PDA

View Full Version : Tượng hình quyền


rack
06-05-2005, 08:59
Tượng hình quyền là một loại quyền thuật được cấu thành bằng các động tác mô phỏng "thần, hình" các loại động vật, cả đến biểu hiện hình tượng một số nhân vật cổ đại nhất định. Đời Tây Hán đã lưu hành rồi và chia làm hai loại: tượng hình và thủ ý (bắt chước hình và giữ ý). Loại trên bắt chước hình thái động vật và nhân vật là chính, theo đuổi tượng hình tính chiến đấu tương đối kém. Loại dưới lấy ý ở những chỗ tương đối mạnh trong chiến đấu của động vật để bổ sung cho động tác thực, tính chiến đấu tương đối mạnh. Chủ yếu có hầu quyền, ưng quyền, xà quyền, đường lang quyền (võ bọ ngựa), áp hình quyền (quyền vịt), túy bát tiên quyền (tám tiên say rượu), Lỗ Trí Thâm túy điệt (Lỗ Trí Thâm say ngã), Võ Tòng thoát khảo (Võ Tòng khỏi đòn) v.v... Tượng hình quyền không chỉ có thể làm khỏe thân thể mà còn có giá trị nhất định bồi dưỡng cho tư duy tượng hình và nghệ thuật đẹp của con người.

Dưới đây phân biệt giới thiệu một số loại quyền tượng hình chủ yếu :
Hầu quyền
Xà quyền
Túy quyền
Đường lang quyền
Ưng trảo quyền

rack
06-05-2005, 09:10
Hầu quyền


Thời kỳ cuối xã hội nguyên thủy, điệu "múa khỉ" (hầu vũ) là mô hình thu nhỏ của loại này. Sách "Thượng thư - ích tắc" nói :"Múa khỉ vượn, múa chim chóc, múa gấu, múa voi".


Sách "Hán thư - Nghệ văn chí" có ghi điệu "mộc hầu vũ" (điệu khỉ tắm), đến đời Minh bắt đầu có ghi chép về hầu quyền. Sách "Ký hiệu tâm thư - Quyền kinh" nói: "Lại còn có lục bộ quyền, hầu quyền, ngoa quyền" ("chim mồi"). Qua nhiều đời truyền bá và phát triển hầu quyền, túy quyền, địa đường quyền, ba loại quyền này ngầm lẫn vào nhau thu các sở trường, nội dung dần từ đơn giản bắt chước về hình lấy múa làm chủ mà chuyển hướng thành đánh là chủ trong chiêu thế và bài múa của võ thuật.
Nội dung hầu quyền phức tạp chia Nam, Bắc về phong cách có khác nhau. Phương Nam coi trọng đánh sát gần, liền đòn; phía Bắc lại quen khéo lừa đánh đấm. Nhưng đặc điểm chung đều là nhẹ nhõm linh hoạt, hình tượng, đưa kỹ thuật võ vào trong mình khỉ. Yêu cầu phải làm cho được "ngũ yếu" (năm điều cần) tức là hình cần giống, ý cần thật, bước (bộ) cần nhẹ, phép (pháp) cần kín, thân cần (linh) hoạt. Đi quyền chú trọng vào tay mắt chiếu cố nhau, chiêu liền thế liến, lên xuống nhẹ khéo, chân thân hợp nhất. Gần đây Hầu quyền trong bài múa có rời động, nhòm ngó, xem đào, leo vít, hái đào, leo cành, làm liều, giấu đào, ngồi xổm, ăn đào, mừng rỡ kinh sợ, vào động v.v... đều do các động tác của khỉ vượn mà tập hợp thành. Hình thái động tác có thể khái quát là cương, nhu, nhẹ nhàng, linh hoạt, mềm mại, khéo, nấp, né, vươn, co. Thủ pháp thì có: tóm, duỗi, chọn, cắt, giảo (hoạt), bắt, khép, đẩy ... Thoái pháp có quấn, dậm, tạt, bật v.v... là các đòn chân. Về khí giới thì gồm các bài múa hầu côn, hầu kiếm v.v..

rack
06-05-2005, 09:15
Xà quyền



Còn gọi là xà hành quyền. Vì bắt chước hình, thần, ý, kình của rắn mà có tên, về nguồn gốc cũng khác nhau. Thời Minh, quyền Thiếu Lâm, Nam quyền, trong đó đã có xà quyền.


Đời Thanh trong Hình ý quyền, Bát quái chưởng đã có xà hình, gần đây đã dần hoàn chỉnh. Các nơi như Triết Giang, Quảng Tây, Phúc Kiến, Quảng Đông, Giang Tô, Hồ Nam, Giang Tây, cho đến Hồng Kông, Đài Loan cũng đều truyền tập.
Đặc điểm kỹ pháp: trong nhu có cương, trong tính có động giữ thì lấy hình, ý ngụ ở phép (pháp), thân linh (động), bộ hoạt (bát), mắt sắc tay nhanh. Về kỹ pháp thì có đánh mở màn, đãnh tĩnh, đánh dụ, đánh mạnh, đánh chạy, đánh đám đông, đánh lớn, đánh liều dành thắng trong bại v.v... Có giá trị thực dụng tương đối cao, trong chiến đấu thực sự thì yêu cầu: "Thân phải lức lư, bộ phải chuyển, hai tay chợt né vươn mà đánh, bước vòng vèo bước (bộ) hợp thân; dùng chỉ (ngón tay) thọc hầu (cổ họng) nhanh mà chuẩn, hai rồng vờn ngọc chưởng cắm sườn, tay chợt mổ vào chợt đánh đỉnh; chân nhóm điểm, vuốt hổ tiến, tiến nhanh ứng chậm, khéo mền vờn. Phát kình hét lên tiêng trợ thế, lấy khí thúc kình, lấy mắt chuyển thần".

Xà quyền có các bài múa chủ yếu là: Rắn thần luyện trăn (xà thần luyện nguyệt), Rắn vàng từ đất nhô lên (khm xà lục khởi), Rắn quật động trời (xà phiên thiên chân), Rắn trắng phun bọt (bạch xà phẫn mạt), Rắn lăng lướt sương (xà đằng tẩu lộ), Rắn sừng quẫy đuôi (giác xà ứng vĩ) v.v... đều do các động tác hình tượng hóa tổ hợp thành. Về khí giới thì có xà hành đao, xà hành kiếm v.v...

rack
06-05-2005, 09:29
Túy quyền



Còn gọi là "Túy tửu quyền" (quyền say rượu), "Túy bát tiên quyền" (quyền tám tiên say rượu, theo thần thoại Trung Quốc có tám vị tiên bạn bè là Hán Chung Ly, Trương Quả Lão, Lã Động Tân, Lý Thiết Quải, Hàn Tương Tử, Lam Thái Hòa, Hà Tiên Cô, Tào Quốc Cữu).

Vì khi đi quyền chiêu thế bước như người say rượu nên có tên "quyền say". Hình say, ý say từng mượn ở điệu "múa say" của thời cổ đại (xem sách "Kim bích sự loại" - quyển 12) thì kỹ pháp say đánh này lấy từ các loại quyền "hóa mềm đánh khéo" (nhu hóa xảo đả) hình thành thời Minh, Thanh. Trương Khổng Chiếu trong "Quyền kinh, quyền pháp bị yếu" đã có ghi bài "Túy bát tiên ca". Hiện nay loại quyền này thịnh hành ở các tỉnh Tứ Xuyên, Thiểm Tây, Sơn Đông, Hà Bắc, Bắc Kinh, Thượng Hải và vùng Giang Hoài. Túy quyền là loại quyền pháp địa thuật, với hình dạnh như say mà sừng sững một ngọn cờ đứng riêng biệt. Về phong cách thì có ba loại trọng hình, trọng kỹ (thuật) và cả hình lẫn kỹ thuật. Đặc điểm là hình say, ý không say, bước say, tâm không say. Hạt nhân là một chữ "say", tựa như say mà giữ thế, lấy say để lừa người, lấy say để ra đòn. Về kỹ pháp yêu cầu mắt, tay chân, bộ cùng phối hợp. Về nhãn pháp ( mắt ) có nhìn, ngắm, coi qua, liếc xéo. Về chỉ pháp thì có: điểm, che, bổ, cắm, lừa, tóm, ngắt, khép (ngón tay). Về thủ pháp thì có áp sát, thúc, ép, dựa. Về thoái pháp thì có: móc, gác, xoay, cắt, nâng, dậm, bật, quấn. Về phép ngã có ba loại: ngã nửa vời, ngã hẳn và ngã hóa giải nguy hiểm. Phép dùng thì chú trọng mắt sắc tay lanh, hình say ý tỉnh, tùy cơ chọn thế, tránh thực đánh hư, né gạt tiến thân, ngã thúc ra chiêu.
Ca quyết có:
"Đảo điên nuốt nhả, nổi chẳng ngã.
Ngất ngưởng té thúc lật lăn khéo.
Lăn tiến mà cao, lăn ảo diệu.
Tùy thế sấp ngửa người khó theo."

Các bài múa lưu hành có Túy bát tiên, Thái Bạch túy tửu, Võ Tòng túy tửu, Yến Thanh túy tửu, Lỗ Trí Thâm túy đả Sơn môn (Lỗ Trí Thâm say đập cổng chùa) bài này còn có khi gọi là Túy đả Trấn Quan Tây (say đánh Trấn Quan Tây)... Hiện nay trên cơ sở của Túy Quyền còn phát triển ra Túy kiếm, túy côn, túy thương, cả đến đánh đôi Túy quyền, Túy hán hí hầu (chàng say đùa khỉ) cũng là bài múa đối luyện. Túy quyền thân, bộ linh hoạt, ngã vồ nguy hiểm, phép đánh khéo, đối với sự mềm dẻo, hợp điệu, linh mẫn và năng lực ứng biến của cơ thể người ta đều có giá trị rèn luyện tương đối cao.

rack
06-05-2005, 09:35
Đường Lang quyền



Đây là môn quyền thuật bắt chước hình thái động tác của bọ ngựa. Tương truyền cuối Minh đầu Thanh ở huyện Tức Mặc tỉnh Sơn Đông có người tên là Vương Lang, sau khi thi võ thất bại, ngẫu nhiên thấy cảnh con bọ ngựa vồ bắt ve sầu bèn sáng tạo ra các kỹ pháp võ thuật như móc, nhấc, ngắt, gác, lừa, quấn, bổ, trượt v.v... rồi thành môn quyền này, đó là phái Đường Lang Bắc lưu hành suốt một giải Sơn Đông, Giao Châu. Qua trường ký tập luyện mà hình thành nên các lưu phái.
Duong Lang Quyen
Có Thất tinh đường lang (còn gọi là La Hán đường lang), Lục hợp đường Lang (còn gọi là Mã hầu (khỉ ngựa) đường lang tức Thái Cực đường lang). Các bài múa kết cấu nghiêm ngặt, nối liếp khéo léo, sẵn có cương nhu cùng nặng, cương mà không cứng đờ, nhu mà không mềm xéo, kết hợp ngắn dài v.v.. Về kỹ pháp thì nổi bật "năm nhanh" là nhanh tay, nhanh chân, nhanh bước, nhanh thân, chiêu thức nhanh, biến hóa khó lường.

Ngoài ra còn có thuyết "bảy dài", "tám ngắn", "tám đánh và tám không đánh". Dài là ý đánh dài, khí dài, kình dài, tay dài, hông dài, bước dài, gân dài (tức vươn dẻo được). Ngắn thì có đốt ngắn (tiết ngắn), thế ngắn, tâm ngắn... Cao đánh thấp không đánh, nội đánh ngoại không đánh, gần đánh xa không đánh, vươn đánh thu (về) không đánh, mở đánh đòng không đánh, hư đánh thực không đánh. Đồng thời còn cường điệu tượng hình giữ ý, để có hình tượng và đấu kình (kình lực chiến đấu) của bọ ngựa.

Còn có Nam phái Đường Lang tương truyền đời Thanh ở Quảng Đông có người là Châu á Nam sáng tác ra. Về lý, pháp, thế so với Bác phái tuyệt nhiên không giống. Nhiều đòn ngắn, ít đánhdaif, một bước một đòn, vẫn giũ hình tay bọ ngựa, thực phát ra kình lực của Nam quyền. Do đó cần phải quy vào hê của Nam phái.


1. Thất tinh đường lang quyền (còn gọi là La Hán đường lang) thuộc loại ngạnh (cứng) đường lang. Giá thế cơ bản thì lấy thất tinh bộ làm cơ sở. Kình lực cứng gọn, quấn ngang đâm thẳng. Luyện công chia ra làm ba phần: thứ nhất là cơ bản công, bao gồm hông, chân, vai, công, trạm trang, bá đả công v.v.. Thứ hai là ký thuật bài múa bao gồm các tổ hợp nhỏ các động tác múa. Về bài bản này có sáp chùy (cắm gõ), phiên xa(lật xe), bảng bộ (bước nhảy), lan tiệt (nhăn cắt), trích khôi (lấy mũ), song sáp hoa (mai hoa cắm), thập bát hoa (18 thoi), tỏa cương (đục thép), nhu linh, trích yếu, đường lang cửu chuyển thập bát diệt (9 lần chuyển, 18 lần ngã) , bạch viên xuất động (vượn trắng rời hang), thâu đào (lấy trộm đào), hiến quả (dâng quả), nhập động (vào hang), sách thủ phách án (dang tay vỗ án) v.v... Thứ ba là sách luyện (luyện rộng) bao gồm tạp trang (dậm tấn), thích đả đại (đánh bao cát), báy luyện toàn thân 12 lượt gõ, tán đả.

2. Mai hoa đường lang quyền (còn gọi là Thái cực đường lang quyền) thuộc loại ngạnh đường lang, công phu cứng rắn dương cương. Loại quyền này lấy tam hoa thủ làm chiêu số riêng, tức là khi ra tay thì ba, năm đòn ra liền một thể giống như một đóa hoa mai năm cánh nên thành tên. Về kình pháp thì coi trọng thuận kình, xảo kình, nhu công. Các bài múa có phiên xa (lật xe), băng bộ (bước nhảy), lan tiết (ngăn cắt), mai hoa lộ, bạch viên thâu đào (vượn tráng trộm đào), bát trửu (khuỷu), truyền kỹ, trích yếu v.v...

3. Lục hợp đường lang còn gọi Mã hầu đường lang thuộc nhuyễn đường lang, công phu mềm theo đường âm nhu. Lọai quyền này hấp thu lý luận về quyền: nội tam hợp (tức tâm hợp ý, ý hợp khí, khí hợp lực) và ngoại tam hợp (tay và chân hợp, khuỷu và gối hợp, vai và háng hợp) làm yêu lĩnh cơ bản , nhấn mạnh nội ngoại tương hợp, động tác thì thường là nhu, kình lực thì dài có chia cương nhu, minh, ám, hoạt (tức cứng mềm, rõ ràng, ngầm , trơn) năm loại kình lực. Về bộ pháp có trước nâng sau kéo. Về bài bản có đoản chùy, song phong , thiết thích, tiên thủ bôn, chiếu diện đăng, tiệt thủ quyển đên lục hợp trích yếu 93 thủ v.v...

rack
06-05-2005, 09:48
Ưng Trảo quyền



Vì lấy theo hình, ý, cách vồ đánh của chim ưng làm phương pháp mà thành tên. Về nguồn gốc thì có hai thuyết. Một thuyết nói là từ đời Minh do Thích Kế Quang chép trong "Ký hiệu tân thư - Quyền kinh tiệp yếu" có "phép vồ của Ưng trảo vương" nói loại quyền do Ưng trảo vương truyền lại. Thuyết thư hai nói khoảng giữa đời Thanh ở Hùng huyện tỉnh Hà Bắc có người tên là Lưu Sĩ Tuấn sáng tạo ra.

Truyền nhân đời sau từng lấy ở Nhạc thị liên quyền , Phiên tử quyền một số động tác (như thiết thủ, cán thủ, song tỏa thủ - tức hai tay ôm) dung hợp với Ưng trảo quyền mà thành tên một hệ phái lớn được gọi là "Ưng trảo Phiên tử môn", "Ưng trảo phiên quyền". Truyền nhân là Trần Tử Chính từng truyền dạy rộng môn này ở Tinh võ Hội ở Thượng Hải. Hiện nay lưu hành ở Hà Bắc, Bắc Kinh, Hồ Nam, Hồ Bắc, Quảng Tây, Quảng Đông, Tứ Xuyên v.v... ngay nhiều nước ở Đông Nam á, châu Âu, châu Mỹ cũng được lưu truyền.

Đặc điểm của loại quyền này là tư thế hùng dũng, tay mắt sắc bén, thân bộ linh hoạt, phát lực cương bạo. Có quyền ca rằng: Tay như vuốt ưng trên, dưới lật, cánh tay cánh chim ưng trái, phải vươn. Mạnh như ưng vàng vồ gà nhép, chậm như ưng xanh liệng chín tầng (trời) . Nhanh như chim ưng đuổi ngỗng bay, khôn như ưng nấp trong núi...". Phép luyện chú trọng hụp, né, đa biến nhanh, chậm xen nhau, mắt đưa tay đến, ý đến lực đến. Phép đánh thì dọa trên hạ dưới, trong móc ngoài hờ, dứt gân bẻ xương, kết hợp vồ với đánh. Thủ pháp thì có vồ, đánh, tóm, rứt, lật giã, khóa, dựa, gạt, cắt ngăn, bọc, chú trọng vồ tóm là chính. Về thoái pháp có dậm, bật, khều, quấn, xuyên, liên hoàn thoái cùng lật, lăng, nhảy, vọt v.v... Thân pháp thì có cúi , ngửa , vặn, xoay, vươn, co, né, sải v.v... chú trọng về thu hông bó kình lực. Về mắt (nhãn pháp) thì đảo, liếc, chú mục, đưa theo v.v... Về kình lực thì chú trọng dòn (xuệ), mài dũa (tỏa), nâng, chặt (khẩn). Về công pháp này chủ yếu luyện về ưng trảo công, và trang công. Về bài bản thì có Ưng trảo quyền, La Hán quyền, Bát bộ truy, bát diện truy, ngũ thập lộ liên quyền, thập nhị lộ hành quyền v.v....

tranthien
05-02-2006, 14:13
nghe hay qua nhi vay ca ca chi bao em may chieu mai hoa nhe