rack
16-04-2005, 10:53
Dự-bị thức
(Mặt hướng Bắc)
http://i4.photobucket.com/albums/y105/thanh_cuoi/thaicucquyen/taichi-dubi.jpg
Dự bị thức Thái-Cực Quyền (TCQ) là thế đứng nền tảng, là hỗn-nguyên trạng công tức là công-phu đứng lúc chưa chia âm dương, chưa phân Hư-Thực. Ðây là lúc còn đứng thẳng, thể-trọng còn dồn cho cả hai chân, thoải mái trong thề thư-giãn đứng và sắp sửa di-chuyển trọng-tâm.
Ðem thể-trọng dồn cho chân phải; chân này thành Thực, hơi rùn xuống. Chân trái biến thành Hư, gót trái hơi nhón lên (Hình C1). Ðồng thời hai cổ tay và chỏ hơi cất lên. Cánh tay thành hình cây cung ( Hình F1).
Cất bàn chân trái lên, đưa chân trái sang trái một bước,đạp thẳng, mũi chân nhìn về trước mặt (Bắc). Chuyển thể-trọng cho chân trái; chân này thành Thực (Hình C2).Tiếp theo mũi bàn chân phải cất lên quét qua trái và khi song song với bàn chân trai thì đạp xuống. Khoảng giữa hai bàn chân rộng bằng tầm vai. Cả hai chân đều Thực.
Ðây là trạng-thái Thái-Cực chưa chia Âm-Dương, hay "Hỗn-nguyên vô-cực" và cũng là trạng-thái Song-trọng (Hình P1).
CHÚ Ý
Khi chân phải rùn xuống, hai tay giữ Nguyên Không (ở nguyên vị-trí cũ trong không-gian) nên tụ nhiên là hai cùi chỏ sẽ hơi cong. (Nếu tay không giữ thế Nguyên Không mà cũng trùng xuống theo người thì khi chân rùn xuống cánh tay vẫn thẳng.) Hai lưng bàn tay hơi cong, hướng về phía trước, lòng bàn tay nhìn xuống, hơi mở. Các ngòn tay hơi nổi lên, hướng về phía trứơc, không nghênh ngang, không khép nép.
Lúc đứng lên đầu phải ngay ngắn, mắt nhìn về phía trước, nhãn thần nên thu-liễm, tai lắng nghe hơi thở, lưỡi liếm vòm miệng, miệng ngậm môi khép, vai chùn chỏ thõng, ngực ngậm để cho khí rót xuộng đan-điền. Trong ngoai đều buông xả, toàn thân chỗ nào cũng cởi mở, một mực tự nhiên, lỏng lẻo. Duy từ huyệt Vĩ-lư (hậu-môn) dến đỉnh đầu phải có ý-khí thông suốt với nhau cốt sao cho trong (tâm-tưởng) và ngoài (thể-chấùt) được hợp nhất. Luyện tập về THỂ (bản-chất) và DỤNG (ứng-dụng) đều bắt đầu từ trạng thái này.
Công-phu luyện tập Thái-cực-qưyền cũng bắt đầu từ đây. Người mới tập nên thực-hành thế đứng này càng nhiều càng tốt.
Thức thứ nhất: KHỞI THẾ
(Mặt hướng Bắc)
http://i4.photobucket.com/albums/y105/thanh_cuoi/thaicucquyen/taichi01.jpg
Khởi-thế là bắt đầu tiến-trình Thái-Cực sinh Lưỡng-Nghi: Âm và Dương. Âm là hình, là ở dưới, là đất, cho nên bất động. Dương là khí (vô-hình), là ở trên, là trời, cho nên khinh, thanh (trong và nhẹ), nổi lên trên nên di-động một cách nhẹ nhàng.
1. Trước hết, lấy Ý dẫn KHÍ; khí trầm xuống đan-điền. Khí tràn-trề ở bên trong thân-thể thì tự nhiên hai tay theo khí mà nổi lên (phù). Như vậy là hành khí vận thân. Giai đọan này là Khí hợp thì hình khai (Hít sâu, tự nhiên hai tay vung lên).
2. Lúc hai tay chìm xuống (trầm) thì ngược lại là giai đoạn Hình hợp khí khai (Thở ra từ từ, tự nhiên hai tay rơi xuống).
Từ đây trở đi, việc hành khí vận thân, nổi chìm mở đóng (phù trầm khai hợp) đều chiếu theo nguyên-tắc "Khí hợp hình khai, hình hợp khí khai".
CHÚ Ý
Mục đich chính của thức này là buông lỏng cổ tay, bước đầu của trình tự khai quan đại tiết. Hết thức này thì cổ tay đã có tới 6 lần biến:
1. Từ lúc đứng thẳng ngay ban đầu và chuyển qua xong Dư-bị-thức cổ tay đã biến lần thứ nhất (lưng bàn tay cong, lòng bàn tay nhìn xuống).
2. Từ thức dự-bị trở đi lúc hai canh tay nổi lên , hai lưng cổ tay nhô lên, như từ trong nước nổi lên, các ngón tay rũ xuống là lần biến thứ hai (Hình P2)
3. Ðến khi hai cổ tay lên ngang tầm vai, các ngón tay theo khí duỗi ra, gân không căng không nhũn; đó là lần biến thứ ba (Hinh P3)
4. Lúc thu tay vào, cổ tay và chỏ xếp gấp lại trước ngực thì các ngón tay lại rũ xuống; dó là lần biến thứ tư (Hình P4).
5. Khi hai cánh tay sắp thả xuống, hai cổ tay như chìm vào trong nước, đầu ngón tay như nổi bồng bềnh trên mặt nước; đó là lần biến thứ năm(Hình P5).
6. Hai cánh tay chìm xuống đến ngang hông, ở hai bên đùi tức là trở về vị trí ban đầu của Khởi-thế, bàn tay lại giống như ở Dự-bị thức; đó là lần biến thứ sáu.
Tóm lại, việc chính yều ở Khởi-thế là vận động cổ tay. Giải quyết xong vấn đề buông lỏng ở thức này thì tiết thứ nhất của quan thứ nhất (cổ tay) đã khai-đạt. Từ rày trở đi khí ở cổ tay không bị nghẽn mà liền suốt, như được mỹ-hiệu-hóa bằng danh-từ Mỹ-nhân thủ (bàn tay ngọc).
(Mặt hướng Bắc)
http://i4.photobucket.com/albums/y105/thanh_cuoi/thaicucquyen/taichi-dubi.jpg
Dự bị thức Thái-Cực Quyền (TCQ) là thế đứng nền tảng, là hỗn-nguyên trạng công tức là công-phu đứng lúc chưa chia âm dương, chưa phân Hư-Thực. Ðây là lúc còn đứng thẳng, thể-trọng còn dồn cho cả hai chân, thoải mái trong thề thư-giãn đứng và sắp sửa di-chuyển trọng-tâm.
Ðem thể-trọng dồn cho chân phải; chân này thành Thực, hơi rùn xuống. Chân trái biến thành Hư, gót trái hơi nhón lên (Hình C1). Ðồng thời hai cổ tay và chỏ hơi cất lên. Cánh tay thành hình cây cung ( Hình F1).
Cất bàn chân trái lên, đưa chân trái sang trái một bước,đạp thẳng, mũi chân nhìn về trước mặt (Bắc). Chuyển thể-trọng cho chân trái; chân này thành Thực (Hình C2).Tiếp theo mũi bàn chân phải cất lên quét qua trái và khi song song với bàn chân trai thì đạp xuống. Khoảng giữa hai bàn chân rộng bằng tầm vai. Cả hai chân đều Thực.
Ðây là trạng-thái Thái-Cực chưa chia Âm-Dương, hay "Hỗn-nguyên vô-cực" và cũng là trạng-thái Song-trọng (Hình P1).
CHÚ Ý
Khi chân phải rùn xuống, hai tay giữ Nguyên Không (ở nguyên vị-trí cũ trong không-gian) nên tụ nhiên là hai cùi chỏ sẽ hơi cong. (Nếu tay không giữ thế Nguyên Không mà cũng trùng xuống theo người thì khi chân rùn xuống cánh tay vẫn thẳng.) Hai lưng bàn tay hơi cong, hướng về phía trước, lòng bàn tay nhìn xuống, hơi mở. Các ngòn tay hơi nổi lên, hướng về phía trứơc, không nghênh ngang, không khép nép.
Lúc đứng lên đầu phải ngay ngắn, mắt nhìn về phía trước, nhãn thần nên thu-liễm, tai lắng nghe hơi thở, lưỡi liếm vòm miệng, miệng ngậm môi khép, vai chùn chỏ thõng, ngực ngậm để cho khí rót xuộng đan-điền. Trong ngoai đều buông xả, toàn thân chỗ nào cũng cởi mở, một mực tự nhiên, lỏng lẻo. Duy từ huyệt Vĩ-lư (hậu-môn) dến đỉnh đầu phải có ý-khí thông suốt với nhau cốt sao cho trong (tâm-tưởng) và ngoài (thể-chấùt) được hợp nhất. Luyện tập về THỂ (bản-chất) và DỤNG (ứng-dụng) đều bắt đầu từ trạng thái này.
Công-phu luyện tập Thái-cực-qưyền cũng bắt đầu từ đây. Người mới tập nên thực-hành thế đứng này càng nhiều càng tốt.
Thức thứ nhất: KHỞI THẾ
(Mặt hướng Bắc)
http://i4.photobucket.com/albums/y105/thanh_cuoi/thaicucquyen/taichi01.jpg
Khởi-thế là bắt đầu tiến-trình Thái-Cực sinh Lưỡng-Nghi: Âm và Dương. Âm là hình, là ở dưới, là đất, cho nên bất động. Dương là khí (vô-hình), là ở trên, là trời, cho nên khinh, thanh (trong và nhẹ), nổi lên trên nên di-động một cách nhẹ nhàng.
1. Trước hết, lấy Ý dẫn KHÍ; khí trầm xuống đan-điền. Khí tràn-trề ở bên trong thân-thể thì tự nhiên hai tay theo khí mà nổi lên (phù). Như vậy là hành khí vận thân. Giai đọan này là Khí hợp thì hình khai (Hít sâu, tự nhiên hai tay vung lên).
2. Lúc hai tay chìm xuống (trầm) thì ngược lại là giai đoạn Hình hợp khí khai (Thở ra từ từ, tự nhiên hai tay rơi xuống).
Từ đây trở đi, việc hành khí vận thân, nổi chìm mở đóng (phù trầm khai hợp) đều chiếu theo nguyên-tắc "Khí hợp hình khai, hình hợp khí khai".
CHÚ Ý
Mục đich chính của thức này là buông lỏng cổ tay, bước đầu của trình tự khai quan đại tiết. Hết thức này thì cổ tay đã có tới 6 lần biến:
1. Từ lúc đứng thẳng ngay ban đầu và chuyển qua xong Dư-bị-thức cổ tay đã biến lần thứ nhất (lưng bàn tay cong, lòng bàn tay nhìn xuống).
2. Từ thức dự-bị trở đi lúc hai canh tay nổi lên , hai lưng cổ tay nhô lên, như từ trong nước nổi lên, các ngón tay rũ xuống là lần biến thứ hai (Hình P2)
3. Ðến khi hai cổ tay lên ngang tầm vai, các ngón tay theo khí duỗi ra, gân không căng không nhũn; đó là lần biến thứ ba (Hinh P3)
4. Lúc thu tay vào, cổ tay và chỏ xếp gấp lại trước ngực thì các ngón tay lại rũ xuống; dó là lần biến thứ tư (Hình P4).
5. Khi hai cánh tay sắp thả xuống, hai cổ tay như chìm vào trong nước, đầu ngón tay như nổi bồng bềnh trên mặt nước; đó là lần biến thứ năm(Hình P5).
6. Hai cánh tay chìm xuống đến ngang hông, ở hai bên đùi tức là trở về vị trí ban đầu của Khởi-thế, bàn tay lại giống như ở Dự-bị thức; đó là lần biến thứ sáu.
Tóm lại, việc chính yều ở Khởi-thế là vận động cổ tay. Giải quyết xong vấn đề buông lỏng ở thức này thì tiết thứ nhất của quan thứ nhất (cổ tay) đã khai-đạt. Từ rày trở đi khí ở cổ tay không bị nghẽn mà liền suốt, như được mỹ-hiệu-hóa bằng danh-từ Mỹ-nhân thủ (bàn tay ngọc).