xốp để ăn với trầu cau, cho miệng thơm, môi đỏ.

Tình duyên của ba người tuy đã chết mà vẫn keo sơn, thắm thiết, cho nên trong mọi sự gặp gỡ của người Việt Nam, miếng trầu bao giờ cũng là đầu câu chuyện, để bắt đầu mới lương duyên, và khi có lễ nhỏ, lễ lớn, cưới xin, hội hè, tục ăn trầu đã trở nên tục cố hữu của dân tộc Việt Nam.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 01:34
[center:dfde705662]Tấm Cám [/center:dfde705662][center:dfde705662]Tác giả: Hoang Ðường[/center:dfde705662]
Ngày xưa, con Tấm, con Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Tấm là con vợ cả, Cám là con vợ lẽ. Bố chúng nó mất rồi, mẹ con Tấm cũng mất rồi. Tấm ở với con Cám và dì ghẻ là mẹ con Cám.

Một hôm dì đưa cho mỗi đứa một cái giỏ, bảo đi bắt tôm bắt tép. Dì hứa rằng: "Hễ đứa nào bắt được nhiều thì cho yếm đỏ".

Hai đứa cùng mang giỏ đi ra đồng, Tấm bắt được nhiều, Cám bắt được ít. Cám bảo rằng: "Chị Tấm ơi chị Tấm, đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về dì mắng".

Lúc con Tấm hụp xuống thì con Cám ở trên bờ trút lấy cả tôm tép của con Tấm vào giỏ mình rồi mang về trước. Con Tấm lên dòm đến giỏ thì thấy mất cả, nó mới khóc hu hu lên.

Bụt hiện lên hỏi: "Làm sao con khóc"? Con Tấm kể sự tình cho Bụt nghe rồi lại khóc. Bụt bảo nó dòm vào giỏ xem có còn gì không. Con Tấm dòm vào thì chỉ thấy có một con bống mà thôi. Bụt mới bảo đem thả con bống xuống dưới giếng mà nuôi; cứ một ngày hai lần, mỗi bữa cơm đáng ba bát thì ăn hai còn bớt một bát để cho bống. Lúc đổ cơm xuống giếng thì bảo thế này: "Bống ơi bống! lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta, chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người".

Con Tấm nghe lời Bụt đem thả bống xuống giếng. Cứ đến bữa cơm nó ăn xong lại mang thùng ra giếng gánh nước, giấu bát cơm vào thùng đem cho bống. Lúc đổ cơm xuống giếng thì nói như lời Bụt dặn. Bống nghe thấy chẳng lần nào là không lội lên mặt nước để ăn.

Đến sau, mẹ con Cám biết ý mới cho đi rình. Con Cám lẻn đi thấy con Tấm đổ cơm xuống giếng và nói mấy lời như thế, thì nó học thuộc lòng lấy rồi về thưa chuyện lại cho mẹ nó nghe.

Hôm sau, mẹ con Cám bảo Tấm rằng: "Con ơi con! mai đi chăn trâu phải chăn đồng xa, chớ chăn đồng gần mà làng bắt mất trâu".

Con Tấm vâng lời, hôm sau phải dắt trâu đi chăn đồng xa, ở nhà hai mẹ con con Cám đem bát cơm ra giếng, đổ xuống đấy rồi cũng nói như con Tấm nói mọi khi. Bống lội lên mặt nước thì mẹ con con Cám bắt lấy mang về làm thịt ăn.

Đến bữa cơm, con Tấm lại cứ đem cơm ra cho bống. Nhưng bận này không thấy bống nữa, chỉ thấy cục máu nổi lên mặt nước. Nó mới khóc òa lên. Bụt lại hiện lên hỏi: "Làm sao con khóc"? Con Tấm thưa rằng: "Con nuôi bống ở dưới giếng, mọi khi cho nó ăn nó vẫn lội lên mặt nước, mà hôm nay con đem cơm cho nó, không thấy nó nữa, chỉ thấy một hòn máu". Bụt bảo rằng: "Người ta bắt bống ăn thịt rồi. Con về nhà nhặt lấy xương nó. Con mua bốn cái lọ bỏ vào đấy rồi đem chôn ở bốn góc giường con nằm".

Con Tấm nghe lời Bụt, về nhà tìm xương bống. Có một con gà bảo nó rằng: "Cục ta cục tác, cho ta nắm thóc ta bới xương cho". Con Tấm lấy thóc ném cho gà, gà bới một chỗ thì thấy xương ngay. Tấm nhặt lấy bỏ vào lọ rồi đem chôn.

Được ít lâu nhà vua có mở hội. Hai mẹ con con Cám sắm sửa đi xem. Mẹ con Cám lấy một đấu thóc và một đấu gạo, trộn lẫn với nhau, rồi bắt con Tấm phải lựa riêng ra. Dì con Tấm bảo nó thế này: "Lúc nào mày nhặt xong thì mới được đi xem hội, hễ chưa xong thì không được đi". Nói thế rồi hai mẹ con nó đi. Con tấm ở nhà khóc. Bụt lại hiện lên hỏi: "Làm sao con khóc"? Nó thưa rằng: "Con khổ quá, dì con bắt phải nhặt bấy nhiêu thóc gạo, xong thì mới được đi xem hội. Đến lúc nhặt xong thì hết hội còn gì mà xem". Bụt bảo rằng: "Để ta cho một đàn chim sẻ xuống nhặt đỡ". Con Tấm sợ chim ăn mất thì dì về nó phải đòn. Bụt lại bảo rằng: "Rồi ta cấm không cho chim ăn, con đừng lo".

Đến khi lựa riêng xong rồi, con Tấm lại khóc. Bụt lại hỏi: "Làm sao con khóc"? Nó thưa rằng: "Con không có quần áo đẹp để đi xem hội". Bụt bảo rằng: "Con đi đào những cái lọ đã chôn ngày trước lên, thì muốn quần áo đẹp thế nào cũng có". Tấm mới đào lên, thì thấy quần áo, một đôi giày và một con ngựa. Tấm mừng quá, thắng bộ vào rồi đi xem hội.

Lúc Tấm đi qua bờ hồ, đánh rơi chiếc giày, không sao lấy lên được. Một lát sau, vua ngự đến gần đấy, voi đứng dừng lại kêu rầm rĩ lên. Vua thấy sự lạ mới phán cho quân lính phải xuống hồ, xem có cái gì lạ không. Tức khắc lính xuống hồ, mò thấy một chiếc giày đàn bà đẹp lắm. Vua phán cho tất cả con gái đi xem hội ướm thử. Hễ chân ai đi vừa thì vua lấy làm vợ.

Trong đám hội ai cũng ướm cả, cả mẹ con con Cám cũng chẳng từ. Nhưng chẳng có chân ai vừa, Tấm cũng xin ướm thử. Dì nó mắng rằng: "Chuông khánh còn chẳng ăn ai, nữa là mảnh chĩnh bỏ ngoài bờ tre". Đến lúc Tấm ướm thì vừa vặn. Lính thị vệ đem ngay kiệu rước về cung.

Đến ngày giỗ bố, Tấm về nhà. Dì nó bảo nó trèo lên cây cau cắt mấy quả để cúng. Lúc Tấm trèo đến ngọn cây, thì dì nó đẵn gốc. Tấm thấy động bèn hỏi: "Dì làm gì ở dưới ấy thế"? Dì nó bảo rằng: "Dì đuổi kiến cho nó khỏi đốt con đây mà". Lúc đang cắt cau thì cây đổ, Tấm ngã xuống ao chết đuối. Dì nó lấy quần áo của nó mặc vào cho con Cám rồi đưa vào cung.

Con Tấm hóa ra chim vàng anh đến đậu ở vườn nhà vua, bảo lính giặt áo rằng: "Phơi áo chồng tao, phơi lao phơi sào, chớ phơi hàng rào rách áo chồng tao". Một hôm vua nghe tiếng chim hót, phán rằng: "Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh chui vào tay áo". Chim nhảy ngay vào, vua bắt bỏ vào lồng sơn son thếp vàng. Từ đấy cả ngày cả đêm vua chỉ chơi với chim.

Con Cám kể với mẹ, mẹ xui bắt chim làm thịt ăn. Về đến cung nó sai ngay lính giết chim ăn thịt, rồi vứt lông ra vườn. Lông chim hóa ra hai cây soan đào. Vua thấy đẹp, mắc võng vào hai cây ấy, rồi nằm chơi dưới bóng mát.

Con Cám về mách mẹ, và cứ theo lời mẹ xui, nó bắt lính đẵn cây lấy gỗ đóng làm khung cửi. Đến lúc dệt thì nghe tiếng kêu: "Kẽo cà kẽo kẹt, lấy tranh chồng chị, chị khoét mắt ra".

Con Cám lại về mách mẹ. Mẹ nó xui đốt khung cửi, nó cũng sai lính làm ngay. Những than tro lúc đổ ra đường lại hóa ra cây thị, chỉ có một quả đẹp lắm. Bà lão hàng nước đi qua thấy quả thị đẹp, bảo rằng: "Thị ơi thị! rụng vào bị bà, bà đem bà ngửi chớ bà không ăn". Thị rụng ngay xuống, bà ta lấy mang về nhà.

Ngày nào đi chợ sắm đồ hàng, khi về cũng thấy cơm canh để phần tươm tất lắm, bà ta lấy làm lạ. Một lần bà lão giả vờ đi chợ, đến nửa đường thì lộn về. Rón rén lại dòm vào khe cửa, thấy có một cô tiên đang làm đồ ăn, bất thình lình bà ta chạy vào, thì cô tiên lộ cơ không biến đi được. Bà ta mừng lắm ôm choàng ngay lấy. Từ đấy thương yêu nhau như hai mẹ con. Lúc bà ta đi tìm quả thị thì chỉ thấy có cái vỏ không mà thôi. Bà ta lấy xé vụn ra rồi giấu biến đi một chỗ.

Có một hôm vua dạo chơi gần đấy, thấy trong hàng có một bà lão phương phi và phúc hậu, vua mới ghé vào. Bà ta lấy trầu nước kính dâng. Vua thấy trầu têm giống như hoàng hậu têm ngày trước, phán hỏi: "Trầu này ai têm"? Bà ta tâu là của con gái têm. Vua phán muốn xem mặt, bà ta bảo ngay con ra, thì chính là vợ vua ngày trước. Vua phán bảo rước về cung, Tấm lại làm hoàng hậu.

Con Cám thấy chị xinh đẹp mới hỏi rằng: "Chị Tấm ơi, chị Tấm! chị làm thế nào mà đẹp thế"? Tấm bèn bảo: "Em có muốn đẹp không"? Cám thưa chị có. Tấm bèn sai đào một cái hố sâu và đun một nồi nước to thực sôi, rồi bảo con Cám xuống cái hố ấy. Lúc Cám bước xuống hố thì Tấm sai đổ nước sôi xuống. Con Cám chết nhăn răng ra. Xác nó bỏ vào chĩnh, làm mắm đem biếu mẹ nó, bữa nào mẹ nó ăn cũng khen ngon. Có con quạ đậu trên mái nhà, kêu rằng: "Ngon gì mà ngon, ăn thịt con có còn xin miếng"? Mẹ nó giận lắm, mắng chửi quạ rầm rĩ lên và đuổi nó đi cho mau. Đến khi ăn gần hết mắm, thấy ở đáy chĩnh có đầu lâu con, thì lăn đùng ra chết tươi.

[center:dfde705662]* * *[/center:dfde705662]
Có thuyết cho rằng Tấm Cám là nhân vật có thực ở ngoài đời, sinh vào thời triều Lý, cùng một thời với Lý Thường Kiệt, vị danh tướng đã đại phá quân nhà Tống. Đền thờ Tấm Cám gần đây còn dấu vết tại làng Dương Xá thuộc huyện Siêu Loại, tỉnh Bắc Ninh. Cứ theo khẩu truyền của bô lão cùng dân trong làng và văn cứ vào ngọc phả thần tích tại đền thờ Đức Bà (Tấm Cám) và đền thờ tướng quân Lê Thiệ, là dòng dõi Tấm Cám ở làng nói trên, thì câu chuyện khác với sự tích ta thường nghe kể cùng chuyện Tấm Cám bằng văn vần.

Tục truyền rằng phụ thân Tấm Cám tên húy là Lê Đại, mẫu thân là Vũ Thị Tĩnh, kế mẫu tức gì ghẻ cô Cám (chứ không phải cô Tấm) là người họ Chu. Cô Cám còn có tên chữ là Khiết Nương. Năm Cám lên ba thì mồ côi mẹ, 12 tuổi thì mồ côi cha. Em gái Cám do Chu Thị sinh ra tên là Tấm.

Sử chép rằng vua Lý Thánh Tông đã 40 tuổi mà chưa có con, đi cầu tự qua làng Thổ Lợi (sau đổi là Dương Xá) thuộc Bắc Ninh, người đi xem đầy đường. Có một cô gái đẹp đi hái dâu, thấy xa giá nhà vua đi qua, cứ đứng tựa khóm lan chớ không ra xem. Vua để ý đến người đẹp, truyền gọi vào cung, tuyển làm nàng phi, đặt tên là Ỷ Lan.

Trong lúc vua Lý Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành vắng, Ỷ Lan ở nhà có mang, Dương Hoàng Hậu không có con nên sinh ghen ghét, sợ nàng sinh được hoàng nam thì sẽ được vua sủng ái cất nhắc lên hơn mình. Dương Hậu mới biên thư tâu man với vua rằng mình có thai rồi độn bụng cho mỗi ngày một lớn thêm. Đến khi Ỷ Lan sinh hạ hoàng tử, Dương Hậu liền sai người bế trộm về nuôi, và giam Ỷ Lan lại, rồi gởi giấy báo tin cho vua đang ở đất Chiêm hay là mình sinh được hoàng nam, còn Ỷ Lan thì đẻ ra quái thai, chiếu tội cung nữ đã bắt giam vào lãnh cung.

Dương Hậu muốn ngầm giết Ỷ Lan nên trong khi giam cầm ở lãnhcung, năm ngày liền bắt nàng nhịn cơm để cho chết. Ỷ Lan nhờ người thân lượm trái thị chín rụng ở gần đó trao cho ăn mà sống được cho đến khi vua Thánh Tông trở về triều.

Thái Tử con Ỷ Lan bị Dương Hậu nhận làm con mình, vua Thánh Tông cũng tin thật, đặt tên là Càn Đức. Đến khi Càn Đức lên ngôi vua, tức là Lý Nhân Tông, mẹ đẻ là Ỷ Lan vẫn bị giam cầm ở lãnh cung mà không biết. Nhờ sư cụ Đại Điên mách bảo, mấy tháng sau khi lên ngôi vua, Nhân Tông mới biết chuyện, bèn bắt tội Dương Thái Hậu và cung nữ đã gạt tiên đế mà làm tội oan Ỷ Lan Thái Hậu (Cám).

Trước đó, em Cám là Tấm vào cung thăm chị, vua thấy nhan sắc liền nạp cung. Dương Hậu thấy hai chị em Ỷ Lan được vua sủng ái thì ghen ghét, rồi thừa lúc vua đi đánh giặc vắng, Dương Hậu độn bụng giả có thai, sợ lộ chuyện sau này, mới ngấm ngầm sai giết Tấm đồng thời giam Cám (Ỷ Lan) vào lãnh cung rồi định bỏ cho chết. Chu Thị được tin con mình là Tấm bị hại và con ghẻ là Cám bị giam cầm thì buồn rầu ốm mà chết. Sau khi được con là vua Nhân Tông gỡ hàm oan, Ỷ Lan được phong làm Hoàng Thái Hậu. Ỷ Lan vốn là người mộ đạo Phật, đi lễ vái khắp các đền chùa, và cuối cùng mất ở một ngôi chùa thuộc hạt Gia Lâm ngày nay.

Chuyện Tấm Cám của ta một phần lớn đã phỏng theo câu chuyện của Chiêm Thành, cùng là do chuyện lịch sử trên đây mà thêu dệt thêm theo tình cảm của dân tộc, qua bao nhiêu đời vẫn tồn tại trên cửa miệng người Việt Nam.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 01:35
[center:9a7779eee1]Thánh Mẫu Cao Tiên[/center:9a7779eee1][center:9a7779eee1]Tác giả: Hoang Ðường[/center:9a7779eee1]
Ngày xưa, vào thời Vĩnh Trị nhà Lê, năm 1675, vua Lê Hi Tôn phải chống nhau với Mạc Kính Vụ, cháu Mạc Đăng Dung, kẻ võ tướng xuất thân thuyền chài đã chiếm đoạt ngôi vua trong một thời.

Bị quan quân nhà Lê đánh đuổi, con cháu Mạc Đăng Dung lui về miền thượng du, chiếm cứ bốn châu ở vùng Cao Bằng, truyền kế mấy đời trong 85 năm. Mạc Kính Vụ là kẻ nối dõi cuối cùng của nhà Mạc, xây thành đắp lũy ở hạt Vũ Thúy, tỉnh lỵ Cao Bằng ngày nay, để chống lại nhà Lê. Vua Lê Hi Tôn cầu viện Tổng Đốc Quảng Tây là Lai Thập Lợi phái một đạo quân từ Tàu đánh sang Cao Bằng, còn một mặt cử Đinh Văn Tả thống xuất một đạo quân từ Trung Châu kéo lên tấn công Mạc Kính Vụ. Bị vây đánh cả hai mặt Mạc Kính Vụ phải chạy lánh sang Trung Hoa để Cao Bằng lọt vào tay nhà Lê.

Khi thành trì nhà Mạc rơi vào tay đối phương, công chúa Mạc Cao Tiên ngồi lên xe voi chạy thoát. Voi chở công chúa đi về phía sông Bằng Giang, dấn mình xuống giòng nước chảy xiết để vượt qua sông, nhằm hôm nước lũ đổ về, sóng nước cuồn cuộn lôi cuốn cả voi theo, công chúa bị giòng nước mạnh kéo đi. Xác công chúa chìm đắm trôi dạt đến Vực Sô ở ngay dưới chân thành Cao Bằng. Quân sĩ không khỏi để ý thấy một đàn chim hàng mấy nghìn con sà cánh bay liền nhau bên trên xác người con gái nổi ở mặt nước, quanh quẩn che nắng cho nàng suốt cả một ngày, đến lúc mặt trời nghiêng bóng mới đi.

Một người con trai trông thấy trên mặt nước xác một thiếu nữ vận sắc phục sang trọng, tính lại gần để vớt lên, thì xác kẻ bạc mạng như tị hiềm nỗi trai gái gần kề, bèn trôi xa khỏi bờ, rồi tấp đến chân một người đàn bà vừa bước xuống bến sông.

Các quan được tin vị công chúa nhà Mạc đã bỏ mình một cách linh hiển như vậy, liền ra lệnh tống táng nàng theo nghi lễ trọng thể và chôn ở trên thành cao.

Dân chúng ở trong vùng được công chúa hiển linh ban ơn, ban phước mới dựng một ngôi đền dưới gốc cây đa ở Vực Sô, thờ nàng như một vị thần. Sau đó đền dời vào giữa tỉnh Cao Bằng, ở hạt Cam Mỹ. Để tỏ lòng thành kính đối với công chúa, mỗi vị quan đến trị nhậm nơi đây đều tự tay trồng lấy một cây đa ở trước cửa đền. Ngày nay còn nhiều cây đa to lớn trước đền, có ngọn cao đến bốn, năm mươi thước, rễ trùm lấp cả bia.

Đến triều Nguyễn, vua Thành Thái phong nàng Cao Tiên là Thánh Mẫu Bảo Quốc. Người ta kể lại rằng Thánh Mẫu rất thiêng, ai qua lại trước cửa đền mà không giở nón hay xuống ngựa thì lập tức bị một sức vô hình quật ngã, phải hương đèn cúng lạy mới được yên.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 01:35
[center:014aeeaa5d]Tiên Ðánh Cờ [/center:014aeeaa5d][center:014aeeaa5d]Tác giả: Hoang Ðường [/center:014aeeaa5d]
Ngày xưa, có một người con trai tên là Hiếu, cha làm nghề đốn củi bị cọp tha mất, còn một mẹ già với mấy em dại, Hiếu phải ngày ngày đi vào rừng, làm lụng khó nhọc để nuôi mẹ và các em.

Một buổi chiều đông giá rét, Hiếu đang gánh hai bó củi nặng ở rừng về, đến một lối quanh, trông thấy một người nằm như chết bên đường. Hiếu đỡ lên thì thấy một ông lão cóng người vì đói rét, sờ ngực hãy còn thoi thóp, bèn cõng về nhà. Mẹ con tận tình săn sóc cho ông lão tỉnh dậy và nuôi nấng khách cho đến khi mạnh hẳn, mặc dù trong nhà hết sức túng thiếu. Đêm hôm trước ngày từ giã, ông lão gọi Hiếu mà bảo rằng: "Đáp lại lòng tốt của nhà này đối với lão trong lúc hoạn nạn, lão tiết lộ thiên cơ cho biết rằng Sổ Tử của Thiên Tào đã có ghi tên anh năm nay phải chết. Anh muốn thoát khỏi thì hãy nhớ theo lời lão dặn đây: "Ngày mồng một tháng tới, anh nhớ dậy thật sớm, mang theo một bầu rượu với hai cái chén, qua khỏi khu rừng này, nhắm mặt trời mọc mà đi đến một nơi có hồ xanh ngắt rồi trèo lên núi, vòng trái ngọn thác, lên tới đỉnh, thì thấy hai ông tiên ngồi đánh cờ. Anh phải lặng lẽ tới gần, chờ khi nào họ gọi rượu uống thì anh rót rượu đưa ra, rồi đợi hai ông tiên đánh cờ xong hẵng thưa chuyện xin xóa tên anh trong Sổ Tử".

Sáng hôm sau, Hiếu nhận thấy ông lão đã biến đâu mất.

Đến ngày mồng một, trời chưa sáng, Hiếu đã đeo bầu rượu, cầm hai chén tống ra đi. Qua khỏi khu rừng, Hiếu đi theo một con đường mới, nhắm theo hướng mặt trời đi đến một cái hồ nước xanh leo lẻo. Trong khu rừng đưa đến chân núi, lần đầu tiên Hiếu được nghe những tiếng chim hót thánh thót như nhạc, rồi đi được một quãng, vẳng nghe tiếng thác đổ xa xa. Hiếu lần đi về phía này, vòng trái thác nước, rồi đến ven rừng, trước một cảnh núi non kỳ tú và chan hòa ánh sáng. Dưới tàn bóng cây thông, hai ông lão tiên phong đạo cốt vận áo xanh, áo đỏ đang ngồi xếp bàn tròn đánh cờ trên một bàn đá phẳng lì. Hai ông lão lặng lẽ đánh cờ, tính toán kỹ từng nước, từng lúc sẽ nghiêng mình để đi một nước cờ, chòm râu dài bạc trắng phất phới lướt qua đám quân cờ son. Hiếu đứng lặng đợi chờ, để ý nhìn thấy một cuốn sách lớn gấp lại bên cạnh ông áo xanh.

Một lúc lâu, ông lão áo xanh mắt vẫn không rời khỏi bàn cờ, cất tiếng gọi: "Rượu đâu"! Hiếu vội vàng rót đầy hai chén rượu bưng đưa ngang tầm tay hai ông lão. Cả hai nhấc chén uống cạn, mải mê theo nước cờ đi. Hiếu dâng rượu ba lần như vậy. Đến khi xong ván cờ, ông lão áo đổ thắng cuộc ngước mắt lên, Hiếu vội vàng sụp xuống lạy mà thưa rằng: "Muôn lạy tiên ông, xin tiên ông cứu độ cho con khỏi chết, vì con còn mẹ già yếu khôn ai nuôi dưỡng. Cúi xin tiên ông cứu cho con được sống thêm vài năm nữa, cho các em con khôn lớn lên có thể thay thế con mà nuôi dưỡng mẹ già thì con có chết cũng vui lòng."

Ông lão áo đỏ nghiêng mình nói nhỏ với ông lão áo xanh. Ông này mở cuốn sách ra cầm bút chữa lại một chữ, rồi bảo Hiếu rằng: "Anh đã khéo léo mời chúng ta uống rượu của anh, anh lại là một đứa con có hiếu, anh còn giúp người lúc hoạn nạn, nên ta vui lòng sửa lại số mạng của anh được sống lâu cho đến trăm tuổi".

Hiếu vẫn quỳ mọp, chưa kịp ngỏ lời cảm tạ, bỗng nghe thấy gió thổi trên đầu, ngước mắt lên, không còn thấy hai ông tiên đâu nữa.

Trên đường về, Hiếu vừa đi vừa chạy, trong lòng mừng rỡ vô hạn, song không dám kể chuyện lại cho ai hay, ngay đối với mẹ cũng vậy.

Về sau có lần Hiếu trở lại hòn núi, tìm thấy lại hồ nhưng nước không còn xanh nữa, trong rừng không còn nghe tiếng chim hót như rót nhạc. Qua ngọn thác, vẫn thấy tàn cây thông in bóng trên bàn thạch, nhưng Hiếu không còn tìm đâu ra bàn cờ son của hai ông tiên.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 01:35
[center:8e6a60fcdf]Thuồng Luồng [/center:8e6a60fcdf][center:8e6a60fcdf]Tác giả: Hoang Ðường[/center:8e6a60fcdf]
Ngày xưa ở thôn Bản Bừa, xã Đồng Lang thuộc vùng Tiên Yên (Bắc Việt) có một cô gái chăn trâu ở bờ sông Nàm Cổ, một hôm gặp một chàng trai khỏe đẹp, rồi đôi bên luyến ái nhau. Chàng trai đưa cô gái về âm phủ rồi chung chạ với nàng. Cô gái có chửa, nhớ cha mẹ, xin phép người yêu trở về thăm. Trước khi cô gái ra đi, chàng trai dặn dò: "Con mình đẻ ra sau này dù thế nào cũng phải nuôi nó theo cách này: là chỉ cho nó uống nước thôi và đừng để bao giờ thiếu nước".

Cô gái trở về nhà cha mẹ, mười t háng saua, sinh ra một thứ cá. Theo lời cha nó đã dặn, thiếu phụ chỉ cho nó uống nước. Nhưng nó mau lớn quá, mà càng lớn thì càng cần thêm nước, tất cả người ở trong nhà không cung cấp đủ số nước cho nó. Thiếu phụ mới mang đến bờ sông Nàm Cổ, thả nó xuống nước mà nói: "Mẹ không nuôi con được nữa, con hãy trở về sống theo loài của con". Con cá chiếm vực sông Nàm Cổ mà ở.

Một hôm con cá lên nằm nghỉ trên bãi cát ở bờ sông, có rể của viên chúa Bầu đi săn ngang qua trông thấy, bắn chết. Con vật chết hóa thiêng báo oán làm cho chúa Bầu mất cả giang sơn.

Người ta gọi con vật này là con tu nước hay con tu ngu nàm, còn người Việt gọi tên là thuồng luông. Thiếu phụ đã sinh ra giống thủy tộc này thuộc tộc họ Hoàng nên tất cả gia đình họ Hoàng về sau đền thờ làm vật tổ.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 01:36
[center:f12b3d70ce]Sự Tích Con Cóc [/center:f12b3d70ce][center:f12b3d70ce]Tác giả: Hoang Ðường [/center:f12b3d70ce]
Trong nhà nọ có hai chị em, mỗi người một tính nết. Người chị xinh đẹp, tham lam và lười nhác. Người em bị què tay, nhưng rất siêng năng làm lụng. Người chị cậy khoẻ, cậy xinh, sáng trưa chiều tốt chỉ luẩn quẩn nào gương nào lược. Chơi bời vô độ nên chẳng bao lâu người chị đã gầy khô hơn que củi mặt mũi héo tóp như một xác chết. Người em mang tật: Tay phải co quắp từ thửa lọt lòng, mọi việc như cầm dao, cầm cầy, vốc cơm ăn cũng nhờ ở bàn tay bên trái. Quanh năm chỉ có một bộ váy áo chăn rách như tổ đỉa. Một hôm nọ, trời làm lũ lụt lớn, nước ngập hết làng, cây cỏ lúa, ngô hết chỗ cắm chân, người em bèn ngồi ôm lấy chóp núi đá, kêu trời gọi đất. Mệt quá, người em ngủ thiếp đi ba ngày bẩy đêm liền, thấy em ngủ lặng, người chị ngỡ là em đã chết, bèn cưỡi bè chuối chèo đi, bỏ mặc em trên chóp núi. Người em mở mắt choàng dậy thì nước vẫn chưa rút. Ðợi khi mặt trời đến người em liền kêu to:

- Ơi, ông trời!

Ông trời dừng lại hỏi:

- Cháu muốn gì?

Người em nói:

- Ông cứu lấy chị cháu, chị cháu bị nước lũ nhận chìm mất rồi. Ông cứu được, cháu muốn chị ấy lấy được ông Mặt Trời làm chồng.

Ông mặt trời cười bảo:

- Chị cháu đến nhà tiên ông rồi. Cháu hãy reo hạt này ở chóp đá của cháu thì cháu muốn cái gì cũng được cái ấy.

Nói xong, ông Mặt Trời lại lặn đi. Cũng lúc ấy người chị chèo bè chuối đến gõ cửa nhà Tiên ông, bè chuối giạt lên sân thì người chị hò hét:

- Cho tôi gặp chàng tiên đẹp nhất!

Tiên ông nhìn ra thấy có người con gái lạ, lại đòi gặp tiên, liền mời vào nhà. Người chị nói luôn:

- Tôi không lấy ông đâu, ông già và xấu quá, cho tôi lấy chàng tiên đẹp nhất.

Tiên ông gật đầu bảo:

- ừ!

Nói rồi, Tiên ông khoát tay một cái, lập tức từ trong nhà có một chàng trai đi ra, nắm lấy tay người chị. Chàng trai là dòng họ của Cóc tía, cho nên tiên ông đặt tên chàng là chàng Cóc tía. Từ đấy, vợ chồng người chị sống cuộc sống sung sướng trong cảnh tiên.

Người em gieo cái hạt của ông mặt trời cho vào kẽ đá, nàng lấy bàn tay trái của mình vơ rêu lá, giật cả vạt áo mình phủ cho hạt được nguyên lành. Chẳng bao lâu từ kẽ đá vươn ra một cây bầu, quả to như cái sọt. Nàng lăn bầu xếp ra rìa núi. Núi bầu cứ nối nhau, nối nhau mọc ra, vùng nước lũ cứ thu hẹp dần nhường chỗ cho bầu ở.Một ngày kia, người tiên thấy có nhiều núi nhỏ lên chật cả gầm trời. Vợ chồng Cóc Tía nhìn xuống thì thấy người con gái cầm dao bằng tay trái cứ quần quật bổ bầu ra chia cho mọi người. Người chị nhận ra kẻ ngồi với núi bầu là đứa em của mình, lòng ghen ghét lại nổi lên. Mụ liền kéo tay chồng bảo:

- Cái con què đó còn sống, nó có nhiều bầu kia kìa.

Chàng Cóc Tía chưa kịp hỏi thêm đầu đuôi ra sao thì mụ đã nắm tay chồng bảo nhảy ào xuống các chỏm núi bầu. Nhẩy khỏi nhà trời, vợ chồng hắn hiện nguyên hình một đôi Cóc Tía. Ðôi vợ chồng Cóc Tía ngồi chồm chỗm trên một quả bầu. Người em hỏi:

- Con muốn gì?

Cóc nói:

- Ta muốn nhận mày là em gái.

Người em lắc đầu:

- Chị ta lên trời lâu rồi.

Cóc bảo:

- Tao là chị đây, còn đây là anh rể của mày.

Người em ngồi nghe Cóc Tía vợ kể lại chuyện cũ gặp lũ to, chèo bè chuối lên trời ra sao... Nghe mãi rồi tin lời Cóc là phải. Người em liền nhận anh chị và cho ở chung trên ngọn núi cùng chăm nom dây bầu với mình. Khi ấy, ông Mặt trời đi qua, dừng lại nói với người em:

- Anh chị đã về với cháu đấy.

Người em nói:

- Vâng.

Ông mặt trời bảo:

- Bây giờ ta cho cháu một người chồng, cháu hãy bổ quả bầu xấu nhất ra thì gặp chồng.

Người em liền bổ quả bầu vặn vẹo xấu xí, vỏ bầu tách ra thì có một chàng trai khôi ngô, tuấn tú hiện ra nhận là chồng của người em, Hai vợ chồng người em lại lấy quả bầu xếp bậc xuống thấp dần. Họ xếp quả bầu đến đâu thì mực nước lui xuống đến đó. Ðồng ruộng làng mạc lại hiện về như xưa. Bà con làng xóm trở về làm ăn sing sống yên ấm.

Cũng từ đấy vợ chồng Cóc Tía được người em đưa xuống cùng ăn ở, làm lụng với dân bản. Người chị không còn ghen ghét với em gái như xưa nữa.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 01:36
[center:771c338372]Sự Tích Thành Cổ Loa [/center:771c338372][center:771c338372]Tác giả: Hoang Ðường [/center:771c338372]
Khi đã chiếm được đất Văn Lang, An Dương Vương đổi tên nước là Âu Lạc, đóng đô ở Phong Khê.

Khu đất chọn để đắp thành là một quả đồi đất rắn như đá. Ðám đông người hì hục đào đất, khuân đất hết ngày nọ sang ngày kia, tòa thành cao dần. An Dương Vương cùng đoàn tùy tùng đến xem rất lấy làm hài lòng, cho là một tòa thành có thể đứng vững muôn đời, sấm sét không lay chuyển, mưa bão không làm sạt được, và quân giặc cũng không thể phá nổi.

Nhưng một đêm cả bức tường thành quanh co đều đổ sập xuống như đất bằng. Vua An Dương Vương đến xem rất lấy làm tức giận. Ngài hỏi dò dân chúng gần đó, họ kể lại: Ban đêm họ nghe thấy những bước chân rầm rập ở các khắp ngã kéo đến với những tiếng xì xào có thể là ma quỉ. Người đâu mà lại đông đến thế ! Họ sợ quá nên không dám nhìn ra. Rồi họ lại nghe những tiếng đổ ầm ầm như sấm dậy.

An Dương Vương sai các tướng lãnh đốc thúc đắp lại thành cho kỳ được. Ðám người hăng hái đắp lại không ngừng. Tường thành mỗi ngày một cao dần và lại cao như tường thành cũ. Nhưng rồi một đêm cả dãy tường thành lại sập xuống như đất bằng. An Dương Vương sai người đi hỏi dân chúng ở gần đó thì họ lại nói như trước. Ban đêm họ cũng nghe thấy những bước chân rầm rập như thiên binh vạn mã trẩy qua rồi lại những tiềng huỳnh huỵch tiếp đến những tiếng ầm ầm như sấm động.

An Dương Vương lại xem chỗ địa thành để cầu trời phù hộ mình đắp cho xong tòa thành. Vua đi vòng quanh chân tường vừa đi vừa suy nghĩ. Ðột nhiên vua thấy một ông già râu tóc bạc từ phía xa đi lại. Ðến gần An Dương Vương ông tự xưng mình là thổ thần của vùng đất này, nói với vua rằng:

- Nhà vua đừng lo, sáng mai nhà vua ra đợi ở bờ sông sẽ có sứ giả Thanh Giang đến giúp nhà vua đắp thành.

Nói xong ông già biến mất.

Hôm sau mới tờ mờ sáng, An Dương Vương đã ra tận bờ sông để đợi Giang sứ. Vừa bắt đầu tan sương thì có một con rùa vàng rất lớn nổi lên mặt sông từ phía Ðông bơi vào bờ đến gần nhà vua, rùa tự xưng mình là thần Kim Quy sứ giả của vua Thủy Tề. An Dương Vương sai đặt Giang sứ lên một chiếc mâm vàng và khiêng vào cung.

Vua hỏi kế đắp thành, thần Kim Quy bảo rằng:

- ở núi Thất Diệu có một con gà trắng sống lâu năm thành tinh có phép biến hoá khôn lường. Nó thường hãm hại khách qua đường và khách ngủ ở quán trọ trong vùng này. Các vua thời trước cùng bọn nhạc công chết đi đều chôn ở núi Thất Diệu, những u hồn ấy từ lâu không tan lẩn khuất trong khe đá ở hang sâu. Những u hồn ấy có thù với nhà vua nên đêm thanh vắng họp thành từng đàn từng lũ đến xúi dục con tinh gà trắng phá thành đang xây của nhà vua. Con tinh gà trắng đã dẫn những u hồn ấy đến chân thành dùng phép ma phá đổ tường thành rồi gần sáng lại bay về núi. Con tinh gà trắng có tiền duyên với con gái lão chủ quán gần chân núi nên hay hiện hình làm khách bộ hành ghé vào nhà lão khi thì nhập vào con gái lão khi thì nhập vào con gà trắng của lão. Muốn đắp cho được thành, trước hết phải trừ cho tiệt giống yêu ma và giết đứa con gái cùng con gà trắng của lão chủ quán kia đi.

Nghe lời thần mách bảo, Vua sai mấy viên tướng đem quân vào rừng mai phục rồi vua cải trang cùng thần Kim Quy giả làm khách bộ hành đến quán xin ngủ trọ. Chủ quán từ chối lấy cớ là trong núi có nhiều yêu quái hay làm hại khách đi đường. Nhưng An Dương Vương và thần Kim Quy nhất định xin ở. Chủ quán phải chiều theo ý hai người.

Ðêm đêm An Dương Vương nghe thấy những bước chân rầm rập ở ngoài. Những bước chân từ khắp các ngả đi lại rộn ràng rồi thốt nhiên có bàn tay rất mạnh đập vào cái phên nhà lão chủ quán tiếp đến tiếng gọi người con gái lão. Thần Kim Quy lên tiếng nạt nộ, tiếng ngoài im ngay. Những tiếng chân bước cũng xa dần.

Gần sáng lại có những tiếng chân rầm rập ở ngoài, thần Kim Quy bảo An Dương Vương mở cửa phên ra gọi quân mai phuc đuổi theo đám yêu tinh đang rút lui về Thất Diệu, quân lính vừa đuổi vừa giương nỏ bắn theo. Cứ một loạt tên bay đi là lại nổi lên những tiếng ma kêu quỷ khóc rùng rợn. Tiếng rên rỉ khóc than mỗi lúc một thưa dần. Ðến khi mặt trời mọc thì yêu khí tan. Quân lính của An Dương Vương đào được rất nhiều hài cốt và nhạc khí cổ trong các hang núi, họ chất thành từng đống cao đốt đi rồi tro than đổ xuống suối cho tan hẳn oan hồn.

An Dương Vương và thần Kim Quy trở về quán trọ bảo chủ quán hiến cho mình con gà trắng để tạ trời đất. Gà vừa bị cắt tiết thì con gái chủ quán cũng lăn ra chết. Giữa lúc ấy có một con chim tứ trong nhà bay vụt ra, thần Kim Quy biết đó là con yêu tinh đã tìm đường chạy trốn, liền tung phép giết chết.

Yêu ma đã trừ xong, thần Kim Quy lại hiện nguyên hình là con rùa vàng rất lớn. Thần rút một cái móng của mình trao cho An Dương Vương, dặn rằng :

- Nhà vua giữ lấy móng chân này để làm lẫy nỏ. Khi có giặc thì đem ra bắn, một phát có thể giết được hàng ngìn quân giặc.

Nói xong, thần biến mất, nhờ có thần Kim Quy trừ hết yêu ma. An Dương Vương ra lệnh cho quân lính và nhân dân xây lại thành. Chẳng bao lâu tòa thành đắp xong, rộng tới ngàn trượng, vừa dầy vừa cao xoáy vòng như hình con ốc, nên gọi là Loa thành.

LSB-LuongSonAnhHao
28-05-2003, 01:37
[center:14d33e0c16]Sự Tích Thần Núi Tản Viên[/center:14d33e0c16][center:14d33e0c16]Tác giả: Hoang Ðường [/center:14d33e0c16]
Ngày xưa, có một người tiều phu cứ sáng tinh mơ thì vác búa vào rừng đốn củi. Mọi lần, anh chặt một ít cây khô ở rừng, được nặng gánh thì trở về; nhưng lần này anh định chặt thêm một cây gỗ cứng để đem về chống túp lều tranh, nên anh phải đi vào rừng sâu. Ðang đi, anh chợt nghe có tiếng tre khóc. Anh đứng lại nghe xem tiếng khóc ấy ở đâu đưa lại thì thấy ở phía trước mặt, dưới một lùm cây to, có một con dê rừng rất lớn đang lấy chân trước bới một đống cỏ khô, tiếng tre khóc ở đống cỏ đưa ra.

Người tiều phu rón rén đến nấp sau một gốc cây lớn ở gần xem con dê làm gì. Con vật bới đống cỏ rất nhẹ nhàng, lòi dần ra một đứa trẻ còn đỏ hỏn, bụ bẫm, rồi nó nằm xuống cho đứa trẻ bú.Ðứa trẻ rít lấy rít để bầu sữa căng, một chốc con dê đứng dậy liếm mớ tóc bờm xờm của đứa trẻ rồi chạy đi. Con dê vừa đi khỏi thì một đàn chim bay đến phủ những cỏ khô lên người đứa bé, chỉ trong chớp mắt lại bay vù cả đi.

Người tiều phu lẩm bẩm một mình: "Số mệnh đứa trẻ này thật kỳ lạ." Anh đến bới đống cỏ khô, thì thấy là một đứa con trai. Anh bế lấy, đem về nuôi. Ðứa bé rất chóng lớn, người tiều phu chăm nom như con đẻ có một số mệnh kỳ lạ, anh đặt tên cho nó là Kỳ. Lớn lên, Kỳ rất khoẻ mạnh. Ngày ngày Kỳ vác búa theo cha nuôi vào rừng đốn củi. Một hôm, Kỳ chặt một cây lớn đến hai người ôm, chặt từ sáng tinh mơ đến nhá nhem tối mà vẫn chưa xong, nên đành bỏ dở ra về. Sáng hôm sau, đến gốc cây định chặt tiếp thì anh hết sức ngạc nhiên: Cái cây lớn chặt dở hôm qua bây giờ lại liền ruột liền vỏ như chưa có một vết búa nào chạm đến. Thấy thế, Kỳ không ngả lòng, anh lại giáng những nhát búa thật mạnh vào chỗ thân cây đã chặt hôm trước. Tuy anh gắng hết sức, nhưng đến nhá nhem tối anh vẫn chưa hạ xong cây, sáng sớm hôm sau, Kỳ lại vác búa định tiếp tục công việc còn bỏ dở thì anh thấy vết chặt hôm trước hôm nay lại liền như cũ. Anh không nản chí, lại bắt đầu chặt ,nhưng đến lúc nhọ mặt người, anh vẫn chưa chặt xong. Lần này anh không về. Anh leo lên một cây gần để rình xem ban đêm cây tự liền da liền thịt như thế nào.

Ðến nửa đêm trăng sao vằng vặc đầy trời, bỗng có một ông già chống gậy đi từ từ đến cái cây chặt dở. Ông cụ cầm gậy chỉ vào cây, trong chớp mắt vết chặt lại liền như cũ. Kỳ vội tụt từ trên cây xuống, chạy đến hỏi ông cụ:

-Tôi khó nhọc mới sắp hạ được một cây lớn, sao cụ lại phá hỏng công việc của tôi như thế ?

Ông cụ đáp:

-Ta là Thái bạch tinh quân đây, ta không muốn người chặt cây cổ thụ này. Thôi ta cho ngươi cái gậy ngươi đi tìm cây nhỏ mà chặt.

Nói xong ông cụ trao cho Kỳ cái gậy chống ở tay rồi biến mất. Một hôm đi chơi men sông, Kỳ nhìn thấy con rắn lớn bị đánh dập đầu, đã chết từ lâu, Kỳ cầm gậy chỉ vào đầu rắn.Thốt nhiên rắn sống lại vẫy đuôi, ngẩng đầu lên nhìn Kỳ rồi bò xuống sông mất.

Một buổi tối Kỳ đang ngồi trong lều tranh thì một chàng thanh niên tuấn tú khăn áo chỉnh tề, đem châu báu đến tạ ơn Kỳ. Chàng xưng là Tiểu Long hầu con Long Vương ở biển Nam, bị trẻ chăn trâu đánh dập đầu chết ở bờ sông và được Kỳ cứu sống hôm nọ. Kỳ nhất định không nhận lễ vật. Chàng thanh niên có ý băn khoăn, cố mời Kỳ xuống thủy cung chơi. Chàng đưa cho Kỳ một ống linh tê để rẽ nước đi xuống. Ðược Kỳ xuống chơi, Long Vương rất lấy làm mừng rỡ, mở yến tiệc linh đình thết đãi. Ðến khi về, Long Vương đưa tiễn đủ các thứ vật lạ dưới biển, nhưng Kỳ nhất định không nhận. Sau Long Vương lấy ở tráp ra một quyển sách nói với chàng rằng:

-Ngài cứu sống con lão, lão không biết lấy gì đáp lại. Nay biếu vật gì ngài cũng không nhận, lão xin có quyển sách này tặng ngài. Dùng quyển sách này, ngài sẽ ước gì được nấy.

Kỳ nhận sách ước và trở lại trần gian. Từ đó, Chàng cầu được ước thấy, có phép biến hoá trở nên một vị thần cứu nhân độ thế. Thần đi qua cửa bể thần phù, theo dòng sông lớn, đổ ngược mãi lên, tìm nơi đất cao phong cảnh đẹp để cắm chỗ ở. Ðến một nơi thấy có một ngọn núi cao chót vót ba tầng, tròn như cái tán, thần hoá phép mở một con đường qua các động và các suối lên đỉnh núi và hoá phép thành lâu đài để ở. Khi đã định cư rồi thần thường xuống núi đi xem khắp phong cảnh đẹp và dùng phép cứu nhân dân rất nhiều. Ngọn núi thần ở là núi Tản Viên, nên người ta gọi thần là thần Tản Viên hay Sơn Tinh .